TỔ ĐÌNH MINH ĐĂNG QUANG
      
      PHẬT HỌC TỪ ĐIỂN
      
      
      BUDDHIST DICTIONARY
      
      
      VIETNAMESE-ENGLISH
      
      
      THIỆN PHÚC
       
      
      Ng 
       
      
      Nga: 
      
      Cao: High.
      
      Đói: Hungry. 
      
      Đòi hỏi: Demanding. 
      
      Con ngài của tằm: A moth. 
      
      Con ngỗng: Hamsa (skt)—A goose. 
      
      Nga Mi Sơn: Núi Nga Mi là một 
      trong bốn ngọn núi nổi tiếng ở phía tây huyện Nga Mi, thuộc tỉnh Tứ Xuyên. 
      Hai núi đối nhau như mày ngài (Tam Nga gồm Đại Nga, Trung Nga, Tiểu Nga, 
      chu vi khoảng 1000 dậm, gồm trên 40 thạch động lớn nhỏ)—O-Mei-Shan, or 
      Mount Omi, one of the four famous peaks in China, in Omi district,  
      Szech-Wan province. Two of its peaks are said to be like a moth’s 
      eyebrows.
      
      Nga Mi Tự: See Quang Tướng Tự.
      
      
      Nga Thú Đăng Hỏa: Con người 
      chạy theo dục vọng như những con thiêu thân phóng mình vào ánh đèn 
      vậy—Like a moth flying into the lamp, is man after his pleasures. 
      
      Nga Vương: Raja-hamsa (skt).
      
      
      Nga vương được so sánh với Đức Phật, trong 32 tướng tốt của Phật là tay 
      chân mạn võng tướng hay có tướng lưới đan (giữa các ngón chân và tay của 
      Đức Phật có màng lưới đan liền giống như chân của loài ngỗng: The 
      king-goose, leader of the flight, i.e. Buddha, one of whose thirty-two 
      marks is webbed hands and feet. 
      
      Tướng đi uy nghi của Đức Phật giống như loài ngỗng: The walk of a Buddha 
      is dignified like that of the goose. 
      
      Nga Vương Biệt Nhũ: Trong một 
      hợp chất nước và sữa, thì vua của loài ngỗng có thể chỉ uống chất sữa, còn 
      bỏ nước lại, dùng hình ảnh nầy đề ví với vị Bồ Tát chỉ thấm nhuần chơn lý 
      Phật và bỏ đi những thứ tạp nhạp khác—A king-goose is reputed to be able 
      to absorb the milk from a mixture of milk and water, leaving the water 
      behind, so with a bodhisattva and truth. 
      
      Nga Vương Nhãn: Dùng hình ảnh 
      vua của loài ngỗng biết phân biệt sữa và nước, để ví với học giả có Pháp 
      Nhãn biết chọn lựa sáng suốt—The eye of the king-goose, distinguishing 
      milk from water, used for the eye of the truth-discerner. 
      
      Ngà Ngà Say: To be slightly 
      drunk
      
      Ngaû: To incline—To lean. 
      
      Ngả Mình: To lie down. 
      
      Ngã: Atta (p)—Atman 
      (skt)—Ego—I—Me—Self—Myself. 
      
      Tôi—Của tôi—Cái của tôi—Cá nhân—Chủ tể của thân so với vị vua trị vì trong 
      một xứ—I, My, Mine—Personality—The master of the body, compared to the 
      ruler of the country.
      
      Ngoại đạo cho rằng ngã là thân ta, còn đạo Phật thì cho rằng Giả Ngã là sự 
      hòa hợp của ngũ uẩn, chứ không có thực thể (vô thường, và vô ngã)—The 
      erroneous ideas of a permanent self continued in reincarnation is the 
      sources of all ilusion. Bụ the Nirvana sutra definitely asserts a 
      permanent ego in the transcendental world, above the range of 
      reincarnation; and the trend of  Mahayana supports such permanence. Ego 
      composed of the five skandhas and hence not a permanent entity. It is used 
      for Atman, the self, personality. Buddhism take as a fundamental dogma, 
      i.e. impermanence, no permanent ego, only a temporal or functional ego. 
      The erroneous ida of a permanent self continued in reincarnation is the 
      souce of all illusion. 
      
      Ngã Ái: Yêu cái ta, yêu hay 
      chấp vào thực ngã, khởi lên với thức thứ tám—Self-love; the love of or 
      attachment to the ego, arising with the eighth vijnana.
      
      Ngã Ba La Mật: Ngã Ba La Mật là 
      một trong thứ được nói đến trong kinh Niết Bàn, là cái ngã siêu việt và tự 
      tại là thường, lạc, ngã, tịnh—The ego paramita in the four based on the 
      Nirvana sutra in which transcendental ego is sovereign, i.e. has a real 
      and permanent nature; the four are permanence, joy, personality, and 
      purity. 
      
      Ngã  (Nhân) Chấp: Atma-graha 
      (skt)—Chấp vào khái niệm của một cái ngã thật—Chấp vào Thường ngã—Chấp vào 
      cái ngã thường hằng chứ không phải là sự phối hợp của năm uẩn sanh bởi 
      nhân duyên—Holding to the concept of the reality of the  ego—Permanent 
      personality—The atman—Soul—Self—This holding is an illusion—The clinging 
      to the idea of self—The false tenet of a soul, or ego, or permanent 
      individual, that the individual is real, the ego an independent unit and 
      not a mere combination of the five skandhas produced by cause and effect 
      disintegrating. 
      
      Ngã Đẳng Mạn: Manatimana 
      (skt)—Ngã mạn cho rằng ta bằng những kẻ hơn ta, đây là một trong chín loại 
      ngã mạn—The pride of thinking oneself equal to those who surpass us, one 
      of the nine kinds of pride. 
      
      Ngã Điên Đảo: Phiền não vì cho 
      rằng ngã là có thực—One of the four inverted or upside-down ideas, the 
      illusion that the ego is real—The illusion that the ego has real 
      existence. 
      ** For more information, 
      please see Tứ Điên 
           Đảo. 
      
      Ngã Đức: Sức mạnh hay đức của 
      ngã được định nghĩa như là tự tại, khắc phục và giải thoát—Power or virtue 
      of the ego, the ego being defined as sovereign, master, free.
      
      Ngã Hữu: Ảo tưởng cho rằng cái 
      ngã là có thật—The ilusion that the ego has real existence. 
      
      Ngã Không: The non-reality of 
      the atman, the soul, the person. 
      
      Ngã Không: Chúng Sanh Không—The 
      emptiness of a self or egolessness—Nhân Không—Chúng sanh tuy hết thảy đều 
      có cái tâm thân do ngũ uẩn hòa hợp giả tạm mà thành, nhưng không có cái 
      thực thể thường nhất của mình, nên gọi là ngã không—Illusion of the 
      concept of the reality of the ego, man being composed of elements and 
      disintegrated when these are dissolved—See Vô Ngã.
      
      Ngã Không Chân Như: Giáo thuyết 
      Tiểu Thừa về “Ngã Không Chân Như.” Kỳ thật không có cái thực ngã—The 
      Hinayana doctrine of impersonality in the absolute, that in truth there is 
      no ego; this position abrogates moral responsibility.
      
      Ngã Kiến: Thân Kiến—Tà kiến cho 
      rằng thân tứ đại do ngũ uẩn hợp thành mà cho là thực, là thường trụ cố 
      định—False view that every man has a permanent lord within—Wrong view on 
      the existence of a permanent ego—The erroneous doctrine that the ego or 
      self composed of the temporary five skandhas, is a reality and permanent. 
      
      
      Ngã Liệt Mạn: Unamana (skt)—Sự 
      ngã mạn cho rằng ta không kém hơn kẻ hơn ta là bao, đây là một trong cửu 
      mạn—The pride of thinking myself not much inferior to those who far 
      surpass me, one of the nine kinds of pride.
      ** For more information, 
      please see Cửu Mạn.
      
      Ngã Lòng: To lose courage—To 
      lose heart—Discouraged—Disheartened.  
      
      Ngã Mạn: Asmimana (p)—Abhimana 
      or atma-mada (skt).
      
      Sự kiêu hãnh của tự ngã: Self-superiority—Self-sufficiency—Pride of self.
      
      
      Cậy vào cái ta mà khinh mạn hay kiêu ngạo người khác: Exalting self and 
      depreciating others—Self-intoxication or pride of self.
      
      Tính tự cao tự đại của cái ta: Ego-conceit—Egotism.  
      
      Ngã Mạn Cống Cao: Pride—The 
      pride of thinking oneself is superior to equals—Exalting self and 
      depreciating others—Egotism or overweening pride. 
      
      Ngã Mặn: See Khai Tố. 
      
      Ngã Ngã Sở: Tôi và cái của tôi 
      (thân ta và các sự vật ngoài thân ta nhưng thuộc về ta)—I and mine—The 
      self and its possession.
      
      Ngã Ngu: Sự ngu si của cái ngã, 
      hay sự chấp chặt vào ảo tưởng của một thực ngã—Ego ignorance, holding to 
      the illusion of the reality of the ego.
      
      Ngã Ngũ: Concluded—Settled. 
      
      Ngã Ngữ Thủ: Ngôn ngữ của kẻ mê 
      chấp đủ loại ngã kiến, gọi là ngã ngữ thủ, là một trong tứ thủ—The 
      attachment to doctrines or statements about the ego, one of the four kinds 
      of attchment. 
      ** For more information, 
      please see Tứ Thủ. 
      
      Ngã Nhân Tứ Tướng: Bốn tướng 
      ngã nhân—Four ejects of the ego in the Diamond sutra (Kinh Kim Cang):
      
      Ngã tướng: The appearance of ego—Nơi ngũ uẩn mà ảo chấp là có thực ngã nên 
      sanh lòng khinh khi người nghèo, kẻ ngu—The illusion that in the five 
      skandhas there is a real ego; thus creating the idea of looking down on 
      the poor, stupid and deluded.
      
      Nhân tướng: Human appearance—Chấp cái ngã là người khác hay đạo khác—The 
      ego of a man or that this ego is a man and different from beings of the 
      other paths—Man is different from other organisms.
      
      Chúng sanh tướng: Living beings appearance—Chấp ngã đưa vào ngũ uẩn mà 
      sanh—The ego of all beings, that all beings have an ego born of the five 
      skandhas—All the living are produced by the skandhas.
      
      Thọ giả tướng: The appearance of longevity—Chấp thọ mệnh một thời của cái 
      ngã, từ đó sanh ra chấp trước vào tướng sự và ao ước phúc lợi—Life is 
      limited to the organism—The ego has age, i.e. a determined or fated period 
      of existence, thus creating the idea of attaching all appearances and 
      desiring for welfare and profit.   
      
      Ngã Pháp: Ngã và pháp—The self 
      or ego and things. 
      
      Ngã Pháp Câu Hữu Tông: Độc Tử 
      Bộ—Ngã Pháp Câu Hữu Tông là một tông phái Tiểu Thừa cho rằng ngã và pháp 
      đều có thật—The school that regards the ego and things as real, the 
      Vatsiputriya school. 
      
      Ngã Quỷ: See Ngạ Quỷ. 
      
      Ngã Si: Ego-infactuation, 
      confused by the belief in the reality of the ego. 
      
      Ngã Sở: Attaniya or Atmaniya 
      (p)—Atmiya (skt)—Cái thuộc về của tôi hay cái do ta sở hữu—Mine—Belonging 
      to oneself. 
      
      Ngã Sở, Ngã Sở Hữu, Ngã Sở Sự:
      
      
      Ngã Sở: Cái ta có—Mine.
      
      Ngã Sỡ Hữu: Personal—Subjective.
      
      Ngã Sở Sự: Personal conditions, possessions, or anything related to the 
      self.  
      
      Ngã Sở Kiến: Tà kiến cho rằng 
      sự vật thuộc về ta, vì sự vật chỉ là giả hợp chứ không có thật—The 
      incorrect view that anything is really mine, for all things are but 
      temporal combinations.  
      
      Ngã Sở Tâm: Tâm nghĩ rằng nó là 
      chủ của vạn hữu—The mind that thinks it is owner of things.
      
      Ngã Sự: 
      
      Thân tôi: My body. 
      
      Chính tôi: Myself.
      
      Công việc của tôi: My affairs.
      
      Ngã Thắng Mạn: Adhimana 
      (skt)—Ngã mạn cho rằng ta hơn những kẻ ngang hàng với ta—The pride of 
      thinking onself superior to equals, one of the nine kinds of pride.
      ** For more information, 
      please see Cửu Mạn.
      
      Ngã Thất: “Ngã” chính là nhà 
      chứa đựng những khổ đau phiền não—The ego as the abode of all suffering.
      
      Ngã Thức: Atman-vijnana 
      (skt)—I-consciousness. 
      
      Ngã Tướng: Egoism—Ý niệm cho 
      rằng có thực ngã hay bất cứ ai tin rằng có thực ngã—The concept of the ego 
      as real or anyone who believes in a real ego.
      ** For more information, 
      please see Ngã Nhân 
           Tứ Tướng.   
      
      Ngã Tưởng: Tưởng nghĩ đến tự 
      ngã vì cho rằng tự ngã là có thực—Thought of self—The thought that the ego 
      has reality. 
      
      Ngã Xuống: To collapse  
      
      Ngạ: 
      Đói—Hungry—Famished—Starving. 
      Ngạ Quỷ: Pretas (skt)—Tiếng Phạn âm 
      là Tiết Lệ Đa, dịch là quỷ đói. Ngạ quỷ là một trong ba đường ác. Ngạ quỷ 
      là loại quỷ miệng như cây kim nhỏ, đến độ không thể ăn uống. Ngạ quỷ có 
      nhiều loại và tùy theo quả báo mà thọ khổ khác nhau. Người có chút phúc 
      đức thì chịu khổ ít, người khác ít phúc đức hơn thì không được ăn uống lại 
      phải chịu cực hình liên tục; có kẻ được làm chúa ngục cho Diêm Vương, lại 
      có kẻ phải lang thang trong chốn nhân gian, nhứt là lúc về đêm. Theo Tỳ 
      Kheo Khantipalo trong Đạo Phật Được Giải Thích, ngạ là luôn luôn cảm nhận 
      những khát ái không bao giờ thỏa mãn, và trong nấc thang tâm thức, ngạ quỷ 
      là loài chúng sanh ở dưới con người. Chúng sanh đi về cảnh giới ngạ quỷ do 
      bởi lòng tham. Hãy nghĩ đến những người cứ bám chặt vào tiền tài, vào 
      những sở hữu vật chất. Những người hà tiện, những người thích thú trong sự 
      thủ đắc các thứ nhiều hơn, tốt hơn, lớn hơn so với người khác; những người 
      như thế đang triển khai các yếu tố tâm thức mà nếu họ chấp chặt vào đó thì 
      chúng sẽ dẫn họ thác sanh vào loài ngạ quỷ—Hungry spirits, one of the 
      three lower destinies. They are also called needle-mouth ghosts, with 
      mouths so small that they cannot satisfy their hunger or thirst. They are 
      of varied classes, and are in differing degrees and kinds of suffering, 
      some wealthy and light torment, others possessing nothing and in perpetual 
      torment; some are jailers and executioners of Yama in the hells, others 
      wander to and fro amongst men, especially at night. According to Bikkhu 
      Khantipalo, “Hungry”  means experiencing constantly unsatisfied cravings, 
      and preta is a kind of being which is below man in the spiritual scale. 
      With greed, sentient beings some to the state of pretas. Think of peopl 
      whose attachments to money and material possessions are very strong. The 
      misers of this world are those who rejoice in having more, better and 
      bigger things than other people.Such people are developing factors of mind 
      which if they persist in them, will lead them to uprise among these hungry 
      ghosts.   
      
      Ngạ Quỷ Ái: Một trong hai loại 
      ái, hạng phàm phu ái trước ngũ dục như sự ham muốn của loài quỷ đói—Desire 
      as eager as that of a hungry ghost, one of the two kinds of love.
      ** For more information, 
      please see Nhị Ái.  
      
      Ngạ Quỷ Đạo: Con đường của ngạ 
      quỷ hay của những kẻ có nghiệp nhân ngạ quỷ, một trong lục đạo (địa ngục, 
      ngạ quỷ, súc sanh, a tu la, nhân và thiên)—The destiny of the hungry 
      ghosts, one of the six paths.   
      
      Ngạ Quỷ Giới: Thế giới của loài 
      ngạ quỷ, một trong thập giới—The realm of hungry ghosts, one of the ten 
      realms or states of existence.
      
      Ngạ Quỷ Thành: Thành trì của 
      loài ngạ quỷ—The city or region of the hungry ghosts—See Ngạ Quỷ Giới. 
      
      Ngạ Quỷ Thú: See Ngạ Quỷ Đạo.
      
      
      Ngạc Ngư: Cá sấu—An alligator. 
      
      
      Ngạc Nhiên: To be surprised 
      (astonished).
      
      Ngách: Back street. 
      
      Ngạch: 
      
      Bỗng nhiên: Suddenly. 
      
      Cái trán: The forehead.
      
      Con số cố định: A fixed number.
      
      Ngạch Cửa: Threshold of door.
      
      
      Ngạch Thượng Châu: Hạt châu kim 
      cương trên trán, ý nói mọi người đều có Phật tánh—The pearl on the 
      forehead, e.g. the Buddha-nature in every one. 
      
      Ngại: 
      
      Chướng ngại: Hindrance—A stumbling-block.
      
      Lo ngại: Hesitant—Worried. 
      
      Ngại Ngùng: To hesitate. 
      
      Ngán: To be sick of 
      (disgusted). 
      
      Ngàn: 
      
      Một ngàn: Thousand. 
      
      Núi rừng: Mountains and forests. 
      
      Ngạn: 
      
      Bờ sông: Kula (skt)—River bank—Shore.  
      
      Hoàn thành: Accomplished. 
      
      Ngạn Đạt Phược: Còn gọi là Càn 
      Thát Bà—See Gandharva in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section. 
      
      Ngạn Đầu: Bờ biển khổ—The shore 
      of the ocean of suffering. 
      
      Ngạn Ngữ: Proverb. 
      
      Ngạn Thọ: Cây mọc bên bờ sông, 
      nói về sự sống không chắc chắn—A tree on a river’s brink, life’s 
      uncertainty. 
      
      Ngạn Tông: Sư Ngạn Tông, người 
      gốc miền bắc Trung Quốc. Ông là một dịch giả và cũng là một nhà trước tác 
      nổi tiếng vào khoảng 557-610 sau Tây Lịch—Yen-T’sung, a famous monk, 
      native of Northern China, a translator and writer, about 557-610 A.D.   
      
      
      Ngạn Tung: Ngạn Tung là một vị 
      Tăng đời nhà Đường, ông là một dịch giả và cũng là một nhà trước tác, 
      nhưng không rõ vào khoảng thời gian nào—Yen-Ts’ung, a T’ang monk, 
      translator and writer, date unknown.  
      
      Ngang Bướng: Stubborn. 
      
      Ngang Hàng: Equal—To be on the 
      same rank (class). 
      
      Ngang Nhiên: Proudly—Haughty.
      
      
      Ngang Tàng: Unsubmissive. 
      
      Ngang Trái: Obstacles. 
      
      Ngạnh: Ương 
      ngạnh—Hard—Obstinate. 
      
      Ngạnh Nhu: Hard and soft. 
      
      Ngao Du: To travel. 
      
      Ngao Ngán: 
      Disgusted—Discouraged—Disappointed. 
      
      Ngạo Nghễ: Disdainful—Scornful.
      
      
      Ngay: Straight—Direct. 
      
      Ngay Lập Tức: Immediately—At 
      once. 
      
      Ngay Sau Khi: Soon after.
      
      Ngay Thật: 
      Sincere—Honest—Candid.  
      
      Ngày Cúng Cô Hồn: All Soul’s 
      Day.
      
      Ngày Lành: Lucky day. 
      
      Ngày Phật Thích Ca Xuất Gia: 
      Ngày Đức Phật Thích Ca xuất gia là ngày mồng tám tháng hai âm 
      lịch—Sakyamuni Buddha’s Leaving Home Day, the 8th day of the second month 
      Lunar calendar. 
      
      Ngày Xấu: Unlucky day. 
      
      Ngày Xưa: Formerly. 
      
      Ngắm Nhìn: To behold. 
      
      Ngăn Cản: See Ngăn ngừa. 
      
      Ngăn Nắp: Well-ordered.
      
      Ngăn Ngừa: To prevent. 
      
      Ngắn: Short. 
      
      Ngắt:
      
      Ngắt (cắt): To pick—To pluck.
      
      Ngắt đứt: To interrupt.
      
      Chán ngắt: Tiresome—Wearisome. 
      
      Ngặt: 
      Strict—severe—Stern—Dangerous—Difficult.  
      
      Ngặt Vì: Unfortunately. 
      
      Ngâm: To chant—To mutter—To 
      hum. 
      
      Ngâm Phúng: Ngâm Vịnh—To 
      intone—To repeat. 
      
      Ngâm Vịnh: See Ngâm Phúng. 
      
      Ngẫm Nghĩ: To reflect—To 
      meditate—To think. 
      
      Ngậm Câm: To hold one’s 
      tongue—To be silent. 
      
      Ngậm Đắng Nuốt Cay: To endure 
      hardships
      
      Ngậm Hờn: To keep (habour) a 
      resentment.
      
      Ngậm Miệng: To shut (close) 
      one’s mouth. 
      
      Ngậm Ngùi: To have 
      compassion—To pity. 
      
      Ngậm Oan: To bear injustice in 
      silence. 
      
      Ngậm Vành: To be grateful 
      forever. 
      
      Ngân: Rupya (skt). 
      
      Bạc—Silver.
      
      Tiền bạc: Money. 
      
      Ngân Sắc: Màu 
      bạc—Silver-colour. 
      
      Ngần Ngại: To hesitate. 
      
      Ngẩng Đầu: To hold up (raise) 
      one’s head. 
      
      Ngất Đi: To be unconscious.
      
      Ngật: 
      
      Ăn—To eat. 
      
      Chấm dứt: To finish—To end—To stop. 
      Ngật Khí La: Khakkhara (skt)—Cây gậy 
      của vị sư trụ trì—A beggar’s staff—An abbot’s staff.  
      Ngật Tố: Ăn chay—To eat vegetarian 
      food.  
      
      Ngẫu: 
      
      Ngẫu nhiên: Suddenly.
      
      See Ngẫu Tượng.  
      
      Ngẫu Ngộ: Sudden meeting. 
      
      Ngẫu Nhiên: 
      Suddenly—Unexpectedly. 
      
      Ngẫu Tượng: An idol—An image.
      
      Ngầy Ngật: To feel sick. 
      
      Ngoại Điển: Giáo điển thế 
      gian—Ordinary scriptures—Non-Buddhist scriptures. . 
      
      Ngoại Giáo: Non-Buddhist cults, 
      in contrast with Buddhism. 
      
