TỔ ĐÌNH MINH ĐĂNG QUANG
      
      PHẬT HỌC TỪ ĐIỂN
      
      
      BUDDHIST DICTIONARY
      
      
      VIETNAMESE-ENGLISH
      
      
      THIỆN PHÚC
       
      
      To
       
      
      Tỏ: 
      
      1)       
      Bright—brilliant—Luminous. 
      
      2)       To 
      display—To express—To declare. 
      
      Tỏ Bày: To make known—To 
      state—To express—To set forth. 
      
      Tỏ Ra: To show—To exhibit. 
      
      Tỏ Rõ: Clearly—Plainly. 
      
      Tỏ Tường: See Tỏ Rõ. 
      
      Tỏ ý: To express one’s 
      intention. 
      
      Tỏ Ý Tán Đồng: To express one’s 
      agreement. 
      
      Toa: 
      
      1)       Toa 
      xe: Waggon—Sleepng-car.
      
      2)       Toa 
      thuốc: Prescription.
      
      Tòa: 
      
      1)       Chỗ 
      ngồi: Vastu (skt)—Place—Seat. 
      
      2)       Tòa 
      án: Court—Judge. 
      
      Tòa Như Lai: The throne (palace 
      chamber) of the Buddha—The palace chamber in which the Buddha was 
      situated. 
      
      Tòa Sen: Buddha’s throne. 
      
      Tỏa: 
      
      1)       Phong 
      tỏa: To blockade. 
      
      2)       Ống 
      khóa: Lock—Chain. 
      
      3)       Tỏa 
      ra: To spread—To scatter—To diffuse.
      
      Tỏa Ra: To emit—To exhale—To 
      give off. 
      
      Tỏa Thược: Ống khóa và chìa 
      khóa—Lock and key. 
      
      Tọa: Nisad or nisanna (skt).
      
      1)       Chủ 
      tọa: To preside—To take the chair.
      
      2)       Nghỉ 
      ngơi: To rest.
      
      3)       Ngồi: 
      To sit—A seat. 
      
      4)       Tòa: 
      Throne. 
      
      5)       Tọa 
      lạc: To situate.  
      
      Tọa Chủ: Còn gọi là Thủ Tọa, 
      Thượng Tọa, hay Tọa Nguyên, là vị chủ một nhóm cử tọa đại chúng hay vị 
      Thượng Tọa trụ trì tự viện—Master of a temple, a chairman, president, the 
      head of the monks, an abbot.
      
      Tọa Chủ Nô: Vị trụ trì chỉ hiểu 
      biết giáo điển mà không có thực hành nên không được sự kính trọng của Tăng 
      chúng—Archpriest—A master of a temple who understands Buddhism only 
      intellectually, without practicing; thus lacks of respect from the Sangha.
      
      
      Tọa Chứng: Một từ khác cho 
      thiền quán—Another term for dhyana contemplation.
      
      Tọa Cụ: Nisidana (skt)—Dụng cụ 
      (bằng vải hay bằng chiếu cối) để ngồi thiền—An article for sitting on 
      (made of cloth or mat) when practicing meditation. 
      
      Tọa Cửu Thành Lao: Ngồi lâu mà 
      thành tựu như Ngài Bồ Đề Đạt Ma—To accomplish one’s labour by prolonged 
      sitting, as did Bodhidharma.
      
      Tọa Đường:
      
      1)       Phòng 
      thiền hay Thiền đường: A sitting room.
      
      2)       Phòng 
      họp của chư Tăng Ni: The assembly room of the monks.   
      
      Tọa Hạ: Tọa Lạp—Varsa (skt)—Tên 
      gọi khác của “An Cư Kiết Hạ.” Tăng đoàn vâng theo lời chỉ dạy của Phật mà 
      tọa vũ an cư hay an cư kiết hạ về mùa mưa (để giảm thiểu sự tổn hại các 
      loài côn trùng, đồng thời nhập thất tịnh tu)—The retreat or rest during 
      the summer rains (based on the instruction of the Buddha). 
      
      Tọa Hạ Do: Giấy chứng nhận “An 
      Cư Kiết Hạ” cấp cho một vị du tăng—A certificate of “retreat” given to a 
      wandering monk.  
      
      Tọa Hưởng: To enjoy.
      
      Tọa Lạp: Cuối mùa an cư kiết 
      hạ, hay cuối năm của tự viện Phật giáo—The end of the summer retreat; the 
      monastic end of the year—See Tọa Hạ. 
      
      Tọa Lạc: To be located 
      (situated). 
      
      Tọa Pháp: To transgress law.
      
      
      Tọa Quang: See Quang Tọa. 
      
      Tọa Tham: Cuộc tham vấn trước 
      buổi thiền tọa đầu hôm—The evening meditation at a monastery (preceding 
      instruction by the abbot).
      
      Tọa Thiền: Ngồi tu thiền. Thiền 
      là chữ tắt của “Thiền Na” có nghĩa là tư duy tĩnh lự. Đây là một trong 
      những nghệ thuật dập tắt dòng suy tưởng của tâm, để làm sáng tỏ tâm tính. 
      Thiền được chính thức giới thiệu vào Trung Quốc bởi Tổ Bồ Đề Đạt Ma, dầu 
      trước đó người Trung Hoa đã biết đến, và kéo dài cho tới thời kỳ của các 
      tông phái Thiên Thai. Theo Kinh Duy Ma Cật, cư sĩ Duy Ma Cật đã nói với 
      ông Xá Lợi Phất khi ông nầy ở trong rừng tọa thiền yên lặng dưới gốc cây 
      như sau: “Thưa ngài Xá Lợi Phất! Bất tất ngồi sững đó mới là ngồi thiền. 
      Vả chăng ngồi thiền là ở trong ba cõi mà không hiện thân ý, mới là ngồi 
      thiền; không khởi diệt tận định mà hiện các oai nghi, mới là ngồi thiền; 
      không rời đạo pháp mà hiện các việc phàm phu, mới là ngồi thiền; tâm không 
      trụ trong cũng không ở ngoài mới là ngồi thiền; đối với các kiến chấp 
      không động mà tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo mới là ngồi thiền; không đoạn 
      phiền não mà vào Niết Bàn mới là ngồi thiền. Nếu ngồi thiền như thế là chỗ 
      Phật ấn khả (chứng nhận) vậy—To sit in dhyana (abstract meditation, fixed 
      abstraction, contemplation). Its introduction to China is attributed to 
      Bodhidharma, though it came earlier, and its extension to T’ien-T’ai. 
      According to the Vimalakirti Sutra, Vimalakirti reminded Sariputra about 
      meditation, saying: “Sariputra, meditation is not necessarily sitting.  
      For meditation means the non-appearance of body and mind in the three 
      worlds (of desire, form and no form); giving no thought to inactivity when 
      in nirvana while appearing (in the world) with respect-inspiring 
      deportment; not straying from the Truth while attending to worldly 
      affairs; the mind abiding neither within nor without; being imperturbable 
      to wrong views during the practice of the thirty-seven contributory stages 
      leading to enlightenment: and not wiping out troubles (klesa) while 
      entering the state of nirvana.  If you can thus sit in meditation, you 
      will win the Buddha’s seal.”
      ** For more information, 
      please see Thiền Định and Dhyana.
      
      Tọa Thiền Hội: Một cuộc hội họp 
      tu tập của các thiền sinh, với mục đích nghe thuyết giảng về thiền và thực 
      tập thiền quán. Thường thì họ tập hợp mỗi tuần một lần—A gathering of Zen 
      practitioners with the purpose of listening to the Zen lectures and 
      practicing meditation. Usually they gather for one day a week.
      
      Toác: Wide-open. 
      
      Toạc: Openly. 
      
      Toái: 
      
      1)       
      Nghiền nát: Broken—Fragments.
      
      2)       Phiền 
      toái—Troubled.
      
      Toái Thân Xá Lợi: Xá lợi còn 
      lại sau lễ trà tỳ—Relics of a cremated body. 
      
      Toại Chí: Satisfied—Content.
      
      
      Toại nguyện: To be 
      satisfied—Wish-fulfilled—To have fulfilled one’s desires. 
      
      Toại Ý: See Toại Chí. 
      
      Toan: To attempt—To intend to. 
      
      
      Toan Làm: To intend to do 
      something. 
      
      Toan Trốn: To intend (attempt) 
      to escape
      
      Toán: 
      
      1)       Tính 
      toán: Mathemetics—To reckon—To count—To calculate.
      
      2)       Toán 
      nhóm: Team—Party—Crew—Group. 
      
      3)       Toán 
      số: To count numbers, to count, to number. 
      
      Toàn: Complete—All—Whole. 
      
      Toàn bộ: Whole. 
      
      Toàn Diện: Total. 
      
      Toàn Già Phu Tọa: Thế ngồi kiết 
      già, bàn chân nầy đặt lên đùi kia và ngược lại—The legs completely crossed 
      as in a completely seated image. 
      
      Toàn Giác: Full 
      enlightenment—Buddhahood.  
      
      Toàn Giác Phật: Perfect Buddha
      
      Toàn Khoát Nham Đầu Thiền Sư: 
      Thiền Sư Toàn Khoát Nham Đầu sanh năm 828 tại Tuyền Châu. Sư thọ cụ túc 
      giới tại chùa Bảo Thọ tại Trường An. Sư là môn đồ và là người kế vị Pháp 
      của ngài Đức Sơn Tuyên Giám. Ông là thầy của Đoan Nham Sư Nhan. Tên ông 
      được nhắc đến trong thí dụ thứ 13 của Vô Môn Quan và hai thí dụ 51 và 66 
      của Bích Nham Lục—He was born in 828 in Quan-Chou. He received full 
      precepts at Bao-Shou Temple in Chang-An. He was a student and Dharma 
      successor of Te-Shan-Hsuan-Chien. Yan-T’ou appears in example 13 of the 
      Wu-Men-Kuan and in examples 51 and 66 of the Pi-Yen-Lu.    
      
      ·        
      Nham Đầu Toàn Khoát nổi tiếng về cái nhìn và tinh thần sắc 
      xảo—Yan-T’ou was known for his clear and sharp mind. 
      
      ·        
      Sư dạo khắp các thiền uyển, kết bạn cùng Tuyết Phong Nghĩa 
      Tồn, Khâm Sơn Văn Thúy. Từ núi Đại Từ sang Lâm Tế, Lâm Tế đã qui tịch, đến 
      yết kiến Ngưỡng Sơn. Vừa vào cửa, sư đưa cao tọa cụ, thưa: “Hòa Thượng.” 
      Ngưỡng Sơn cầm phất tử toan giở lên. Sư thưa: “Chẳng ngại tay 
      khéo.”—Yan-T’ou, Xue-Feng, and Qin-Shan went traveling to visit Lin-Ji, 
      but they arrived just after Lin-Ji had died. They went to Mount Yang. 
      Yan-T’ou entered the door, picked up a sitting cushion, and said to Zen 
      master Yang-Shan: “Master.” Before Yang-Shan could raise his whisk into 
      the air, Yan-T’ou said: “Don’t hinder an adept!”   
      
      ·        
      Đến tham yết Đức Sơn, sư cầm tọa cụ lên pháp đường nhìn xem. 
      Đức Sơn hỏi: “Lão Tăng có lỗi gì?” Sư thưa: “Lưỡng trùng công án.” Sư trở 
      xuống nhà tham thiền. Đức Sơn nói: “Cái ông thầy in tuồng người hành 
      khất.”—Yan-T’ou went to study with Te-Shan. There, Yan-T’ou took a 
      meditation cushion into the hall and stared at Te-Shan. Te-Shan shouted 
      and said: “What are you doing?” Yan-T’ou shouted. Te-Shan said: “What is 
      my error?” Yan-T’ou said: “Two types of koans.” Yan-T’ou then went out. 
      Te-Shan said: “This fellow seems to be on a special pilgrimage.”   
      
      ·        
      Hôm sau lên thưa hỏi, Đức Sơn hỏi: “Xà Lê phải vị Tăng mới 
      đến hôm qua chẳng?” Sư thưa: “Phải.” Đức Sơn bảo: “Ở đâu học được cái rỗng 
      ấy?” Sư thưa: “Toàn Khoát trọn chẳng tự dối.” Đức Sơn bảo: “Về sau chẳng 
      được cô phụ lão Tăng.”—The next day, during a question-and-answer period, 
      Te-Shan asked Yan-T’ou: “Did you just arrive here yesterday?” Yan-T’ou 
      said: “Yes.” Te-Shan said: “Where have you studied to have come here with 
      an empty head?” Yan-T’ou said: “For my entire life I won’t deceive 
      myself.” Te-Shan said: “In that case, you won’t betray me.”
      
      ·        
      Hôm khác đến tham vấn, sư vào cửa phương trượng đứng nghiêng 
      mình hỏi: “Là phàm là Thánh?” Đức Sơn hét! Sư lễ bái.  Có người đem việc 
      ấy thuật lại cho Động Sơn nghe. Động Sơn nói: “Nếu chẳng phải Thượng Tọa 
      Khoát rất khó thừa đương.” Sư nghe được lời nầy bèn nói: “Ông già Động Sơn 
      chẳng biết tốt xấu lầm buông lời, ta đương thời một tay đưa lên một tay 
      bắt.”—One day, when Yan-T’ou was studying with Te-Shan, Yan-T’ou stood in 
      the doorway and said to Te-Shan: “Sacred or mundane?” Te-Shan shouted. 
      Yan-T’ou bowed. A monk told Tong-Shan about this. Tong-Shan said: “If it 
      wan’t Yan-T’ou, then the meaning couldn’t be grasped.” Yan-T’ou said: “Old 
      Tong-Shan doesn’t know right from wrong. He’s made a big error. At that 
      time I lifted up with one hand and pushed down with one hand.” 
      
      ·        
      Tuyết Phong ở Đức Sơn làm trưởng ban trai phạn (phạn đầu). 
      Một hôm cơm trễ, Đức Sơn ôm bát đến pháp đường. Tuyết Phong phơi khăn lau, 
      trông thấy Đức Sơn bèn nói: “Ông già nầy, chuông chùa chưa kêu, trống chưa 
      đánh mà ôm bát đi đâu?”—Xue-Feng was working at Mount Te as a rice cook. 
      One day the meal was late. Te-Shan appeared carrying his bowl to the hall. 
      When Xue-Feng stepped outside to hang a rice cloth to dry, he spotted 
      Te-Shan and said: “The bell hasn’t been rung and the drum hasn’t sounded. 
      Where are you going with your bowl?” 
      
      ·        
      Đức Sơn trở về phương trượng. Tuyết Phong thuật việc nầy cho 
      sư nghe. Sư bảo: “Cả thảy Đức Sơn chẳng hiểu câu rốt sau.”—Te-Shan then 
      went back to the abbot’s room. Xue-Feng told Yan-T’ou about this incident. 
      Yan-T’ou said: “Old Te-Shan doesn’t know the final word.” 
      
