TỔ ĐÌNH MINH ĐĂNG QUANG
      
      PHẬT HỌC TỪ ĐIỂN
      
      
      BUDDHIST DICTIONARY
      
      
      VIETNAMESE-ENGLISH
      
      
      THIỆN PHÚC
       
      
      Pha
      
       
      
      Pha Lẫn: To mingle—To mix. 
      
      Pha Lê: 
      
      1)      Phả 
      Lê—Đá trong như pha lê, một trong bảy của báu: Sphatika (skt)—Rock 
      crystal, or a green indestructible gem, one of the seven precious 
      things—See Thất Bảo. 
      
      2)      Tên 
      một ngọn núi gần Varanasi: Name of a mountain near Varanasi. 
      
      Pha Trò: To jest—To joke—To 
      speak in jest. 
      
      Phá: 
      
      1)      Đả 
      phá: To disprove—To refute—To negate—To cause schism. 
      
      2)      Phá 
      đám: To break—To disrupt. 
      
      3)      Phá 
      hoại: Phá hủy—To destroy—To demolish. 
      
      Phá Ám Mãn Nguyện: Phá tan vô 
      minh tối ám và làm tròn lời nguyện, như Đức Phật A Di Đà—To destroy 
      darkness or ignorance and fulfil the Buddha’s vow, i.e. that of Amitabha.
      
      
      Phá Bồ Đề: Upasanti 
      (skt)—Calm—Tranquility. 
      
      Phá Chánh: Phá bỏ chân lý—To 
      deny the truth, e.g. heresy.
      
      Phá Chánh Hiển Tà: To deny the 
      truth and support the evil. 
      
      Phá Chánh Mệnh: Cuộc sống không 
      theo đúng theo chánh mệnh—An incorrect or wrong form of livelihood—See Bát 
      Chánh Đạo (5).
      
      Phá Chấp: 
      
      1)      Phá bỏ 
      hay phản bác những mê chấp tà kiến: To refute tenets. 
      
      2)      Phản 
      bác niềm tin nơi thực ngã hay thực pháp, nghĩa là sự có thật của một cái 
      ngã và chư pháp: To refute the belief in the reality of the ego and 
      things.
      
      Phá Chấp Nhị Biên: To sever 
      dualistic attachments. 
      
      Phá Địa Ngục: Phá vỡ cửa địa 
      ngục bằng cách tụng đọc kinh kệ giải thoát cho người quá vãng—To break 
      open the gates of hells by chants or incantations for the release of a 
      departed spirit.   
      
      Phá Gia: To ruin one’s family.
      
      
      Phá Giới: 
      
      1)      Người 
      đã thọ giới lại tự mình hay do sự xúi dục mà phá giới: Theo sách Thập 
      Luân, vị Tỳ Kheo phá giới, tuy đã chết nhưng dư lực của giới ấy vẫn còn 
      bảo đường cho nhân thiên, ví như hương của ngưu hoàng xạ. Phật do đó mà 
      thuyết bài kệ: “Thiệm bạc hoa tuy ny, thắng ư nhứt thiết hoa, phá giới chư 
      Tỳ Kheo, do thắng chư ngoại đạo,” nghĩa là hoa thiệm bạc tuy héo vẫn thơm 
      hơn các thứ hoa khác, các Tỳ Kheo tuy phá giới nhưng vẫn còn hơn hết thảy 
      ngoại đạo)—To violate (break) religious commandments. 
      
      2)      Trong 
      Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới 48 giới khinh điều thứ 36, Đức Phật dạy:  “Thà 
      rót nước đồng sôi vào miệng, nguyện không để miệng nầy phá giới khi hãy 
      còn thọ dụng của cúng dường của đàn na tín thí. Thà dùng lưới sắt quấn 
      thân nầy, nguyện không để thân phá giới nầy tiếp tục thọ nhận những y phục 
      của tín tâm đàn việt.”—The Buddha taught in the thirty-sixth of the 
      forty-eight secondary precepts in the Brahma-Net Sutra: "I vow that I 
      would rather pour boiling metal in my mouth than allow such a mouth ever 
      to break the precepts and still partake the food and drink offered by 
      followers. I would rather wrap my body in a red hot metal net than allow 
      such a body to break the precepts and still wear the clothing offered by 
      the followers.”    
      