      Ngoại Phàm: See Phàm Phu (2) 
      (b).
      
      Nghe: To hear. 
      
      Nghe Bóng Nghe Gió: To hear 
      vague rumours.
      
      Nghe Đồn: To hear a rumour. 
      
      Nghe Được: Hearable. 
      
      Nghe Lén: To listen secretly.
      
      
      Nghe Lóm: To overhear. 
      
      Nghe Lời: To obey. 
      
      Nghe Mang Máng: To hear 
      vaguely.
      
      Nghe Ngóng: To keep one’s ears 
      open. 
      
      Nghe Pháp: Listen to the 
      Dharma—If we listen to the Dharma teaching but don’t practice it, we are 
      like a spoon in a pot of soup. Every day, the spoon is in the pot but it 
      never knows the taste of the soup—Nếu chúng ta chỉ nghe Pháp mà không thực 
      hành Pháp, chúng ta cũng như cái muỗng trong nồi canh. Hằng ngày, cái 
      muỗng ở trong nồi canh, nhưng nó không bao giờ biết được vị của canh. Vì 
      thế cho nên chúng ta phải quán sát và hành thiền mỗi ngày. 
      
      Nghe Phong Phanh: To hear 
      vaguely. 
      
      Nghe Tin: To hear the news. 
      
      Nghe Văng Vẳng: To hear vaguely 
      in the distance. 
      
      Nghẽn: Obstructed—Blocked. 
      
      Nghẹn: Chocked. 
      
      Nhgẹn Ngào: To be chocked by 
      tears. 
      
      Nghèo: Poor. 
      
      Nghèo Đói: Poor—Poverty.
      
      Nghèo Khó: See Nghèo Đói. 
      
      Nghèo Khổ: Wretched—Needy. 
      
      Nghèo Nàn: Needy. 
      
      Nghèo Tiền: Poor in money. 
      
      Nghèo Tín Ngưỡng (Phật pháp): 
      Poverty of the religion. 
      
      Nghẹt: Blocked—Choked. 
      
      Nghề Hèn Mọn: Ignoble 
      trades—Những nghề mà một Phật tử nên tránh, bao gồm nghề xẻ thịt, săn bắn, 
      câu cá, đánh trận, làm vũ khí, bán chất độc, thuốc và rượu làm hại 
      người—Trades which a Buddhist should avoid, includes butchery, hunting, 
      fishing, warfare, weapon makers, dealers of poisons, drugs and drinks 
      which cause stupefaction and intoxication. 
      
      Nghề Lương Thiện: Honest 
      profession. 
      
      Nghênh: Nghênh tiếp—To go to 
      meet. 
      
      Nghênh Tiếp: Được Đức Phật A Di 
      Đà nghênh tiếp về Tây Phương Cực Lạc—To receive—To be received by Amitabha 
      into his Paradise.    
      
      Nghêu Ngao: To sing to oneself.
      
      
      Nghi: 
      
      Nghi lễ: Ceremony. 
      
      Nghi ngờ: Vicikitsa (skt)—Doubtful. 
      
      Uy nghi: Manner—Mode—Style. 
      
      Nghi Cái: Tánh hay nghi hoặc 
      che lấp mất tâm thức, khiến không thấy được chân lý, không thực hành được 
      thiện nghiệp, đây là một trong năm triền cái—The overhanging cover of 
      doubt, which prevents sentient beings from seeing and practicing good 
      deeds, one of the five covers or mental and moral hindrances. 
      ** For more information, 
      please see Ngũ 
           Triền Cái. 
      
      Nghi Chấp: The holding to 
      doubt. 
      
      Nghi Hoặc: 
      Doubtful—Suspicious—Uncertain—Doubt and delusion.  
      
      Nghi Hoặc Thô Thiển: Gross 
      doubt.
      
      Nghi Hoặc Vi Tế: Subtle doubt.
      
      Nghi Hối: To repent of doubt.
      
      
      Nghi Kết: Do nghi ngờ lý chân 
      đế, gây vô số vọng nghiệp, nên bị trói buộc vào tam giới không thoát ra 
      được—The bondage of doubt.
      
      Nghi Kiến: Sự nghi ngờ chân lý 
      Phật pháp gọi là nghi kiến, một trong thập tà kiến—Doubtful 
      views—Doubtfully to view, one of the ten wrong views. 
      ** For more information, 
      please see Thập Tà 
           Kiến in 
      Vietnamese-English Section. 
      
      Nghi Kỵ: To suspect—To 
      distrust. 
      
      Nghi Lễ: Rites—Rituals  
      
      Nghi Nan: To doubt—To suspect.
      
      
      Nghi Ngại: To worry—To 
      suspect—To doubt.   
      
      Nghi Nghĩa: Ambiguity. 
      
      Nghi Ngờ: To doubt—To suspect.
      
      
      Nghi Ngút: To emit thick smoke.
      
      Nghi Sử: Bị nghi hoặc sai khiến 
      mà lưu chuyển trong tam giới—The messenger, tempter, or lictor, of doubt.
      
      
      Nghi Tâm: Cái tâm luôn nghi 
      hoặc—Suspicious or dublious mind—A doubting heart.
      
      Nghi Thành Thai Cung: Vùng biên 
      địa quốc độ của Đức Phật A Di Đà có một tòa cung điện gọi là “Nghi Thành 
      Thai Cung,” nơi trú ngụ của những người đã vãng sanh mà trong lòng còn 
      nghi ngờ Đức A Di Đà. Họ sẽ ở đây 500 năm mà không nghe thấy Tam Bảo—The 
      palace womb for doubters outside Amitabha’s heaven, or those who call on 
      him but are in doubt of him (where all doubters of Amitabha) are confined 
      for 500 years until fit to enjoy his paradise (born into the Pure Land). 
      
      
      Nghi Thích: Cái gai hay chướng 
      ngại của nghi hoặc—The thorn of doubt. 
      
      Nghi Thức: Mode—Style—Manner.
      
      
      Nghi Tình Và Đại Ngộ: Inquiring 
      spirit and great enlightenment.
      
      Theo Thiền sư D.T. Suzuki trong Thiền Luận, Tập II, Cao Phong là người chủ 
      trương tu tập công án như vầy: “Công án tôi thường đặt cho các môn nhân là 
      ‘vạn pháp qui Nhất, Nhất qui hà xứ?’ Tôi khuyên họ hãy tham cứu câu nầy. 
      Tham cứu câu ấy tức là đánh thức một mối nghi tình lớn đối với ý nghĩa cứu 
      cánh của công án. Vạn pháp thiên sai vạn biệt được qui về Một, nhưng rồi 
      Một trở về đâu? Tôi bảo họ, hãy đem hết sức mạnh bình sinh mà đeo mỗi mối 
      nghi tình nầy, đừng lúc nào xao lãng. Dù đi, đứng, nằm, ngồi, hay làm các 
      công việc, đừng để thời giờ luống trôi qua. Rồi ra cái Một trở về đâu? Hãy 
      cố mà đi tìm một câu trả lời chính xác cho câu hỏi nầy. Đừng buông trôi 
      mình trong cái vô sự; đừng luyện tập tưởng tượng phiêu du, mà hãy cố thực 
      hiện cho được cái trạng thái toàn nhất viên mãn bằng cách đẩy nghi tình 
      lướt tới, bền bỉ và không hở. Rồi các ngươi sẽ thấy mình như một kẻ bịnh 
      ngặt, chẳng còn muốn ăn uống gì nữa. Lại như một thằng khờ, không hiểu cái 
      gì ra cái gì hết. Khi công phu đến đây, giờ là lúc tâm hoa của các ngươi 
      bừng nở.”—According to Zen master D.T. Suzuki in the Essays in Buddhism, 
      Book II, Zen master Kao-Feng-Yuan-Miao talked about the koans as follows: 
      “The koan I ordinarily give to my pupils is ‘All things return to One; 
      where does the One return?’ I make them search after this. To search after 
      it means to awaken a great inquiring spirit for the ultimate meaning of 
      the koan. The multitudiness of things is reducible to the One, but where 
      does the One finally return? I say to them: ‘Make this inquiry with all 
      the strength that lies  in your personality, giving yourself no time to 
      relax in this effort. In whatever physical position you are, and in 
      whatever business you are employed, never pass your time idly. Where does 
      the One finally return? Try to get a definite answer to this query. Do not 
      give yourself up to a state of doing nothing; do not exercise your 
      fantastic imagination, but try to bring about a state of identification by 
      pressing your spirit of inquiry forward, steadily and uninterruptedly. You 
      will be then like a person who is critically ill, having no appetite for 
      what you eat or drink. Again you will be like an idiot, with no knowledge 
      of what is what. When your searching spirit comes to this stage, the time 
      has come for your mental flower to burst out.”  
      
      Thiền Sư Cổ Âm Tịnh Cầm, vào khoảng cuối thế kỷ thứ 15, đã nói rõ về nghi 
      tình và đại ngộ như sau: “Công phu có thể được thực hành tốt đẹp nhất là ở 
      nơi không có tiếng động và tạp loạn: hãy dứt bỏ tất cả những điều kiện 
      quấy nhiễu, hãy dừng lại suy tư và nghĩ tưởng, để hết tâm chí vào việc 
      tiến hành công án, đừng bao giờ buông thả nó ra khỏi trung tâm của ‘thức,’ 
      dù khi đi, đứng, nằm hay ngồi. Đừng bao giờ quan tâm đến việc mình đang ở 
      trong cảnh ngộ nào, dù khi vừa lòng hay trái ý, mà luôn luôn hãy cố giữ 
      lấy công án trong lòng, phản quang tự chiếu, và tự hỏi ai là kẻ đang theo 
      đuổi công án chẳng biết mệt thế, và tự hỏi như vậy không ngớt. Cứ tiến 
      hành như thế, hết sức là hăng hái, nghi chính kẻ đang nghi, chắc chắn sẽ 
      đến lúc không còn nghi vào đâu được nữa, tuồng như các người đã đi đến 
      chính tận nguồn của dòng suối và thấy mình đang bị những ngọn núi vây hãm 
      chung quanh. Đây là lúc gốc cây cùng sắn bìm chằng chịt gẫy đổ, tức là khi 
      sự phân biệt chủ khách hoàn toàn bị xáo trộn, khi kẻ bị nghi và cái bị 
      nghi hòa hợp thành một khối duy nhất. Một khi thức tỉnh từ sự hợp nhất 
      nầy, thì cái ngộ lớn sẽ hiện đến—Zen master Ku-Yin-Ching-Ch’in, late in 
      the fifteenth century, has this saying regarding the inquiring spirit and 
      great enlightenment: “Searching and contriving (kung-fu) may best be 
      practised where noise and confusion do not reach; cut yourself off from 
      all disturbing conditions; put a stop to speculation and imagination; and 
      apply yourself wholeheartedly to the task of holding on to your koan, 
      never letting it go off the center of consciousness, whether you are 
      sitting or lying, walking or standing still. Never mind in what condition 
      you are placed, whether pleasing or disagreeable, but try all the time to 
      keep the koan  in mind, and reflect within yourself who it is that is 
      pursuing the koan so untiringly and asking you this question so 
      unremittingly. As you thus go on, intensely in earnest, inquiring after 
      the inquirer himself, the time will most assuredly come to you when it is 
      absolutely impossible for you to go on with your inquiry, as if you had 
      come to the very fountain of a stream and were blocked by the mountains 
      all around. This is the time when the tree together with the entwining 
      wistaria breaks down, that is, when the distinction of subject and object 
      is utterly obliterated, when the inquiring and the inquired are fused into 
      one perfect identity. Awakening from this identification, there takes 
      place a great enlightenment that brings peace to all your inquiries and 
      searchings.   
      
      Hòa Thượng Thiên Kỳ Thụy đã có lời khuyên về ‘nghi tình và đại ngộ’ như 
      sau: “Hãy gột sạch tâm khỏi tất cả  những khôn ngoan lừa lọc của thế gian, 
      hãy dứt ra khỏi mình những tham sân do ngã chấp, và đừng để những mối suy 
      nghĩ  nhị biên (phân hai) quấy phá, để cho tâm thức được lau chùi sạch sẽ. 
      Khi đã thanh lọc được như vậy rồi, hãy đề khởi công án trước tâm ‘Vạn pháp 
      qui Nhất, Nhất qui hà xứ?’ Hãy nghiền ngẫm vấn đề nầy từ thủy chí chung, 
      hoặc bằng nhiều nghi vấn, hoặc đơn độc một suy nghĩ, hoặc chỉ nghiền ngẫm 
      cái Một ở nơi đâu. Bất cứ bằng cách nào, cứ để cho hết thảy đầu mối của 
      các câu hỏi ghi đậm trên ý thức của các người, khiến cho nó trở thành cái 
      độc nhất là cái đích chú tâm. Nếu các người để phân biệt lý luận xen vào 
      chuỗi dây liên tục bền bỉ của những nghi tình, kết quả sẽ làm sụp đổ hết 
      cả công trình tu tập. Một khi các người chẳng được công án trước tâm, 
      chẳng có cơ duyên nào để chứng ngộ hết. Lúc đó sự tu tập thiền quán của 
      các người chẳng khác khác nào nấu cát mà muốn thành cơm. Cái cốt yếu bậc 
      nhất là khơi dậy cái đại nghi và gắng thấy cho được cái Một qui về đâu. 
      Lúc nghi tình được giữ linh hoạt liên tục, khiến cho những giải đãi, hôn 
      trầm, tán loạn không còn cơ hội móng khởi; không cầu tìm kiếm ráo riết, 
      rốt rồi thời cơ cũng sẽ đến, đây là lúc tâm hoàn toàn nhập định. Thế là dù 
      đi hay đứng, dù nằm hay ngồi mà không phải để ý hẳn vào những việc đang 
      làm ấy, cũng không hay biết mình đang ở đâu, đông hay tây, nam hay bắc; 
      quên luôn cả lục tình; ngày đêm như nhau cả. Nhưng đây chỉ là mới nửa 
      đường của ngộ, chứ chưa phải là ngộ hoàn toàn. Các người cần phải nỗ lực 
      kỳ cùng và quyết liệt để xuyên qua đây, một trạng thái siêu thoát  nơi đó 
      hư không sẽ bị đập vỡ thành từng mảnh và vạn hữu đều được qui về cái bình 
      đẳng toàn diện. Đấy lại như mặt trời ló dạng khỏi mây mù, thì các pháp thế 
      gian hay xuất thế gian đều hiện ra rõ rệt.”—Most Venerable 
      T’ien-Ch’i-Shui’s advice to students of Zen as follows: “Have your mind 
      thoroughly washed off of all cunning and crookedness, sever yourselves 
      from greed and anger which rise from egotism, and let no dualistic 
      thoughts disturb you any longer that your consciousness is wiped perfectly 
      clean. When this purgation is effected, hold up your koan before the mind 
      ‘All things are resolvable into the One, and when is this One resolved? 
      Where is it really ultimately resolved? Inquire into this problem from 
      beginning to end, several as so many queries, or undividedly as one piece 
      of thought, or simply inquire into the whereabouts of the One. In any 
      event, let the whole string of questions be distinctly impressed upon your 
      consciousness so as to make in the exclusive object of attention. If you 
      allow any idle thought to enter into the one solid uninterruptible chain 
      of inquiries, the outcome will ruin the whole exercise. When you have no 
      koan to be held before your minds, there will be no occasion for you to 
      realize a state of enlightenment. To seek enlightenment without a koan is 
      like boiling sands which will never yield nourishing rice. The first 
      essential thing  is to awaken a great spirit of inquiry and strive to see 
      where the One finally resolves itself. When this spirit is kept constantly 
      alive so that no chance is given to languor or heaviness or otioseness to 
      assert itself, the time will come to you without your specially seeking it 
      when the mind attains a state of perfect concentration. That is to say, 
      when you are sitting, you are not conscious of the fact; so with your 
      walking or lying or standing, you are not all conscious of what you are 
      doing; nor are you aware of your whereabouts, east or west, south or 
      north; you forget that you are in possession of the six senses; the day is 
      like the night, the vise-versa. But this is still midway to enlightenment, 
      and not enlightenment itself. You will have yet to make another final and 
      decided effort to break through this, a state of ecsatcy, when the vacuity 
      of space will be smashed to pieces and all things reduced to 
      perfectevenness. It is again like the sun revealing itself from behind the 
      clouds, when things worldly and super-worldly present themselves in 
      perfect objectivity.” 
      
      Thật vậy, chúng ta không đề khởi công án hiện tiền, mà phải đặt nó vào 
      trong tâm bằng tất cả sức mạnh của nghi tình. Một khi công án được chi trì 
      bởi một tinh thần như thế, thì theo Thiền Sư Đại Huệ, nó giống như một 
      ngọn lửa cháy lớn đốt cháy tất cả những con sâu hý luận đang xăm tới. Và 
      cũng chính vì vậy mà tất cả các Thiền sư đều đồng ý rằng ‘Trong sự tham 
      Thiền, điều trọng yếu nhất là giữ vững nghi tình; nghi tình càng mạnh, ngộ 
      càng lớn. Quả thực chẳng bao giờ có ngộ nếu không có nghi— In fact, we 
      can’t just hold up a koan before the mind, we must make it occupy the very 
      center of attention by the sheer strength of an inquiring spirit. When a 
      koan is cultivated with such a spirit, according to Zen master Ta-Hui, it 
      is like a great consuming fire which burns up every insect of idle 
      speculation that approaches it. Therefore, it is almost a common sense 
      saying among Zen masters to declare that , ‘In the mastery of Zen the most 
      important thing is to keep up a spirit of inquiry; the stronger the spirit 
      the greater will be the enlightenment that follows; there is, indeed, no 
      enlightenment when there is no spirit of inquiry.
      
      Nghi Vấn: A doubtful question.
      
      
      Nghỉ: To rest. 
      
      Nghĩ: 
      
      Suy nghĩ: To think. 
      
      Toan liệu: To estimate—To compare—To Guess—To adjudge—To decide—To Intend.
      
      
      Nghĩ Đến Phúc Lợi Của Tha Nhân: 
      To think of the welfare of others. 
      
      Nghĩ Lại: To think over. 
      
      Nghĩ Ngợi: To think—To 
      meditate—To ponder. 
      
      Nghĩ Thầm: To think inwardly.
      
      
      Nghĩ Tội: To judge a case. 
      
      Nghĩ Tưởng: Ideations. 
      
      Nghị Lực: Energy. 
      
      Nghị Quyết: Resolution. 
      
      Nghĩa: 
      
      Con kiến: Ant.
      
      Đỡ đầu: Foster (father, mother, brother, sister, son, daughter, etc).
      
      Đúng: Right—Proper—Righteous—Loyal. 
      
      Nghĩa lý: Artha (skt)—Meaning—Significance.  
      
      Nghĩa Bóng: Figurative sense 
      (meaning). 
      
      Nghĩa Cử: Good deed. 
      
      Nghĩa Dũng: Loyal abd 
      courageous. 
      
      Nghĩa Đà La Ni: Năng lực tổng 
      trì không để mất chân thực nghĩa của Như Lai, đây là hạnh tu của Bồ Tát là 
      giữ được tất cả những gì mà các ngài nghe—Truth dharani, the power of 
      bodhisattvas to retain all truth they hears. 
      
      Nghĩa Đen: Literal sense of a 
      word. 
      
      Nghĩa Hẹp: Narrow meaning 
      (sense). 
      
      Nghĩa Hiệp: 
      Chivalrous—Knightly. 
      
      Nghĩa Hoài Thiên Y: See Nghĩa 
      Hoài Thiền Sư. 
      
      Nghĩa Hoài Thiền Sư: Zen master 
      Yi-Huai-T’ien-Yi—Thiền sư Nghĩa Hoài Thiên Y sanh năm 993, quê ở Lạc 
      Thanh, tỉnh Triết Giang, con nhà chài lưới. Sau khi xuất gia, sư là đệ tử 
      của Thiền Sư Tuyết Đậu—Zen master Yi-Huai-T’ien-Yi was born in 993 in 
      Luo-Qing, Zhe-Jiang Province. He was the son of a fisherman. After leaving 
      home he became a disciple of Zen Master Xue-T'ou.
      
      Trong lần gặp gỡ đầu tiên, Tuyết Đậu hỏi: “Ngươi tên gì?” Sư thưa: “Tên 
      Nghĩa Hoài.” Tuyêt Đậu hỏi: “Sao chẳng đặt Hoài Nghĩa?” Sư thưa: “Đương 
      thời đến được.” Tuyết Đậu lại hỏi: “Ai vì ngươi đặt tên?” Sư thưa: “Thọ 
      giới đến giờ đã mười năm.” Tuyết Đậu hỏi: “Ngươi đi hành khất đã rách bao 
      nhiêu đôi giày?” Sư thưa: “Hòa Thượng chớ lừa người tốt.” Tuyết Đậu nói: 
      “Ta không xét tội lỗi, ngươi cũng không xét tội lỗi, ấy là sao?” Sư không 
      đáp được. Tuyết Đậu đánh, bảo: “Kẻ rỗng nói suông, đi đi!” Sư vào thất, 
      Tuyết Đậu bảo: “Thế ấy chẳng được, chẳng thế ấy cũng chẳng được.” Sư suy 
      nghĩ. Tuyết Đậu lại đánh đuổi ra. Như thế đến bốn lần—At their first 
      encounter, Xue-Tou said: “What is your name?” Yi-Huai-T’ian-Yi said: 
      “Yi-Huai.” Chong-Xian said: “Why isn’t it Huai-Yi?” (Reversing the order 
      of the two characters of this name creates the Chinese word ‘doubt’). 
      Yi-Huai said: “The name was given to me.” Chong-Xian asked: “Who gave you 
      this naem?” Yi-Huai said: “I received it at my ordination nearly ten years 
      ago.” Chong-Xian asked: “How many pairs of sandals have you worn out since 
      you set out traveling?” Yi-Huai said: “The master shouldn’ deceive 
      people!” Chong-Xian said: “I haven’ said anything improper. What do you 
      mean?” Yi-Huai remained silent. Chong-Xian then hit him and said: “Strip 
      off the silence and there’s a fraud! Get out!” Later when Yi-Huai was in 
      Chong-Xian’s room for an interview, Chong-Xian said: “Practicing like this 
      you won’t attain it. Not practicing like this you won’t attain it. This 
      way or not this way, neither way will attain it.” Yi-Huai began to speak 
      out Chong-Xian drove him out of the room with blows.  
      