      ·        
      Đức Sơn nghe, sai thị giả gọi sư đến phương trượng, hỏi: 
      “Ông chẳng chấp nhận lão Tăng sao?” Sư thưa nhỏ ý ấy—When Te-Shan heard 
      about this, he had his attendant summon Yan-T’ou. Te-Shan then said to 
      Yan-T’ou: Don’t you agree with me?” Yan-T’ou then told Te-Shan what he 
      meant by his comments. Te-Shan then stopped questioning Yan-T’ou. 
      
      ·        
      Đến hôm sau, Đức Sơn thượng đường có vẻ khác thường. Sư đến 
      trước nhà Tăng vỗ tay cười to, nói: “Rất mừng! Ông già Đường Đầu biết được 
      câu rốt sau, người trong thiên hạ không bì được ông, tuy nhiên chỉ sống 
      được ba năm (quả nhiên ba năm sau Đức Sơn tịch)—The next day, Te-Shan went 
      into the hall and addressed the monks. What he said was quite unlike his 
      normal talk. Afterward, Yan-T’ou went to the front of the monk’s hall, 
      clapped his hands, laughed out loud and exclaimed: “I’m happy that the old 
      fellow who’s the head of the hall knows the last word after all.”  
      
      ·        
      Một hôm sư cùng Tuyết Phong, Khâm Sơn ba người họp nhau, 
      bỗng dưng Tuyết Phong chỉ một chén nước. Khâm Sơn nói: “Nước trong, trăng 
      hiện.” Tuyết Phong nói: “Nước trong, trăng chẳng hiện.” Sư đá chén nước 
      rồi đi. Từ đó về sau, Khâm Sơn đến Động Sơn. Sư và Tuyết Phong nối pháp 
      Đức Sơn—One day, Yan-T’ou was talking with Xue-Feng and Qin-Shan. Xue-Feng 
      suddenly pointed at a basin of water. Qin-Shan said: “When the water is 
      clear the moon comes out.” Xue-Feng said: “When the water is clear the 
      moon does not come out.” Yan-T’ou kicked over the basin and walked away.
      
      ·        
      Sư cùng Tuyết Phong đến từ Đức Sơn. Đức Sơn hỏi: “Đi về 
      đâu?” Sư thưa: “Tạm từ giả Hòa Thượng hạ sơn.” Đức Sơn hỏi: “Con về sau 
      làm gì?” Sư thưa: “Chẳng quên.” Đức Sơn hỏi: “Con nương vào đâu nói lời 
      nầy?” Sư thưa: “Đâu chẳng nghe ‘Trí vượt hơn thầy mới kham truyền trao, 
      trí ngang bằng thầy kém thầy nửa đức.’” Đức Sơn bảo: “Đúng thế! Đúng thế! 
      Phải khéo hộ trì.” Hai vị lễ bái rồi lui ra—One day, Yan-T’ou and Xue-Feng 
      were leaving the mountain. Te-Shan asked: “Where are you going?” Yan-T’ou 
      said: “We’re going down off the mountain for awhile.” Te-Shan said: “What 
      are you going to do later?” Yan-T’ou said: “Not forget.” Te-Shan said: 
      “Why do you speak thus?” Yan-T’ou said: “Isn’t it said that only a person 
      whose wisdom exceeds his teacher’s is worthy to transmit the teaching, and 
      one only equal to his teacher has but half of his teacher’s virtue?” 
      Te-Shan said: “Just so. Just so. Sustain and uphold the great matter.” The 
      two monks bowed and left Te-Shan. 
      
      ·        
      Khi Đức Sơn mất, Toàn Khoát được 35 tuổi, ông đã trải qua sự 
      cô đơn ít lâu. Sau đó các học trò tụ tập lại xung quanh ông, và ông trở 
      thành viện trưởng một tu viện lớn—When Te-Shan died, Yan-T’ou was 
      thirty-five years old. After he had lived in solitude for some time, 
      students began to gather around him and he became the abbot of a large 
      monastery.
      
      ·        
      Một lần vị Tăng hỏi: “Không thầy lại có chỗ xuất thân 
      chăng?” Sư đáp: “Trước tiếng lông xưa nát.” Vị Tăng nói: “Kẻ đường đường 
      đến thì sao?” Sư nói: “Đâm lủng con mắt.” Vị Tăng hỏi: “Thế nào là ý Tổ Sư 
      từ Ấn sang?” Sư đáp: “Dời ngọn núi Lô đi, ta sẽ vì ông nói.”—Once a monk 
      asked: “Without a teacher, is there still a place for the body to manifest 
      or not?” Yan-T’ou said: “Before the sound, an old ragged thief.” The monk 
      said: “When he grandly arrives, then what?” Yan-T’ou said: “Pokes out the 
      eye.” A monk asked: “What is the meaning of the Patriarch’s coming from 
      the west?” Yan-T’ou said: “When you move Mount Lu to this place, I’ll tell 
      you.”  
      
      ·        
      Trong thời hổn loạn vào cuối đời nhà Đường. Một hôm các toán 
      cướp tấn công tu viện; được báo trước, các sư khác đều chạy trốn, chỉ có 
      thầy Nham Đầu ở lại. Khi bọn giặc đến, lúc sư còn đang chìm sâu trong đại 
      định, chúng trách sư không có gì dâng biếu, cũng như không tìm thấy được 
      gì trong tự viện, tên đầu đảng bèn đâm sư. Thần sắc sư không đổi, chỉ rống 
      lên một tiếng rồi chết. Tiếng ấy vang xa đến mười dậm. Tiếng kêu ấy theo 
      truyền thống thiền Trung Quốc được biết dưới tên gọi là “Tiếng Thét Nham 
      Đầu,” là điều bí ẩn với nhiều môn đồ thiền về sau nầy, vì nó trái với quan 
      niệm sống chết của một người thầy. Đăc biệt đại sư Bạch Ẩn cũng thấy như 
      vậy. Chỉ khi ngài đã đạt được đại giác sâu, ngài mới hiểu được ý nghĩa của 
      tiếng kêu ấy và thốt lên rằng: “Yan-T’ou đang sống thật, đầy khỏe 
      mạnh.”—It was a chaotic period during the decline of the T’ang dynasty. 
      One day, robber bands local bandits came to attack the temple. Other 
      monks, forewarned, fled; only Master Yan-T’ou remained in the monastery. 
      The bandits found him sitting in meditation, disappointed and engraged 
      because there was no booty (của cướp được) there, the head of the bandits 
      brandished his knife and stabbed Yan-T’ou. Yan-T’ou remained composed, 
      then let out a resounding scream and died. The sound was heard for ten 
      miles around. The sound is renowned in the tradition as “Yan-T’ou’s cry.” 
      This cry has presented a knotty problem to many Zen students for so long, 
      whose conception of the life and death of a Zen master this story did not 
      match. This was also the case for the great Japanese master, Hakuin Zenji. 
      Only when Hakuin had realized enlightenment did he understand, and he 
      cried out: “Truly, Yan-T’ou is alive, strong and healthy.” 
      
      ·        
      Sư Nham Đầu thị tịch nhằm ngày mồng tám tháng tư năm 887 sau 
      Tây Lịch—Yan-T’ou died on the eighth day of the fourth month of the year 
      887 A.D.    
      
      Toàn Lực: All of one’s 
      strength—All forces. 
      
      Toàn Mỹ: Perfect beauty. 
      
      Toàn Năng: Almighty—Omnipotent.
      
      Toàn Phần: Complete. 
      
      Toàn Phần Giới: Giới thọ trì 
      toàn phần từ ngũ giới cho đến cụ túc giới—Fully ordained by receiving all 
      the commandments (from five to full commandments).   
      
      Toàn Phúc: Complete happiness 
      
      
      Toàn Tài: Perfect talent. 
      
      Toàn Thắng: Total (complete) 
      victory.  
      
      Toàn Thân: The whole body. 
      
      Toàn Thể: All—Complete—Entire.
      
      
      Toàn Thiện: Perfect. 
      
      Toàn Thức: See Toàn trí. 
      
      Toàn Thực: Total eclipse. 
      
      Toàn Trí: Omniscent—Perfect 
      knowledge or wisdom (by which a man become a Buddha). 
      
      Toàn Vẹn: Perfect—Flawless. 
      
      Toản: Khoan dùi—To bore—To 
      pierce. 
      
      Toản Thủy Cầu Tô: Khoan nước 
      tìm bánh sữa—To churn water to get curd. 
      
      Toang: See Toác. 
      
      Toàng Hoạc: See Toác. 
      
      Toát Mồ Hôi: To sweat—To 
      perspire. 
      
      Toát Yếu:
      
      1)       
      Summery—Resume.
      
      2)       To 
      choose the chief points only. 
      
      Tóc Bạc: White hair. 
      
      Tóc Hoa Râm: Grey hair. 
      
      Tóc Rụng: One’s hair falls out.
      
      Tóc Xanh: Black hair. 
      
      Tọc Mạch: Curious. 
      
      Tom Góp: To gather (bring) 
      together—To collect. 
      
      Tóm: To arrest—To catch—To 
      seize—To capture—To take hold of.
      
      Tóm Cổ: See Tóm. 
      
      Tóm Lại: In brief—In short—To 
      sum up.
      
      Tóm Tắt: To sum up—To 
      summarize. 
      
      Tỏm: Rớt tỏm—To fall into the 
      water. 
      
      Ton Hót: To flatter. 
      
      Tòn Ten: To hang (swing) 
      loosely. 
      
      Tòng: To follow.
      
      Tòng Chinh: To go to war. 
      
      Tòng Học: To study. 
      
      Tòng Lâm: Monastery complex.
      
      
      Tòng Phục: To submit. 
      
      Tòng Sự: To work—To serve. 
      
      Tọng: To cram—To stuff.  
      
      Tóp: To shrink—To contract. 
       
       
      
      TÔ
       
      
      Tô: 
      
      1)       Phó 
      sản của sữa bò (sinh tô và thục tô): Curd, butter. It is described as 
      produced by churning milk.  
      
      2)       Tốt: 
      Good—Well—Excellent. 
      
      Tô Ba Ha: Svaha (skt)—Một câu 
      tán thán hay một mật tự chỉ sự hoàn tất, chúc lành, chúc  tiêu tai cát 
      tường (sự dữ tan biến và sự lành xuất hiện)—A  kind of amen; a mystic word 
      indicating completion, good luck, nirvana, may evil disappear and good be 
      increased. 
      
      Tô Bạt Đà La: Subhadra 
      (skt)—Một thức giả Bà La Môn 120 tuổi, vị đệ tử cuối cùng được Đức Phật 
      cho đổi sang đạo Phật—A learned Brahmin, 120 years old, the last convert 
      made by Sakyamuni. 
      
      Tô Bộ Để: Subhuti (skt)—See Tu 
      Bồ Đề. 
      
      Tô Dầu: Ghrta (skt).
      
      1)       Một 
      loại bơ trong—Ghee, or clarified butter.
      
      2)       Một 
      loại dầu thơm lấy từ cây tô ma: Scented oil extracted from the sumana 
      plant.
      
      Tô Đà: Sudha (skt)—See Cam Lộ.
      
      
      Tô Đát La: 
      
      1)       Sợi 
      chỉ: Thread.
      
      2)       Kinh 
      điển: A classical work—Sutra, especially the sermons or sayings of the 
      Buddha.
      
      Tô Đạt Đa: Sudana (skt)—See Tu 
      Đạt. 
      
      Tô Đạt Lê Xá Na: Sudarsana 
      (skt)—Thiện Kiến (khi nhìn thấy dáng núi người ta dễ phát tâm lành)—Vòng 
      núi thứ tư trong bảy vòng Kim Sơn—The fourth of the seven concentric 
      circles around Sumeru. 
      
      Tô Đạt Nã: Sudana (skt)—See Tu 
      Đạt. 
      
      Tô Đăng: Một loại đèn dùng bơ 
      và dầu hương làm dầu đốt—A lamp using butter and fragrant oil, or a lamp 
      burning butter-oil.
      
      Tô Đông Pha: Su-Tung-Po—Một 
      trong những ngôi sao văn học lớn làm sáng ngời thế giới văn hóa của nhà 
      Tống—One of the greatest literary stars illuminating the cultural world of 
      Sung.
      
      Tô La Đa: Surata 
      (skt)—Enjoyment—Amorous pleasures. 
      
      Tô Lầu Ba: Surupa (skt)—Of 
      beautiful form—Handsome. 
      
      Tô Lô Đa Ba Na: Tu Đà Hườn—Nhập 
      Lưu—Dự Lưu—See Srota-apanna in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section. 
      
      Tô Ma: Soma (skt)—See Cam Lộ.
      
      
      Tô Ma Đề Bà: Soma-deva or 
      Candra-deva (skt)—Nguyệt Thiên—The moon-deva. 
      
      Tô Ma Xà: Tiền thân Đức Phật, 
      khi Ngài bố thí thân rắn lớn để cứu những người đang đói—Soma-sarpa, a 
      former incarnation of sakyamuni when he gave his body as a great snake to 
      feed the starving people. 
      
      Tô Mạt Na: Sumana (skt)—Một 
      loại cây có bông vàng thơm, thường mọc thành bụi, cao khoảng 3 hay 4 bộ, 
      có thể là hoa “lài”—A yellow sweet-smelling flower growing on a bush 3 or 
      4 feet high, perhaps the “great flowered jasmine.”
      
      Tô Mê: Sumeru (skt)—Núi Tu Di 
      là trung tâm của mọi thế giới—The central mountain of every world.
      
      Tô Phược La: Suvarnagotra 
      (skt)—Vương quốc mẫu hệ, nằm trong vùng Hi Mã Lạp Sơn, còn được mô tả là 
      bộ tộc Hoàng Kim—A  matriarchal kingdom, somewhere in the Himalayas, 
      described as the Golden Clan. 
      
      Tô Tất Địa: Susiddhi (skt)—Một 
      chữ bí mật trong Mật Tông, có nghĩa là “mong sự việc thành công mỹ mãn.”—A 
      mystic word of the Tantra School, meaning, “may it be excellently 
      accomplished.”
      
      Tô Tất Địa Kinh: Susiddhi 
      sutra—See Tô Tất Địa. 
      
      Tô Tất Địa Yết La Kinh: 
      Susidhikara-sutra—See Tô Tất Địa.  
      
      Tô Yết Đa: Sugata or Svagata 
      (skt)—Như Lai Như Khứ, danh hiệu của một vị Phật—Well come or well 
      departed, title of a Buddha.
      
      Tố: 
      
      1)       Lụa 
      trắng—White silk. 
      