      3)      Những 
      lời Phật dạy về Phá Giới trong Kinh Pháp Cú—The Buddha’s teachings on 
      “Breaking Precepts” in the Dharmapada Sutra: 
      
      a)      Sự phá 
      giới làm hại mình như dây mang-la bao quanh cây Ta-la làm cho cây nầy khô 
      héo. Người phá giới chỉ là người làm điều mà kẻ thù muốn làm cho 
      mình—Breaking commandments is so harmful as a creeper is strangling a sala 
      tree. A man who breaks commandments does to himself what an enemy would 
      wish for him (Dharmapada 162).
      
      b)      Phá 
      giới chẳng tu hành, thà nuốt hườn sắt nóng hừng hực lửa đốt thân còn hơn 
      thọ lãnh của tín thí—It is better to swallow a red-hot iron ball than to 
      be an immoral and uncontrolled monk feeding on the alms offered by good 
      people (Dharmapada 308).
      
      c)      Buông 
      lung theo tà dục, sẽ chịu bốn việc bất an: mắc tội vô phước, ngủ không 
      yên, bị chê là vô luân, đọa địa ngục—Four misfortunes occur to a careless 
      man who commits adultery: acquisition of demerit, restlessness, moral 
      blame and downward path (Dharmapada 309). 
      
      d)      Vô 
      phước đọa ác thú bị khủng bố, ít vui, quốc vương kết trọng tội: đó là kết 
      quả của tà dâm. Vậy chớ nên phạm đến—There is acquisition of demerit as 
      well as evil destiny. No joy of the frightened man. The king imposes a 
      heavy punishment. Therefore, man should never commit adultery (Dharmapada 
      310).  
      
      e)      Cũng 
      như vụng nắm cỏ cô-sa (cỏ thơm) thì bị đứt tay, làm sa-môn mà theo tà hạnh 
      thì bị đọa địa ngục—Just as kusa grass cuts the hand of those who wrongly 
      grasped. Even so the monk who wrongly practised ascetism leads to a woeful 
      state (Dharmapada 311). 
      
      f)        
      Những người giải đãi, nhiễm ô và hoài nghi việc tu phạm hạnh, sẽ không làm 
      sao chứng thành quả lớn—An act  carelessly performed, a broken vow, and a 
      wavering obedience to religious discipline, no reward can come from such a 
      life (Dharmapada 312).
      
      g)      Việc 
      đáng làm hãy làm cho hết sức! Phóng đãng và rong chơi chỉ tăng thêm trần 
      dục mà thôi—Thing should be done, let’s strive to do it vigorously, or do 
      it with all your heart. A debauched ascetic only scatters the dust more 
      widely (Dharmapada 313). 
      
      h)      Không 
      tạo ác nghiệp là hơn, vì làm ác nhứt định thọ khổ; làm các thiện nghiệp là 
      hơn, vì làm lành nhứt định thọ vui—An evil deed is better not done, a 
      misdeed will bring future suffering. A good deed is better done now, for 
      after doing it one does not grieve (Dharmapada 314).  
      
      i)        Như 
      thành quách được phòng hộ thế nào, tự thân các ngươi cũng phải nên phòng 
      hộ như thế. Một giây lát cũng chớ buông lung. Hễ một giây lát buông lung 
      là một giây lát sa đọa địa ngục—Like a frontier fortress is well guarded, 
      so guard yourself, inside and outside. Do not let a second slip away, for 
      each wasted second makes the downward path (Dharmapada 315).
      