      Hôm sau khi sư nhơn gánh nước, đòn gánh gẫy làm rơi cặp thùng. Sư đại ngộ, 
      làm bài kệ: 
      “Nhất 
      nhị tam tứ ngũ lục thất
      Vạn nhẫn 
      phong đầu độc túc lập
      Ly long 
      hàm hạ đoạt minh châu
      Nhất 
      ngôn khám phá Duy Ma Cật.”
      (Một hai 
      ba bốn năm sáu bảy
      Chót núi 
      muôn nhẫn một chơn đứng
      Dưới hàm 
      Ly Long đoạt minh châu
      Một lời 
      đủ phá Duy Ma Cật). 
      The next 
      day, while Yi-Huai fetched water from the well and carried it with a 
      shoulder pole back to the temple, the people suddenly broke. As the bucket 
      crashed to the ground Yi-Huai was suddenly enlightened. He then composed 
      the following verse that Xue-Tou greatly praise: 
      “One, 
      two, three, four, five, six, seven,
      Alone 
      atop the 80,000-foot peak,
      
      Anatching the pearl from the jaws of the black dragon,
      A single 
      exposes Vimalakirti.
      
      Sư thượng đường dạy chúng: “Phàm là Tông Sư (Thầy trong Thiền tông) phải 
      đọa trâu của kẻ đi cày, cướp thức ăn của người đói, gặp nghèo thì sang, 
      gặp sang thì nghèo, đuổi trâu của người đi cày khiến cho lúa mạ tốt tươi. 
      Cướp thức ăn của người đói khiến họ hằng dứt đói khát. Gặp nghèo thì sang 
      nắm đất thành vàng, gặp sang thì nghèo biến vàng thành đất. Lão Tăng cũng 
      chẳng đuổi trâu của người cày, cũng chẳng cướp thức ăn của người đói. Sao 
      gọi là trâu của người cày, ta nào cần dùng. Thức ăn của người đói, ta nào 
      muốn ăn. Ta cũng chẳng biến vàng thành đất. Sao vậy? Vì vàng là vàng, đất 
      là đất, ngọc là ngọc, đá là đá. Tăng là Tăng, tục là tục. Trời đất xưa 
      nay, nhật nguyệt xưa nay, núi sông xưa nay, con người xưa nay. Tuy nhiên 
      như thế, đập nát cái cổng mê sẽ gặp Đức Đạt Ma—Yi-Huai entered the hall 
      and addressed the monks, saying: “A distinguished teacher of our sect 
      said: “You must drive away the ox from the plowman, grab away the starving 
      man’s food, regard the mean as noble, and regard the noble as mean. If you 
      drive the ox away, then the plowman’ crop will be abundant. If you snatch 
      away the food, then you will forever end the starving man’s hunger and 
      thirst. Taking the mean as noble, a handful of dirt becomes gold. Taking 
      the noble as mean, you change gold into dirt.’ But as for me, I don’t 
      drive away the plowman’s food. Why is that? Moreover, I don’t turn a 
      handful of dirt into gold, or gold into dirt. And why is this? Because 
      gold is gold; dirt is dirt; jade is jade; stone is stone; a monk is a 
      monk; and a layperson is layperson. Since antiquity there have existed 
      heaven and earth, sun and moon, mountains and rivers, people and their 
      relationships. This being so, how many of the deluded can break through 
      the San Mountain Pass and meet Bodhidharma?” 
      
      Nghĩa Keo Sơn: Close 
      friendship. 
      
      Nghĩa Khí: Sense of justice.
      
      
      Nghĩa Kinh: The meaning of the 
      sutras.  
      
      Nghĩa Lệ: 
      
      Ý nghĩa và luật lệ: Meaning and rules, or method.
      
      Tên tắt của chỉ quán: An abbreviation for  “Samatha and Vipasyana”—See Chỉ 
      Quán. 
      
      Nghĩa Lý: Sense—Meaning. 
      
      Nghĩa Môn: Cổng vào Chánh 
      Nghĩa, hay những trường phái giảng giải chân thực nghĩa của Như Lai—The 
      gate of righteousness; the schools, or sects of the meaning or truth of 
      Buddhism. 
      
      Nghĩa Sâu Rộng: A deep and wide 
      meaning—Liberal sense.
      
      Nghĩa Sĩ: Righteous man. 
      
      Nghĩa Sớ: Meaning and comments 
      on or explanations. 
      
      Nghĩa Thanh Thiền Sư: Đầu 
      Tử—Zen Master Yi-Qing-T’ou-Tzi—Thiền sư Nghĩa Thanh Đầu Tử sanh năm 1032, 
      là Pháp tử của trường phái Tào Động, nhưng không phải là đệ tử trực tiếp 
      của Thiền Sư Đại Dương—Zen master Yi-Qing-T’ou-Tzi was born in 1032, was 
      the Xao-T’ong Zen school Dharma heir, but not the direct student of 
      T’a-Yang.
      
      Sư xuất gia năm lên bảy tuổi tại chùa Diệu Tướng. Thoạt tiên sư học Luận 
      Bách Pháp của Tông Duy Thức. Về sau sư nghe kinh Hoa Nghiêm, đến câu “Tức 
      tâm tự tánh,” sư liền phát tỉnh, nói: “Pháp lìa văn tự đâu có thể giảng 
      ư?” Sư bèn cất bước du phương qua các thiền hội—He left home at the age of 
      seven to live at Miao-Xiang Temple. Initially, he studied the “Hundred 
      Dharmas Doctrine” of the Consciousness-Only school of Buddhism. Later, he 
      undertook the practices of the Hua-Yen school, but upon reading the words 
      “Mind is self-nature,” he had an insight, saying: “Dharma is not found in 
      the written word, and how can one speak of it?” He then went traveling to 
      find and study under a Zen teacher. 
      
      Thiền Sư Viên Giám ở hội Thánh Nham, một đêm nằm mộng thấy có nuôi con 
      chim ưng sắc xanh, tỉnh giấc ông cho là một điềm lành. Đến sáng ngày ấy, 
      sư liền đi đến . Sư lễ ra mắt, Giám nhận cho ở và dạy khán câu “Ngoại đạo 
      hỏi Phật: ‘Chẳng hỏi có lời, chẳng hỏi không lời.’” Sư khán câu nầy trải 
      qua ba năm, một hôm Giám hỏi: “Ngươi ghi được thoại đầu chăng, thử nêu ra 
      xem?” Sư nghĩ đáp lại, bị Giám bụm miệng. Bỗng nhiên sư khai ngộ, bèn đảnh 
      lễ. Giám bảo: “Ngươi diệu ngộ huyền cơ chăng?” Sư thưa: “Nếu có cũng phải 
      mửa bỏ.” Lúc đó, thị giả ở bên cạnh nói: “Hoa Nghiêm Thanh ngày nay như 
      bệnh được ra mồ hôi.” Sư ngó lại, bảo: “Ngậm lấy miệng chó, nếu nói lăng 
      xăng, Ta buồn nôn.”  Sau đó ba năm, Giám đem tông chỉ của tông Tào Động 
      chỉ dạy, sư  đều diệu khế. Giám trao giày, y của Đại Dương Huyền và dặn 
      dò: “Ngươi thay ta nối dòng tông Tào Động, không nên ở đây lâu phải khéo 
      hộ trì.” Sau đó Giám nói kệ:
      “Tu Di 
      lập Thái Hư
      Nhật 
      nguyệt phụ nhi chuyển
      Quần 
      phong tiệm ỷ tha
      Bạch vân 
      phương y cải biến
      Thiếu Lâm 
      phong khởi tùng
      Tào Khê 
      động liêm quyện
      Kim Phụng 
      túc long sào
      Thần đài 
      khởi xa tiển.”
                   (Tu Di dựng 
      trong không,
                  Nhật nguyệt 
      cạnh mà chuyển  
                  Nhiều đảnh đều 
      nương y
                  Mây trắng mới 
      biến đổi
                  Thiếu Lâm gió 
      tòng tay
                  Động Tào Khê 
      cuốn sáo
                  Phụng vàng đậu 
      ổ rồng
                  Nhà rêu đậu xe 
      nghiền).
      At 
      that time, Zen master Yuan-Jian was staying at Sacred Peak. One night  he 
      saw a blue eagle in a dream and took it as an omen. The next morning, 
      T’ou-Tzi arrived and Yuan-Jian received him ceremoniously.  Now because a 
      non-Buddhist once asked the Buddha: “I don’t ask about that which may be 
      spoken of, and I don’t ask about what may not be spoken of… After three 
      years Yuan-Jian asked T’ou-Tzi: “Let’s see if you remember your 
      ‘hua-t’ou.’  T’ou-Tzi began to answer when Yuan-Jian suddenly covered 
      T’ou-Tzi’s mouth with his hand. T’ou-Tzi the experienced enlightenment. He 
      bowed. Yuan-Jian said: “Have you awakened to the mysterious function?” 
      T’ou-Tzi said: “Were it like that I’d have to spit it out.” At that time 
      an attendant standing to one side said: “Today Qing Hua-Yan (T’ou-Tzi) is 
      sweating as if he were ill!” T’ou-Tzi turned to him and said: “Don’t speak 
      insolently! If you do so again I’ll vomit!” After three more years, 
      Yuan-Jian revealed to T’ou-Tzi the essential doctrine passed down from 
      T’ong-Shan and T’ou-Tzi grasped it entirely. Yuan-Jian presented T’ou-Tzi 
      with T’a-Yang’s portrait, sandals, and robe. He then instructed him to 
      carry on the method of this school in my behalf, so that it will not end 
      here. Well and befittingly sustain and preserve it.” Yuan-Jian then wrote 
      a verse and presented to T’ou-Tzi:
      “Mt. 
      Sumeru stands in the greta void.
      It 
      supports the spinning sun and moon.
      Upon 
      its countless peaks do rest,
      The 
      white clouds there transformed.
      The 
      Shao-Lin wind sows a forest.
      The 
      Cao-T’ong screen rolled up.
      A 
      golden phoenix lives in a dragon’s nest.
      
      Imperial moss is crushed by a wagon.          
      
      Sư đến Viên Thông không thưa hỏi gì, chỉ ăn cơm xong rồi ngủ. Tri sự thấy 
      thế, bạch với Viên Thông: “Trong Tăng đường có vị Tăng cả ngày lo ngủ, xin 
      thực hành theo qui chế.” Viên Thông bảo: “Khoan! Đợi ta xét qua.” Viên 
      Thông cầm gậy đi vào Tăng đường, thấy sư đang nằm ngủ, Viên Thông gõ vào 
      giường, quở: “Trong đây tôi không có cơm dư cho Thượng Tọa ăn xong rồi 
      ngủ.” Sư thưa: “Hòa Thượng dạy tôi làm gì?” Viên Thông bảo: “Sao chẳng 
      tham thiền?” Sư thưa: “Món ăn ngon không cần đối với người bụng no.” Viên 
      Thông bảo: “Tại sao có nhiều người không chấp nhận Thượng Tọa?” Sư thưa: 
      “Đợi họ chấp nhận để làm gì? Viên Thông hỏi: “Thượng Tọa đã gặp ai rồi đến 
      đây?” Sư thưa: “Phù Sơn.” Viên Thông bảo: “Lạ! Được cái gì mà lười biếng.” 
      Viên Thông bèn nắm tay, hai người cười rồi trở về phương trượng.”—When 
      T’ou-tzi-Yi-Qing arrived at Yuan-Tong’s place, rather than going for an 
      interview with that teacher at the appointed time, he remained sleeping in 
      the monk’s hall. The head monk reported this to Yuan-Tong, saying: “There 
      is a monk who’s sleeping in the hall during the day. I’ll go deal with it 
      according to the rules.” Yuan-Tong asked: “Whi is it?” The head monk said: 
      “The monk Qing.” Yuan-Tong said: “Leave it be. I’ll go find about it.” 
      Yuan-Tong then took his staff and went into the monk’s hall. There he 
      found T’ou-Tzi-Yi-Qing in a deep sleep. Hitting the sleeping platform with 
      his staff, he scolded him: “I don’t offer any ‘leisure rice’ here for 
      monks so that they can go to sleep.” T’ou-Tzi-Yi-Qing woke up and asked: 
      “How would the master prefer that I practice?” Yuan-Tong said: “Why don’t 
      you try practicing Zen?” Yi-Qing said: “Fancy food doesn’t interest 
      someone who’s sated.” Yuan-Tong said: “But I don’t think you’ve gotten 
      there yet.” Yi-Qing said: “What point would there be in waiting until you 
      believe it?” Yuan-Tong said: “Who have you been studying with?” Yi-Qing 
      said: “Fu-Shan.” Yuan-Tong said: “No wonder you’re so obstinate!” They 
      then held each other’s hands, laughed, and went to talk in Yuan-Tong’s 
      room. From this incident Yi-Qing’s reputation spread widely. 
      
      Ban đầu Sư trụ trì tại Bạch Vân. Sau sư dời đến Đầu Tử. Sư thượng đường 
      dạy chúng: “Nếu luận việc nầy như loan phụng bay giữa hư không chẳng để 
      dấu vết, như con linh dương mọc sừng ai tìm được dấu chơn, rồng vàng chẳng 
      giữ đầm lạnh, thỏ ngọc đâu gá bóng cóc. Nếu lập chủ khách thì phải ngoài 
      cõi Oai Âm lay đầu, hỏi đáp nói bày vẫn còn ở giữa đường. Nếu đứng tròng 
      chẳng nhọc thấy nhau—T’ou-Tzi-Yi-Qing first taught on White Cloud Temple 
      in Jian-Chou. He later moved to the Sheng-Yin Monastery in Shu-Chou 
      (located on Mt. Qian) Zen master Yi-Qing entered the hall and addressed 
      the monks, saying: “To speak of this affair is like a phoenix soaring into 
      the heavens, not leaving a trace behind. It’s like a ram whose horns are 
      entangled in a tree, and thus does not touch the ground. Where will you 
      find any tracks? A golden dragon in not concealed in a cold swamp. A jade 
      rabbit nests in the moonlight. In order to establish the guest and host, 
      you must stick your head out beyond the noisy world. If you answer my 
      questions properly, you’re singing at the edge of the mysterious road. But 
      in that case, you’re still only halfway there. If you’re still staring in 
      miscomprehension, don’t belabor what you see!”  
      
      Năm 1083, lúc gần thị tịch, sư có làm bài kệ:
      “Lưỡng xứ 
      trụ trì
      Vô khả 
      trợ đạo
      Trân 
      trọng chư nhơn
      Bất tu 
      tầm thảo.”
             (Trụ trì hai nơi, 
      không thể giúp đạo
            Trân trọng các 
      ngươi, Chẳng cần tìm 
            thảo)—When Yi-Qing 
      was near death, he 
            composed a poem: 
            “As the abbot of two 
      temples,
            I couldn’t assist 
      the Buddha way.
            My parting message 
      to you all,
            Don’t go seeking 
      after something.”    
      
      Nghĩa Thú: Con đường chánh 
      đạo—The path of truth, the right direction, or objective. 
      
      Nghĩa Thuật: See Nghĩa Vệ. 
      
      Nghĩa Tịnh: Ngài Nghĩa Tịnh Tam 
      Tạng Pháp Sư (635-713), một vị sư nổi tiếng thời Đường. Khi ngài được mười 
      tuổi thì Huyền Trang trở về Trung Hoa, nhưng ngài đã tự chuẩn bị cho mình 
      một cuộc sống tu sĩ Phật Giáo. Ngài gia nhập giáo đoàn năm 14 tuổi. Tuy đã 
      nuôi ý định đi Ấn Độ từ năm 652, nhưng mãi đến khi 37 tuổi ngài mới thực 
      hành được ý định. Năm 671 ngài mới có thể bắt đầu dong buồm đi Ấn Độ, trải 
      qua hơn 25 năm, đi qua hơn 30 quốc gia; tuy nhiên, ngài dùng rất nhiều thì 
      giờ tại tu viện Na Lan Đà. Năm 695, ngài trở về Lạc Dương, Trung Quốc,  
      được tiếp đón nồng hậu và đầy vinh dự (người ta nói Thiên Hậu đã ra tận 
      cửa Thượng Đông để đón ngài). Ngài mang về hơn 400 bộ kinh. Đầu tiên ngài  
      hợp tác với Thực Xoa Nan Đà  (người nước Vu Điền) dịch Kinh Hoa Nghiêm. 
      Sau đó ngài còn dịch rất nhiều bộ kinh khác gồm 56 bộ kinh với 230 quyển. 
      Các cuộc hành trình của ngài không có sự đa dạng và chủ đích khoa học như 
      của ngài Huyền Trang, nhưng lại quan tâm nhiều đến con người. Trong chuyến 
      đi năm 671, ngài đã ở lại tám tháng tại Sumatra, sáu tháng tại Srivijaya, 
      một quốc gia vùng biển đang phát triển, nay là Palembang, và hai tháng tại 
      Mã Lai. Ngài lên bộ tại Tamralipti vào năm 673 và từ đó đi đến Ma Kiệt Đà 
      (Magadha), thánh địa hàng đầu, rồi đến chiêm bái Bodh-Gaya cùng các thánh 
      địa khác. Ngài lưu lại viện đại học Na Lan Đà mười năm, nghe bài giảng của 
      các bậc thầy về giáo pháp và thu thập kinh sách. Ngài rời Ấn Độ cũng bằng 
      ngã Tamralipta, sống bốn năm tại Srivijaya, trau dồi Phạn ngữ để sau nầy 
      dịch kinh sách. Vào năm 689, ngài trở lại Trung Quốc. Ngài đã để lại những 
      ký sự quý báu về “Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng” (Hồi Ký về Các Tu Sĩ Xuất 
      Chúng Đi Tìm Chánh Pháp ở Phương Tây), được Chavannes dịch sang Pháp ngữ. 
      “Ghi Nhận Về Đạo Phật Tại Ấn Độ và Quần Đảo Mã Lai,” được J. Takakusu dịch 
      sang Anh. Sách cho chúng ta một ý niệm khá rõ về sự sốt sắng tận tụy của 
      những người hành hương mà số lượng đông hơn ta tưởng, về tinh thần chấp 
      nhận hiểm nguy của họ. Thật vậy, đây là một chuỗi dài buồn thảm về các câu 
      chuyện đầy những biến cố lâm ly, cả trên bộ lẫn dưới biển. Nghĩa Tịnh đã 
      ngậm ngùi nói: “Tuy có thành công nhưng con đường đầy những gian nan. Vùng 
      Thánh địa thật quá xa vời và bao la. Trong số đông những người toan tính, 
      có mấy người đạt được kết quả thật sự, có mấy người hoàn thành được nhiệm 
      vụ của mình. Những sa mạc mênh mông đầy sỏi đá của vùng đất Voi (Ấn Độ), 
      những dòng sông lớn chói chang ánh mặt trời dội sức nóng thiêu đốt, hoặc 
      những vực sâu, những đợt sóng cao ngất. Khi đi trên bộ một mình bên kia 
      Thiết Môn giữa Samarquand và Bactria, người ta lạc vào giữa hàng ngàn ngọn 
      núi, dễ rơi xuống đáy vực từ những vách đá dựng đứng; khi đi thuyền đơn 
      độc bên kia trụ đồng (phía nam Tonkin) thì phải băng qua vô số vùng châu 
      thổ và có thể bị thiệt mạng. Vì thế cho nên trong số năm chục người ra đi 
      thì số sống sót trở về chỉ đếm trên đầu ngón tay.” Theo Nghĩa Tịnh, nhiều 
      tu sĩ Cao Ly, băng qua vùng Trung Á, hay đi đường biển, rất nhiều trong số 
      họ đã chết tại Ấn Độ, chứ không bao giờ được nhìn thấy lại xứ sở của mình. 
      Ngài thị tịch năm 79 tuổi—I-Ching, 635-713 A.D., the famous monk during 
      the T’ang dynasty, who was only about ten years old when Hsuan-Tsang 
      returned to China, but he had already prepared himself for the life of a 
      Buddhist monk. He was admitted to the Order when he was fourteen. Though 
      he formed the idea of travelling to India in 652, but he did not carry it 
      out till he was thirty-seven years old. In 671, he set out by the sea 
      route for India, where he remained for over twenty years, travelling over 
      30 countries; however, he spent half this period in the Nalanda monastery. 
      He returned to China (Lo-Yang) in 695, was received with much honour, 
      brought back some four hundred works, translated with Siksananda the 
      Avatamsaka Sutra, later translated many other works  (56 sutras comprised 
      of 230 books) and left valuable account of his travels and life in India. 
      His itineraries lack the variety and scientific interest of those of 
      Hsuan-Tsang, but they are full of human interest. On his outward voyage in 
      671, he spent eight months in Sumatra, six at Srivijaya, a rising maritime 
      State, now Palembang, and two months in Malaysia in the neighborhood. He 
      landed at Tamralipti in 673 and thence went to Magadha, the holy land and 
      worshipped at Bodh-Gaya and other sacred spots. He spent ten years at 
      Nalanda, hearing the teaching from different masters, and collecting holy 
      books. In 685, he left India, again by way of Tamralipti. He spent four 
      years in Srivijaya to learn more Sanskrit in order to translate sacred 
      works later on. In 689, he returned to China to fetch collaborators for 
      his work and after went back to stay at Srivijaya for another five years. 
      He finally returned to China in 695. One of I-Ch’ing’s works, A Record of 
      the Buddhist Religion as practised in India and the Malay Archipelago, has 
      been translated into English by a Japanese scholar, J. Takakusu. More 
      interesting in some ways are his Memoirs on the Eminent Monks who went in 
      Search of the Law in the Western Countries, which translated into French 
      by Chavannes. This gives us a fair idea of the earnestness and devotion of 
      the pilgrims whose numbers were large than we are apt to imagine and of 
      the spirit with which they braved the dangers of their enterprises.  It 
      is, in fact, a melancholy succession of tales, full of pathetic incidents 
      both on land and sea. I-Ch’ing remarks wistfully: “However, triumphal, the 
      path was strewn with difficulties; the Holy Places were far away and vast. 
      Of dozen who brought forth leaves and flowers, and of several who made an 
      attempt, there was scarcely one who bore any fruit or produced any real 
      results, and few who competed their task. The reason for this was the 
      immensity of the stony deserts of the Land of the Elephant (India), the 
      great rivers and the briliance of the sun which pours forth its burning 
      heat, or else the towering waves heaved up by the giant fish, the abysses, 
      and the waters that rise and swell as high as the heavens. When marching 
      solitary, beyond the Iron Gates between Samarquand and Bactria, one 
      wandered amongst the ten thousand mountains, and fell into the bottom of 
      precipices; when sailing alone beyond the Columns of Coper (south of 
      Tontkin), one crossed the thousand deltas over fifty in number, while 
      those who survive were only a handful of men." According to I-Ch’ing, 
      several Korean monks had gone to India, the majority across Central Asia, 
      some by the sea route; of them, I-Ch’ing says: “They died in India, and 
      never saw their country again. He died at age 79. 
      
      Nghĩa Tồn Tuyết Phong Thiền Sư: 
      Zen Master Xue-Feng-Yi-Cun—Thiền sư Nghĩa Tồn Tuyết Phong sanh năm 822 tại 
      Tuyền Châu (bây giờ thuộc tỉnh Phúc Kiến). Năm mười hai tuổi sư đến ở chùa 
      và xuất gia năm 17 tuổi—Zen Master Xue-Feng-Yin-Cun was born in 822 in 
      Quan-Chou (now Fu-Jian Province). He left home to stay at Yu-Jian temple 
      and became a monk at the age of seventeen.
      