      2)       Màu 
      trắng: White. 
      
      3)       Nắn 
      nót: To model in clay. 
      
      Tố Cáo: To inform against 
      someone—To accuse—To denounce. 
      
      Tố Cụ: Đã chuẩn bị—Already 
      prepared. 
      
      Tố Đát Lãm: Sutra (skt)—Còn gọi 
      là Tô Đát Lãm hay Tu Đa La—Canon (giáo pháp). 
      
      Tố Giác: See Tố cáo. 
      
      Tố Hào: Tức tướng bạch hào, hay 
      lông trắng ở giữa hai lông mày—The urna, or white curl between the 
      Buddha’s eyebrows. 
      
      Tố Khổ: To denounce someone, 
      especially used-to-be superior, before the people’s court for their 
      wrong-doing or injustice in the past.  
      
      Tố Nữ:
      
      1)       
      Beautiful girl.
      
      2)       Name 
      of a goddess. 
      
      Tố Pháp Thân: Dù lăn trôi trong 
      ba đường thấp nhất vẫn có “Pháp Thân”—Possessing the fundamental 
      dharmakaya nature though still in sin, i.e. the beings in the three lowest 
      orders of transmigration.  
      
      Tố Phược Lý Nã: See Suvarna in 
      Sanskrit/Pali-Vietnamese Section. 
      
      Tố Quyến: Lụa mỏng—Thin 
      silk—Plain silk lustring. 
      
      Tố Tâm: Pure heart. 
      
      Tố Tâm Vân Khai: 
      Shou-Tsinh-Yun-Kai—See Vân Khai Tố Tâm. 
      
      Tố Thực: Những thức ăn trong 
      sạch, không pha tạp mùi vị của thịt cá—Vegetarian food. 
      
      Tố Tụng: Lawsuit. 
      
      Tố Ý: Những ý nghĩ bình 
      thường—Ordinary thoughts, or hopes; the common purpose of the mind. 
      
      Tổ: 
      
      1)       Thủy 
      tổ: Original founder. 
      
      2)       Tổ 
      phụ: Grandfather.
      
      3)       Tổ 
      sư: Patriarch—Founder—People of the present as well as people of the past.
      
      4)       Tổ 
      tiên: Ancestors—Forefathers. 
      
      Tổ Ấn Cư Nạp: Zen master Tổ Ấn 
      Cư Nạp—Zen master Tsu-Yin-Chu-Ne—Thiền sư Trung Hoa, sống giữa khoảng thế 
      kỷ thứ 11, là một học giả lớn, tinh thông kinh Pháp Hoa và những tông phái 
      khác của triết học Phật giáo; thậm chí những bậc trưởng lão cũng muốn học 
      hỏi với sư. Sư có vẻ không hay biết gì về Thiền. Một hôm có một người 
      khách có tiếp xúc với các hoạt động của Thiền ở phương Nam. Người ấy bảo 
      rằng toàn thể thế gới Phật giáo của Trung Hoa đều được thâu tóm vào pháp 
      môn của Đạt Ma và Mã Tổ, một trong những hậu duệ tài ba nhất của Đạt Ma, 
      hình như thỏa mãn một sấm ngôn của Bát Nhã Đa La và có ảnh hưởng lớn đối 
      với các học giả Phật giáo của xứ nầy, đến nỗi cả những người có học và 
      hiểu , nổi danh khắp các vùng đất như Thục như Lượng Công và Giám Công, họ 
      đã từ bỏ môn đệ hay đốt cháy kho sách luận giải của mình để chứng đạt pháp 
      môn Thiền. Cư Nạp rất xúc động về tường thuật của ông bạn Thiền này. Người 
      ấy khuyên sư hãy bước ra với đời và tự mình chứng kiến mọi việc. Cư Nạp từ 
      giả quê quán và du hành khoảng vài năm ở Kinh và Sở, nhưng không thấy có 
      kết quả nào. Sau đó sư tiếp tục dời bước về đông và ngụ tại Tương Châu, 
      trải qua mười năm với Thiền sư Động Sơn. Một hôm, sư đang đọc một bản luận 
      giải về kinh Hoa Nghiêm và xúc động sâu xa về đoạn văn sau đây, nhờ thế mà 
      sư tỏ ngộ đạo lý của Thiền: “Núi Tu Di nổi lên giữa biển cả cao 84.000 do 
      tuần, đỉnh của nó không phải là chỗ vin tay đặt chân mà lên được. Đây chỉ 
      cho ngọn núi của 84.000 trần lao nổi lên từ đại dương của phiền não. Khi 
      chúng sinh đạt đến chỗ vô tư vô vi đối với hết thảy các pháp, phiền não sẽ 
      khô cạn. Trần lao giờ đây chuyển thành ngọn núi Nhất Thiết Trí, và phiền 
      não trở thành biển Nhất Thiết Trí. Trái lại, nếu khởi tâm tư lự tức có 
      những vướng víu. Rồi ra phiền não càng thêm sâu, đường lên đỉnh núi của 
      Phật Trí bị ngăn chặn lại.” Cư Nạp bèn nhận xét: “Thạch Cũng nói rằng 
      ‘không có chỗ ra tay,’ và Mã Tổ ‘vô minh từ quá khứ vô thủy nay đã tiêu 
      tan hết thảy.’” Đây thực không phải là lời nói hư dối—Chinese Zen master, 
      who lived in the middle part of the eleventh century, was a great scholar 
      versed in the Avatamsaka Sutra and other schools of Buddhist philosophy, 
      and even elderly scholars were willing to study under him. Evidently he 
      did not know anything of Zen. One day he had a visitor who was acquainted 
      with the doings of Zen in the south. He said that the entire Buddhist 
      world of China was then taken up by the teaching of Bodhidharma, and that 
      of Ma-Tsu, one of his ablest descendants, who appeared to fulfill the 
      prophecy of Prajnatala, had exercised great influence over the Buddhist 
      scholars in the country, so that even men of learning and understanding 
      who were renowned throughout the province of Shu, such as Liang and Chien, 
      either gave up their own pupils or burned their library of the 
      commentaries, on order to master the teaching of Zen. Chu-Ne was very much 
      impressed with the report of his Zen friend. Advised strongly by him to go 
      out into the world and see the state of affairs by himself, Chu-Ne left 
      his native province and wandered about some years in Ching and She but 
      without seeing and result. He then moved further west and stayed in 
      Hsiang-Chou for ten years under Tung-Shan Yung. One day he was reading a 
      treatise on the Avatamsaka Sutra and was deeply impressed by the following 
      passage, which opened finally his mind to the truth of Zen: “Mount Sumeru 
      towers in the great ocean attaining the altitude of 84,000 yojanas, and 
      its summit is not to be scaled by means of hands and legs. This 
      illustrates that the mountain of 84,000 human woes is rising from the 
      great ocean of passions. When beings attain the state of consciousness in 
      which they cherish no thoughts of relativity and from which all strivings 
      vanish, even when confronting this world of multiplicities, their passions 
      will naturally be drained off. All the worldly woes now turn into the 
      mountain of all-knowledge and the passions into the ocean of 
      all-knowledge. On the contrary, when the mind is filled with thoughts and 
      reflections of relativity, there are attachments. Then  the greater grow 
      worldly and the deeper the passions, and a man is barred from reaching the 
      summit of knowledge which makes up the essence of Buddhahood.” Chu-Ne then 
      observed: “According to Shih-Kuang, ‘not a cue to get hold of,’ and 
      according to Ma-Tsu, ‘ignorance since the beginningless past has melted 
      away today.’” These are indeed no lies.     
      
      Tổ Ấn Mật Hoằng: Zen Master Tổ 
      Ấn Mật Hoằng (1735-1835)—Thiền sư Tổ Ấn Mật Hoằng, quê ở Phù Cát Bình 
      Định, Trung Việt. Ngài xuất gia vào tuổi 15. Ngài thọ cụ túc giới với 
      Thiền sư Phật Ý Linh Nhạc tại chùa Từ Ân ở Tân Khai, phủ Tân Bình, tỉnh 
      Gia Định. Ngài là Pháp tử đời thứ 36 dòng Lâm Tế. Vào năm 1773, ngài trụ 
      trì tại chùa Đại Giác. Vào năm 1802, vua Gia Long sai quan địa phương 
      trùng tu lại chùa Đại Giác. Đến năm 1815, vua Gia Long gừi sắc chỉ triệu 
      hồi ngài về kinh đô Huế để thuyết giảng cho nhà vua và hoàng gia. Sau đó 
      ngài về làm tăng cang chùa Thiên Mụ. Ngài thị tịch năm 1835, thọ 101 
      tuổi—A Vietnamese monk from Phù Cát, Bình Định, Central Vietnam. He left 
      home and became a monk at the age of 15. He received complete precepts 
      with Most Venerable Phật Ý Linh Nhạc at Từ Ân Temple in Tân Khai, Tân 
      Bình, Gia Định. He was the Dharma heir of the 36th generation of the 
      Linn-Chih Zen Sect. In 1773, he stayed at Đại Giác Temple. In 1802, King 
      Gia Long ordered his local mandarins to rebuild Đại Giác Temple. In 1815 
      King Gia Long sent an Imperial Order to summon him to Hue capital to 
      preach the Buddha Dharma to the King and the royal family. Later, he 
      became a royal-recognized monk  at Thiên Mụ temple. He passed away at Quốc 
      Ân Temple in Huế in 1835, at the age of 101.   
      
      Tổ Đường: Patriarchs’ Hall. 
      
      Tổ Mẫu: Grandmother.
      
      Tổ Phụ: Grandfather.  
      
      Tổ Sư: Tổ hay tổ sư là những 
      bậc thầy vĩ đại đã nhận và đã chính thức truyền bá Phật pháp. Vị Tổ đầu 
      tiên là ngài Đại Ca Diếp, được Phật tâm chứng. Tâm chứng nầy gọi là ‘Tâm 
      truyền tâm’ và tiếp tục lưu truyền mãi về sau. Có 28 vị tổ ở Ấn Độ và 6 vị 
      ở Trung Quốc. Từ vị Tổ thứ nhất đến Lục Tổ Huệ Năng gồm 32 vị. Tuy nhiên, 
      ở Trung Quốc, người ta đặc biệt nói đến Tổ Sư Bồ Đề Đạt Ma—Patron 
      saint—Founder—Patriarch—The first teacher, or leader, or founder of a 
      school  (sect) or the great masters who have received and formally 
      transmitted the Buddha’s Dharma. The First Indian Patriarch who received 
      “mind approval” from the Buddha was Maha-Kasyapa. The act was called “Mind 
      to mind” transmission, and had been passed on down the line. There are 
      twenty-eight patriarchs in India and six in China. From the First 
      Patriarch to Hui-Neng, there were thirty-two. However, in China, it has 
      particular reference to Bodhidharma. 
      ** For more information, 
      please see Hai Mươi 
           Tám Tổ Ấn Độ, and Lục 
      Tổ Trung Hoa.  
      
      Tổ Sư Bồ Đề Đạt Ma: Patriarch 
      Bodhidharma.
      
      Tổ Sư Thiền: Patriarchal 
      Meditation—The Zen of the Patriarchs—Zen Patriarchate.
      
      1)       Lịch 
      sử của Thiền Tông vẫn còn là một huyền thoại. Truyền thuyết cho rằng một 
      ngày nọ, thần Phạm Thiên hiện đến với Đức Phật tại núi Linh Thứu, cúng 
      dường Ngài một cánh hoa Kumbhala và yêu cầu Ngài giảng pháp. Đức Phật liền 
      bước lên tòa sư tử, và cầm lấy cành hoa trong tay, không nói một lời. 
      Trong đại chúng không ai hiểu được ý nghĩa. Chỉ có Ma Ha Ca Diếp là mỉm 
      cười hoan hỷ. Đức Phật nói: “Chánh Pháp Nhãn Tạng nầy, ta phó chúc cho 
      ngươi, này Ma Ha Ca Diếp. Hãy nhận lấy và truyền bá.” Một lần khi A Nan 
      hỏi Ca Diếp Đức Phật đã truyền dạy những gì, thì Đại Ca Diếp bảo: “Hãy đi 
      hạ cột cờ xuống!” A nan liền ngộ ngay. Cứ thế mà tâm ấn được truyền hừa. 
      Giáo pháp nầy được gọi là “Phật Tâm Tông.”—The history of Zen is mythical. 
      It is said that one day Brahma came to the Buddha who was residing at the 
      Vulture Peak, offered a Kumbhala flower, and requested him to preach the 
      Law. The Buddha ascended the Lion seat and taking that flower touched it 
      with his fingers without saing a word. No one in the assembly could 
      understand the meaning. The venerable Mahakasyapa alone smiled with joy. 
      The world-Honoured One said: “The doctrine of the Eye of the True Law is 
      hereby entrusted to you, Oh Mahakasyapa! Accept and hand it down to 
      posterity.” Once when Ananda asked Mahakasyapa what the Buddha’s 
      transmission was, Mahakasyapa said: “Go and take the banner-stick down!” 
      Ananda understood him at once. Thus the mind-sign was handed down 
      successively. The teaching was called the ‘school of the Buddha-mind.’  
      
      
      2)       Theo 
      Giáo Sư Junjiro Takakusu trong Cương Yếu Triết Học Phật Giáo, Thiền của Tổ 
      Sư không phải là phương pháp phân tách như khoa học, cũng không phải là 
      một phương pháp tổng hợp như triết học. Đây là một hệ thống tư duy không 
      tư duy theo thông tục, nó siêu việt tất cả những phương pháp của luận 
      chứng hợp lý. Tư duy không cần phương pháp tư duy là để tạo cơ hội cho sự 
      thức tỉnh của tuệ giác. Hành giả có thể áp dụng những phương pháp  tu 
      thiền của Tiểu Thừa, của Du Già Luận (bán Đại Thừa), pháp chỉ quán của 
      tông Thiên Thai, hay Du Già bí mật của tông Chân Ngôn nếu hành giả thích, 
      nhưng thật ra tất cả những phương pháp nầy đều không cần thiết. Quan điểm 
      của Thiền tông có thể tóm tắt như sau: “Dĩ tâm truyền tâm, bất lập văn tự, 
      giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật,” hay “Thử 
      tâm tức Phật.” Bạch Ẩn Thiền Sư đã phát biểu ý kiến nầy rất rõ trong bài 
      kệ về pháp ‘tọa thiền’: “Chúng sanh vốn là Phật; cũng như băng (cơ duyên 
      hiện tại của chúng ta) và nước (Phật tánh ẩn tàng), không có nước thì 
      không có băng. Chính thế gian nầy là liên hoa cảnh giới và thân nầy là 
      Phật.”—According to Prof. Junjiro Takakusu in The Essentials of Buddhist 
      Philosophy, the meditation of the patriarchal Zen was not an analytical 
      like science, nor was it a synthetical method like philosophy. It was a 
      method of thinking without ordinary thinking, transcending all methods of 
      logical  argument. To think without any method of thinking is to give  
      opportunity for the awakening of the intuitional knowledge or wisdom. All 
      methods of meditation as taught by Hinayana, by Yogacara (quasi-Mahyana), 
      by the abrupt method of calmness and insight (samathavipasyana) of 
      T’ien-T’ai, or by the mystical yoga of Shingon can be used if the aspirant 
      likes, but are in no way necessary. The ideas peculiar to Zen may be 
      summarized as follows: “from mind to mind it was transmitted, not 
      expressed in words or written in letters; it was a special transmission 
      apart from the sacred teaching. Directly point to the human mind, see 
      one's real nature and become an enlightened Buddha.” The idea was very 
      well expressed in Hakuin’s hymn on sitting and meditating: “All beings are 
      fundamentally Buddhas; it is like ice (which represents our actual 
      condition) and water (which represents an underlying Buddha-nature); 
      without water there will be no ice, etc. This very earth is the lotus-land 
      and this body is Buddha.” 
      