      Phá Hạ: Phá hoại an cư kiết hạ, 
      nghĩa là không tuân thủ theo những cấm túc của ba tháng an cư—To neglect 
      the summer retreat.
      
      Phá Hại: To ruin—To ravage. 
      
      Phá Hòa Hợp Tăng: 
      Sanghabheda—Phá vỡ sự hòa hợp trong cộng đồng Tăng Ni và gây ra xáo trộn 
      bởi những ý kiến tà vạy—To disrupt the harmony of the community of monks 
      to cause schism by heretical opinions.
      
      Phá Hoại: To sabotage—To 
      destroy.
      
      Phá Hoại Thiện: 
      
      1)      Hủy 
      hoại thiện nghiệp: To destroy good.
      
      2)      Tên 
      của một loài ma vương: Name of a Mara. 
      
      Phá Hoại Thiện Ma Vương: Mara 
      who destroys of good.
      
      Phá Hủy: To destroy—To 
      demolish. 
      
      Phá Hư: To disable. 
      
      Phá Hữu: 
      
      1)      Phá bỏ 
      sự tin tưởng cho rằng vạn hữu là có thật: To refute the belief in the 
      reality of things.
      
      2)      Đức 
      Như Lai thị hiện để phá bỏ sự sinh tử trong ba cõi: To break the power of 
      transmigration as does the Buddha.
      
      Phá Kỷ Lục: To break (beat) the 
      record. 
      
      Phá Lập: Còn gọi là Già Chiếu, 
      nghĩa là phá bỏ cái lý đặc thù để hiển hiện cái lý phổ quát, hay ngược 
      lại. Phá vạn pháp để hiển hiện cái lý chân không gọi là phá; bàn về lẽ 
      duyên khởi của vạn pháp để hiển hiện cái nghĩa của diệu hữu gọi là lập 
      (Phá Lập là học thuyết của hai phái “Không Môn tông Tam Luận” và “Hữu Môn 
      tông Pháp Tướng.” Tông Tam Luận dựa vào Không Môn mà phá chư pháp, tông 
      Pháp Tướng dựa vào Hữu Môn mà lập chư pháp)—Refuting and establishing; by 
      refuting to prove, or to establish, i.e. in refuting the particular to 
      prove the universal, and vice versa. 
      
      Phá Ma: Phá diệt ác ma—To 
      overcome the maras or exorcise demons. 
      
      Phá Môn: Rời bỏ tông môn—To 
      leave a sect, to break the door.
      
      Phá Nát: To destroy completely.
      
      
      Phá Ngục: To break open a 
      prison. 
      
      Phá Nhan Vi Tiếu: Phá lên cười, 
      tướng giác ngộ của Ngài Ca Diếp, khi Đức Phật tuyên bố rằng pháp của Ngài 
      là tâm truyền tâm. Đây chính là chỉ giáo của Thiền Tông—To break into a 
      smile, the mark of Kasyapa’s enlightenment when Buddha announced on 
      Vulture Peak that he had a teaching which was propagated from mind to 
      mind, a speech taken as authoritative by the Intuitional School. 
      
      Phá Pháp: Hủy bỏ chánh pháp 
      bằng cách dùng tà kiến để phá bỏ chánh pháp của Như Lai (chẳng tu theo 
      kinh luật, chẳng nghe lời khuyên bảo của các bậc tôn túc, mà ngược lại đui 
      tu mù luyện theo thói của tà kiến ngoại đạo, để đi đến phạm giới và thích 
      theo thế tục)—To break the Buddha law, e.g. by the adoption of heresy.
      
      Phá Quấy: To disturb. 
      
      Phá Sản: To go bankrupt. 
      
      Phá Sập: To pull down. 
      