      Tại Động Sơn, sư làm trưởng ban trai phạn (Phạn Đầu) đang đãi gạo. Khâm 
      Sơn hỏi: “Đãi cát bỏ gạo hay đãi gạo bỏ cát?” Sư đáp: “Gạo cát đồng thời 
      bỏ.” Khâm Sơn hỏi: “Như vậy đại chúng lấy gì ăn?” Sư bèn lật úp thau đãi 
      gạo. Khâm Sơn nói: “Cứ theo nhơn duyên nầy, huynh hợp ở Đức Sơn.”—Xue-Feng 
      served as a rice cook at T’ong-Shan. One day as he was straining the rice, 
      T’ong-Shan asked him: “Do you strain the rice out from the sand, or do you 
      strain the sand out from the rice?” Xue-Feng said: “Sand and rice are both 
      strained out at once.” T’ong-Shan said: “In that case, what will the monks 
      eat?” Xue-Feng then tipped over the rice pot. T’ong-Shan said: “Go! Your 
      affinity accords with Te-Shan!” 
      
      Sư đến tạm biệt Động Sơn, Động Sơn hỏi: “Ngươi đi đâu?” Sư thưa: “Đi về 
      trong đảnh núi.” Động Sơn hỏi: “Đương thời từ đường nào ra?” Sư thưa: “Từ 
      đường vượn bay đảnh núi ra.” Động Sơn hỏi: “Nay quay lại đường nào đi?” Sư 
      thưa: “Từ đường vượn bay đảnh núi đi.” Động Sơn bảo: “Có người chẳng từ 
      đường vượn bay đảnh núi đi, ngươi biết chăng?” Sư thưa: “Chẳng biết.” Động 
      Sơn hỏi: “Tại sao chẳng biết?” Sư thưa: “Y không mặt mày.” Động Sơn bảo: 
      “Ngươi đã chẳng biết, sao biết không mặt mày?” Sư không đáp được—When 
      Xue-Feng left Tong-Shan, Tong-Shan asked him: “Where are you going?” 
      Xue-Feng said: “I’m returning to Ling-Zhong. Tong-Shan said: “When you 
      left Ling-Zhong to come here, what road did you take?” Xue-Feng said: “I 
      took the road through the Flying Ape Mountain.”  Tong-Shan asked: “And 
      what road are you taking to go back there?” Xue-Feng said: “I’m returning 
      through the Flying Ape Mountains as well.” Tong-Shan said: “There’s 
      someone who doesn’t take the road through Flying Ape Mountains. Do you 
      know him?” Xue-Feng said: “I don’t know him.” Tong-Shan said: “Why don’t 
      you know him?” Xue-Feng said: “Because he doesn’t have a face.” Tong-Shan 
      said: “If you don’t know him, how do you know he doesn’t have a face?” 
      Xue-Feng was silent. 
      
      Sư cùng Nham Đầu đi đến Ngao Sơn ở Lễ Châu gặp tuyết xuống quá nhiều nên 
      dừng lại. Nham Đầu mỗi ngày cứ ngủ, sư một bề ngồi thiền. Một hôm, sư gọi 
      Nham Đầu: “Sư huynh! Sư huynh! Hãy dậy.” Nham Đầu hỏi: “Làm cái gì?” Sư 
      nói: “Đời nay chẳng giải quyết xong, lão Văn Thúy đi hành khất đến nơi 
      chốn, bị y chê cười, từ ngày đến đây sao chỉ lo ngủ?” Nham Đầu nạt: “Ngủ 
      đi! Mỗi ngày ngồi trên giường giống như thổ địa, ngày sau bọn ma quỷ nam 
      nữ vẫn còn.” Sư chỉ trong ngực nói: “Tôi trong ấy còn chưa ổn, không dám 
      tự dối.” Nham Đầu nói: “Tôi bảo ông sau nầy lên chót núi cất thảo am xiển 
      dương đại giáo, sẽ nói câu ấy.” Sư thưa: “Tôi thật còn chưa ổn.” Nham Đầu 
      bảo: “Nếu ông thật như thế, cứ chỗ thấy của ông mỗi mỗi thông qua, chỗ 
      phải tôi sẽ chứng minh cho ông, chỗ chẳng phải tôi sẽ vì ông đuổi dẹp.” Sư 
      thưa: “Khi tôi mới đến Diêm Quan, thấy thượng đường nói nghĩa sắc không, 
      liền được chỗ vào.” Nham Đầu nói: “Từ đây đến ba mươi năm rất kỵ không nên 
      nói đến.” Sư thưa: “Tôi thấy bài kệ của Động Sơn qua sông ‘Thiết kỵ tùng 
      tha mít, điều điều giữ ngã sơ, cừ kim chánh thị ngã, ngã kim bất thị cừ.’” 
      Nham Đầu nói: “Nếu cùng ấy tự cứu cũng chưa tột.” Sau sư hỏi Đức Sơn ‘Việc 
      trong tông thừa từ trước con có phần chăng?’ Đức Sơn đánh một gậy hỏi: 
      ‘Nói cái gì?’ Tôi khi đó giống như thùng lủng đáy.” Nham Đầu nạt: “Ông 
      chẳng nghe nói “Từ cửa vào chẳng phải của báu trong nhà.” Sư thưa: “Về sau 
      làm thế nào mới phải?” Nham Đầu bảo: “Về sau, nếu muốn xiển dương Đại 
      Giáo, mỗi mỗi từ trong hông ngực mình lưu xuất, sau nầy cùng ta che trời 
      che đất đi!” Sư nhơn câu ấy đại ngộ liền đảnh lễ, đứng dậy kêu luôn: Sư 
      huynh! Ngày nay mới là thành đạo ở Ngao Sơn.”  At that moment it was like 
      the botom falling out of a bucket of water.”—When Xue-Feng was traveling 
      with Yan-T’ou on Tortoise Mountain in Li-Chou Province, they were 
      temporarily stuck in an inn during a snowstorm. Each day Yan-T’ou spent 
      the entire day sleeping. Xue-Feng spent each day sitting in Zen 
      meditation. One day, Xue-Feng called out: “Elder Brother! Elder Brother! 
      Get up!” Yan-T’ou said: “What is it?” Xue-Feng said: “Don’t be idle. Monks 
      on pilgrimage have profound knowledge as their companion. This companion 
      must accompany us at all times. But here today, all you are doing is 
      sleeping.” Yan-T’ou yelled back: “Just eat your fill and sleep! Sitting 
      there in meditation all the time is like being some day figure in a 
      villager’s hut. In the future you’ll just spook the men and women of the 
      village.” Xue-Feng pointed to his own chest and said: “I feel unease here. 
      I don’t dare cheat myself  by not practicing diligently.” Yan-T’ou said: 
      “I always say that some day you’ll build a cottage on a lonely mountain 
      peak and expound a great teaching. Yet you still talk like this!” Xue-Feng 
      said: “I’m truly anxious.” Yan-T’ou said: “If that’s really so, then 
      reveal your understanding, and where it is correct I’ll confirm it for 
      you. Where it’s incorrect I’ll root it out.” Xue-Feng said: “When I first 
      went to Yan-Kuan’s place, I heard him expound on emptiness and form. At 
      that time I found an entrance.” Yan-T’ou said: “And then I saw Tong-Shan’s 
      poem that said: ‘Avoid seeking elsewhere, for that’s far from the Self, 
      now I travel alone, everywhere I meet it, now it’s exactly me, now I’m not 
      it.” Yan-T’ou said: “If that’s so, you’ll never save yourself.” Xue-Feng 
      said: “Later I asked De-Shan: ‘Can a student understand the essence of the 
      ancient teachings?’ He struck me and said: ‘What did you say?’ At that 
      moment it was like the bottom falling out of a bucket of water.” Yan-T’ou 
      said: “Haven’t you heard it said that ‘what comes in through the front 
      gate isn’t the family’s jewels?” Xue-Feng said: “Then, in the future, what 
      should I do?” Yan-T’ou said: “In the future, if you want to expound a 
      great teaching, then it must flow forth from your own breast. In the 
      future your teaching and mine will cover heaven and earth.” When Xue-Feng 
      heard this he experienced unsurpassed enlightenment. He then bowed and 
      said: “Elder Brother, at last today on Tortoise Mountain I’ve attained the 
      Way!”  
      
      Một vị Tăng hỏi: “Hòa Thượng thấy Đức Sơn được cái gì liền thôi?” Sư đáp: 
      “Ta đi tay không, về tay không.”—After Xue-Feng asumed the abbacy at Snow 
      Peak, a monk asked him: “When the Master was at Te-Shan’s place, what was 
      it you attained and allowed you to stop looking further?” Xue-Feng said: 
      “I went with empty hands and returned with empty hands.”  
      
      Sư hỏi vị Tăng mới đến: “Vừa rời chỗ nào đến?” Vị Tăng thưa: “”Phú Thuyền 
      đến.” Sư hỏi: “Biển sanh tử chưa qua, vì sao lại phú thuyền (úp thuyền)?” 
      Vị Tăng không đáp được, bèn trở về thuật lại cho Phú Thuyền. Phú Thuyền 
      bảo: “Sao không nói y không sanh tử.” Vị Tăng trở lại nói lời nầy. Sư bảo: 
      “Đây không phải lời của ông. Vị Tăng thưa: “Phú Thuyền nói thế ấy.” Sư 
      bảo: “Ta có 20 gậy gởi cho Phú Thuyền, còn ta tự ăn 20 gậy, chẳng can hệ 
      gì đến Xà Lê.”—Xue-Feng asked a monk: “Where have you come from?” The monk 
      said: “From Zen master Fu-Chuan’s place.” Xue-Feng said: “You haven’t 
      crossed the sea of life and death yet. So why have you overturned the 
      boat?" ”he monk was speechless. He later returned and told Zen master 
      Fu-Chuan about this. Fu-Chuan said: "W“y didn't you say ‘It is not subject 
      to life and death’?” The monk returned to Xue-Feng and repeated this 
      phrase. Xue-Feng said: “This isn’t something you said yourself.” The monk 
      said: “Zen master Fu-Chuan said this.” Xue-Feng said: : Isend twenty blows 
      to Fu-Chuan and give twenty blows to myself as well for interfering your 
      own affairs.”  
      
      Một hôm, sư ở trong nhà Tăng dóng cửa trước cửa sau xong nổi lửa đốt, lại 
      kêu: “Cứu lửa! Cứu lửa! Huyền Sa đem một thanh củi từ cửa sổ ném vào 
      trong. Sư bèn mở cửa—One day, Xue-Feng went into the monk’s hall and 
      started a fire. The he closed  and locked the front and back doors and 
      yelled “Fire! Fire!” Xuan-Sha took a piece of firewood and threw it in 
      through the window. Xue-Feng then opened the door. 
      
      Sư thượng đường dạy chúng: “Núi Nam có một con rắn mũi to, hết thảy các 
      ông đều phải khéo xem.” Trường Khánh bước ra thưa: “Hôm nay trong nhà này 
      có người tán thân mất mạng.” Vân Môn lấy cây gậy ném trước sư rồi ra bộ 
      sợ. Có người đem việc nầy thuật lại Huyền Sa. Huyền Sa nói: “Phải là Huynh 
      Lăng mới được. Tuy nhiên như thế, nếu ta thì chẳng vậy.” Vị Tăng hỏi: “Hòa 
      Thượng làm thế nào?” Huyền Sa nói: “Dùng núi Nam làm gì?”—Zen master 
      Xue-Feng entered the hall and addressed the monks, saying: “South Mountain 
      has a turtle-nosed snake. All of you here must take a good look at it.” 
      Chang-Qing came forward and said: “Today in the hall there and many who 
      are losing their bodies and lives.” Yun-Men then threw a staff onto the 
      ground in front of Xue-Feng and affected a pose of being frightened. A 
      monk told Xuan-Sha about this and Xuan-Sha said: “Granted that Chang-Qing 
      understands, still I don’t agree.” The monk said: “What do you say, 
      Master?” Xuan-Sha said: “Why do you need South Mountain?” 
      
      Sư thị tịch năm 908, được vua ban hiệu “Đại Sư Chơn Giác”—He died in 908. 
      After his death he received the posthumous title “Great Teacher True 
      Awakening.”           
      
      Nghĩa Tướng: Nghĩa lý và tướng 
      trạng—Meaning and form, truth and its aspect. 
      
      Nghĩa Vệ: Thuật để cứu đàn kiến 
      (tại một nơi ngập nước, đàn kiến bị nước cuốn trôi, có người lấy cành cây 
      bắc ngang qua cho chúng bò lên)—The duty and mode of saving lives of ants.
       
      
      Nghĩa Vô Ngại: Hiểu biết thông 
      đạt và giảng giải nghĩa lý chư pháp một cách trôi chảy không trở ngại, một 
      trong tứ vô ngại của chư Bồ Tát—Unonstructed knowledge of the meaning, or 
      the truth; complete knowledge, one of the four unobstructed eloquences of 
      Bodhisattvas.
      ** For more information, 
      please see Tứ Vô 
           Ngại.  
      
      Nghĩa Ý: Meaning and aim. 
      
      Nghịch: Vama (skt)—Chống lại 
      hay đối nghịch lại—To go against—Opposite—Contrary—Resist—In the opposite 
      direction.  
      
      Nghịch Báng: Chống báng lại—To 
      resist and abuse.
      
      Nghịch Cảnh: Adverse 
      circumstances—Adversity.  
      
      Nghịch Dụ: Phép dẫn dụ đi ngược 
      lại từ quả trở về nhân, từ ngọn về gốc, thí dụ như biển có nguồn là sông 
      to, sông to có nguồn là sông nhỏ, sông nhỏ có nguồn là suối, vân 
      vân—Argument by illustration from effect to cause, e.g. the source of the 
      ocean is the river, of the river the streams, of the small rivers the 
      streams, etc. 
      
      Nghịch Duyên: Bất thuận duyên, 
      đối lại với thuận duyên; thiện với Phật quả là thuận duyên, ác là nghịch 
      duyên (thuận với đường lối đạo Phật là thuận duyên, ngược với đường lối 
      đạo Phật là nghịch duyên)—Resisting accessory cause, in contrast with the 
      accordant cause (thuận duyên); as goodness is the accordant cause so evil 
      is the resisting cause of the Buddha way. 
      
      Nghịch Đức: Contrary to virtue.
      
      
      Nghịch Hóa: Khả năng của chư 
      Phật và chư Bồ Tát, giáo hóa những kẻ theo tà giáo hay những người đối 
      địch với mình—The ability of the Buddhas and bodhisattvas to convert the 
      heterodox or opponents. 
      
      Nghịch Lộ Già Da Đà: 
      Vama-lokayata (skt)—Lộ Già Da Đà là tên của một phái ngoại đạo thuận theo 
      tình đời. Nghịch Lộ Già Da Đà hay Tả Thuận Thế Ngoại Đạo, là phái chống 
      lại thuận thế ngoại đạo. Lộ Già Da Đà hay Thuận Thế là hạng vứt bỏ Thánh 
      thư của Lão Trang—The Lokayata were materialistic and “worldly” followers 
      of Carvaka school; the Vama-lokayata were opposed to the conventions of 
      the world. An earlier interpretation of Lokayata is, Ill response to 
      questions, the sophistical method of Chuang-Tsu being mentioned as Evil 
      questioning, which is above method reversed.  
      
      Nghịch Luân: Contrary to 
      morality—Immoral.
      
      Nghịch Lưu: 
      
      Tìm đường giải thoát khỏi những phiền trược bằng cách đi ngược lại dòng 
      đời—To resist it and seek a way of escape by getting rid of life’s 
      delusions. 
      
      Đi ngược lại dòng sanh tử luân hồi và nhập vào đạo quả Niết Bàn, giai đoạn 
      Thanh Văn hay thứ nhất của A La Hán: To go against the current (the stream 
      of transmigration and enter the path of nirvana), the first stage of the 
      arhat, that of a sravaka.  
      
      Nghịch Lý: Opposed (contrary) 
      to common sense.  
      
      Nghịch Mắt: To offend the eyes.
      
      Nghịch Ngợm: Restless. 
      
      Nghịch Nhĩ: To shock the ears.
      
      
      Nghịch Quán: Làm ngược lại với 
      thứ tự hay phương thức quán là nghich quán (thí dụ như quán thập nhị nhân 
      duyên thì không nương theo thứ tự vô minh, hành, thức, vân vân; mà lại đi 
      ngược từ tử, lão, bệnh, sanh, hữu, vân vân; hay là theo quả mà dò 
      nhân)—The inverse method in meditation. 
      
      Nghịch Thuận: Còn gọi là “Vi 
      Thuận.” Trái ngược với chân lý gọi là nghịch, thuận với chân lý là 
      thuận—The adversaties, resisting and complying, opposing and according 
      with, reverse or direct, backward or forward.  
      
      Nghịch Tu: Dự Tu—Những Phật sự 
      sau khi một người đã quá vãng—To observe in contrary order; to observe 
      before death the Buddhist rites in preparation for it. 
      
      Nghịch YÙ: Against one’s will.
      
      
      Nghiêm: 
      
      Nghiêm khắc: Strict.
      
      Nghiêm trọng: Severe—Grave.
      
      Nghiêm Cấm: To prohibit—To 
      forbid. 
      
      Nghiêm Cẩn: Solemn and careful.
      
      
      Nghiêm Chính: Severe—Strict.
      
      
      Nghiêm Đường: Father. 
      
      Nghiêm Đường Huấn Nữ Thập Giáo: 
      Trong Đức Phật và Phật Pháp, Đức Phật đã từng dạy rằng ngoài của hồi môn 
      rất quan trọng, và những món trang sức quý giá, người cha khôn ngoan còn 
      dạy con gái mười điều sau đây—In The Buddha and His Teaching, the Buddha 
      taught: “The marriage festival was conducted on an elaborate scale. On the 
      wedding day, in addition to a large dowry and an exquisitely rich 
      ornament, a wise father should also gave his daughter the following ten 
      admonitions:
      
      Không đem lửa trong nhà ra ngoài ngõ: Người vợ không bao giờ nên nói xấu 
      chồng và cha mẹ chồng với người ngoài. Cũng không nên đem chuyện xấu bên 
      nhà chồng mà thuật lại cho người ngoài, vì không có lửa nào tệ hại hơn lửa 
      nầy—Do not carry outside the indoor fire. A wife should never speak ill of 
      her husband and parents-in-law to others. Neither should their 
      shortcomings nor household quarrels be reported elsewhere, for there is no 
      fire that may be compared to this fire. 
      
      Không đem lửa ngoài ngõ vào nhà: Người vợ không nên nghe lời nói xấu của 
      người khác. Người vợ không nên đem những lời phỉ báng nghe được từ hàng 
      xóm, đem về kể lại và nói rằng: “Người nọ người kia đã nói xấu điều nầy 
      hay điều khác.” Không có lửa nào tệ hại hơn lửa nầy—Do not take inside the 
      outdoor fire. A wife should not listen to the reports and stories of other 
      households. In other words, a wife must not bring home the slander that 
      she has heard by saying: “So and so said this  or that unkind thing about 
      you.” There is no fire that may be compared to this fire.  
      
      Chỉ cho những người biết cho lại: Đồ trong nhà chỉ nên cho những người nào 
      mượn rồi biết trả lại—Give only to those that wish to return the give. 
      Things should be lent to those who do return borrowed articles. 
      
      Không cho những người không biết cho lại: Không nên cho những người mượn 
      đồ rồi giữ luôn chứ không chịu trả lại—Do not give to those that do not 
      deserve the give. No article should be lent to those who do not return 
      them (borrowed articles).  
      
      Đối với bà con bạn bè, thì phải cho cả hai, dù họ có biết trả lại hay 
      không: Give both to kinsmen and frinds that give and do not give. It is to 
      say, poor kinsfolk and friends should be helped even if they do not repay.
      
      
      Ngồi một cách an vui: Phải ngồi đúng chỗ thích nghi. Khi thấy cha mẹ chồng 
      đến phải đứng dậy để tỏ lòng kính trọng, chứ không được ngồi—Sit happily. 
      A wife should sit in a becoming way. On seeing her parents-in-law or her 
      husband, she should stand up as a sign of respect, and not remained 
      seated. 
      
      Ăn một cách an vui: Có nghĩa là trước khi ăn cơm phải coi có dọn đầy đủ 
      cho cha mẹ chồng và chồng chưa. Cũng phải coi chừng người làm trong nhà, 
      phải xem coi họ có được chăm sóc đầy đủ không—Eat happily means that 
      before partaking of her meals, a wife should first see that her 
      parents-in-law and husband are served. She should also see that her 
      servants are well cared for. 
      
      Ngủ một cách an vui: Nghĩa là trước khi đi ngủ phải quan sát nhà cửa, bàn 
      ghế. Cửa nẻo phải then gài cẩn thận. Phải xem coi những người làm trong 
      nhà có làm đủ bổn phận  của họ chưa, và cha mẹ chồng đã đi ngủ chưa. Thế 
      thường người vợ phải thức khuya dậy sớm. Trừ khi nào ốm đau bệnh hoạn, 
      không bao giờ ngủ ngày—Sleep happily means before sleeping, a wife should 
      see that all doors are closed, furniture is safe, servants have performed 
      their duties, and parents-in-law have retired. As a rule, a wife should 
      rise early in the morning and, unless unwell, she should not sleep during 
      the day.  
      
      Coi chừng củi lửa: Phải xem chồng và cha mẹ chồng như lửa. Mỗi khi có việc 
      với cha mẹ chồng và chồng phải nên hết sức thận trọng như phải thận trọng 
      với lửa vậy—Tend the fire. Parents-in-law and husband should be regarded 
      as flames of fire. One should deal carefully with them as one would deal 
      with fire.
      
      Tôn trọng các vị trời trong nhà: Cha mẹ chồng và chồng phải được tôn kính 
      như những vị trời trong nhà. Nên nhớ  Đức Phật thường nhắc đến cha mẹ 
      chồng như những vị trời trong nhà—Honour the household divinities. 
      Parents-in-law and husband should be regarded as divinities. It is 
      noteworthy that the Buddha himself refers to parents-in-law as divinities 
      deserving her respect.     
      
      Nghiêm Hình: Severe punishment.
      
      
      Nghiêm Khắc: To be very severe 
      (strict, stern, hard) with.
      
      Nghiêm Khiết: Liêm 
      khiết—Pure—Clean.
      
      Nghiêm Mệnh: strict order. 
      
      Nghiêm Minh: Severe and just.
      
      
      Nghiêm Nghị: Grave—Severe.
      
      Nghiêm Pháp: Severe or strict 
      laws. 
      
      Nghiêm Phạt: To punish 
      severely. 
      
      Nghiêm Phụ: See Nghiêm Đường.
      
      
      Nghiêm Sư: Severe or strict 
      master (teacher). 
      