      Tổ Tâm Hối Đường Hoàng Long: 
      Thiền sư Tổ Tâm Hối Đường—Zen master Hui-T’ang-Tsu-Hsin (1025-1100).
      
      ·        
      Thiền sư Tố Tâm Hối Đường sanh năm 1025 tại tỉnh Quảng Đông. 
      Năm mười chín tuổi sư bị mù, cha mẹ nguyện cho sư xuất gia, liền đó mắt sư 
      sáng lại. Sau khi tòng học ba năm với vị thầy thiền đầu tiên của sư là 
      thiền sư Vân Duyệt ở Vân Phong, sư bèn từ giả thiền sư Vân Duyệt ra đi. Sư 
      Vân Duyệt bảo sư nên đến nương với Sư Huệ Nam ở Hoàng Bá. Sư đến Hoàng Bá 
      ở bốn năm, nhưng không kết quả, sư lại trở về Vân Phong; tuy nhiên lúc ấy 
      sư Vân Duyệt đã thị tịch, nên sư tìm đến với sư Thạch Sương—Zen master 
      Tsu-Hsin-Hui-T’ang-Huang-Lung was born in 1025 in Kuang-T’ung province. 
      After he was blind at the age of nineteen, his parents vowed to let him to 
      leave home and to join the order. His eyes were back to normal again. 
      After studying for three years with his first Zen teacher, Wen-Yueh in 
      Yun-Feng, he left Yun-Yueh. Master Wen-Yueh advised him to go to see Zen 
      master Hui-Nan at Huang-Bo. Tsu-Hsin then went to study under Hui-Nan; 
      however, he returned to Yun-Feng after four years without gaining any 
      clarity. Tsu-Hsin-Hui-Tang discovered that Wen-Yueh had passed away, so he 
      stayed with Shih-Shuang.
      
      ·        
      Một hôm sư đọc Truyền Đăng Thực Lục đến đoạn “Tăng hỏi Thiền 
      sư Đa Phước: Thế nào là một vườn tre của Đa Phước? Đa Phước đáp: Một cây 
      hai cây nghiêng. Tăng thưa: Chẳng hiểu. Đa Phước nói: Ba cây bốn cây 
      cong.” Khi ấy sư liền giác ngộ hiểu rõ được hai thầy. Sư liền đi thẳng đến 
      Hoàng Bá. Vừa mới trải tọa cụ, Huệ Nam cười nói: Ngươi vào thất của ta. Sư 
      cũng thích thú vui mừng thưa: Việc lớn xưa nay như thế, Hòa Thượng cần gì 
      dạy người khán thoại đầu và rán hết sức vạch tìm ra ý nghĩa ? Huệ Nam đáp: 
      Nếu chẳng dạy ông tầm cứu như thế, đến chỗ không dụng tâm tự thấy tự nhận, 
      là ta đã chôn vùi ngươi vậy.”—One day he was reading A Lamp Record, when 
      he came upon the passage, “A monk asked Zen master T’o-Fu, ‘What is 
      T’o-Fu’s bamboo grove?’ T’o-Fu replied, ‘One stalk, two stalk slanted.” 
      The monk said, ‘I don’t understand.’ T’o-Fu then said, ‘Three stalks, four 
      stalks crooked.” Upon reading these words Tsu-Hsin-Hui-T’ang experienced 
      great awakening and finally grasped the teaching of his previous two 
      teachers.  Tsu-Hsin returned to see Huang-Bo. When he arrived there and 
      prepared to set out his sitting cushion, Huang-Bo said, “You’ve already 
      entered my room.”Tsu-Hsin jumped up and said, “The great matter being 
      thus, why does the master teach koans to the disciples and study the 
      hundred cases of the koan collections?” Huang-Bo said, “If I did not teach 
      you to study in this manner, and you were left to reach the place of 
      no-mind by your own efforts and your own confirmation, then I would be 
      sinking you.”
      
      ·        
      Một hôm quan Thái Sử Hoàng Sơn Cốc là một nhà nho, một nhà 
      thơ, đến gõ cửa sư xin học Thiền. Sư nói: “Có một đoạn sách Nho ắt ngài đã 
      nằm lòng dạy đúng như Thiền dạy. Ngài nhớ lại coi có phải Thánh Khổng nói 
      ‘Ông nghĩ rằng tôi có điều dấu ông. Nầy các ông ơi, thật tôi không dấu 
      diếm điều gì hết.’ Nhà Nho toan đáp, nhưng sư một mực nói: “Không! Không!” 
      khiến cho quan Thái sử không mở miệng được, bối rối cả tâm thần, nhưng 
      không biết thưa thốt gì. Sau đó hai người có dịp đi chơi núi. Gặp mùa hoa 
      quế rừng nở rộ, hương thơm ngát cả một vùng. Sư hỏi: “Ngài có ngửi thấy 
      mùi hương không?” Quan Thái sử đáp: “Vâng.” Sư tiếp: “Đó, tôi có dấu gì 
      ngài đâu?” Câu nói tức thì mở tâm quan Thái sử. Thật hiển nhiên ‘ngộ’ há 
      phải từ bên ngoài đến, hay do người khác cưỡng ép vào ta đâu, mà chính tự 
      nó mọc lên ở trong ta? Dầu vị thầy không có dấu gì ta hết, nhưng ta phải 
      ngộ mới thấy được, và tin quyết rằng không gì thiếu hết trong chính ta—One 
      day Huang-Shan-Ku, a Confucian poet and a mandarin, came to Hui-T’ang to 
      be initiated into Zen. Hui-T’ang said: “There is a passage in the text you 
      are so thoroughly familiar with which fully describes the teaching of Zen. 
      Did not Confucius declare: ‘Do you think I am holding back something from 
      you, O my disciples? Indeed, I have held nothing back from you?’ 
      Huang-Shan-Ku tried to answer, but Hui-T’ang immediately made him keep 
      silence by saying: “No! No!” The mandarin felt trouble in mind, and did 
      not know how to express himself. Some time later they were having a walk 
      in the mountain. The wild laurel was in full bloom and the air was 
      redolent. Hui-T’ang asked: “Do you smell it?” Huang-Shan-Ku said: “Yes!” 
      Hui-T’ang said: “There, I have kept nothing back from you!” This 
      suggestion from the master at once led to the opening of Huang-Shan-Ku’s 
      mind. Is it not evident now that enlightenment is not a thing to be 
      imposed upon another, but that it is self-growing from within? Though 
      nothing is kept away from us, it is through enlightenment that we become 
      cognizant of the fact, being convinced that we are all sufficient unto 
      ourselves.    
      
      ·        
      Một lần sư thượng đường đọc kệ—One time, he entered the hall 
      to read this verse: 
      “Tích 
      nhơn khứ thời thị kim nhật
      Kim nhật 
      y nhiên nhơn bất lai
      Kim ký 
      bất lai tích bất vãng
      Bạch vân 
      lưu thủy phong bồi hồi.
      Not 
      going,
      Not 
      leaving,
      Thoughts 
      of South Mountain and Mount T’ien-T’ai,
      The 
      silly white cloud with no fixed place,
      Blown 
      back and forth by the wind. 
      (Người 
      xưa ra đi ngày nay thực,
      Ngày nay 
      như cũ người chẳng về,
      Nay đã 
      chẳng về xưa chẳng đến,
      Mây 
      trắng nước trôi gió quẩn quanh.
      
                              Thích Thanh Từ dịch).
      
      ·        
      Sư thị tịch năm 1100. Cốt của sư được đưa vào phía đông của 
      “Phổ Giác Tháp.”  Ngài được vua ban hiệu “Bảo Giác” Thiền Sư—Tsu-Hsin died 
      in 1100. His remains were intered on the east side of the “Universal 
      Enlightenment Stupa.”  The master received the posthumous title “Zen 
      Master Precious Enlightenment.”
      
      Tổ Tiên: 
      Forefathers---Ancestors. 
      
      Tổ Tông: See Tổ tiên in 
      Vietnamese-English Section. 
      
      Tốc: 
      Nhanh—Haste—Quick—Speedily—Urgent. 
      
      Tốc Đắc: Đạt được một cách 
      nhanh chóng—Speedily obtain, or ensure. 
      
      Tốc Hành: Fast—Express. 
      
      Tốc Hương: Loại nhang rẻ tiền 
      cháy nhanh—Quickly burnt inferior incense. 
      
      Tốc Tật Quỷ: Một loài quỷ La 
      Sát lật đật—A kind of hurrying demon, raksasa. 
      
      Tốc Thành: Hoàn thành một cách 
      nhanh chóng—Speedily completed.  
      
      Tộc: Family. 
      
      Tộc Phổ: Family tree. 
      
      Tôi Đòi: Servant. 
      
      Tôi Thép: To harden steel. 
      
      Tối: Cao 
      nhất—Superlative—Most—Very. 
      
      Tối Cao: 
      Supreme—Maximum—Highest. 
      
      Tối Cao Hiển Quảng Nhãn Tạng Như Lai: 
      The Tathagata who, in the highest reveals the far-reaching treasure of his 
      eye—The Sun—See Vairocana, Đại Nhựt Giác Vương, and Đại Nhựt Kinh.    
      
      Tối Chánh Giác: Sự giác ngộ 
      chân chính cao nhất hay diệu trí năng giác của chư Phật—Supreme perfect 
      enlightenment, i.e. Buddhahood. 
      
      Tối Hậu: Cuối cùng—The last of 
      all—Ultimate—Final—Finally—At death. 
      
      Tối Hậu Niệm: See Tối Hậu Tâm.
      
      
      Tối Hậu Sinh: See Tối Hậu Thân.
      
      
      Tối Hậu Tâm: Tối hậu niệm hay 
      cái tâm ở sát na cuối cùng hủy thân diệt trí, sắp nhập vào vô dư niết 
      bàn—The final mind, or ultimate thought, on entering final nirvana. 
      
      Tối Hậu Thân: Cái thân hay kiếp 
      tái sinh cuối cùng trong cõi sinh tử của các vị A La Hán hay Bồ Tát—The 
      final body, or rebirth, that of an arhat, or a bodhisattva in the last 
      stage. 
      
      Tối Hậu Thập Niệm: Niệm Phật A 
      Di Đà mười lần trước khi chết—To call on Amitabha ten times when dying.
      
      
      Tối Khẩn: Most immediate.   
      
      Tối Mật: Top secret. 
      
      Tối Tăm: Obscure—Dark. 
      
      Tối Tân: Advanced—Most 
      up-to-date—Modern. 
      
      Tối Thắng: Jina or Vijaya 
      (skt)—Chế ngự tất cả, không còn ai bì kịp—Conquering—All 
      conquering—Pre-eminent—Peerless—Supreme. 
      
      Tối Thắng Thừa: Đại Thừa—The 
      supreme vehicle—Mahayana. 
      
      Tối Thắng Tôn: Bậc đáng tôn quý 
      nhất hay Đức Phật—The most honourable one—Buddha. 
      
      Tối Thắng Trưởng Giả: The Elder 
      Most Supreme. 
      
      Tối Thiểu: Minimum. 
      
      Tối Thượng: To be 
      ultimate—Supreme—To be paramount. 
      
      Tối Thượng Đại Tất Địa: Phật 
      quả—The stage of supreme siddhi, or wisdom—Buddhahood. 
      
      Tối Thượng Thừa: Giáo pháp cao 
      nhất hay giáo pháp rốt ráo nhất (các tông phái đều cho tông nghĩa của phái 
      mình là tối thượng thừa)—The Supreme Vehicle. 
      
      Tối Trừng: Saicho (jap)—Tối 
      Trừng là Sơ Tổ của tông Thiên Thai ở Nhật Bản. Ông là đệ tử của Đạo Toại 
      (Đạo Toại là đệ tử của Trạm Nhiên—See Trạm Nhiên, and Thiên Thai Cửu Tổ). 
      Tối Trừng còn được gọi là Truyền Giáo Đại Sư. Vào tuổi 20, Tối Trừng đến 
      Nara để học về giáo lý Thiên Thai với một vài học giả cùng đến Nhật với 
      luật sư Chân Giám và học tập ba tách phẩm của Trí Khải. Khi ông đang đọc 
      nửa chừng những tác phẩm nầy lần thứ hai, ông nhận được lệnh của Nhật 
      Hoàng sang Trung Quốc để học Phật. Tại Trung Quốc, ông được Đạo Toại 
      truyền thọ học thuyết Thiên Thai và Bồ Tát giới, được Thuận Giáo truyền 
      thọ học thuyết Chân Ngôn, và Tu Nhiên truyền cho Thiền tông. Sau một năm 
      lưu trú ở Trung Hoa, ông về nước thiết lập tông Thiên Thai Nhật Bản và 
      giảng Kinh Pháp Hoa, lập Chân Ngôn Mật giáo, Thiền tông và Luật tông. 
      Trung tâm giảng huấn trên núiTỉ Duệ do Tối Trừng thiết lập và trở thành 
      trung tâm lớn của ngánh giáo học Phật giáo Nhật Bản. Một thời đã có đến 
      3.000 tự viện làm túc xá cho học chúng, quy tụ tất cả mọi ngành Phật học 
      hiển và mật. Hiện tại có ba chi phái của tông Thiên Thai. Đó là Sơn Môn, 
      Tự Môn, và Chân Thạnh. Chi phái sau cùng là Tịnh Độ. Những tự viện thuộc 
      ba chi phái nầy hiện thời tính khoảng trên 4.000: Saichô was the founder 
      of the T’ien-T’ai School in Japan. He was a pupil of Tao-Sui (Tao-Sui was 
      a pupil of Chan-Jan—See Trạm Nhiên, and Thiên Thai Cửu Tổ). When he was 
      twenty, Saichô went to Nara and studied the T’ien-T’ai doctrine under some 
      scholars who came to Japan with the vinaya master Kanjin, and read the 
      three great works of Chih-I. When he was halfway through in his second 
      perusal of those works, he received an Imperial order to go to China for 
      Buddhist study. He received the T’ien-T’ai doctrine and the Bodhisattva 
      ordination from Tao-Sui, the mystic doctrine (mantra) from Shun-Chiao, and 
      the Zen meditation from Hsiu-Jan. On his return after one year’s sojourn 
      in China, he founded the T’ien-T’ai School and taught the Lotus doctrine, 
      the Shingon mysticism, the Zen meditation and Vinaya practices. The 
      educational headquarters on the Mount Hiei was established by Saicho and 
      became the greatest center of Buddhist learning in Japan. Once there were 
      some 3,000 monasteries to house the students thronging there from all 
      branches of Buddhism, exoteric and esoteric. At present there are three 
      branches of the T’ien-T’ai School; namely, Sammon, Jimon and Shinsei, the 
      last being an Amita-peitism. The monasteries belonging to the three 
      branches number more than 4,000 at the present time.   
      