      Nghiêm Sức: Alamkaraka 
      (skt)—Trang nghiêm—Gloriously adorned. 
      
      Nghiêm Tịnh: Trang nghiêm thanh 
      tịnh—Glorious and pure, gloriously pure. 
      
      Nghiêm Trang: 
      Solemn—Serious—Severe—Grave. 
      
      Nghiêm Trị: See Nghiêm Phạt.
      
      
      Nghiêm Trọng: Serious—Grave.
      
      
      Nghiêm Từ: Parents. 
      
      Nghiêm Vương: See Diệu Trang 
      Nghiêm Vương in Vietnamese-English Section. 
      
      Nghiễm Nhiên: All of a 
      sudden—By accident. 
      
      Nghiệm:
      
      Chứng nghiệm: Experience—Try—Test—Examine—To verify—To hold an inquest—To 
      come true—To verify.
      
      Hiệu nghiệm: Efficient.  
      
      Nghiệm Sinh Nhân Trung: Xem xét 
      coi một người sau khi chết sẽ tái sanh vào cảnh giới nhân, Thiên, hay địa 
      ngục, ngạ quỷ, súc sanh—An inquiry into a the mode of a person’s death, to 
      judge whether he will be eborn as a man, deva, and so on with the other 
      possible destinies such as hells, hungry ghosts, animals.  
      
      Nghiên Cứu: To examine—To 
      study. 
      
      Nghiền: To crush. 
      
      Nghiền Ngẫm: To ponder 
      (reflect) over something. 
      
      Nghiêng: Inclined—Sloping. 
      
      Nghiêng Mình: To bend—To 
      lean—To stoop. 
      
      Nghiêng Ngửa: Full of ups and 
      downs—Unstable.
      
      Nghiệp: Karma (skt)—Kamma (p)
      
      Ý nghĩa của Nghiệp—The meanings of Karma: Nghiệp là một trong các giáo lý 
      căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi  trong hiện tại của 
      chúng ta đều do nghiệp của quá khứ và hiện tại chi phối. Hễ nghiệp lành 
      thì được vui, nghiệp ác thì chịu khổ. Vậy nghiệp là gì? Nghiệp theo chữ 
      Phạn là ‘karma’ có nghĩa là hành động và phản ứng, quá trình liên tục của 
      nhân và quả. Luân lý hay hành động tốt xấu (tuy nhiên, từ ‘nghiệp’ luôn 
      được hiểu theo nghĩa tật xấu của tâm hay là kết quả của hành động sai lầm 
      trong quá khứ) xảy ra trong lúc sống, gây nên những quả báo tương ứng 
      trong tương lai. Cuộc sống hiện tại của chúng ta là kết quả tạo nên bởi 
      hành động và tư tưởng của chúng ta trong tiền kiếp.  Đời sống và hoàn cảnh 
      hiện tại của chúng ta là sản phẩm của ý nghĩ và hành động của chúng ta 
      trong quá khứ, và cũng thế các hành vi của chúng ta đời nay, sẽ hình thành 
      cách hiện hữu của chúng ta trong tương lai. Nghiệp có thể được gây tạo bởi 
      thân, khẩu, hay ý; nghiệp có thể thiện, bất thiện, hay trung tính (không 
      thiện không ác). Tất cả mọi loại nghiệp đều được chất chứa bởi A Lại Da và 
      Mạt Na thức. Chúng sanh đã lên xuống tử sanh trong vô lượng kiếp nên 
      nghiệp cũng vô biên vô lượng. Dù là loại nghiệp gì, không sớm thì muộn, 
      đều sẽ có quả báo đi theo. Không một ai trên đời nầy có thể trốn chạy được 
      quả báo—Karma is one of the fundamental doctrines of Buddhism. Everything 
      that we encounter in this life, good or bad, sweet or bitter, is a result 
      of what we did in the past or from what we have done recently in this 
      life. Good karma produces happiness; bad karma produces pain and 
      suffering. So, what is karma? Karma is a Sanskrit word, literally means a 
      deed or an action and a reaction, the continuing process of cause and 
      effect. Moral or any good or bad action (however, the word ‘karma’ is 
      usually used in the sense of evil bent or mind resulting from past 
      wrongful actions) taken while living which causes corresponding future 
      retribution, either good or evil transmigration (action and reaction, the 
      continuing process of cause and effect)—Our present life is formed and 
      created through our actions and thoughts in our previous lives. Our 
      present life and circumstances are the product of our past thoughts and 
      actions, and in the same way our deeds in this life will fashion our 
      future mode of existence. A karma can by created by body, speech, or mind. 
      There are good karma, evil karma, and indifferent karma. All kinds of 
      karma are accumulated by the Alayavijnana and Manas. Karma  can be 
      cultivated through religious practice (good), and uncultivated. For 
      Sentient being has lived through inumerable reincarnations, each has 
      boundless karma. Whatever kind of karma is, a result would be followed 
      accordingly, sooner or later. No one can escape the result of his own 
      karma. 
      
      Nghiệp và Quả Báo—Karmas and Recompenses: Như trên đã nói, nghiệp là sản 
      phẩm của thân, khẩu, ý, như hạt giống được gieo trồng, còn quả báo là kết 
      quả của nghiệp, như cây trái. Khi thân làm việc tốt, khẩu nói lời hay, ý 
      nghĩ chuyện đẹp, thì nghiệp là hạt giống thiện. Ngược lại thì nghiệp là 
      hạt giống ác. Chính vì vậy mà Đức Phật dạy: “Muốn sống một đời cao đẹp, 
      các con phải từng ngày từng giờ cố gắng kiểm soát những hoạt động nơi thân 
      khẩu ý chớ đừng để cho những hoạt động nầy làm hại cả ta lẫn người.” 
      Nghiệp và quả báo tương ứng không sai chạy. Giống lành sanh cây tốt quả 
      ngon, trong khi giống xấu thì cây xấu quả tệ là chuyện tất nhiên. Như vậy, 
      trừ khi nào chúng ta hiểu rõ ràng và hành trì tinh chuyên theo luật nhân 
      quả hay nghiệp báo, chúng ta không thể nào kiểm soát hay kinh qua một cuộc 
      sống như chúng ta ao ước đâu. Theo Phật Pháp thì không có thiên thần quỷ 
      vật nào có thể áp đặt sức mạnh lên chúng ta, mà chúng ta có hoàn toàn tự 
      do xây dựng cuộc sống theo cách mình muốn. Nếu chúng ta tích tụ thiện 
      nghiệp, thì quả báo phải là hạnh phúc sướng vui, chứ không có ma quỷ nào 
      có thể làm hại được chúng ta. Ngược lại, nếu chúng ta gây tạo ác nghiệp, 
      dù có lạy lục van xin thì hậu quả vẫn phải là đắng cay đau khổ, không có 
      trời nào có thể cứu lấy chúng ta—As mentioned above, karma is a product of 
      body, speech and mind; while recompense is a product or result of karma. 
      Karma is like a seed sown, and recompense is like a tree grown with 
      fruits.  When the body does good things, the mouth speaks good words, the 
      mind thinks of good ideas, then the karma is a good seed. In the contrary, 
      the karma is an evil seed. Thus the Buddha taught: “To lead a good life, 
      you Buddhists should make every effort to control the activities of your 
      body, speech, and mind. Do not let these activities hurt you and others.” 
      Recompense corresponds Karma without any exception. Naturally, good seed 
      will produce a healthy tree and delicious fruits, while bad seed gives 
      worse tree and fruits. Therefore, unless we clearly understand and 
      diligently cultivate the laws of cause and effect, or karma and result, we 
      cannot control our lives and experience a life the way we wish to. 
      According to the Buddha-Dharma, no gods, nor heavenly deities, nor demons 
      can assert their powers on us, we are totally free to build our lives the 
      way we wish. If we accumulate good karma, the result will surely be happy 
      and joyous. No demons can harm us. In the contrary, if we create evil 
      karma, no matter how much and earnestly we pray for help, the result will 
      surely be bitter and painful, no gods can save us.   
      
      Nghiệp đi vào tiềm thức như thế nào—How does karma enter the 
      Alaya-vijnana?: Khi chúng ta hành động, dù thiện hay ác, thì chính chúng 
      ta chứng kiến rõ ràng những hành động ấy. Hình ảnh của những hành động nầy 
      sẽ tự động in vào tiềm thức của chúng ta. Hạt giống của hành động hay 
      nghiệp đã được gieo trồng ở đấy. Những hạt giống nầy đợi đến khi có đủ 
      duyên hay điều kiện là nẩy mầm sanh cây trổ quả. Cũng như vậy, khi người 
      nhận lãnh lấy hành động của ta làm, thì hạt giống của yêu thương hay thù 
      hận cũng sẽ được gieo trồng trong tiềm thức của họ, khi có đủ duyên hay 
      điều kiện là hạt giống ấy nẩy mầm sanh cây và trổ quả tương ứng—When we 
      act, either good or bad, we see our own actions, like an outsider who 
      witnesses. The pictures of these actions will automatically imprint in 
      our  Alaya-vijnana (subconscious mind); the seed of these actions are sown 
      there, and await for enough conditions to spring up its tree and fruits. 
      Similarly, the effect in the alaya-vijnana (subconscious mind) of the one 
      who has received our actions. The seed of either love or hate has been 
      sown there, waiting for enough conditions to spring up its tree and 
      fruits. 
      
      Làm thế nào để chúng ta triệt tiêu nghiệp?—How do we eliminate karma?: Đức 
      Phật dạy nếu ai đó đem cho ta vật gì mà ta không lấy thì dĩ nhiên người đó 
      phải mang về, có nghĩa là túi chúng ta không chứa đựng vật gì hết. Tương 
      tự như vậy, nếu chúng ta hiểu rằng nghiệp là những gì chúng ta làm, phải 
      cất chứa trong tiềm thức cho chúng ta mang qua kiếp khác, thì chúng ta từ 
      chối không cất chứa nghiệp nữa. Khi túi tiềm thức trống rỗng không có gì, 
      thì không có gì cho chúng ta mang vác. Như vậy làm gì có quả báo, làm gì 
      có khổ đau phiền não. Như vậy thì cuộc sống cuộc tu của chúng ta là gì nếu 
      không là đoạn tận luân hồi sanh tử và mục tiêu giải thoát rốt ráo được 
      thành tựu—The Buddha taught: “If someone give us something, but we refuse 
      to accept. Naturally, that person will have to keep what they plan to 
      give. This means our pocket is still empty.” Similarly, if we clearly 
      understand that karmas or our own actions will be stored in the 
      alaya-vijnana (subconscious mind) for us to carry over to the next lives, 
      we will surely refuse to store any more karma in the ‘subconscious mind’ 
      pocket. When the ‘subconscious mind’ pocket is empty, there is nothing for 
      us to carry over. That means we don’t have any result of either happiness 
      or suffering. As a result, the cycle of birth and eath comes to an end, 
      the goal of liberation is reached.    
      
      Phân Loại Nghiệp—Categories of karma:
      
      Nhị Nghiệp: Two kinds of karma—Có hai loại nghiệp hoặc tốt hoặc xấu, hoặc 
      cố ý hoặc không cố ý—There are two kinds of karma: One is good and the 
      other is bad karma or intentional and unintentional karma—See Nhị Chủng 
      Nghiệp.
      
      Tam Nghiệp: Three kinds of karma—Có nhiều loại nghiệp, nhưng đại để có ba 
      loại: thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp—Three types of karmas: body 
      karma, speech karma, and mental karma—See Tam Nghiệp, and Tam Báo. 
      
      Tứ Nghiệp: Four kinds of karma—See Bốn Loại Nghiệp.
      
      Lục Nghiệp: Six kinds of karma—See Lục Đạo. 
      
      Thập Nghiệp: Thập ác và thập thiện—Ten evil actions and/or ten paths of 
      good action—See Thập Ác, and Thập Thiện Nghiệp in Vietnamese-English 
      Section.
      
      Nghiệp Ách: Những tai ách đời 
      nầy là hậu quả của nghiệp gây tạo trong đời trước—The constraints of 
      karma; i.e. restricted conditions now as resulting from previous life. 
      
      Nghiệp Ảnh: Nghiệp như bóng 
      theo sát hình—Karma-shadow, karma dogging one’s steps like a shadow.
      
      Nghiệp Báo: Quả báo sướng khổ 
      tương ứng với thiện ác nghiệp—Karma-reward; the retribution of karma (good 
      or evil).
      
      Nghiệp Báo Thân: Theo tông Hoa 
      Nghiêm, chư Bồ Tát vì thương sót chúng sanh mà hiện ra thân cảm thụ hay 
      nghiệp báo thân, giống như thân của chúng sanh để cứu độ họ—According to 
      the Hua-Yen sect, the body of karmaic retribution, especially that assumed 
      by a bodhisattva to accord with the conditions of those he seeks to save.
      **For more information, 
      please see Thập Thân 
           Phật.  
      
      Nghiệp Bất Thiện: Unwholesome 
      kamma—See Bất Thiện Nghiệp. 
      
      Nghiệp Bịnh: Bệnh nghiệp hay 
      bệnh gây ra do nghiệp của nhiều đời trước—Illness as the result of 
      previous karma. 
      
      Nghiệp Bộ: Bộ sổ ghi nghiệp của 
      chúng sanh được giữ bởi những vị “Cai Quản Nhân Quả” hay Minh Quan trong 
      địa ngục—The record or account book, believed to be kept by the rulers of 
      “Cause and Effect” or the rulers of Hades who record the deeds of all 
      sentient beings. 
      
      Nghiệp Cảm: Sự cảm ứng hay ảnh 
      hưởng của nghiệp (tùy thuộc vào nghiệp nhân thiện hay ác mà cảm thọ lạc 
      hay khổ)—The influence of karma; caused by karma. 
      
      Nghiệp Cảm Duyên Khởi: See 
      Duyên Khởi (I) (1). 
      
      Nghiệp Cảnh: Karma-mirror.
      
      Nghiệp Cận Tử: Asanna 
      (p)—Death-proximate karma—Theo A Tỳ Đạt Ma Luận (Vi Diệu Pháp), cận tử 
      nghiệp là điều gì mà ta làm hay nghĩ đến liền trước lúc lâm chung. Nếu một 
      người xấu mà nhớ lại hoặc được làm  một việc thiện trước lúc lâm chung, có 
      thể nhờ đó mà người ấy được tái sanh vào cảnh giới tốt (may mắn) hơn; 
      ngược lại, nếu một người tốt mà trước khi lâm chung lại nhớ đến một hành 
      động bất thiện của mình, người ấy có thể tái sanh vào một trạng thái bất 
      hạnh. Chính vì lý do quyết định tái sanh đó mà các xứ Phật Giáo có phong 
      tục nhắc nhở người sắp chết những hành động lành người ấy đã làm trong 
      đời, và tạo cơ hội cho người ấy tạo thiện nghiệp trước phút lâm chung. Khi 
      không có trọng nghiệp, và nghiệp cận tử được thành lập, thì nghiệp cận tử 
      sẽ giữ vai trò chính trong việc tái sanh. Điều nầy không có nghĩa là người 
      ấy sẽ trốn thoát được những nghiệp thiện ác đã tạo ra trong đời. Khi gặp 
      điều kiện thì những nghiệp thiện ác sẽ trổ quả tương xứng—According to the 
      Abhidharma, death-proximate karma is an action, or a potent karma 
      remembered or done shortly before death (dying moment), that is, 
      immediately prior to the last javana process. If a person of bad character 
      remembers a good deed he has done, or performs a good deed just before 
      dying, he may receive a fortunate rebirth; and conversely, if a good 
      person dwells on an evil deed done earlier, or performs an evil deed just 
      before dying, he may undergo an unhappy rebirth. For this reason, or its 
      significant in determining the future birth, in Buddhist countries it is 
      customary to remind a dying person of his good deeds or to urge him to 
      arouse good thoughts during the last moment of his life. When there is no 
      weighty karma, and a potent death-proximate karma is performed, this karma 
      will generally takes on the role of generating rebirth. This does not mean 
      that a person will espcape the fruits of the other good and bad deeds he 
      has committed during the course of life. When they meet with conditions, 
      these karmas too will produce their due results.  
      
      Nghiệp  Cấu: Sự uế nhiễm của 
      nghiệp—Karma defilement.  
      
      Nghiệp Chủ: Property owner. 
      
      Nghiệp Chủng: Karmabija 
      (skt)—Nghiệp sanh ra quả khổ lạc trong luân hồi sanh tử, giống như hạt 
      giống thế gian—Karma-seed which springs up in happy or in suffering 
      rebirth.  
      
      Nghiệp Chủng Tử: Karma-bija 
      (skt)—Karma-seed—See Nghiệp Chủng.
      
      Nghiệp Chướng: Karmavarana 
      (skt)—Những chướng ngại và ngăn trở do ác nghiệp gây ra làm ngăn cản bồ đề 
      (ác nghiệp ngăn cản chánh đạo)—The screen or hindrance of past karma which 
      hinders the attainment of bodhi (hindrance to the attainment of Bodhi, 
      which rises from the past karma).   
      
      Nghiệp Chướng Trừ: Dấu hiệu 
      đoạn trừ nghiệp chướng bằng lưỡi kiếm trí tuệ—A  symbol indicating the 
      cutting away of all karmaic hindrances by the sword of wisdom. 
      
      Nghiệp Cố Ý: Karma-vipaka 
      (skt)—Nghiệp gây tạo bởi sự cố ý, đối lại với nghiệp vô tình—Intentional 
      karma, in contrast with unintentional karma (karma-phala). 
      
      Nghiệp Duyên: Nhân duyên đem 
      lại hậu quả từ nơi nghiệp (thiện nghiệp là nhân duyên mang lại lạc quả, ác 
      nghiệp là nhân duyên mang lại khổ quả)—Karma-cause, karma circumstance, 
      condition resulting from karma. 
      
      Nghiệp Dư: Một trong tam dư, 
      chúng sanh tu hành (hạng nhị thừa) sau khi đã lìa khỏi sinh tử hay hữu lậu 
      nghiệp, vẫn còn lại vô lậu nghiệp có thể làm biến dịch sinh tử bên ngoài 
      ba cõi—A remnant of karma after the six paths of existence, one of the 
      three after death remainders.
      ** For more information, 
      please see Tam Dư.  
      
      Nghiệp Đạo: Một trong tam đạo 
      mà tất cả chúng sanh phải dẫm lên, việc xảy ra dù thiện hay dù ác đều dẫn 
      chúng sanh đi trong ba nẻo sáu đường—The way of karma; the path of works, 
      action or doing, either good or bad, productive of karma, one of the three 
      paths all have to tread on. 
      **For more information, 
      please see Tam Đạo 
           (A). 
      
      Nghiệp Đạo Thần: Vị Thần quan 
      sát những nghiệp gây tạo của chúng sanh—The gods who watch over men’s 
      deeds. 
      
      Nghiệp Điền: Khu ruộng nghiệp, 
      hay cuộc sống mà trong đó những chủng tử được gieo tạo cho những kiếp lai 
      sanh—The field of karma; the life in which the seeds of future harvests 
      are sown.  
      
      Nghiệp Hải: Ác nghiệp thì nhiều 
      vô số như đại dương sâu rộng—The vast, deep ocean of evil karma. 
      
      Nghiệp Hành: Những hành động 
      ảnh hưởng đến sự tái sanh trong tương lai—Deeds, actions; karma deeds, 
      moral action which influences future rebirth.
      
      Nghiệp Hệ: Hệ phược hay sự trói 
      buộc của nghiệp—Karma-bonds; karma-fetters
      
      Nghiệp Hệ Khổ Tướng: Trạng thái 
      khổ gây nên bởi sự trói buộc của nghiệp—The suffering state of karma 
      bondage. 
      
      Nghiệp Hỏa: Lửa dữ của ác 
      nghiệp hay lửa của địa ngục—The fires of evil karma; the fire of the 
      hells. 
      
      Nghiệp Hoặc: Nghiệp gây ra bởi 
      lòng nghi hoặc—The karma caused by doubt.
      
      Nghiệp Hữu: Reality of 
      karma—See Thất Chủng Hữu. 
      
      Nghiệp Kết: 
      
      Sự kết trói của nghiệp: The bond of karma.
      
      Nghiệp và sự kết trói của dục vọng:  Karma and the bond (of the passion).
      
      
      Nghiệp Khổ: Thọ quả khổ do tác 
      ác nghiệp (tạo tác ác nghiệp, nương vào ác nghiệp mà đắc quả khổ)—Karmaic 
      suffering. 
      
      Nghiệp Kim Cang: Karmavajra.
      
      
      Nghiệp Kính: Tấm gương nghiệp, 
      cõi u minh dùng để soi thiện ác nghiệp của chúng sanh—Karma-mirror, that 
      kept in Hades reveals all karma. 
      
      Nghiệp Luân: Bánh xe nghiệp có 
      luân chuyển chúng sanh luân hồi trong sáu nẻo—The wheel of karma which 
      turns men into the six paths of transmigration. 
      
      Nghiệp Lực: Nghiệp lực là sức 
      mạnh của nghiệp tạo ra quả lạc khổ (sức mạnh của thiện nghiệp sinh ra lạc 
      quả, sức mạnh của ác nghiệp gây ra khổ quả). Nghiệp lực ví như người chủ 
      nợ. Có nhiều thứ chủ nợ mạnh yếu khác nhau lôi kéo, nên khi lâm chung thì 
      thần thức của chúng ta bị chủ nợ nào mạnh nhứt lôi kéo trước tiên—The 
      power of karma is the strength of karma which produces good or evil fruit. 
      Karmic power is the strength of karma. It is similar to a debt collector. 
      There are many different strong and weak debt collectors. When we die, our 
      consciousness will be taken by the strongest and greatest debt collector.
      
      
      Nghiệp Lực Không Kiêng Nể Một Ai, Dù Tài 
      Trí Hay Đần Độn: The power of karma  respect  nobody, the 
      talented or the dull. 
      
      Nghiệp Ma: Karma-maras (skt)—Ma 
      hay ác nghiệp luôn theo chúng sanh quấy rối và ngăn cản việc tu hành và 
      làm hại thiện đạo—The demons who or the karma which hinders and harms 
      goodness.  
      ** For more information, 
      please see Thập 
           Phiền Não.
      
      Nghiệp Não: 
      
      Sự phiền não gây ra bởi nghiệp: Karmaic distress. 
      
      Nghiệp và sự phiền não (cái nầy là nhân của cái kia, cái kia là quả của 
      cái nầy): Karma and distress (one is the cause of another, and vice 
      versa). 
      
      Nghiệp Nặng Tu Vụng: Heavy 
      karma, perfunctory practice. 
      
      Nghiệp Ngăn Trở: Upapilaka 
      (p)—Obstructive karma—Theo A Tỳ Đạt Ma Luận (Vi Diệu Pháp), nghiệp ngăn 
      trở không có quả thiện ác của chính nó, nhưng có thể ngăn cản hay làm chậm 
      trễ sự trổ quả của các nghiệp khác—According to the Abhidharma, an 
      obstructive karma is a karma which cannot produce its own result 
      (wholesome or unwholesome), but nevertheless obstructs,  frustrates, or 
      delays some other karma from producing results, countering its efficacy or 
      shortening the duration of its pleasant or painful results.  
      
      Cho dù nghiệp tái tạo có cường thịnh vào lúc thành lập, mà bị nghiệp ngăn 
      trở trực tiếp đối lại, sẽ làm cho nghiệp tái tạo trở nên vô hiệu quả—Even 
      though a productive karma may be strong at a time it is accumulated, an 
      obstructive karma directly opposed to it may conteract it so that it 
      becomes impaired when producing its results. 
      
      Tỷ như một nghiệp tái tạo thiện có khuynh hướng đưa chúng sanh tái sanh 
      vào cõi cao hơn, có thể bị nghiệp ngăn trở đưa vào tái sanh nơi cõi thấp  
      hơn—For example a wholesome karma tending to produce rebirth in a superior 
      plane of existence may be impeded by an obstructive karma so that it 
      generates rebirth in a lower plane.
      
      Nghiệp tái tạo tốt có khuynh hướng đưa chúng sanh tái sanh vào những gia 
      đình cao sang, có thể bị nghiệp ngăn trở làm cho tái sanh vào những gia 
      đình hạ tiện—A wholesome productive karma tends to produce rebirth among 
      high families may be impeded by an obstructive karma, therefore, it may 
      produce rebirth among low families
      
      Nghiệp tái tạo tốt có khuynh hướng mang lại trường thọ cho chúng sanh, lại 
      bị nghiệp ngăn trở làm cho đoản thọ—A wholesome productive karma tends to 
      produce longevity may be impeded by an obstructive karma, therefore life 
      may become shortened.  
      
      Nghiệp tái tạo tốt có khuynh hướng mang lại sắc diện đẹp đẽ, có thể bị 
      nghiệp ngăn trở làm cho dung mạo trở nên tầm thường—A wholesome productive 
      karma tends to produce beauty may be impeded by an obstructive karma, 
      therefore it may produce a plain appearance.
      
      Nghiệp tái tạo bất thiện có khuynh hướng đưa chúng sanh tái sanh vào những 
      đại địa ngục, có thể bị nghiệp ngăn trở đối kháng lại và chúng sanh ấy có 
      thể tái sanh vào những địa ngục nhẹ hơn hay vào cõi ngạ quỷ—An unwholesome 
      productive karma tends to produce rebirth in the great hells may be 
      couteracted by an obstructive wholesome karma and produce rebirth in the 
      minor hells or among the hunghry ghosts. 
      
      Nghiệp Nhân: Các hành động 
      thiện ác đã làm xong đều trở thành nghiệp nhân dẫn đến luân hồi (thiện 
      nghiệp là nhân của lạc quả, ác nghiệp là nhân của khổ quả)—Karma-cause—The 
      deed as cause; the cause of good or bad karma leads to the next form of 
      existence.
      
      Nghiệp Phạm: The constraints of 
      karma. 
      
      Nghiệp Phong: Karma wind.
      
      Gió mạnh cảm thụ do ác nghiệp: The fierce wind of evil karma.
      
      Gió thổi từ địa ngục trong thời mạt kiếp (những kẻ ở dưới địa ngục tùy 
      theo tội nặng nhẹ mà phải chống đỡ nhiều hay ít với cơn gió mạnh nầy): The 
      wind from the hells, at the end of the age.
      
      Nghiệp giống như cơn gió thổi, đưa chúng 
      sanh 
      những chỗ tái sanh thiện ác: Gió thiện thổi vào chỗ chúng sanh tốt nên 
      được sung sướng, gió ác thổi vào chỗ chúng sanh xấu nên chịu khổ sở—Karma 
      as wind blowing a person into good or evil rebirth.  
      
      Nghiệp Phược: Phiền trược hay 
      sự trói buộc của nghiệp—Karma-bonds; the binding power of karma. 
      
      Nghiệp Quả: Nghiệp quả là hậu 
      quả tất nhiên của hành động theo luật nhân quả của nhà Phật. Hậu quả của 
      nghiệp tái sanh tùy thuộc vào nghiệp gây tạo của những đời trước—The 
      natural reward or retribution for a deed, brought about by the law of 
      karma mentioned by the Buddha. The fruit of karma, conditions of rebirth 
      depending on previous karmaic conduct.
      
      Nghiệp Tái Tạo: Janaka 
      (p)—Productive Karma—Theo A Tỳ Đạt Ma Luận (Vi Diệu Pháp), nghiệp thiện 
      hay bất thiện, trợ duyên cho sự tái sanh vào lúc lâm chung. Vào lúc được 
      mẹ thọ thai, do nghiệp tái tạo mà thức tái sanh được phát sanh, cùng lúc 
      ấy những thành phần vật chất của môt con chúng sanh mới cũng được thành 
      lập như các căn, sự xác định tính nam nữ. Chỉ có  nghiệp tái tạo dẫn tới 
      tái sanh, nhưng tất cả các nghiệp thiện ác đều phải trổ quả trong những 
      đời kế tiếp, không có ngoại lệ. Theo Phật giáo, chập tư tưởng cuối cùng 
      thật là quan trọng vì chính cái nghiệp có năng lực mạnh nhứt trong giờ lâm 
      chung, lành hay dữ, tạo điều kiện cho sự tái sanh kế liền đó. Nghiệp nầy 
      gọi là nghiệp tái tạo. Cái chết của một chúng sanh chỉ là sự gián đoạn tạm 
      thời của một hiện tượng tạm thời. Mặc dầu thể xác hiện tại  tiêu diệt, 
      nhưng một hình thể khác sẽ phát sanh tùy theo tư tưởng mạnh nhất trong giờ 
      lâm chung; hình thể sau nầy không hoàn toàn giống hình thể trước, mà cũng 
      không phải tuyệt đối là khác. Thể xác tan rã, nhưng luồng nghiệp lực vẫn 
      tồn tại. Tiến trình tư tưởng cuối cùng ấy, gọi là nghiệp tái tạo, quyết 
      định cảnh giới của kiếp sống tới. Thói thường thì tiến trình tư tưởng cuối 
      cùng của một người tùy thuộc nơi phẩm hạnh của người ấy trong cuộc sống 
      hằng ngày. Tuy nhiên cũng có trường hợp đặc biệt mà ngoại cảnh tạo nên cơ 
      hội thuận lợi hay bất lợi làm cho một người tốt có thể có những tư tưởng 
      xấu, hay một người xấu có thể có những tư tưởng tốt trong giờ phút lâm 
      chung. Trong trường hợp nầy phẩm hạnh của người kia trong cuộc sống không 
      đem lại ảnh hưởng nào cho sự tái sanh, nhưng không có nghĩa là quả phải có 
      cho những hành động trong quá khứ đã tiêu mất. Quả ấy sẽ trổ lúc tương 
      xứng với nhân đã gieo—According to the Abhidharma, productive karma is 
      wholesome or unwholesome volition which produces resultant mental states 
      and karma-born materiality, both at the moment of rebirth-linking and 
      during the course of existence. At the moment of conception, productive 
      karma generates the rebirth-linking consciousness and the karma-born types 
      of materiality constituting the physical body of the new being. During the 
      course of existence it produces other resultant cittas and the 
      continuities of karma-born materiality, such as the sense faculties, 
      sexual determination, and the heart-base. Only a karma that has attained 
      the status of a full course of action can perform the function of 
      producing rebirth-linking, but all wholesome and unwholesome karmas 
      without exception can produce results during the course of existence. 
      Every subsequent birth, according to Buddhism, is conditioned by the good 
      or bad karma which predominant at the moment of death. This kind of karma 
      is technically known as reproductive karma. The death of a person is 
      merely the temporary end of a temporary phenomenon. Though the present 
      form perishes, another form which is neither absolutely the same nor 
      totally different takes place according to the thought that was powerful 
      at the death moment since the karmic force which hitherto actuated it is 
      not annihilated with the dissolution of the body. It is this last thought 
      process, which is termed “reproductive karma,” that determines the state 
      of a person in his subsequent birth.  As a rule, the last thought-process 
      depends on the general conduct of a person in daily life. In some 
      exceptional cases, perhaps due to favourable or unfavourable 
      circumstances, at the moment of death a good person may experience a bad 
      thought, and a bad person a good one. The future birth will be determined 
      by this last thought-process, irrespective of the general conduct. This 
      does not mean that the effects of the past actions are obliterated. They 
      will produce their inevitable results as the appropriate moment.   
      
      Nghiệp Tặc: Nghiệp có khả năng 
      làm hại chúng sanh như một tên cướp nên gọi là nghiệp tặc—Robber-karma; 
      evil karma harms as does a robber. 
      
      Nghiệp Thằng: Sợi dây trói buộc 
      của nghiệp hay nghiệp như sợi dây trói buộc—Karma cords; the bonds of 
      karma. 
      
      Nghiệp Thể: See Nghiệp Tính.
      
      
      Nghiệp Thiên: Nghiệp Thiên hay 
      luật tự nhiên không thể tránh khỏi của “nhân quả”—The karma of heaven, 
      i.e. the natural inevitable law of cause and effect. 
      
      Nghiệp Thọ: Kết quả của nghiệp 
      đời trước, như cuộc sống dài ngắn ở hiện tại được quyết định bởi nghiệp 
      đời trước—That which is received as the result of former karmaic conduct, 
      i.e. long or short life determined by previous karma. 
      
      Nghiệp Thông: Báo Thông—Sức 
      thần thông của nghiệp báo, một trong ngũ thông. Có được nghiệp thông là 
      nhờ công đức tu hành trong nhiều đời trước (chư Thiên Long Hộ Pháp, chư Bồ 
      Tát, chư Thiên đều dựa vào túc nghiệp tu hành của những đời trước mà có 
      được sức thần thông)—Supernatural powers that have been acquired as karma 
      by demons, spirits, nagas, etc.—Supernatural powers obtained from former 
      karma, one of the five supernatural powers.
      ** For more information, 
      please see Ngũ 
           Thông. 
      
      Nghiệp Thức: Karma-vijnana 
      (skt)—Theo Khởi Tín Luận, nghiệp thức là cái thức căn bản lưu chuyển trong 
      các loài hữu tình, là ý niệm dựa vào căn bản vô minh khiến chân tâm nhất 
      như bắt đầu chuyển động hay vô minh lực làm cho tâm bất giác chuyển động, 
      là kết quả cụ thể hiện tại của những hành động trong quá khứ—According to 
      The Awakening of Faith, karmic consciousness; activity-consciousness in 
      the sense that through the agency of ignorance  an enlightened mind begins 
      to be disturbed; consciousness as the result of past behavior, that is 
      concrete consciousness in the present.     
      
      Nghiệp Thực: Nghiệp là loại 
      dinh dưỡng căn bản của sự hiện hữu của chúng sanh—Karma as nutritive basis 
      for succeeding existence.
      ** For more information, 
      please see Tứ Thực.  
      
      Nghiệp Thường: Acinna 
      (p)—Habitual karma—Theo A Tỳ Đạt Ma Luận (Vi Diệu Pháp), nghiệp thường hay 
      thường nghiệp là những thói quen mà chúng sanh thường làm, dầu tốt hay xấu 
      (có khuynh hướng tạo nên tâm tánh của chúng sanh). Những thói quen hằng 
      ngày, dù lành hay dù dữ, dần dần trở thành  bản chất ít nhiều uốn nắn tâm 
      tánh con người. Trong khi nhàn rỗi, tâm ta thường duyên theo những tư 
      tưởng, những hành vi quen thuộc một cách tự nhiên lắm khi vô ý thức. Nếu 
      không có trọng nghiệp hay cận tử nghiệp thì thường nghiệp quyết định tái 
      sanh—According to the Abhidharma, habitual karma is a deed that one 
      habitually or constantly performs either good or bad. Habits, whether good 
      or bad, become second nature. They more or less tend to mould the 
      character of a person. In the absence of weighty karma and a 
      potent-death-proximate karma, this type of karma generally assumes the 
      rebirth generative function. 
      
      Nghiệp Tích Tụ: Katatta 
      (p)—Reserve karma—Theo A Tỳ Đạt Ma Luận (Vi Diệu Pháp), nghiệp tích tụ là 
      bất cứ nghiệp nào đủ mạnh để quyết định tái sanh, mà không phải là nghiệp 
      tái tạo, nghiệp cận tử, hay nghiệp tiêu diệt. Loại nghiệp nầy sẽ quyết 
      định tái sanh nếu không có các nghiệp kia chen vào. Nghiệp nầy giống như 
      cái vốn dự trử của một cá nhân, gồm bốn loại—Reserve karma is any other 
      deed, not included productive, death-proximate, destructive karmas, which 
      is potent enough to take on the role of generating rebirth. This type of 
      karma becomes operative when there is no karma of other three types to 
      exercise this function. This is as it were the reserve fund of a 
      particular being, divided into four classifications:
      
      Hành động bất thiện, tạo quả dữ trổ sanh trong dục giới: Akusala (p)—Có 
      mười hành động bất thiện—Evil actions which may ripen in the sense-sphere. 
      There are ten evil actions:
      
      Ba hành động bất thiện biểu hiện nơi thân—Three evil actions committed by 
      deed:
      
      Sát sanh: Panatipata (p)—Killing. 
      
      Trộm cắp: Adinnadana (p)—Stealing. 
      
      Tà dâm: Kamesu-micchacara (p)—Sexual misconduct. 
      
      Bốn hành động bất thiện biểu hiện nơi khẩu—Four evil actions committed by 
      word:
      
      Nói dối: Musavada (p)—Lying. 
      
      Nói lời đâm thọc: Pisunavaca (p)—Slandering. 
      
      Nói lời thô lỗ cộc cằn: Pharusavaca (p)—Harsh speech.
      
      Nói lời nhảm nhí vô ích: Samphappalapa (p)—Frivolous talk. 
      
      Ba hành động bất thiện biểu hiện nơi ý—Three evil actions committed by 
      mind:
      
      Tham lam: Abhijjha (p)—Covetousness.
      
      Sân hận: Vyapada (p)—Ill-will. 
      
      Tà kiến: Micchaditthi (p)—False views. 
      
      Hành động thiện, tạo quả lành trổ sanh trong dục giới: Kusala (p)—Good 
      actions which may ripen in the sense-sphere.
      
      Hành động thiện, tạo quả lành trổ sanh trong sắc giới: Good actions which 
      may ripen in the realms of form (rupaloka).
      
      Hành động thiện, tạo quả lành trong vô sắc giới: Good actions which may 
      ripen in the formless realms (arupaloka). 
      
      Nghiệp Tiêu Diệt: Upaghataka 
      (p)—Destructive karma—Theo A Tỳ Đạt Ma Luận (Vi Diệu Pháp), nghiệp tiêu 
      diệt là thứ nghiệp, thiện hay ác, có khả năng triệt tiêu nghiệp tái tạo, 
      không cho nó trổ quả—According to the Abhidharma, a destructive karma is a 
      wholesome or unwholesome karma which supplants other weaker karma, 
      prevents it from rippening, and produces instead its own result.
      
      Một người nguyên lai do nghiệp tái tạo có thể sanh trường thọ, nhưng 
      nghiệp tiêu diệt khởi lên gây nên hoạnh tử—A man may, through his 
      productive karma, have been originally destined for a long life-span, ut a 
      destructive karma may arise and bring about a premature death.
      
      Vào lúc cận tử, thoạt tiên một cảnh giới tái sanh xấu hiện ra vì nghiệp 
      lực xấu, nhưng một nghiệp tiêu diệt tốt khởi lên, triệt tiêu ác nghiệp, do 
      đó được tái sanh vào cảnh giới tốt hơn—At the time of near-death, at first 
      a sign of bad destination may appear by the power an evil karma, heralding 
      bad rebirth, but then a good karma may emerge, expel the bad karma, and 
      having caused the sign of good destination to appear.
      
      Một nghiệp xấu có thể thình lình khởi lên, tiêu diệt khả năng của nghiệp 
      tái tạo tốt, để đưa đến việc tái sanh vào cảnh giới ác—A bad karma may 
      suddenly arise, cut off the productive potential of a good karma, an 
      generate rebirth in a woeful realm.     
      
      Nghiệp Tính: Nghiệp thể hay tự 
      thể của nghiệp—The nature of karma, its essential being. 
      
      Nghiệp Trần: Sự uế nhiễm của ác 
      nghiệp—Karma-dirt, the defilement or remains of evil karma.
      
      Nghiệp Trợ Duyên: Upatthambaka 
      (p)—Supportive karma—Theo A Tỳ Đạt Ma Luận (Vi Diệu Pháp), nghiệp trợ 
      duyên không đạt được cơ hội sanh quả của chính nó (nghĩa là nó không có 
      tánh cách thiện hay bất thiện), nhưng nó đến gần và nâng đỡ nghiệp tái tạo 
      và các nghiệp khác bằng cách làm cho những nghiệp nầy có thể tạo nên những 
      quả sung sướng hay khổ đau—According to the Abhidharma, supportive karma 
      does not gain an opportunity to produce its own result (it is to say it 
      does have the wholesome or unwholesome nature), but which, when some other 
      karma or productive karma is exercising a productive function, supports it 
      either by enabling it to produce its pleasant or painful results over an 
      extended time without obstruction or by reinforcing the continum of 
      aggregates produced by another karma. 
      
      Khi nghiệp thiện 
      được trợ duyên có thể: When through the productive function of wholesome 
      karma, it may: 
      
      Làm cho một chúng 
      sanh được sanh vào cõi người: Cause one to be reborn as a human being.
      
      Góp phần làm cho đời 
      sống kéo dài hơn: Contribute to the extension of one’s life span.
      
      Bảo đảm sức khỏe tốt 
      và giàu có: Ensure that one is healthy and wealthy.
      
      Cung cấp đầy đủ 
      những thứ cần thiết cho cuộc sống:  Well provide with the necessities of 
      life. 
      
      Khi nghiệp bất thiện được trợ duyên, có thể—When an unwholesome karma has 
      exercised its productive function, it may: 
      
      Làm cho một chúng sanh sanh vào cõi thú: Cause one to be reborn as an 
      animal.
      
      Gây ra bệnh nặng: Cause a painful disease.
      
      Làm cho thuốc không còn khả năng hữu hiệu khi trị bệnh do đó mà bệnh bị 
      kéo dài: Prevent medicines from working effectively, thereby prolonging 
      the disease.
      
      Nghiệp Tướng: Một trong tam 
      tướng vi tế trong Khởi Tín Luận, dựa vào vô minh căn bản mà chân tâm bắt 
      đầu hoạt động—Action, or activity, the karmaic, condition of karmaic 
      action. The first of the three subtle marks of the Awakening of Faith, 
      when mental activity is stirred to action by unenlightenment.  
      ** For more information, 
      please see Tam 
           Tướng Vi Tế. 
      
      Nghiệp Võng: Lưới nghiệp làm 
      chúng sanh vướng mắc trong khổ đau của luân hồi sanh tử—The net of karma 
      which entangles beings in the sufferings of rebirth. 
      
      Nghiệp Vô Hạn Định: 
      Aparapariyavedaniya 
      (p)—Indefinitely effective karma—Theo A Tỳ Đạt Ma Luận (Vi Diệu Pháp), 
      nghiệp vô hạn định là loại nghiệp mà quả của nó có thể trổ bất cứ lúc nào 
      nó có dịp trổ quả trong những kiếp tái sanh. Nghiệp vô hạn định không bao 
      giờ bị vô hiệu lực. Không có bất cứ ai, kể cả Đức Phật hay một vị A La 
      Hán, có thể tránh khỏi hậu quả của nghiệp nầy. Ngài Mục Kiền Liên đã là 
      một vị A La Hán trong thời quá khứ xa xôi, đã nghe lời người vợ ác tâm, âm 
      mưu ám hại cha mẹ. Do hành động sai lầm ấy, ngài đã trải qua một thời gian 
      lâu dài trong cảnh khổ và, trong kiếp cuối cùng, ngài bị một bọn cướp giết 
      chết. Đức Phật cũng bị nghi là đã giết chết một nữ tu sĩ tu theo đạo lõa 
      thể. Theo Kinh Tiền Thân Đức Phật thì Ngài phải chịu tiếng oan như vậy là 
      vì trong một tiền kiếp Ngài đã thiếu lễ độ với một vị độc giác Phật. Đề Bà 
      Đạt Đa toan giết Đức Phật, ông đã lăn đá từ trên núi cao làm trầy chơn 
      ngài, theo truyện Tiền Thân Đức Phật thì trong một tiền kiếp Đức Phật đã 
      lỡ tay giết chết một người em khác mẹ để đoạt của trong một vụ tranh chấp 
      tài sản—According to the Abhidharma, indefinitely effective karma is a 
      karma which can ripen at any time from the second future existence 
      onwards, whenever it gains an opportunity to produce results. It never 
      becomes defunct so long as the round of rebirth continues. No one, not 
      even a Buddha or an Arahant, is exempt from experiencing the results of 
      indefinitely effective karma. No one is exempt from this class of karma. 
      Even the Buddhas and Arahants may reap the effects of their past karma. 
      Arahant Moggallana in the remote past, instigated by his wicked wife, 
      attempted to kill his mother and father. As a result of this he suffered 
      long in a woeful state, and in his last birth was clubbed to death by 
      bandits. To the Buddha was imputed the murder of a female devotee of the 
      naked ascetics.  This was the result of his having insulted a Pacceka 
      Buddha in one of his previous kalpa. The  Buddha’s foot was slightly 
      injured when Devattava made a futile to kill him. This was due to his 
      killing a step-brother of his previous birth with the object of 
      appropriating his property.    
      
      Nghiệp Vô Hiệu Lực: Ahosi 
      (p)—Defunct karma—Theo A Tỳ Đạt Ma Luận (Vi Diệu Pháp), từ “Ahosi” không 
      chỉ một loại nghiệp riêng biệt, mà nó dùng để chỉ những nghiệp khi phải 
      trổ quả trong kiếp hiện tại hoặc kế tiếp, mà không gặp điều kiện để trổ. 
      Trong trường hợp của các vị A La Hán, tất cả nghiệp đã tích lũy trong quá 
      khứ, đến hồi trổ quả trong những kiếp vị lai thì bị vô hiệu hóa khi các vị 
      ấy đắc quả vô sanh—According to the Abhidharma, the term “ahosi” does not 
      designate a special class of karma, but applies to karma that was due to 
      ripen in either the present existence or the next existence but did not 
      meet conditions conductive to its maturation. In the case of Arahants, all 
      their accumulated karma from the past which was due to ripen in future 
      lives becomes defunct with their final passing away with their achievement 
      of “non-birth” fruit.    
      
      Nghiệp Vô Tình: Karma phala 
      (skt)—Unitentional karma—See Nghiệp Cố Ý. 
      