      Tồi: Bad. 
      
      Tồi Bại: Bad—Depraved. 
      
      Tồi Tàn: In bad shape 
      (state)—Disreputable. 
      
      Tồi Tệ: Miserable—Mean. 
      
      Tội: 
      
      1)       Những 
      gì đáng trách và đem lại nghiệp xấu: That which is blameworthy and brings 
      about bad karma; entangled in the net of wrong-doing.
      
      2)       
      Tội—Theo Phật giáo, chúng sanh sanh ra không có mặc cảm sợ hãi về tội lỗi, 
      và không sợ Thượng đế trừng phạt cho việc làm sai trái. Tuy nhiên, sợ 
      nghiệp báo  theo luật nhân quả. Khi chúng ta làm sai là chúng ta lãnh quả 
      cho việc làm sai trái ấy, và bằng cách nầy chúng ta phải chịu đau khổ cho 
      chính tội lỗi của chúng ta---Offence—According to Buddhism, sentient 
      beings born have without any feeling of guilt in the sense of fear of a 
      God who will punish him for his wrong-doing. However, they feel guilty by 
      the law of karma. When  you do some wrong-doing, you will receive the 
      effects of your wrong-doing and in this way suffer the effect of your own 
      sin.
      
      Tội Ác: Atrocity—Evil and sin.
      
      Tội Báo: Báo đáp lại những tội 
      lỗi đã gây tạo (tùy theo tội trạng mà phải nhận sự khổ sở tương ứng. Theo 
      Kinh Niết Bàn, hễ có tội, tức là có tội báo, không ác nghiệp, ắt không tội 
      báo)—The retribution of sin, its punishment in suffering. 
      
      Tội Căn: Căn bản của tội ác là 
      sự không giác ngộ và vô minh—The root of sin, i.e. unenlightenment or 
      ignorance.  
      
      Tội Cấu: The filth of sin, 
      moral defilement. 
      
      Tội Chướng: 
      
      1)       Tội 
      ác là chướng ngại cho thiện nghiệp: The veil, or barrier of sin, which 
      hinders the obtaining of good karma.
      
      2)       Tội 
      ác cũng là chướng ngại cho việc nghe và hành trì chánh pháp: The veil, or 
      barrier of sin, which also hinders the obedient hearing of the truth. 
      
      Tội Chướng Khó Tiêu Trừ: Karmic 
      obstructions are difficult to eradicate. 
      
      Tội Hành: Hành động đầy tội 
      lỗi—Sinful acts, or conduct. 
      
      Tội Nghiệp: 
      
      1)       
      Thương hại tội nghiệp ai: To have pity (mercy) on someone. 
      
      2)       
      Nghiệp tội đưa đến quả khổ đau phiền não: That which sin does, its karma, 
      producing subsequent suffering.  
      
      Tội Nghiệt: Sins—Crimes. 
      
      Tội Nhẹ: Minor (petty—small) 
      offence. 
      
      Tội Phạm: Criminal. 
      
      Tội Phúc: Tội và phúc (ngũ 
      nghịch, thập ác là tội; ngũ giới, thập thiện là phúc)—Sinfulness and 
      blessedness. 
      
      Tội Phúc Vô Chủ: Tội và phúc 
      không do ai làm chủ, chỉ tự mình xui khiến lấy—Sinfulness and blessedness 
      have no lord, or governor, i.e. we induce them ourselves. 
      
      Tội Tính: Bản tính của tội 
      nghiệp (bản tánh ấy vốn không và bất khả đắc, không thật, nghĩa là theo 
      đúng lẽ chân như, tội không có thực, mà phúc cũng chẳng có thực)—A sinful 
      nature; the nature of sin.
      
      Tội Vi Cảnh: Petty offense. 
      
      Tôn: 
      
      1)       Bậc 
      đáng tôn kính: Arya (skt)—Honourable—The honoured one—To honour.
      
      2)       Đích 
      tôn: Grandchild—The eldest grandson (eldest son of the eldest son).  
      
      3)       See 
      Tông. 
      
      Tôn Chi: Tông chi—Branch of a 
      family,  sect or school. 
      
      Tôn Chỉ: Leading lines or 
      guiding instructions of a sect or school. 
      
      Tôn Đà La Nan Đà: Sundarananda 
      or Sunanda (skt)—Em trai của Đức Phật, có vợ tên là Tôn Đà Lợi, nên nguời 
      ta gọi ông là Tôn Đà La Nan Đà để phân biệt với ông A Nan Đà—Said to be 
      younger brother of Sakyamuni, his wife’s name being Sundari; thus called 
      to distinguish him from Ananda. 
      
      Tôn Đà Lợi: Sundari (skt). 
      
      1)       Tên 
      của một bà quý phái đã hủy báng Đức Phật trước đám đông: Name of a 
      courtesan who defamed the Buddha in front of a crowd. 
      
      2)       Tên 
      một đức trẻ do vua Ba Tư Nặc dẫn đến để được gặp Phật, đứa bé đã ngộ đạo 
      sau khi nghe Phật thuyết pháp: Name of a young child who realized the 
      truth after hearing the Buddha’s preaching. 
      
      3)       Tên 
      của một vị A La Hán: Name of an arhat. 
      
      4)       Vợ 
      của tôn giả Tôn Đà La Nan Đà: Wife of Sundarananda. 
      
      Tôn Giả: Arya (skt)—A Lê 
      Da—Thánh giả hay những bậc trí đức cao, tiếng tôn xưng để gọi các vị A La 
      Hán—An Honored One—An Honourable One—A sage—A saint—An Arhat. 
      
      Tôn Giả A Nan: Ananda—Đệ nhứt 
      đa văn—Who was famed for his excellent memory and wide erudition—See A Nan 
      Đà và Thập Đại đệ tử. 
      
      Tôn Giả Ca Diếp: 
      Mahakashyapa—Đệ nhứt Thiền định—Foremost in Samadhi—See Ma Ha Ca Diếp và 
      Thập Đại Đệ Tử. 
      
      Tôn Giả Duy Ma Cật: See 
      Vimalakirti. 
      
      Tôn Giả Đề Bà Đạt Đa: 
      Devadatta—Nghịch hữu tri thức—Adverse-practice good spiritual advisor—See 
      Đề Bà Đạt Đa. 
      
      Tôn Giả Giác Ngộ: Enlightened 
      Venerable. 
      
      Tôn Giả Kiều Trần Như: 
      Kaundinya. 
      
      Tôn Giả La Hầu La: Nổi tiếng về 
      mật hạnh—Foremost in inconspicuous practice—See Rahula.
      
      Tôn Giả Mục Kiền Liên: Đệ nhứt 
      thần thông—Foremost in spiritual powers—See Maudgalyayana. 
      
      Tôn Giả Tu Bồ Đề: See Subhuti.
      
      
      Tôn Giả Xá Lợi Phất: Đệ nhất 
      trí huệ—Foremost in wisdom—See Sariputra. 
      
      Tôn Giáo: Religion. 
      
      Tôn Kính: Homage—Reverence—To 
      have respect for –To reverence and respect—To show/pay respect for—To 
      revere—To respect—To honour. 
      
      Tôn Ký: Sự thọ ký của Đức Phật 
      về sự thành Phật của các đệ tử của Ngài—The prediction of Buddhahood to 
      his disciples by the Honoured One—The honorable prediction. 
      
      Tôn Nghiêm: Solemn—Grave.
      
      Tôn Phái: Tông phái—See Tôn 
      Chi. 
      
      Tôn Phục: To respect—To 
      reverence—To honour—To venerate. 
      
      Tôn Quí: See Tôn Trọng. 
      
      Tôn Sắc: Những lời chỉ dạy đáng 
      tôn quý hay những lời dạy của Đức Phật—The honourable commands, Buddha’s 
      teaching. 
      
      Tôn Sùng: Honourable—Eminent.
      
      
      Tôn Sư : Honoured Master.
      
      Tôn Thạnh: Chùa Tôn Thạnh tọa 
      lạc trong xã Thanh Đa, huyện Phước Lộc, bây giờ là Cần Giuộc, tỉnh Long 
      An. Lúc đầu chùa tên Lan Nhã, được Hòa Thượng Viên Ngộ sáng lập và dựng 
      lên năm 1808. Trong tập hồi ký của ông Võ Văn Kiết, tri huyện Phước Lộc, 
      đã ghi lại: về việc đúc tượng Bồ Tát Địa Tạng như sau: “Lần đầu tượng đúc 
      không thành, lần sau sư Tăng Ngộ bèn chặt một ngón tay của mình mà bỏ vào 
      lò nấu đồng, thịt xương của ngón tay hòa lẫn với kim khí. Lần nầy pho 
      tượng được viên mãn. Từ đấy khách thập phương góp phần tô điểm ngôi già 
      lam Lan Nhã ngày càng trở nên tráng lệ hơn. Tuy nhiên, ngôi chùa hiện nay 
      không còn được như xưa nữa.” Đường vào chùa phía bên phải có tấm bia kỷ 
      niệm ông Nguyễn Đình Chiểu được dựng lên năm 1973. Trong chánh điện có rất 
      nhiều tượng La Hán. Sân sau chùa có tháp thờ Sư Viên Ngộ—Tôn Thạnh Pagoda, 
      name of a temple, located in Thanh Đa village, Phước Lộc (now Cần Giuộc) 
      district, Long An province, South Vietnam. It was founded and built by 
      Most venerable Viên Ngộ (Tăng Ngộ) in 1808. It was called Lan Nhã Pagoda 
      then. Chief of Phước Lộc district, Mr. Võ Văn Kiết, recorded in his diary 
      about the casting of Ksigarbha Bodhisattva statue at Lan Nhã Pagoda as 
      follows: “At first, the casting failed. Afterwards, it was said that 
      Master Tăng Ngộ cut a finger of his right hand and dropped it into a pot 
      used to cook bronze. The finger was mixed with the metal, therefore the 
      statue casting became successful. Since then, pilgrims from all over the 
      country have helped decorate Lan Nhã Pagoda to make it more magnificient 
      and splendid. However, at present, the pagoda does not appear marvellous 
      as it used to be. On the right side of the gateway stands a stele set up 
      in 1973 to memorize the great scholar Nguyễn Đình Chiểu. In the Main Hall, 
      there are many statues of Arahats. In the back of the pagoda, there stands 
      the stupa of Most Venerable Vien Ngộ.   
      
      Tôn Thắng: 
      
      1)       Vị 
      tôn giả luôn chiến thắng (ma quân phiền não) đáng tôn kính: Honoured and 
      victorious, the honoured victorious one.
      
      2)       Một 
      trong năm vị Phật Đảnh Tôn bên cánh tả của Phật Thích Ca Mâu Ni, tượng 
      trưng cho trí huệ: One of the five bodhisattvas on the left side of 
      Sakyamuni (symbolized wisdom)—See Ngũ Phật Đảnh Tôn.
      
      3)       Trừ 
      Chướng Phật Đảnh: One of the divinities of the Yoga school—See Ngũ Phật 
      Đảnh Tôn (5).  
      
      Tôn Thắng Phật: Trừ chướng Phật 
      Đảnh—The Honoured Victorious One (Buddha). 
      
      Tôn Thất: Royal family. 
      
      Tôn Thượng: To respect one’s 
      superior. 
      
      Tôn Tín: To reverence and 
      faith—To revere and trust. 
      
      Tôn Tộc: Person of the same 
      family. 
      
      Tôn Trọng: 
      
      1)       Tôn 
      quý và kính trọng: Respect and honoured—To honour—Honourable—To have 
      regard and consideration for.
      
      2)       Cách 
      tốt nhứt để tôn trọng Phật là làm theo lời Phật dạy: “Không làm các điều 
      ác, làm các điều lành, và giữ cho tâm ý thanh sạch.”—The best way to 
      respect the Buddha is to follow his advice: “Not to do evil, to do good, 
      and to purify one’s mind.”
      
      Tôn Túc: Từ được dùng để gọi vị 
      Tăng tuổi cao đức trọng—A term used to call a monk honoured and advanced 
      in years. 
      
      Tốn: 
      
      1)       Hao 
      tốn: Expensive—Consumption. 
      
      2)       Khiêm 
      tốn: Nhường nhịn—Modest—To yield—To accord. 
      
      Tốn Công: To waste (lose) one’s 
      labour. 
      
      Tốn Của: To lose (waste) one’s 
      money. 
      
      Tốn Kém: Costly—Expensive. 
      
      Tồn: Bảo Tồn—To keep—To 
      maintain—To preserve. 
      
      Tồn Kiến: Ôm giữ tà kiến—To 
      keep to wrong views.
      
      Tồn Mệnh: Bảo tồn sinh mệnh—To 
      preserve one’s life—To preserve alive. 
      
      Tồn Tại: To survive—To 
      endure—To last—To exist. 
      
      Tồn Tâm: To tame the mind—Còn 
      gọi là Tu Tâm, nghĩa là gìn giữ tâm, không cho nó phóng túng kiêu 
      ngạo—Also called to cultivate the mind, or to maintain and watch over the 
      mind, not letting it get out of control, become egotistical, 
      self-centered, etc. 
      
      Tồn Vong: To exist and to 
      disappear. 
      
      Tổn: 
      
      1)       Tổn 
      hại: To spoil—To hurt—To damage.
      
      2)       Tổn 
      phí: Cost—Expenses. 
      
      Tổn Hại: To cause damage. 
      
      Tổn Phục Đoạn: Tạm thời ép chặt 
      hay dùng đạo hữu lậu mà đoạn diệt phiền não (khi gặp duyên nó lại hiện 
      hành trởi lại)—To spoil, subject and destroy the passions. 
      
      Tổn Thất: Loss. 
      
      Tổn Thọ: To shorten one’s life.
      
      
      Tổn Thương: To hurt (wound).
      
      
      Tông: 
      
      1)       Tổ 
      Tông: Ancestors.
      
      2)       Bộ 
      Tộc: Clan.
      
      3)       Loại: 
      Class—Kind—Category.
      
      4)       Dòng: 
      School—Sects, which are of two kinds:
      
      a)       Thành 
      lập một dòng riêng, sư đệ truyền nối, như Phật Giáo Tiểu Thừa Ấn Độ có 20 
      bộ, Phật giáo trung Hoa có 13 bộ, Phật giáo Nhật Bản có 14 bộ: Those 
      founded on the principles having historic continuity, as the twenty sects 
      of Hinayana, the thirteen sects of China, and fourteen sects of Japan.
      
      b)       Một 
      người theo kiến giải của mình mà bình luận, phê phán tông chỉ của các tông 
      khác—Those arising from an individual interpretation of the general 
      teaching of Buddhism,
      
      ·        
      Theo lý thuyết của các giáo phán định, như những tông của 
      Ngài Vĩnh Minh: The sub-sects founded by Yung-Ming.
      
      ·        
      Căn cứ theo giáo thuyết đặc biệt của mình hay của các tông 
      phái đã được thừa nhận mà phán định, như Ngài Hoằng Pháp ở Nhật Bản: Those 
      based on a peculiar interpretation of one of the recognized sects, as the 
      Jodo-Shinshu founded by Shiran-shonin.   
      
      Tông Chỉ: Motto—The main thesis 
      or ideas. 
      
      Tông Cốt: Những yếu chỉ cốt lõi 
      của một tông phái—The bones or essential tenets of a sect.
      
      Tông Cửa: To batter the door 
      down. 
      
      Tông Cực: Giáo pháp căn 
      bản—Ultimate or fundamental principles.
      
      Tông Diễn Chân Dung: Thiền Sư 
      Tông Diễn Chân Dung (1640-1711)—Zen Master Tông Diễn Chân Dung—Thiền sư 
      Việt Nam, quê ở Phú Quân, Cẩm Giang, Bắc Việt. Ngài mồ côi cha từ thời thơ 
      ấu. Năm 12 tuổi, ngài xuất gia. Về sau ngài trở về độ bà mẹ già bằng cách 
      cho bà mẹ ở chùa công phu tu tập đến khi qua đời. Hầu hết cuộc đời ngài, 
      ngài chấn hưng và hoằng hóa tại Bắc Việt. Ngài thị tịch năm 1711—A 
      Vietnamese Zen Master from Phú Quân, Cẩm Giang, North Vietnam. He lost his 
      father when he was very young. When he was twelve years old, he left home 
      and became a monk. Later, he returned to his home town to save his mother 
      by allowing her to stay in the temple to cultivate until the day she 
      passed away. He spent most of his life to revive and expand Buddhism in 
      North Vietnam.   
      
      Tông Dụng: Nguyên tắc và thực 
      hành—Principles and their practices, or application.  
      
      Tông Gia: See Thiện Đạo (2).
      
      
      Tông Học: Học thuyết hay giáo 
      lý của một tông phái—The study or teaching of a sect. 
      
      Tông Khách Ba: Sumatikirti 
      (skt)—Người cải cách hệ thống Chùa bên Tây Tạng, vị sáng lập ra tông phái 
      áo vàng (Hoàng Giáo). Theo Tây Vực Tân Ký thì Tông Khách Ba sanh năm 1417 
      tại Tân Ninh, tỉnh Cam Túc, tông phái của ông được thành lập dựa trên sự 
      tinh chuyên giữ giới, để đối lại với sự biếng nhác của Hồng Giáo (phái áo 
      đỏ). Người ta cho rằng Tông Khách Ba là hậu thân của Văn Thù; người khác 
      lại cho rằng ông là hậu thân của Đức Phật A Di Đà—The reformer of the 
      Tbetan church, founder of the Yellow Sect. According to the New Record of 
      the Western Lands, Sumatikirti was born in 1417 in Hsin-Ning, Kan-Su. His 
      sect was founded on strict discipline, as opposed to the lax practices of 
      the Red Sect. He is considered to be an incarnation of Manjusri; others 
      say of Amitabha. 
      
      Tông Lâm Tế: Lin-Chi School—See 
      Lâm Tế Tông. 
      
      Tông Mật: Một trong năm vị tổ 
      của tông Hoa Nghiêm—Tsung-Mi, one of the five patriarchs of the Hua-Yen 
      (Avatamsaka) sect.  
      
      Tông Môn: 
      
      1)       Tên 
      của một tông phái: Name of a sect or school.
      
      2)       Tiếng 
      dùng để gọi Thiền tông hay tông phái tu tập bằng trực giác, trong khi các 
      tông phái khác được gọi là Giáo Môn hay những tông phái tu bằng giáo điển 
      được ghi lại—It refers to the Ch’an (Zen) or Intuitional schools, other 
      schools are called “Teaching Sects,” or those who rely on the written word 
      rather than on the “inner light.”
      
      Tông Nguyên: Giáo thuyết hay 
      giáo điển căn bản của một tông phái—The basic principles of a sect, or its 
      original cause of existence. 
      
      Tông Nghi: Nghi thức hay luật 
      lệ của một tông phái—The rules or ritual of a sect. 
      
      Tông Nghĩa: Giáo nghĩa của một 
      tông phái—The tenets of a sect.
      
      Tông Nhân Dụ: Ba chi chính 
      trong lập lượng. Đây là một từ ngữ thuộc luận lý, thí dụ ngọn đồi có lửa 
      là tôn hay mệnh đề; vì nó có khói, là nhân hay lý do. Tất cả những gì có 
      lửa là có khói, như một nhà bếp, và hễ cái gì không có lửa thì không có 
      khói như một cái hồ nước, đây là dụ—Three main branches in stating a 
      syllogism. This is a logical term, i.e., the hill is fiery (proposition); 
      because it has smoke (reason). All that has smoke is fiery like a kitchen, 
      and whatever is not fiery has no smoke like a lake (example). 
      
      1)       Tông: 
      Pratijna (skt)—Tôn—Mệnh đề—Proposition.
      
      2)       Nhân: 
      Hetu (skt)—Cause—Reason.
      
      3)       Dụ: 
      Udaharana or Drishtanta (skt)—Sự minh họa hay thí dụ—Illustration or 
      example. 
      
      Tông Phái: Sects (school or 
      dharma-door) of Buddhism. There are several sects in Buddhism:
      
      1)       Câu 
      Xá Tông: Giáo điển Vi Diệu hay Câu Xá Tông dựa trên Vi Diệu Câu Xá 
      Luận—Abhidharma or Kosa sect based on the Abhidharma-kosa-sastra Câu Xá 
      Luận)—See Câu Xá Tông. 
      
      2)       Thành 
      Thật Tông: Giáo điển dựa trên Thành Thật Luận—Satyasiddhi sect, based on 
      the Satyasiddhi-sastra (Thành Thật Luận).
      
      3)       Luật 
      Tông: Giáo điển dựa trên Luật Tạng—Vinaya or Discipline sect, based on the 
      Vinaya-pitaka—See Luật Tông.
      
      4)       Tam 
      Luận Tông: Giáo điển dựa trên Trung Quán Luận và Thập Nhị Môn Luận của 
      Ngài Long Thọ, cũng như Bách Luận của Ngài Aryadeva—The Three-Sastra Sect, 
      based on the Madhyamika-sastra (Trung Quán Luận) and Dvadasa-nikaya-sastra 
      of Nagarjuna, and Sata-sastra of Aryadeva.   
      
      5)       Niết 
      Bàn Tông: Thiên Thai—Giáo điển dựa vào Kinh Đại Bát Niết Bàn, được 
      Dharmaraksa dịch sang Hoa ngữ năm 423 sau Tây Lịch, sau nầy sáp nhập với 
      Tông Thiên Thai vì hai  tông phái nầy có nhiều chỗ tương đồng—Nirvana 
      sect, based on the Mahaparinirvana-sastra (Đại Bát Niết Bàn), which was 
      translated into Chinese by Dharmaraksa in 423 A.D.; later incorporated in 
      T’ien-T’ai, with which it had in common.  
      
      6)       Địa 
      Luận Tông: Giáo điển dựa vào Thập Địa Luận của Ngài Thế Thân Bồ Tát, được 
      Ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch sang Hoa ngữ năm 508 sau Tây Lịch, được Tông Hoa 
      Nghiêm hấp thụ và biến thành giáo điển của mình—Dasabhumika sect, based on 
      Vasubandhu’s work (ten stages of the bodhisattva’s path to Buddhahood), 
      which was translated into Chinese by Bodhiruci in 508 A.D., absorbed by 
      the Avatamsaka School. 
      
      7)       Tịnh 
      Độ Tông: Giáo thuyết dựa trên niềm tin Đức Phật A Di Đà trong cõi Tây 
      Phương Cực Lạc—Pure Land or Sukhavati sect (salvation through faith in 
      Amitabha into Western Paradise)—See Tịnh Độ Tông.
      
      8)       Thiền 
      Tông: Sơ Tổ Trung Hoa là Ngài Bồ Đề Đạt Ma, nhưng Thiền Tông Trung Quốc đã 
      có từ trước khi Ngài đến Trung Quốc—Dhyana, Meditative or Intuitive sect. 
      Its first patriarch in China was Bodhidharma, but it existed before he 
      came to China. 
      
      9)       Nhiếp 
      Luận Tông: Giáo điển dựa vào bộ Nhiếp Đại Thừa Luận của Ngài Vô Trước Bồ 
      Tát, được Paramartha dịch sang Hoa ngữ năm 563 sau Tây Lịch, sau được hấp 
      bởi Tông Hoa Nghiêm—Mahayan-samparigraha sect, later absorbed by 
      Avatamsaka sect (Hoa Nghiêm), based on the Mahayana-samparigraha sastra by 
      Asanga, translated by Paramartha in 563 A.D., subsequently absorbed by the 
      Avatamsaka sect.
      
      10)    Thiên 
      Thai Tông: Giáo điển dựa trên bộ Kinh Pháp Hoa. Đây là sự hoàn thành của 
      trường phái Trung Quán—Saddharma-pundarika sect, based on the 
      Saddharma-pundarika sastra or the Lotus of the Good Law. It is a 
      consummation of the Madhyamika tradition (Trung Quán Luận).
      
      11)    Hoa 
      Nghiêm Tông: Giáo điển dựa vào Kinh Hoa Nghiêm, được dịch sang Hoa ngữ năm 
      418—Avatamsaka sect, based on the Buddha-Avatamsaka sutra, or 
      Gandha-vyuha, translated into Chinese in 418.
      
      12)    Pháp 
      Tướng Tông: Giáo điển Du Già Sư Địa Luận, sau khi Ngài Huyền Trang trở về 
      từ Ấn Độ với bản dịch bộ luận nầy—Dharmalaksana sect, established after 
      the return of Hsuan-tsang from India and his translation of the important 
      Yogacarya works.  
      
      13)    Mật 
      Tông: Mantrayana (skt)—Esoteric school—Secret teachings—See Chân Ngôn 
      Tông, and Mật Tông.
      
      14)    Chân 
      Ngôn Tông: Các giáo lý và phương pháp tu tập của tông phái Phật giáo nầy 
      dựa trên ba phương thức quán tưởng: mạn đà la, mật chú, và thủ ấn—The 
      doctrine and practices of this sect of Buddhism based on three 
      meditational devices: the mandala, the mantra, and the mudra—See Mật Tông.
      
      
      Tông Phái Mật Tông: 
      Mantrayana—See Tông phái (13). 
      
      Tông Phái Nhật Bản: Buddhist 
      sects in Japan.
      
      (A)   Sự phát 
      triển Phật Giáo tại Nhật Bản—The development of Buddhism in Japan: Theo 
      Giáo sư P.V. Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm Phật Giáo, Nhật Bản từng 
      được gọi là vùng đất của Phật Giáo Đại Thừa. Dạng Phật Giáo nầy lúc đầu 
      phát triển mạnh ở Trung Hoa rồi đi dần đến Nhật Bản qua trung gian của 
      Triều Tiên. Sau đó Phật giáo ở Nhật Bản phát triển nhờ sự nỗ lực của các 
      tu sĩ Trung Hoa và Nhật Bản. Các học giả cho rằng Phật giáo xuất hiện lần 
      đầu tiên tại Nhật Bản vào năm 552 và đã đến từ Kudara, một trong những 
      vương quốc của Triều Tiên thời đó—According to Prof. P.V. Bapat in The 
      Twenty-Five Hundred Years of Buddhism, Japan has been called the land of 
      Mahayana Buddhism. This form of Buddhism originally flourished in China 
      and travelled to Japan via Korea. Thereafter Buddhism developed through 
      the efforts of both Chinese and Japanese monks. It is generally held by 
      Japanese scholars that Buddhism first made its appearance in the year 552 
      A.D., and that it came from Kudara, one of the kingdoms of Korea at that 
      time. 
      