      Nghiệp Xứ: Karmasthana 
      (skt)—Nơi nhập định làm cho tâm dừng lại, như cõi Tịnh Độ—A place for 
      working, of business, or a condition in which the mind is maintained in 
      meditation, by influence, the Pure Land.   
      
      Nghiệp Xứng: Cái cân để cân 
      nghiệp nặng nhẹ của Minh Quan nơi địa ngục—The scales of karma, in which 
      good and evil are weighed by the rules of causes and effects or the rulers 
      of Hades. 
      
      Nghiệt: 
      
      Ác nghiệt: Cruel—Wicked.
      
      Chồi non: A shrub—A tree-stump.
      
      Con vợ lẽ: An illicit son (son of a concubine). 
      
      Quả báo: Retribution.   
      
      Nghiệt Đà Cự Tra: Gandhakuti 
      (skt)—Hương Đài Điện hay căn buồng mà Đức Thế Tôn đã làm lễ dâng hương 
      trong tịnh xá Kỳ Viên hay bất cứ nơi nào mà Ngài đã đi qua—A temple for 
      offering incense in the Jetavana monastery and elsewhere. 
      
      Nghiệt La Ha: Grha or Graha 
      (skt)—Nghiệt Lý Ha—Tên của một loài quỷ chuyên đi bắt người—Name of a 
      demon, the seizer. 
      
      Nghiệt Lạt Bà: Garbha 
      (skt)—Thai Tạng (bên trong thai)—The womb, interior part. 
      
      Nghiệt Lý Ha: Grha (skt)—See 
      Nghiệt La Ha. 
      
      Nghiệt Tội: See Tội Nghiệt. 
      
      Nghìn Phước: Thousand blessing.
      
      Nghinh: To meet—To receive—To 
      welcome—To greet. 
      
      Nghinh Giá: To meet the king.
      
      
      Nghinh Hôn: To meet the bride 
      and bring her home. 
      
      Nghinh Niên: To welcome the New 
      Year.
      
      Nghinh Ngang: Arrogant—Haughty.
      
      
      Nghinh Tân: To receive guests.
      
      
      Nghinh Tiếp: To receive 
      someone. 
      
      Ngoù: 
      
      To see—To look at.
      
      Root (lotus). 
      
      Ngó Chòng Chọc: To stare.
      
      Ngó Chừng: To keep watching.
      
      
      Ngó Lơ: 
      
      To be careless.
      
      To avoid someone.
      
      Ngó Ngoái: To look back. 
      
      Ngó Sen: Lotus root. 
      
      Ngó Thấy: To see.
      
      Ngó Trân Trân: See ngó chòng 
      chọc. 
      
      Ngỏ Lời: To express—To speak to 
      someone.
      
      Ngỏ Ý: To express (make known) 
      one’s intention. 
      
      Ngõ: Gate.
      
      Ngoï:
      
      Vào giữa trưa: At noon time.
      
      The seventh Earth’s stem (xem Mười Hai Con Giáp). 
      
      Ngọ Cúng: Cúng ngọ—The noon 
      offering of incense. 
      
      Ngoa: To talk nonsense.
      
      Ngoa Ngôn: False stories.
      
      Ngoa Truyền: Handed down 
      falsely from the past. 
      
      Ngõa: 
      
      Miếng Ngói—Tile.  
      
      Đồ Sứ: Pottery. 
      
      Ngõa Bát: Bình bát bằng đồ 
      sứ—An earthernware begging bowl. 
      
      Ngõa Khí Kim Khí: 
      
      Ngõa Khí: Một cái bình bằng sành, ám chỉ Phương Pháp Thanh Văn—An Earthern 
      Vessel, implies the Sravaka Method. 
      
      Kim Khí: Một cái bình bằng kim khí, ám chỉ Phương Pháp Bồ Tát—A golden 
      vessel, implies the Bodhisattva-Method. 
      
      Ngõa Sư: Đức Phật trong một 
      tiền kiếp là một người thợ đồ gốm—The Buddha in a previous incarnation as 
      a potter. 
      
      Ngọa: Sayana (skt). 
      
      Nằm—Lying down. 
      
      Ngủ: Sleeping. 
      
      Ngọa Bịnh: To fall ill—To 
      confine to bed by sickness—Forced to stay in bed due to illness. 
      
      Ngọa Cụ: Vật dụng để nằm như 
      giường, chiếu, đồ ngủ—A couch, bed, mat, bedding, sleeping garments. 
      
      Ngọa Pháp: Tư thế ngủ của chư 
      Tăng Ni—The sleeping manner of monks and nuns.
      
      Ngọa Phật: Phật nằm (tư thế lúc 
      Ngài nhập Niết Bàn)—The Sleeping Buddha (the posture when he entered 
      Nirvana).
      
      Ngọa Phật Tự: Chùa Phật Nằm (tư 
      thế lúc Ngài nhập Niết Bàn)—A shrine of the Sleeping Buddha, i.e. of the 
      dying Buddha. 
      
      Ngoái: 
      
      Năm ngoái: Last (year).
      
      Nhìn ngoái lại: To look back.
      
      Ngoài: 
      Outside—Without—Exterior—External. 
      
      Ngoài Mưa: In the rain.
      
      Ngoài Nắng: In the sun.
      
      Ngoài Ra: Besides. 
      
      Ngoại: Bahya (skt). 
      
      Outside—See Ngoài.
      
      Phía bên ngoại: Maternal side. 
      
      Ngoại Biên: Peripheral
      
      Ngoại Cảnh: External 
      things—External world.
      
      Ngoại Chúng: Ngoại Tục—Chúng 
      tại gia để phân biệt với chúng xuất gia hay nội chúng Tăng Ni—The laity, 
      in contrast with the inner company or the monks and nuns. 
      
      Ngoại Diện: 
      Appearance—External—Outward show. 
      
      Ngoại Dụng: External 
      manifestation (function or use).  
      
      Ngoại Duyên: Ngoại duyên là 
      hiện trạng năm thức duyên vào ngoại cảnh—The condition in which the five 
      internal senses attach to the five external objects.
      
      Ngoại Điển (Ngoại Giáo): 
      External doctrine—Non-Buddhist scriptures. 
      
      Ngoại Đạo: Chỉ các đạo không 
      phải là Phật giáo—Externalists—Outsiders—Outside 
      doctrines—Non-Buddhist—Heresy—Heretics.
      
      Ngoại Đạo Lục Sư: See Lục Sư 
      Ngoại Đạo and Lục Khổ Hạnh. 
      
      Ngoại Đạo Lục Sư Ca Vương: Name 
      of the king who, thirteen years after the destruction of the jetavana 
      vihara, which had been rebuilt “five centuries” after the nirvana, again 
      restored it. 
      
      Ngoại Giáo: Non-Buddhist cults.
      
      Ngoại Giới: 
      
      Thân thể: The realm of the body, as contrast with that of the mind (Nội 
      giới). 
      
      Năm giới căn bản của Phật giáo: The Five Basic Precepts of Buddhism (no 
      killing, no stealing, no lying, no sexual misconduct, no use of drugs or 
      alcohol).  
      
      Vùng phụ cận: Environment. 
      
      Ngoại Hải: Biển bao quanh tứ 
      châu—The sea that surrounds the four world-continents. 
      
      Ngoại Hình: Exteriority. 
      
      Ngoại Học: Học những giáo 
      thuyết không phải của đạo Phật—Study of outside, or non-Buddhist 
      doctrines.
      
      Ngoại Hộ: Những che chở bên 
      ngoài như quần áo và thực phẩm cho Tăng Ni, đối lại với Nội Hộ hay giới 
      pháp do Phật chế định nhằm giúp cho thân khẩu ý tránh điều sai 
      trái—External protection or aid, such as food, clothing for monks and 
      nuns, contrasted with the internal aid of the Buddha’s teaching.
      
      Ngoại Khất: Vị Tăng khất sĩ tìm 
      cầu tự kiểm bằng những phương thức bên ngoài như ăn chay, đối lại với Nội 
      Khất là vị Tăng khất sĩ tìm cầu tự kiểm bằng những phương thức từ trong 
      nội tâm—The Mendicant monk who seeks self-control by external means, such 
      as abstinence from food, as contrasted with the mendicant monk who seeks 
      self-control by internal means or spiritual methods.   
      
      Ngoại Không: External space.
      
      
      Ngoại Lai: Exotic. 
      
      Ngoại Ngã: Bahiratman—External 
      Ego—An external soul, or personal or divine ruler—A Creator or ruler of 
      the world, such as Siva.
      
      Ngoại Ngoại Đạo: Ngoại đạo 
      ngoài Phật pháp—Outside outsiders, those of other cults. 
      
      Ngoại Pháp: 
      
      Ngoại Chấp: Non-Buddhist or heretical rules or tenets. 
      
      Ngoại Điển: Kinh điển và sách vở của thế gian và ngoại đạo—Non-Buddhist 
      doctrines. 
      
      Ngoại Giáo: Non-Buddhist religions.
      
      Ngoại Pháp: External doctrines.
      
      See Nội Ngoại Pháp (2). 
      
      Ngoại Tham Dục: Ý nghĩ ham muốn 
      tình dục với người khác, không phải là vợ hay chồng của mình—Sexual 
      thoughts towards others than one’s own wife, or husband.
      
      Ngoại Thân: Maternal 
      family—Mother’s family. 
      
      Ngoại Tình: Adultery. 
      
      Ngoại Trần: Sáu cảnh trần bên 
      ngoài—The external objects of the six senses. 
      
      Ngoại Triền: Outer tangle.
      
      Ngoại Tục: Chúng tại gia để 
      phân biệt với chúng xuất gia hay nội chúng Tăng Ni—The laity, in contrast 
      with the monks or inner company (nội chúng).
      
      Ngoại Tướng: Hình tướng hay 
      hành vi bên ngoài—External appearance or conduct.
      
      Ngoại Vô Vi: Đối với ngoại cảnh 
      chẳng động tâm hay giác quan chẳng bị khuấy động (mắt chẳng thấy sắc, tai 
      chẳng nghe thanh, mũi chẳng ngửi hương, lưỡi chẳng nếm vị, thân chẳng tiếp 
      xúc các thứ mịn màng, ý chẳng vọng niệm)—Unmoved by externals, none of the 
      senses stirred.
      
      Ngoạm: To snap—To bite. 
      
      Ngoan:
      
      Ngang ngạnh: Stupid—Obstinate.
      
      Ngoan ngoãn: Well-behaved—Good. 
      
      Ngoan Cố: Stubborn—Obstinate.
      
      
      Ngoan Đạo: 
      Pious—Devoted—Devout. 
      
      Ngoan Đồng: Stupid child. 
      
      Ngoan Không: Cái “Không” sai 
      lầm mà những kẻ cuồng thiền thường hay chấp vào—False emptiness, improper 
      and crooked understanding of emptiness which “Mad Zen” practitioners 
      always attach to—See Bác Tướng. 
      
      Ngoan Ngoãn: To be 
      obedient—Docile—Well-behaved
      
      Ngoan Phụ: Stubborn woman. 
      
      Ngoạn Thạch Điểm Đầu: Kinh Niết 
      Bàn một khi được thuyết giảng thì ngay cả đá cũng phải gật đầu (theo Liên 
      Xã Cao Hiền Truyện, thì ngài Trúc Đạo Sinh vào núi Hổ Khâu xếp đá làm học 
      trò cho ngài giảng kinh Niết Bàn, các hòn đá đều cảm động gật đầu. Ngày 
      nay muốn diễn đạt ý đã cảm hóa được người ta một cách sâu sắc thì gọi là 
      Ngoan Thạch Điểm Đầu)—Moved by the reciting of the Mahaparinirvana Sutra, 
      even the stupid stones nodded their heads.  
      
      Ngoạn: To make an excursion.
      
      
      Ngoạn Cảnh: To enjoy scenery.
      
      
      Ngoạn Mục: Pleasant to the 
      eyes. 
      
      Ngoay Ngoảy: To turn away. 
      
      Ngoằn Ngoèo: Winding (zigzag).
      
      
      Ngoắt: To wave—To beckon. 
      
      Ngoắt Ngoéo: Complicated. 
      
      Ngóc: To lift up one’s head.
      
      
      Ngọc: Precious stone—Gem—Jade.
      
      
      Ngọc Da: Yu-Hua—Tên của một 
      thiếu nữ mà Đức Phật đã nhân đó nói Ngọc Hoa Nữ Kinh—Name of the woman to 
      whom the sutra Yu-Hua is addressed.    
      
      Ngọc Da Nữ Kinh: Yu-Hua 
      Sutra—See Ngọc Da. 
      
      Ngọc Hào: Chùm lông trắng (bạch 
      mao) giữa hai chân mày của Phật nơi Ngài phóng quang đi khắp các cõi—The 
      urna or white curl between the Buddha’s eyebrows, from which he sent forth 
      his ray of light illuminating all worlds. 
      
      Ngọc Hoa: Yu-Hua Palace—See 
      Ngọc Tuyền Ngọc Hoa Lưỡng Tông (2). 
      
      Ngọc Hoàn: Vòng ngọc thạch đeo 
      ở một trong những cánh tay phải của “Thiên-Thủ” Quán Âm (Ngàn Tay Quán 
      Âm)—The jade ring in one of the right hands of the “thousand-hand” 
      Kuan-Yin. 
      
      Ngọc Hoàng: Emperor of Jade.
      
      Ngọc Nhu: Pliable jade, i.e. 
      beef. 
      
      Ngọc Như Ý: Cintamani 
      (skt)—Fabulous gem—The philosopher’s stone—Wish-fulfilling jewel—Wish-gem.
      
      
      Ngọc Nữ: A pretty girl, a 
      precious maidens.
      ** For more information, 
      please see Bảo Nữ. 
      
      Ngọc Phật: Một tượng Phật bằng 
      ngọc thạch nổi tiếng được tìm thấy khi đào một cái giếng ở Khotan, cao 
      khoảng từ 3 đến 4 bộ Anh—A famous jade Buddha recovered while digging a 
      well in Khotan, 3 to 4 feet high. 
      
      Ngọc Phương: Tên của một ngôi 
      tịnh xá nổi tiếng nằm trong quận Gò Vấp, thành phố Sài Gòn, Nam Việt Nam. 
      Tịnh xá được Ni Sư Huỳnh Liên kiến lập vào năm 1958, và được trùng tu lại 
      trong những năm 1970 và 1972. —Name of a famous monastery located in Gò 
      Vấp district, Saigon City, South Vietnam. It was built 1958 by Venerable 
      Elder Bikkhuni Huỳnh Liên. It was rebuilt in 1970 and in 1972. 
      
      Ngọc Thạch: Gem and stone.
      
      Ngọc Trai: Pearl. 
      
      Ngọc Tuyền Ngọc Hoa Lưỡng Tông: 
      Hai tông phái Ngọc Tuyền và Ngọc Hoa—The two schools of the Jade-fountain 
      and Jade-flower:
      
      Ngọc Tuyền Tông: Thiên Thai Tông (T’ien-T’ai Sect)—Ngọc Tuyền là tên của 
      một tự viện ở Đang Dương thuộc tỉnh Hồ Bắc, nơi Trí Khải Đại Sư (Trí 
      Nhất), sơ tổ của tông Thiên Thai đã sống—Yu-Ch’uan sect, was the name of 
      the monastery in Tang-Yang, Hupei, where Chih-I, the founder of the 
      T’ien-T’ai school lived.
      
      Ngọc Tuyền Tông: Pháp Tướng Tông (Dharmalaksana Sect)—Ngọc Hoa là tên của 
      một tự viện, nơi Huyền Trang, tổ của tông phái nầy đã sống và làm việc. 
      Nơi đây ông đã dịch 600 cuốn của bộ kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa—Yu-Hua, 
      was the name of a palace which was transformed into a temple where 
      Hsuan-Tsang,  the founder in China, lived and worked. There he translated 
      the Mahaprajna-Paramita-Sutra, 600 books (chuan).    
      
      Ngọc Viên: Tên của một ngôi Tổ 
      Đình thuộc hệ phái Khất Sĩ, tọa lạc trong thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh 
      Long, Nam Việt Nam. Tổ đình được Tổ Sư Minh Đăng Quang xây dựng năm 1948. 
      Ngôi chánh điện hình chữ nhật, tượng trưng cho “Thuyền Bát Nhã.” Giữa 
      chánh điện là Pháp tháp nơi đặt tôn tượng của Đức Phật Thích Ca—Name of a 
      monastery, a Patriarch Temple of the Vietnamese Medicant Sect, located in 
      Vinh Long Town, Vinh Long province, South Vietnam. It was established and 
      built in 1948 by the Most venerable Master and Zen Master Minh Đăng Quang. 
      The Main Hall is rectangular symbolizing the “Prajna Boat.”  In the middle 
      of the Main Hall is the Dharma stupa where the statue of Lord Sakyamuni 
      Buddha is placed and worshipped.  
      
      Ngoi: To rise up (above mud or 
      water).
      
      Ngon: Delicious—Tasty. 
      
      Ngon Lành: Flavoursome. 
      
      Ngón Tay Chỉ Trăng: Finger 
      pointing to the moon.
      
      Ngọn: Top (of tree or 
      mountain)—End—Extremity—Crest (of waves)—Blade (of grass)—Summit (of hill 
      or mountain). 
      
      Ngọn Ngành: In detail. 
      
      Ngóng: To wait impatiently. 
      
      Ngóp: Lóp ngóp—To get up with 
      difficutlty. 
      
      Ngọt Dịu: Sweetish. 
      
      Ngọt Giọng: Sugary tone. 
      
      Ngọt Mật Chết Ruồi: You catch 
      more flies with honey than with verjuice. 
      
      Ngỗ Nghịch: 
      Insubordinate—Disobedient. 
      
      Ngộ: 
      
      Đẹp Đẽ: Pretty.
      
      Gặp gỡ: Tri ngộ—To meet. 
      
      Giác Ngộ: Budh (skt).
      
      Bừng tỉnh: Tỉnh thức: Jagarati (p)—Jagara (skt)—To apprehend—To awake—To 
      awaken—To wake up. 
      
      Giác ngộ: Sambodhi (skt)—Knowledge—Enlightenment. 
      
      Làm tỉnh ngộ: Sambodhana (skt)—Arousing—Awaking—Recognizing. 
      
      Nhận ra điều gì mình đã quên: Pratyabhijanati or Pratyabhijna (skt)—To 
      recognize—To recover consciousness—Regaining knowledge or recognition. 
      
      Nhận ra rõ ràng: Vabodha or Sakshatkarana (skt)—Realization. 
      
      Tự chứng ngộ: Self-realization—To becom aware.
      
      Tự mở mắt tâm, để biết rõ bản tánh và do đó biết rõ bản tánh của cuộc sinh 
      tồn:  Opening the Mind’s eye—Awakening to one’s True-nature and hence of 
      the nature of all existence.
      
      See Enlightenment in English-Vietnamese Section. 
      
      Ngộ Ân: Vị sơ tổ của tông Thiên 
      Thai Sơn Ngoại, thị tịch năm 986 sau Tây Lịch (Ngài Ngộ Ân chùa Từ Quang 
      đời Tống, là chi phái của Cao Luận Tôn Giả Thanh Tùng, và là sơ tổ của 
      phái Thiên Thai Sơn Ngoại. Ngài tới học yếu chỉ Tam Quán với ngài Chí 
      Nhân, danh tiếng lừng lẫy. Ngộ Ân truyền cho Hồng Mẫn và Nguyên Thanh; 
      Nguyên Thanh truyền cho Trí Viên; Trí Viên truyền cho Quảng Chiếu; Quảng 
      Chiếu truyền cho Kế Tề và My Nhuận)—Founder of the external school of the 
      T’ien-T’ai, died in 986 A.D. 
      
      Ngộ Ấn: Thiền Sư Ngộ Ấn 
      (1019-1088)—Zen Master Ngộ Ấn—Người ta nói rằng mẹ ngài bỏ ngài từ khi còn 
      là một đứa trẻ. Một nhà sư Chiêm Thành lượm ngài đem về nuôi. Năm 19 tuổi 
      ngài thọ cụ túc giới. Về sau ngài học thiền với Thiền sư Quảng Trí và trở 
      thành Pháp tử đời thứ tám dòng Vô Ngôn Thông. Rồi ngài tới Thiên Ứng dựng 
      thảo am tu thiền. Hầu hết cuộc đời ngài, ngài chấn hưng và hoằng hóa Phật 
      giáo ở Bắc Việt. Ngài thị tịch năm 1088, thọ 69 tuổi—It is said that he 
      was abandoned by his mother when he was child. A Champa monk picked him up 
      and raised him in his temple. He received complete precepts at the age of 
      19. Later he studied meditation with Zen master Quảng Trí at Quán Đảnh 
      Temple. The latter transmitted Dharma to him to be the Dharma heir of the 
      eighth generation of the Wu-Yun-T’ung Zen Sect. Later, he went to Thiên 
      Ứng to build a thatch hut and stayed there to practice meditation. He 
      spent most of his life to revive and expand Buddhism in the North. He 
      passed away in 1088, at the age of 69.   
       
      
      Ngộ Biến: To meet with a 
      danger. 
      
      Ngộ Chân Long Cốc: Zen Master 
      Ngộ Chân Long Cốc—Thiền sư Ngộ Chân Long Cốc, quê ở Nam Việt. Ngài là một 
      thiền sư thuộc dòng Lâm Tế, nhưng không rõ đời nào. Ngài khai sơn chùa Đức 
      Vân trên núi Chứa Chan ở Biên Hòa. Lúc cuối đời ngài đi vân du, ngài thị 
      tịch hồi nào và ở đâu không ai biết—A Vietnamese zen master from South 
      Vietnam. He was a monk from the the Linn Chih Zen Sect; however, his 
      generation was unknown. He built Đức Vân Temple on Mount Chưa Chan in Biên 
      Hòa province. Late in his life, he became a wandering monk. His whereabout 
      and when he passed away were unknown.   
      
      Ngộ Diện: Face to face. 
      
      Ngộ Đạo: To realize (enlighten) 
      the path. 
      Theo Kinh Pháp Cú, câu 
      280, Đức Phật dạy—According to the Dharmapada Sutra, verse 280, the Buddha 
      taught: “Khi đáng nỗ lực, không nỗ lực, thiếu niên cường tráng đã lười 
      biếng, ý chí tiêu trầm và nhu nhược: kẻ biếng nhác làm gì có trí để ngộ 
      Đạo—One who does not strive when it is time to strive, who though young 
      and strong but slothful with thoughts depressed; such a person never 
      realizes the path.”
      
      Ngộ Độc: Poisoned. 
      
      Ngộ Giải: Understand wrongly.
      
      
      Ngộ Hiểm: To be in danger. 
      
      Ngộ (Lãnh) Hội: To understand 
      wrongly. 
      
      Ngộ Nạn: To be in danger.  
           
      
      Ngộ Nghĩnh: Lovely—Pretty. 
      
      Ngộ Nhận: To mistake. 
      