      1)       Thời 
      kỳ du nhập—The period of importation: Từ thế kỷ thứ 6 đến thứ 7 sau Tây 
      Lịch. Đây là thời kỳ Asuka và Nara—From 6th century to 7th century A.D. 
      The Asuka and Nara period. 
      
      a)       Tại 
      Nhật Bản, đạo Phật xuất hiện chủ yếu qua sự thích ứng với Thần đạo, một 
      dạng tín ngưỡng bản địa của Nhật. Để đạt được mục đích nầy, các tu sĩ Phật 
      giáo chấp nhận việc thờ cúng tổ tiên , và để cho các vị thần của Thần Đạo 
      được xếp bên cạnh ảnh của Đức Phật, xem đó như những hiện thân của Đức 
      Phật. Theo cách nầy, đạo Phật mới có thể dần dần tự khẳng định giữa người 
      dân Nhật mà không loại bỏ thẳng thừng Thần Đạo của họ—The first 
      manifestations of Buddhism in Japan consisted chiefly in adapting it to 
      Shintoism, a native cult of Japan. For this purpose, Buddhist monks 
      accepted ancestor worship and admitted, side by side  with the Buddha’s 
      image, the gods of Shintoism on the ground that these represented the 
      various incarnations of the Buddha. In this manner Buddhism was able 
      gradually to establish itself among the common people without rejecting 
      Shintoism outright.   
      
      b)       Một 
      lợi thế quan trọng là khi đạo Phật lần đầu tiên xuất hiện ở Nhật Bản thì 
      đạo nầy cũng được giới thiệu đồng thời với nền văn hóa đã phát triển cao 
      độ của Trung Hoa. Phần lớn là do đặc thù văn hóa của mình mà đạo Phật được 
      chấp nhận bởi giai cấp quí tộc vốn là giai cấp trí thức ở Nhật vào thời 
      đó. Một khi đã được giai cấp quí tộc bảo trợ thì Phật giáo nhanh chóng lan 
      ra khắp nước. Nhiều hoàng đế Nhật ngày xưa đã theo đạo Phật và lấy kinh 
      điển Phật giáo làm nguyên tắc chủ đạo trong đời sống. Ông hoàng Shotoku 
      (574-621), quan Nhiếp Chánh của Nữ hoàng Suiko, đã cống hiến lớn cho Phật 
      giáo qua việc xây tu viện Horyuji và viết các luận giải về Tam Tạng. Thực 
      vậy, ông ta đã tạo cho Phật giáo ở Nhật Bản những gì mà vua A Dục đã làm 
      cho đạo nầy ở Ấn Độ hay những gì mà Constantine đã làm cho Cơ Đốc giáo ở 
      đế quốc La Mã—An important advantage was that when Buddhism first made its 
      appearance in Japan, it was introduced along with the highly developed 
      culture of China. It was largely because of its cultural character that 
      Buddhism was accepted by the aristocracy, which was the intellectual class 
      of Japan in those days. Once it was patronized by the aristocracy, 
      Buddhism rapidly spread throughout the country. Several emperors of 
      ancient Japan adopted Buddhism and accepted its tenets as their guiding 
      principles in life. Prince Shotoku (574-621 A.D.), Regent of Empress 
      Suiko, made a great contribution to Buddhism by founding the Horyuji 
      monastery and by writing commentaries on three scriptures. In fact, he did 
      for Buddhism in Japan what King Ashoka had done for it in India, and what 
      Constantine did for Christianity in the Roman Empire.
      
      c)       Vào 
      thời kỳ nầy có sáu tông phái được du nhập vào Nhật Bản từ Trung Quốc—In 
      those days, the sects introduced from China were six in number:  
      
      ·        
      Câu Xá Tông: The Abhidharma-Kosa School—See Câu Xá Tông. 
      
      ·        
      Tam Luận Tông: The Three Treatise School of the 
      Madhyamika—See Tam Luận Tông. 
      
      ·        
      Thành Thật Tông: The Satyasiddhishastra school—See Thành 
      Thực Tông.
      
      ·        
      Hoa Nghiêm Tông: The Avatamsaka school—See Hoa Nghiêm Tông.
      
      
      ·        
      Pháp Tướng Tông: The Dharmalaksana school—See Pháp Tướng 
      Tông. 
      
      ·        
      Luật Tông: The Vnaya school—See Luật Tông.
      
      2)       The 
      period of nationalization: Thời kỳ thứ hai của Phật giáo tại Nhật Bản bắt 
      đầu với sự thành lập của hai phái Thiên Thai và Chân Ngôn. Thiên Thai được 
      Saicho (767-822) sáng lập và Chân Ngôn được Kukai (774-835) sáng lập—The 
      second period of Japanese Buddhism began with the founding two new sects, 
      the T’ien-T’ai and the Shingon, by Saicho (767-822 A.D.) and Kukai 
      (774-835 A.D.), respectively. 
      
      a)       Mục 
      đích của viêc thành lập hai giáo phái nầy là quốc gia hóa các giáo lý của 
      đạo Phật để làm cho đạo nầy trở thành một tôn giáo của toàn thể mọi người. 
      Đồng thời, họ cũng nhằm đưa vào khuôn phép các tu sĩ Phật giáo trong các 
      tu viện cứ sống cách biệt với thế giới thường nhật. Đặc điểm nổi bật của 
      hai giáo phái nầy là chú trọng vào sự giải thoát tinh thần, nhưng cũng chú 
      trọng đến việc áp dụng giáo lý vào cuộc sống—Their object was to 
      nationalize Buddhist doctrines in order to make Buddhism a religion of the 
      common people. At the same time, they aimed at disciplining the monks in 
      Buddhist monasteries who kept aloof  from everyday world. The dominant 
      feature of these two sects is that they laid stress not merely on 
      spiritual salvation, but also on the fulfilment of the doctrine in this 
      world.
      
      b)       Do 
      các nỗ lực liên tục của các tu sĩ Thiên Thai và Chân Ngôn mà Phật Giáo 
      Nhật Bản đã được quốc gia hóa và dần dần được mọi người theo. Tuy nhiên, 
      còn có một số vấn đề cần phải giải quyết. Các giáo lý nầy vẫn còn quá cao 
      siêu, không dễ hiểu cho quảng đại quần chúng, những người nầy thường chỉ 
      muốn tin vào những điều mê tín gắn liền với các giáo lý. Hơn thế nữa, do 
      sự thay đổi của môi trường cùng với sự phổ biến của đạo Phật cho nên nhiều 
      người đã từ bỏ cuộc sống thường ngày để tìm sự yên tĩnh tinh thần trong 
      một thế giới cao xa—By the continuous efforts of both the T’ien-T’ai and 
      the Shingon monks, Buddhism became nationalized and gradually gained in 
      popularity. However, a number of problems remained to be solved. The 
      doctrines were still too scholarly to be easily understood by the common 
      people, who tended to accept only the superstitions attached to them. 
      Furthermore, as the environment changed with the spread of Buddhism, it 
      induced many people to give up this world in order to seek spiritual rest 
      in the world beyond.
      
      c)       Trong 
      thế kỷ thứ 10, đã có một phong trào Phật giáo mới nổi lên dưới dạng đức 
      tin vào Đức Phật A Di Đà. Nhiều người ngã theo đức tin nầy và họ chỉ việc 
      tụng niệm hồng danh Phật A Di Đà  với mục đích tái sanh ở miền Tịnh Độ. 
      Phong trào nầy đã làm nẩy sinh nhiều hệ phái mới biệt lập, cũng đặt nặng 
      đức tin vào Đức Phật A Di Đà—A new Buddhist movement arose in the tenth 
      century A.D. in the form of belief in Amitabha Buddha. Many people were 
      converted to this faith, and they simply recited the name of Amitabha 
      Buddha with the object of being reborn in his Pure Land. This movement was 
      followed by independent new sects which also emphasized belief in 
      Amitabha. 
      
      d)       Đặc 
      điểm chung của các hệ phái nầy được biểu hiện trong định nghĩa về đời sống 
      thế tục, trong những cố gắng để thuần khiết và đơn giản hóa về cả giáo lý 
      lẫn thực hành. Nhờ các đặc điểm trên mà các hệ phái nầy đã thu hút được 
      nhiều tín đồ trong số những tá điền, nông dân và quân nhân. Các hệ phái 
      mới  xuất hiện trong thế kỷ mười hai và mười ba gồm—The factors common to 
      these sects were to be found in the definition of laymanship and in the 
      efforts to purify and simplify both doctrine and practice. Owing to these 
      features, they were able to attract many followers from among the farmers, 
      peasants and warriors. The new sects, which arose during the twelfth and 
      thirteenth centuries, were as follows:
      
      ·        
      Phái Yuzunenbutsu do Ryonin (1072-1132) sáng lập: 
      Yuzunenbutsu founded by Ryonin (1072-1132 A.D.).
      
      ·        
      Phái Jodo do Honen (1133-1212) sáng lập:  Jodo founded by 
      Honen (1133-1212 A.D.).
      
      ·        
      Phái Jodo-Shin do Shinran (1173-1289) sáng lập: Jodo-Shin 
      founded Shiran (1173-1262 A.D.).
      
      ·        
      Phái Ji do Ippen (1239-1289) sáng lập: The Ji founded by 
      Ippen (1239-1289 A.D.).
      
      e)       Thời 
      kỳ Kamakura nẩy sinh các hệ phái mới, trùng hợp với sự thịnh vượng của chế 
      độ phong kiến ở Nhật Bản, có sự xuất hiện của hai hệ phái mới: The 
      Kamakura period, during which these sects came into being, coincided with 
      the rise of feudalism in Japan. It was also in this period that two new 
      sects made their appearance.
      
      ·        
      Thiền tông do Eisai (1141-1215) và Dogen (1200-1253) sáng 
      lập: The Zen introduced by Eisai (1141-1215 A.D.) and Dogen (1200-1253 
      A.D.). 
      
      ·        
      Nhật Liên Tông do Nhật Liên (1222-1282) sáng lập: The 
      Nichiren founded by Nichiren (1222-1282 A.D.). 
      
      ·        
      Hai phái nầy có chung đặc điểm với các tông phái Tịnh Độ vừa 
      kể trên phần (d), dù rằng có sự mâu thuẫn đáng kể trong các nguyên tắc của 
      họ. Một bên thì tin vào sự giải thoát qua tín ngưỡng vào quyền lực bên 
      ngoài vốn là triết lý cơ bản của Tịnh Độ tông, còn bên kia thì tin vào sự 
      giải thoát qua sự giác ngộ của chính mình, vốn là nền tảng của Thiền tông: 
      These two sects also shared the same characteristics as those of the Pure 
      Land sects, mentioned in (d), although there was a remarkable 
      contradiction in their principles. One believed in salvation through faith 
      in the power of others, the underlying philosophy of Pure Land Buddhism, 
      and the other in the dotrine of salvation through one’s own enlightenment 
      on which the Zen sect is based. 
      
      3)       Thời 
      kỳ nối tiếp—The period of continuation: Sau thời kỳ Kamakura, Phật giáo 
      Nhật không có sự phát triển nào đáng kể ngoài sự mở rộng của các hệ 
      phái—After  the Kamakura period, there was no significant development in 
      Japanese Buddhism other than the expansion of the various sects:
      
      a)       Trong 
      thời kỳ Edo (1603-1867), Phật giáo Nhật Bản có đủ tính chất quốc giáo dưới 
      sự che chở của chế độ Tướng Quân (Shogun) Tokugawa. Lý do chính là chánh 
      phủ muốn dùng Phật giáo để triệt hạ ảnh hưởng của Cơ Đốc giáo trong đời 
      sống của người dân Nhật. Trong thời kỳ nầy Phật giáo trở thành phổ biến  
      trong dân chúng đến nỗi vào cuối kỷ nguyên này thì các hoạt động của Phật 
      giáo diễn ra dưới dạng những nghiên cứu bác học, đặt nền móng cho các 
      nghiên cứu Phật giáo về sau nầy: During the Edo period (1603-1867 A.D.), 
      Buddhism acquired the character of a national religion in Japan under the 
      protection of the Tokugawa Shogunate. The main reason for this development 
      was that the government hoped thereby to undermine the influence of 
      Christianity upon the life of the Japanese people. In this period, 
      Buddhism became popular, so that towards the close of this era Buddhist 
      activities took the form of scholarly studies in Buddhism, which laid the 
      foundation of modern Buddhist studies..
      
      b)       Sau 
      thời kỳ phục hưng của Minh Trị vào năm 1868, Phật giáo không còn được che 
      chở và phải đối diện với nguy cơ mất đi sự hậu thuẫn của dân chúng do sự 
      đố kỵ của Thần Đạo đầy tính dân tộc. Cũng may là nguy cơ nầy không diễn ra 
      nhờ những nỗ lực của các tín đồ cả Tăng lẫn tục. Hơn nữa, sau đó chánh phủ 
      Nhật bảo đảm sự tự do tín ngưỡng theo Hiến pháp. Đồng thời các tu sĩ từng 
      nghiên cứu giáo lý đạo Phật bằng quan điểm khoa học cố gắng tìm ra một ý 
      nghĩa mới cho các giáo lý xưa. Nên biết trong thời kỳ nầy đã có những đoàn 
      truyền giáo từ Nhật đi đến tận châu Mỹ, Hạ Uy Di, cùng các xứ khác để 
      truyền bà đạo Phật theo tinh thần của những nghiên cứu mới nầy về đạo 
      Phật: Having lost its protector after Meiji Restoration in 1868 A.D., 
      Buddhism faced the risk of being deprived of public support on account of 
      the hostility of nationalistic Shintoism. Fortunately, this risk was 
      obviated by the efforts of both monks and laymen. Furthermore, the 
      government guaranteed freedom of religion under the Constitution. At the 
      same time, many monks who had investigated the doctrines of Buddhism 
      scientifically tried to find a new meaning in the old doctrines. It may 
      also be noted that some Buddhist missionaries went over to America, 
      Hawaii, and other countries to propagate Buddhism in the light of modern 
      studies in Buddhism.  
      
      (II)    Các 
      tông phái Phật giáo Nhật Bản—Japanese Buddhism sects: Như trên đã nói, 
      phần lớn các tông phái Phật giáo Nhật Bản đều từ trung Hoa đến, nhưng chỉ 
      một số còn giữ được tính chất Trung Hoa mà thôi. Tại Nhật Bản có khoảng 
      mười ba tông phái Phật giáo. Đó là Hoa Nghiêm, Luật tông, Pháp Tướng, Mật 
      tông, Tam Luận, A Tỳ Đạt Ma câu Xá, Thành Thật, vân vân, nhưng các tông 
      phái nầy đã có phần tàn lụi và ít tạo được ảnh hưởng riêng. Dưới đây là 
      một số tông phái vẫn còn phát triển—As mentioned above, most Buddhist 
      sects in Japan originally came from China, but only a few of them still 
      retained their Chinese character. The Buddhist sects in Japan are said to 
      be thirteen in number. They are the Avatamsaka (Kegon), the Vinaya 
      (Ritsu), the Dharmalaksana (Hosso), the T’ien-T’ai (Tendai), the Tantric 
      Buddhism (Shingon), the three-sastra school of Madhyamika, the 
      Abhidharma-kosa (Kusha), the Satyasiddhi-sastra (Jojitsi), etc., but they 
      are more or less extinct and have little independent influence. Here are 
      those that are still active:   
      
      (A)     Thiền 
      Phái Nhật Bản: Japanese Zen sects—See Thiền Phái Nhật Bản.
      
      (B)      Các 
      tông phái khác: Other sects:  
      
      1)       Phái 
      Nhật Liên: Nichiren sect—Một phái Phật giáo do Nhật Liên (1222-1282) sáng 
      lập. Các tín đồ phái Nhật Liên sùng mộ tụng “Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa 
      Kinh” hòa nhịp với tiếng trống mạnh mẽ của họ—A  Japanese Buddhist sect 
      founded by Nichiren (1222-1282). Nichiren believers devotedly recite “Namo 
      The Wonderful Law of the Lotus Sutra” to the vigorous accompanying of 
      their own drum-beating.  
      
      2)       Phái 
      Thiên Thai: Phái Tiên Thai Nhật Bản khởi đầu với Saicho (767-822). Sau khi 
      qua đời ông được biết như là Truyền Giáo Đại Sư, người đã mang giáo lý 
      phái nầy từ Trung Quốc về Nhật Bản vào năm 805. Giáo lý và phương pháp tu 
      tập của phái Thiên Thai chủ yếu đặc căn bản trên Kinh Pháp Hoa và sự phân 
      chia giáo lý của Phật thành Bát Giáo Ngũ Thời do Trí Giả Đại Sư sơ tổ 
      người Trung Hoa thiết lập—The Japanese T’ien-T’ai sect starts with Saicho 
      (767-822), posthumously known as Dengyo-Daishi, who brought the teachings 
      from China in 805. The T’ien-T’ai doctrine and practices are based chiefly 
      on the Lotus sutra and the division of the Buddha’s doctrines into Eight 
      Teachings and Five Periods as laid down by Chi-I, the Chinese founder—For 
      more information about the T’ien-T’ai, please see Thiên Thai Ngũ Thời Bát 
      Giáo. 
      
      3)       Phái 
      Tịnh Độ: Phái Tịnh Độ Nhật Bản được Đại Sư Pháp Nhiên sáng lập năm 
      1175—The Japanese Pure Land Sect was founded by a great monk named Honen 
      in 1175—For more information about the Pure Land sect, please see A Di Đà 
      in Vietnamese-English and Amita in Sanskrit/Pali-Vietnamese Sections. 
      
      Tông Pháp: Tông Thể—The body of 
      doctrine of a sect with five different names:
      
      1)        
      
      a)       Tự 
      Tính: Subject.
      
      b)       Sai 
      Biệt: Differentiation.
      2)
      
      a)       Hữu 
      Pháp: Thesis that acts.
      
      b)       Pháp: 
      The action. 
      3) 
      
      a)       Sở 
      Biệt: Thesis which is differentiated.    
      
      b)       Năng 
      Biệt: That which differentiates.
      4) 
      
      a)       Tiền 
      Trần: First statement.
      
      b)       Hậu 
      Trần: The following statement.
      5) 
      
      1)       Tông 
      Y: That on which the syllogism depends.
      
      2)       Diệc 
      Y: Both for subject and predicate. 
      
      Tông Phong: Phong cách của một 
      tông phái. Môn đồ Thiền tông đặc biệt tán dương vị tôn sư của tông phái 
      mình gọi là tông phong (phong cách truyền nối của các tổ sư thì gọi là 
      Thiền Phong)—The customs or traditions of a sect. In the Ch’an sect it 
      means the regulations  of the founder. 
      
      Tông Thắng: Một vị đệ tử của Tổ 
      Bồ Đề Đạt Ma, ỷ mình thông minh, cải lời Tổ dạy, đi đấu lý và biện luận 
      với con vua trong nước thời đó là Thái Tử Dị Kiến, rốt cuộc bị thảm bại 
      nhục nhã, buồn muốn nhảy xuống núi tự tận, may nhờ có Thiên Long Hộ Pháp 
      xuất hiện cứu vớt—Tsung-Sheng, a disciple of Patriarch Bodhidharma. Tsung 
      Sheng thought highly of his intelligence. He disobeyed the Patriarch and 
      went to compete and debate with Prince Di-Ch’ien of that country. As a 
      result, he lost the debate and felt so ashamed that he wanted to commit 
      suicide by jumping off a cliff. Luckily, he was comforted and saved by a 
      Dharma-Guardian.  
      
      Tông Thể: Tông Pháp—Thực thể 
      nghĩa lý của một tông phái—The body of doctrine of a sect—See Tông Pháp 
      and Nhân Minh. 
      
      Tông Thiên Thai: 
      Saddharma-pundarika sect—See Tông phái 10. 
      
      Tông Thiền: Dhyana or Zen 
      school—See Tông phái 8. 
      
      Tông Thuyết Câu Thông: Thông 
      suốt cả tông chỉ và thuyết pháp của bậc đại sư (tông thông: thông hiểu 
      tông chỉ hay tu tập thiền định giác ngộ triệt để; thuyết tông: thuyết pháp 
      an nhiên tự tại)—In doctrine and expression both thorough, a term applied 
      to a great teacher. 
      
      Tông Thừa: Giáo nghĩa và giáo 
      điển của các tông phái—The vehicle of a sect. 
      
      Tông Tịnh Độ: The Pure Land 
      sect—See Tông phái 7. 
      
      Tông Tổ: Vị sáng lập ra tông 
      phái—The founder of a sect or school. 
      
      Tông Trí: Giáo điển tối thượng 
      của tông phái—The ultimate or fundamental tenets of a sect, important 
      elements, or main principle. 
      
      Tông Tượng: Tông sư của một 
      tông phái người đã sáng lập ra giáo thuyết của tông phái (người đã khéo 
      thuyết pháp giúp thành tựu cho đệ tử, như người thợ đúc tượng dạy học 
      trò)—The master workman of a sect who founded its doctrines.
      
      Tông Y: Lý thuyết mà tông phái 
      dựa vào (Nhân Minh Học có ba chi, chi thứ nhất là  Tông Pháp gồm Tông thể 
      và Tông Y)—The method of proposition on which a sect depends.
      ** For more information, 
      please see Nhân Minh.
      
      Tông Yếu:  See Tông Trí. 
      
      Tống: 
      
      1)       Biếu: 
      To send—To give as a present. 
      
      2)       Hộ 
      tống: To escort—To give as a present.
      
      3)       Nhà 
      Tống bên Tàu từ năm 960 đến 1280: The Sung dynasty, 960-1280 A.D.
      
      4)       Tống 
      biệt: To see someone off. 
      
      5)       Tống 
      khứ: To drive out, or away.
      
      Tống Biệt: To see someone off. 
      
      
      Tống Cổ: To turn someone out of 
      the door. 
      
      Tống Đạt: To deliver—To serve.
      
      
      Tống Đế Vương: Vị chúa ngục thứ 
      ba trong thập điện ngục vương, cai quản “Hắc Thằng” địa ngục—The third of 
      the ten rules of Hades, who presides over the Kalasutra, the hell of black 
      ropes.
      
      Tống Giam: To imprison.
      
      Tống Khứ: To turn out—To expel.
      
      
      Tống Khứ quỷ: To cast out 
      devils. 
      
      Tống Nguyên Nhập Tạng Chư Đại Tiểu Thừa 
      Kinh: Bộ Kinh Tạng được nhận vào Kho Kinh Điển Trung Quốc từ Ấn 
      Độ, kể cả Tiểu lẫn Đại Thừa, vào thời Bắc Tống Nam Tống (960-1127 và 
      1127-1280 sau Tây Lịch) và thời nhà Nguyên (1280-1368 sau Tây Lịch)—Sutras 
      of the Hinayana and Mahayana admitted into the canon during the Northern 
      and Southern Sung 960-1127 and 1127-1280 A.D., and Yuan 1280-1368 A.D. 
      dunasties. 
      
      Tống Ra: To eject—To drive out 
      (away). 
      
      Tống Táng: Tiển đưa linh cửu 
      người chết đến mộ huyệt—To escort for burial; to escort the deceased, or 
      the departed to the grave. 
      
      Tống Tiền: To blackmail. 
      
      Tống Tửu: To offer wine. 
      
      Tống Vong: To escort or take 
      the departed to the grave. 
      
      Tổng: Sadharana (skt)—Cùng 
      nhau—Toàn thể—Altogether—Whole—General—All.  
      
      Tổng Báo Nghiệp: Quả báo chung 
      quyết định chủng loại và xứ sở mà người ta sanh vào (chúng sanh lục căn 
      đẹp xấu, mệnh thọ dài ngắn, giàu, nghèo, bệnh, khỏe, v.v. là biệt báo)—The 
      principal or integral direction of karma—General karma determining the 
      species, race, and country into which one is born (The particular relating 
      to one’s condition in that species, i.e. rich, poor, well, ill, etc.). 
      
      Tổng Biệt: Chung và 
      riêng—General and particular. 
      
      Tổng Cúng: Cúng dường hay thờ 
      hết thảy các vị Thần, đối lại với việc thờ phượng một vị Thần đặc biệt nào 
      đó—A general offer to all spirits, in contrast with specific worship. 
      
      Tổng Hợp (a): Integrated—(n): 
      Collection.
      
      Tổng Kết: Summarize—To 
      recapitulate. 
      
      Tổng Minh Luận: Tên khác của 
      Câu Xá Luận—Another name for Abhidharma Kosa. 
      
      Tổng Nguyện: Thệ nguyện chung 
      của chư Phật và chư Bồ Tát như Tứ Hoằng Thệ Nguyện và Thập Nguyện Phổ Hiền 
      Bồ Tát, đối lại với thệ nguyện riêng như 48 nguyện của Đức Phật A Di 
      Đà—Universal vows common to all Buddhas and Bodhisattvas, e.g. the four 
      magnanimous vows, and the ten great vows of Samantabhadra Bodhisattva; in 
      contrast with specific vows, e.g. forty-eight of Amitabha. 
      ** For more information, 
      please see Tứ Hoằng Thệ Nguyện, Mười Đại Nguyện Của Bồ Tát Phổ Hiền and Tứ 
      Thập Bát Nguyện in Vietnamese-English Section. 
      
      Tổng Số: Grand total. 
      
      Tổng Trì: Dharani (skt)—Niệm 
      lực có thể tổng nhiếp và trì giữ hết thảy các pháp (thiện ác) mà không thể 
      mất—Entire control or absolute control over good and evil passions and 
      influences. 
      ** For more information, 
      please see Đà La Ni in Vietnamese-English Section, and Dharani in 
      Sanskrit/Pali-Vietnamese Section. 
      
      Tổng Trì Môn: Pháp môn tổng 
      trì, tức là dùng niệm lực để thâu nhiếp và chấp trì chư pháp không để cho 
      mất—The esoteric or Tantric sects and methods.  
      ** For more information, 
      please see Tứ Chủng Tổng Trì. 
      
      Tổng Tướng: Tướng chung của hết 
      thảy các pháp hữu vi là vô thường vô ngã, đối lại với biệt tướng như cứng, 
      mềm, v.v.—Universal characteristics of all phenomena (impermanence, 
      non-ego), in contrast with specific characteristics (hard, soft, etc.).
      
      
      Tổng Tướng Giới: Giới chung cho 
      hết thảy mọi đệ tử Phật như Thập Giới, đối lại với giới riêng như 250 cho 
      Tỳ Kheo và 348 cho Tỳ Kheo Ni—The general commandments for all disciples, 
      i.e. the ten commandments, in contrast with the specific or complete 250 
      commandments for monks, or 348 for nuns (monastic rules)
      
      Tốp: Group.
      
      Tốt: Good. 
      
      Tốt Bụng: Kind (good)-hearted.
      
      
      Tốt Duyên: Happy marriage.
      
      Tốt Đẹp: Fine.
      
      Tốt Hơn: Better. 
      
      Tốt Lành: Good—Fine.
      
      Tốt Lộ Đa A Bán Na: 
      Srota-apanna (skt)—See Tứ Thánh Quả in Vietnamese-English Section, and 
      Srota-apanna in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section. 
      
      Tốt Lộ Đà A Bát Nang: 
      Srota-apanna (skt)—See Tứ Thánh Quả in Vietnamese-English Section, and 
      Srota-apanna in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section. 
      
      Tốt Mã: To have a good look 
      (appearance). 
      
      Tốt Phước: Fortunate—Happy. 
      
      Tốt Tiếng: 
      
      1)       
      Beautiful voice.
      
      2)       Good 
      reputation (name).
      
      Tột Bực: Highest degree. 
       
       
      
      TƠ
       
      
      Tơ Duyên: marriage bonds. 
      
      Tơ Hồng: Bond of marriage. 
      
      Tơ Lòng: Ties of affection. 
      
      Tơ Tưởng: To dream.
      
      Tơi Bời: To run away in 
      disorder. 
      
      Tơi Tả: In tatters—In rags.
      
      Tới: To attain—To come—To 
      arrive.
      
      Tới Bến: To reach the shore.
      
      Tới Cùng: To (till) the end.
      
      
      Tới Đất: Down to the ground.
      
      
      Tới Gần: To come near—To 
      approach—To come close. 
      
      Tới Lui: To frequent. 
      
      Tới Nơi: To arrive—To come. 
      
      Tới Tấp: Repeatedly. 
       
      
      Châm Ngôn Tục Ngữ—Precepts 
      and proverbs: 
      
      Danh vọng là hơi 
      thoảng qua, thịnh vượng thì có thời và giàu sang chẳng qua chỉ là ảo ảnh; 
      lắm kẻ hôm nay hớn hở, ngày mai lại nguyền rủa; duy có phẩm đức là trường 
      tồn bất biến: Fame is like vapor, prosperity an accident and riches take 
      swing; those who cheer today, may curse tomorrow; only one thing endures: 
      moral character.  
      Cười 
      người chớ khá cười lâu; cười người hôm trước hôm sau người cười: He who 
      laughs today may weep tomorrow.  
      Ác 
      giả ác báo (làm ác gặp ác): As the call, so the echo.  
      Ai 
      cũng có cái ngu của mình: Everyman has a fool in his sleeve.  
      Ai 
      làm nấy chịu: Who breaks, pays. 
       
      
      ---o0o---
      
       
      
            
            Mục Lục Tự điển Phật Học 
      Việt-Anh
      
            
      |
            A
            |
            Ba |
            Be | 
            Bi | 
            Bo | 
            Bu
            | Ca 
            
            | Ch
            
            
            | Co | 
            Cu
            | 
            D 
            
            | 
            
            Đa 
            
            | Đe | 
            Đi | 
            Đo | 
            Đu
            |
      
            
            | E 
            
            | 
            G
            |
            Ha | 
            He | 
            Hi | 
            Ho | 
            Hy
            | 
            I 
            
            | K
            | La | 
            Le | 
            Li | 
            Lo | 
            Lu | 
            Ly
            | 
      
            
            | 
            Ma 
            
            | Me | 
            Mi | 
            Mo | 
            Mu, My
            |Na 
            
            | Ne | 
      Ng | 
      Nh
      
            
            
            | Ni
            | No
            
            
            | Nu
            |
      
            
             | O
            | Pha |
      Phe
      | Phi |
      Pho |
      Phu
            | Q
            | R
            | S
            | Ta |
      Te |Tha 
      | Thă, Thâ | 
      
            
            | The |
      Thi |
      Tho |
      Thu |
      Ti |
      To |
      Tr |
      Tu |
      Ty
            |  U
            | V
            | X
            | Y|
            
             
      
      ---o0o---
      
      
      Mục Lục | 
      Việt-Anh | Anh -Việt |
      Phạn/Pali-Việt
      | Phụ Lục
      
      ---o0o---
      
Trình bày: Nhị 
Tường
Cập nhật: 1-4-2006