      Ngộ Nhập: 
      
      Giác ngộ lý thực tướng, hay nhập vài lý thực tướng (tỉnh ngộ và đắc nhập 
      là hai trình độ liên tiếp của người tu Phật. Trong Kinh Pháp Hoa, phẩm 
      Phương Tiện, Đức Phật đã dạy: “Muốn làm cho chúng sanh ngộ nhập tri kiến 
      Phật, nên ngài đã thị hiện ở đời.”)—To aprehend or perceive and enter into 
      the idea of reality.
      
      Sugandhara, tên của một nhà sư người Kashmir: Sugandhara, name of a 
      Kashmir monk.  
      
      Ngộ Nhất Thừa: Ekayanavabodha 
      (skt)—Realization of the One Vehicle—See Nhất Thừa. 
      
      Ngộ Phán: Mistrial. 
      
      Ngộ Phật, Mê Phàm: Those who 
      greatly realize delusion are Buddhas; those who are greatly deluded are 
      ordinary people. 
      
      Ngộ Sát: 
      
      Cõi nước nơi những người giác ngộ an trụ để tự ngộ và giác ngộ cho chúng 
      sanh, như Ta Bà thế giới là ngộ sát của Đức Phật Thích Ca: The ksetra or 
      land of enlightenment or perception, i.e. Saha world is the Buddha’s 
      ksetra. 
      
      Giết hại chúng sanh, nhưng không cố ý sát sinh: To kill through 
      negligence—Manslaughter.
      
      Ngộ Tân Tử Tâm Thiền Sư: Thiền 
      Sư Ngộ Tân Tử Tâm ở Hoàng Long, sanh năm 1044 tại Thiều Châu. Sư xuất gia 
      và thọ cụ túc giới tại tuviện Phật Đà lúc còn rất trẻ. Về sau sư vân du 
      tới viếng Thiền Sư Hoàng-Long-Tổ Tâm thuộc dòng Lâm Tế—Zen master 
      Wu-Xin-Tzu-Xin-Huang-Lung was born in 1044 in Shao-Chou.  As a very young 
      man, he entered Fo-Tuo Monastery where he gained ordination. Later he 
      traveled to visit the teacher Huang-Lung-Zu-Xin of the Lin-Chi lineage. 
      
      
      Một hôm ngài thượng đường thuyết pháp: “Này chư Thượng Tọa, thân người khó 
      được, Phật pháp khó nghe. Thân nầy không nhắm đời nay độ, còn đợi đời nào 
      độ thân nầy? Nay còn sống đó, các ngài hãy tham thiền đi, tham thiền là để 
      buông bỏ. Buông bỏ cái gì? Buông bỏ tứ đại, ngũ uẩn; buông bỏ bao nhiêu 
      nghiệp thức từ vô lượng kiếp đến nay; hãy nhìn xuống dưới gót chân của 
      mình mà suy xét cho thấu đáo để thấy đạo lý ấy là gì? Suy tới lui hốt 
      nhiên tâm hoa bừng nở, chiếu khắp mười phương. Sự chứng ngộ thì không thể 
      trao truyền dù chính các ngài biết rõ nó là cái gì. Đây là lúc các ngài có 
      thể biến đất lớn thành vàng ròng, quậy sông dài thành biển sữa. Há không 
      sướng khoái bình sinh hay sao! Vậy thì đừng phí thì giờ niệm ngôn niệm ngữ 
      mà hỏi đạo hỏi thiền nơi sách vở; bởi vì đạo thiền không ở nơi sách vở. Dù 
      cho thuộc lòng một bộ Đại Tạng cũng như Bách gia chư tử, chẳng qua là 
      những lời rỗi rãi, khi chết đi chẳng dùng được gì.”—One day he entered the 
      hall to preach his disciples: “O brothers, to be born as a human being is 
      a rare event, and so is the opportunity to listen to discourses on 
      Buddhism. If you fail to achieve emancipation in this life, when do you 
      again expect to achieve it? While still alive, be therefore assiduous in 
      practicing meditation. The practice consists of abandonments. The 
      abandonments of what? You may ask. Abandon your four elements (bhuta), 
      abandon your five aggregates (skandha), abandon all the workings of your 
      relative consciousness (karmavijnana), which you have been cherishing 
      eternity; retire within your inner being and see into the reason of it. As 
      your self-reflection grows deeper and deeper, the moment will surely come 
      upon you when the spiritual flower will suddenly burst into bloom, 
      illuminating the entire universe. The experience is incommunicable, though 
      you yourselves know perfectly well what it is. This is the moment when you 
      can transform this great earth into solid gold, and the great rivers into 
      an ocean of milk. What a satisfaction this is then to your daily life! 
      Being so, do not waste your time with words and phrases, or by searching 
      for the truth of Zen in books; for the truth is not to be found there. 
      Even if you memorize the whole Tripitaka as well as all the ancient 
      classics, they are mere idle words which are of no use whatever to you at 
      the moment of your death. ”
      
      Sư thị tịch năm 1115. Tháp cốt của sư đã được xây về phía bắc của tu viện 
      Hối Đường—He died in 1115. The master’s stupa was built north of the 
      abbot’s room at Hui-T’ang Monastery.  
      
      Ngồi: To sit. 
      
      Ngồi Bó Gối: To sit with one’s 
      arms around one’s knees. 
      
      Ngồi Chễm Chệ: To sit solemnly 
      (in state).
      
      Ngồi Không: To stay idle. 
      
      Ngồi Lì: To sit tight. 
      
      Ngồi Thiền: To sit in 
      meditative position—To meditate. 
      
      Ngồi Tréo Ngoảy: To sit with 
      one leg across (over) the other. 
      
      Ngồi Xếp Chéo Lỏng: Thế ngồi 
      Thiền theo kiểu Nhật Bản, ngồi xếp chéo lỏng, không phải bán già mà cũng 
      không phải kiết già—The loose cross-legged sitting position originated 
      from Japan. It is neither the half-lotus nor the full-lotus. 
      
      Ngồi Yên: To sit still.
      
      Ngôn: Vaca (p & skt)—Lời 
      nói—Words—Speech—To speak. 
      
      Ngôn Cú: Câu—Sentence. 
      
      Ngôn Giáo: Spoken teaching.
      
      Giáo thuyết nguyên thủy của Phật Tổ Thích Ca, chưa được ghi lại bằng chữ 
      viết cho đến đầu thế kỷ thứ nhứt Tây lịch, khi mà Tạng Kinh Pali được ghi 
      lại trên những lá kè, trong các tự viện ở Tích Lan—The original teaching 
      of the Buddha, which was not recorded in writing until the 1st century 
      B.C., when Pali canon was written on palm leaves in the monasteries in Sri 
      Lanka. 
      
      Giáo Thuyết của Đức Phật biểu hiện bằng ngôn ngữ: The teaching of Buddha 
      as embodied in words. 
      
      Ngôn Hành: Vaci-sankhara 
      (p)—Vacika-samskara (skt)—Lời nói và hành động—Saying and doing—Words and 
      deeds—Verbal functions of the mind. 
      
      Ngôn Luận: Speech. 
      
      Ngôn Ngữ: 
      Language—Words—Speech—Verbal expression. 
      
      Ngôn Thuyên: Ngôn ngữ là công 
      cụ để giải thích, làm rõ nghĩa lý, giống như cái nơm là dụng cụ để bắt 
      cá—Words as explaining meaning; explanation. 
      
      Ngôn Thuyết: See Ngôn Ngữ. 
      
      Ngôn Thuyết Pháp Tướng: See 
      Desana in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section. 
      
      Ngôn Trần: Những điều được 
      trình bày ra bằng lời nói, như pháp suy luận trong Nhân Minh Học—Things 
      set out in words, i.e. a syllogism. 
      
      Ngôn Từ: Words—Language—Trong 
      Kinh Lăng Già, Đức Phật dạy: “Chính do con người không biết rõ cái bản 
      tánh của các ngôn từ, nên người ta xem ngôn từ là đồng nhất với ý 
      nghĩa.”—In the Lankavatara Sutra, the Buddha taught: “It is owing to his 
      not perfectly understanding the nature of words that he regards them as 
      identical with the sense.”  
      
      Ngôn Y: Tùy vào ngôn ngữ mà 
      giải thích. Tất cả các pháp hữu vi đều quy vào loại có thể định nghĩa hay 
      giải thích bằng ngôn ngữ  (khác với pháp vô vi không thể gọi ra bằng tên, 
      không thể diễn tả bằng lời)—Word-dependence, i.e. that which can be 
      expressed in words, the phenomenal or describable. 
      
      Ngổn Ngang: In disorder—Out of 
      order—In confusion. 
      
      Ngộp: To feel dizzy. 
      
      Ngộp Thở: To suffocate—To 
      chock. 
      
      Ngơ Ngẩn: 
      Foolish—Feather-brained. 
      
      Ngờ Nghệch: Stupid—Idiot. 
      
      Ngờ Vực: Suspect—Doubt. 
      
      Ngỡ: To believe—To think. 
      
      Ngợi Khen: To praise—To 
      congratulate—To compliment. 
      
      Ngợm: Stupid—Idiot. 
      
      Ngớt: To die down—To decrease.
      
      Ngớt Mưa: Rain is dying down 
      (almost over). 
      
      Ngu: 
      Monkey-witted—Silly—Stupid—Ignorant. 
      
      Ngu Dại: Foolish—Stupid. 
      
      Ngu Độn: Vô minh và đần 
      độn—Ignorant and dull-witted. 
      
      Ngu Hoặc: Mê hoặc bởi vô 
      minh—Deluded by ignorant, the delusion of ignorance. 
      
      Ngu Kiến: My humble (modest) 
      opinion. 
      
      Ngu Muội: Ignorance. 
      
      Ngu Pháp: Còn gọi là Tiểu Thừa 
      Ngu Pháp, một trong hai loại Tiểu Thừa, Thanh Văn và Duyên Giác, chỉ mê 
      chấp ở ngu pháp mà không hiểu được diệu lý pháp không của Đại 
      Thừa—Ignorant, or immature law, or method, i.e. that of sravakas and 
      pratyeka-buddhas, Hinayana. 
      
      Ngu Phu: Bala (skt).
      
      Người không giác ngộ: A man not yet illuminated, i.e., ignorant.
      
      Kẻ bị vô minh chế ngự—Ignorant, immature, a simpleton, dominated by avidya 
      (ignorance). 
      
      Ngu Phu Sở Hành Thiền: 
      Balopacarikam (skt)—Theo Kinh Lăng Già, đây là một trong bốn thứ Thiền 
      định. Dù người thực hành loại Thiền định nầy bị xem là kẻ ngu si kém trí, 
      đây vẫn là một loại Thiền thông dụng mà phần đông người ta thực tập, trong 
      đó có cả những người thông minh và nhạy trí. Tuy nhiên, Đại Thừa còn đi xa 
      hơn các loại Thiền định nầy là những thứ vốn ít nhiều vẫn có tính cách 
      tương đối, thiếu tự nhiên và không phải là loại tối thượng; vì loại Thiền 
      nầy chú trọng về quán bất tịnh, về sự vô thường của các sự vật và về những 
      khổ đau của cuộc đời, vân vân, là bài học đầu tiên cho những người mới 
      nhập môn Phật giáo—According to the Lankavatara Sutra, this is one of the 
      four kinds of Dhyanas. Though he is regarded as ignorant or dull-witted 
      (bala) who practices this kind of Dhyana, this is the ordinary form of 
      meditation carried on by most people, some of whom are quiteintelligent 
      and sharp-witted. However, the Mahayana goes beyond these meditations 
      which are more or less relative and artificial and not of the highest 
      sort; for meditating on impurities, the impermanence of things, sufferings 
      of life, etc., is the first lesson for the beginners of Buddhism.  
      
      Ngu Si: Mudha (skt)—Tiếng Phạn 
      là Mộ Hà, có nghĩa tâm tính ám muội, hay vô minh và không giác ngộ, không 
      có trí sáng suốt để thông đạt sự lý (còn gọi là vô trí, vô kiến, vô hiện 
      quan, hôn muội, ngu si, vô minh, và hắc ám)—Thick-skulled 
      (headed)—Stupid—Ignorant and unenlightened. 
      
      Ngu Tăng: Vị tăng bị vô minh 
      khống chế—Ignorant monk. 
      
      Ngu Xuẩn: Foolish—Stupid. 
      
      Ngù Ngờ: Simple-minded—Nave.
      
      
      Ngủ Chập Chờn: To sleep with 
      one eye open.
      
      Ngủ Li Bì:To sleep all day 
      (around the clock). 
      
      Ngủ Mê Như Chết: To sleep 
      heavily.
      
      Ngủ Ngon: To sleep well. 
      
      Ngủ Nướng: To lie late abed. 
      
      
      Ngủ Tỉnh: To sleep with one’s 
      eyes open. 
      
      Ngũ: Panca (skt)—Five. 
      
      Ngũ A Hàm: The five Agamas:
      
      Trường A Hàm: Dirghagama.
      
      Trung A Hàm: Mahdyamagama.
      
      Tạp A Hàm: Tăng Dục Đa A Hàm—Samyuktagama.
      
      Tăng Nhất A Hàm: Ương Quật Đa La A Hàm—Ekottarikagama.
      
      Khuất Đà Ca A Hàm: Ksudrakagama.
      
      Ngũ A Hàm Thiên: See Ngũ Tịnh 
      Cư thiên.
      
      Ngũ Ác: Nivarana (skt)—The five 
      sins:
      
      Sát sanh: Killing.
      
      Trộm cắp: Stealing.
      
      Tà dâm: Sexual misconduct.
      
      Vọng ngữ: Lying.
      
      Uống chất cay độc: Drinking intoxicants.
      
      Ngũ Ác Thú: See Ngũ Thú. 
      
      Ngũ Âm: The five notes of the 
      musical scale (instrument). 
      
      Ngũ Ấm Ma: The five maras 
      associated with the five skandhas—See Ngũ Uẩn. 
      
      Ngũ Ấn: See Ngũ Độ (B).  
      
      Ngũ Ba La Mật: Năm Ba La 
      Mật—The five paramitas:
      
      Bố thí: Dana—Almsgiving.
      
      Trì giới: Sila—Commandment-keeping.
      
      Nhẫn nhục: Ksanti—Patience under provocation.
      
      Tinh tấn: Virya—Zeal.
      
      Thiền định: Dhyana—Meditation.    
      
      Ngũ Bách Dị Bộ: Năm trăm bộ 
      phái khác nhau được thành lập 500 năm sau ngày Phật nhập diệt—The five 
      hundred sects according to the five hundred years after the Buddha’s  
      death.
      
      Ngũ Bách Do Tuần: Theo Kinh 
      Pháp Hoa thì con đường đi đến đất châu bảo là con đường dài năm trăm do 
      tuần đầy khó khăn nguy hiểm—According to the Lotus Sutra, the journey to 
      the Land of Treasure is the five hundred Yojanas of difficult and perilous 
      journey. 
      
      Ngũ Bách Đại La Hán: Năm trăm 
      vị Đại La Hán là những vị đã soạn ra bộ Vi Diệu Pháp Tỳ Ba Sa Luận, bốn 
      trăm năm sau ngày Phật nhập diệt—Five hundred great arhats who formed the 
      synod under Kaniska and are supposed compilers of the 
      Abhidharma-Mahavibhasa-Sastra, four hundred years after Buddha entered 
      nirvana.
      
      Ngũ Bách Giới: 500 giới Tỳ Kheo 
      Ni, thật sự là 348—The five hundred rules for nuns, actually 348—See Giới 
      Cụ Túc. 
      
      Ngũ Bách Sinh: Five hundred 
      generations. 
      
      Ngũ Bách Thế: Five hundred 
      generations. 
      
      Ngũ Bách Vấn Sự: Năm trăm câu 
      hỏi của ngài Mục Kiền Liên hỏi Phật về vấn đề giới luật—The five hundred 
      questions of Mahamaudgalyayana to the Buddha on discipline. 
      
      Ngũ Bảo: Năm thứ quí là vàng, 
      bạc, trân châu, san hô, mã não—The five precious things such as gold, 
      silver, pearls, coral and amber.
      
      Ngũ Bảo Thiên Quan: See Ngũ 
      Phật Bảo Quan. 
      
      Ngũ Bất Chính Thực: Năm thứ 
      không hợp cho một vị Tăng ăn—Five improper things for a monk to eat:
      
      Cành non: Twigs.
      
      Lá cây: Leaves.
      
      Bông: Flowers.
      
      Trái: Fruit.
      
      Bột: Powder.
      
      Ngũ Bất Hoàn Quả: See Ngũ Tịnh 
      Cư Thiên. 
      
      Ngũ Bất Hoàn Thiên: Năm tầng 
      trời mà chúng sanh không còn bị tái sanh vào các đường dữ nữa—Five 
      Heavens-from-which-there-is-no-return because the residents do not ever 
      fall back to the lower realms. 
      ** For more information, 
      please see Ngũ Tịnh 
           Cư Thiên.
      
      Ngũ Bất Khả Tư Nghì: Theo Trí 
      Độ Luận, có năm thứ bất khả tư nghì—According to the Sastra on the 
      Prajna-Paramita Sutra, there are five inconceivable or thought-surpassing 
      or beyond mentation things.
      
      Chúng sanh vô biên bất khả tư nghì: The number of living 
      beings—Innumerable number of sentient beings is inconceivable.
      
      Nghiệp quả báo bất khả tư nghì: All the consequences of karma—Karmic 
      consequence is inconceivable.
      
      Định lực của Thiền giả là bất khả tư nghì: The powers of a state of 
      dhyana—The concentration power of a zen practitioner is inconceivable.
      
      Lực của các rồng là bất khả tư nghì: The powers of nagas—The power of 
      dragons is inconceivable.
      
      Phật pháp là bất khả tư nghì: The powers of the Budhas—The Buddha Law is 
      inconceivable. 
      
      Ngũ Bất Năng Xứ: Theo Kinh 
      Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có năm bất năng xứ (năm điều mà một vị Tỳ 
      Kheo không thể làm được)—According to the Sangiti Sutta, there are five 
      impossible things:
      
      Một vị lậu tận Tỳ Kheo không thể cố ý sát hại đời sống loài hữu tình: An 
      Arahant is incapable of deliberately taking the life of a living being.
      
      Một vị lậu tận Tỳ Kheo không thể cố ý lấy của không cho để tạo tội trôm 
      cắp: An Arahant is incapable of taking what is not given so as to 
      constitute theft.
      
      Một vị lậu tận Tỳ Kheo không thể cố ý hành dâm: An Arahant is incapable of 
      committing sexual intercourse.
      
      Một vị lậu tận Tỳ Kheo không thể tự mình biết mà nói láo: An Arahant is 
      incapable of telling a deliberate lie.
      
      Một vị lậu tận Tỳ Kheo không thể tiêu dùng các vật chứa cất vào các thú 
      vui dục lạc như khi còn là cư sĩ: An Arahant is incapable of storing up 
      goods for sensual indulgence as he did formerly in the household life. 
      
      
      Ngũ Bất Thối: Năm điều bất thối 
      theo Pháp Tướng Tông—The five non-backslidings according to the 
      Dharmalaksana:
      
      Tín Bất Thối: Never receding from the faith obtained.
      
      Vị Bất Thối: Never receding from the position attained.
      
      Chứng Bất Thối: Never receding from the realization attained.
      
      Hạnh Bất Thối: Never receding from a right course of action.
      
      Luật Nghi Bất Thối: Never receding from being in accordance with 
      procedures.  
      
      Ngũ Bí Mật: Năm vị Kim cang Bồ 
      Tát—The five Bodhisattvas of the Diamond realm:
      
      Kim Cang Tát Đỏa: Tất cả các loài chúng sanh đều có lục đại tự tánh, ở đây 
      nói về các loài hữu tình chúng sanh, được đặt ở trung tâm—Vajrasattva 
      represents the six fundamental elements of sentient existence and here 
      indicates the birth of bodhisattva sentience, in the middle.
      
      Dục Kim Cang: Bodhisattvas of Desire—Bồ tát Dục hay phàm phu mới gặp được 
      giáo thọ A Xà Lê, được đặt ở phía Đông. Dục ở đây là muốn phát tâm Bồ Đề 
      và cứu độ chúng sanh—Ordinary people who have just met the Acarya, in the 
      East—Desire is that of bodhi and the salvation of all.
      
      Xúc Kim Cang: Bồ Tát Xúc hay vị đã phát tâm Bồ Đề, tu hạnh đại bi, và muốn 
      tiếp xúc với thế giới bên ngoài để cứu độ, được đặt ở phía 
      Nam—Bodhisattvas of Contact—One who has resolved the Bodhicitta, vowed to 
      practice great loving kindness, and wanted to contact with the needy world 
      for its salvation, in the South.
      
      Ái Kim Cang:  Bodhisattvas of Love—Vị đã thành tựu Phật quả và phát nguyện 
      thương yêu chúng sanh, được đặt ở phía Tây—One who has attained the 
      Buddhahood and vowed to love all sentient beings.
      
      Mạn Kim Cang: Bodhisattvas of Pride—Vị đã tự tại nơi Niết Bàn, được đặt ở 
      phía Bắc—One who entered Nirvana (pride here means the power of nirvana), 
      in the North.  
      
      Ngũ Bí Mật Mạn Đà La: Mạn Đà La 
      gồm mười bảy hình ảnh, gồm năm vị Kim Cang Bồ Tát (see Ngũ Bí Mật) và mười 
      hai vị thị giả theo hầu—The Mandala of this group contains seventeen 
      figures representing the five esoteric Bodhisattvas with their twelve 
      subordinates.
      
      Ngũ Biên: Năm loại biên 
      kiến—The five alternatives:
      
      Thị Hữu: Things exist.
      
      Thị Vô: Things do not exist.
      
      Diệc Hữu Diệc Vô: Both exist and non-exist.
      
      Phi Hữu Phi Vô: Neither exist nor non-exist.
      
      Phi Phi Hữu, Phi Phi Vô: Neither non-exist nor are without non-existence.
      
      
      Ngũ Biến Hành: Năm loại tâm sở 
      tương ứng với mọi tâm vương—The five universal mental activities 
      associated with every thought:
      
      Tác Ý: The idea.
      
      Xúc: Contact.
      
      Thọ: Reception.
      
      Tưởng: Conception.
      
      Tư: Perception. 
      
      Ngũ Bình: Năm cái bình mà Phật 
      giáo Mật Tông dùng để dâng hoa cúng Phật, hoa trong bình được cắm chung 
      với năm quý vật, năm loại hạt và năm loại thuốc trộn với nước hoa—The five 
      vases used by the esoteric school for offering flowers to their Buddha, 
      the flowers are stuck in a mixture of the five precious things, the five 
      grains and the five medicines mingled with scented water. 
      
      Ngũ Bình Quán Đảnh: Lễ Quán 
      Đảnh với năm bình tượng trưng cho trí huệ của năm vị Phật—Baptism with 
      water of the five vases representing the wisdom of the five Buddhas—See