      Phá Tà Hiển Chánh: Phá bỏ tà 
      chấp tà kiến tức là làm rõ chánh đạo chánh kiến—To break or disprove the 
      false and make manifest the right—Theo Tam Luận Tông, học thuyết Tam Luận 
      Tông có ba khía cạnh chính, khía cạnh đầu tiên là ‘phá tà hiển chánh.’ Phá 
      tà là cần thiết để cứu độ chúng sanh đang đắm chìm trong biển chấp trước, 
      còn hiển chánh cũng là cần thiết vì để xiển dương Phật pháp—According to 
      the Madhyamika School, the doctrine of the school has three main aspects, 
      the first aspect is the “refutation itself of a wrong view, at the same 
      time, the elusidation of a right view.”  Refutation is necessary to save 
      all sentient beings who are drowned in the sea of attachment while 
      elucidation is also important in order to propagate the teaching of the 
      Buddha. 
      
      1)      Phá 
      Tà—Refutation of all wrong views: Phá tà là phủ nhận tất cả những quan 
      điểm y cứ trên sự chấp trước. Như thế những quan điểm như thuyết về ‘Ngã’ 
      của các triết gia Bà La Môn, thuyết ‘Đa Nguyên Luận’ của các luận sư A Tỳ 
      Đàm và Câu Xá, cũng như những nguyên tắc độc đoán của các luận sư Đại 
      Thừa, không bao giờ được thông qua mà không bị bài bác chi ly. ‘Hữu’ hay 
      tất cả đều có, cũng như ‘không’ hay tất cả đều không đều bị chỉ 
      trích—Refutation means to refute all views based on attachment. Also views 
      such as the ‘self’ or atman, the theory of Brahmanic philosophers. The 
      pluralistic doctrines of the Buddhist Abhidharma schools (Vaibhasika, 
      Kosa, etc) and the dogmatic principles of Mahayana teachers are never 
      passed without a detailed refutation. The Realistic or all exists, and the 
      Nihilistic or nothing exists are equally condemned. 
      
      2)      Hiển 
      Chánh—Elucidation of a right view—Theo Giáo Sư Takakusu trong Cương Yếu 
      Triết Học Phật Giáo, Tam Luận Tông luận rằng chân lý chỉ có thể đạt được 
      bằng cách phủ định hay bài bác các tà kiến bên trong và bên ngoài Phật 
      giáo, cũng như những sai lầm của Đại thừa và Tiểu thừa. Khi ôm giữ tà kiến 
      sai lầm, con người sẽ mù quáng trong phán đoán. Làm sao mà một người mù  
      có thể có được cái thấy đúng, và nếu không có nó thì không bao giờ tránh 
      được hai cực đoan. Cứu cánh vọng ngôn tuyệt lự là buổi bình minh của trung 
      đạo. Phá tà và chỉ  có phá tà mới dẫn đến cứu cánh chân lý. Con đường giữa 
      hay con đường xa lìa danh và tướng là con đường hiển chánh—According to 
      Prof. Takakusu in The Essentials of Buddhist Philosophy, the Madhyamika 
      School strongly believed that the truth can be attained only by negation 
      or refutation of wrong views within and without Buddhism, and of errors of 
      both the Great and Small Vehicles. When retaining wrong views or error, 
      one will be blind to reason. How can a blind man get a right view without 
      which the two extremes can never be avoided? The end of verbal refutation 
      is the dawn of the Middle Path. Refutation and refutation only, can lead 
      to the ultimate truth.  The Middel Path, which is devoid of name and 
      character is really the way of elucidation of a right view.      
      
      Phá Tà Tức Hiển Chánh: See Phá 
      Tà Hiển Chánh. 
      
      Phá Quỷ: To overcome all the 
      maras.
      
      Phá Táo Đọa: Theo Thiền Luận, 
      Tập II của Thiền sư D.T. Suzuki, Phá Táo Đọa là cái tên mà Thiền sư Huệ An 
      đặt cho một đệ tử của mình ở Tung Nhạc. Nghĩa đen là bếp hư đổ, chỉ  cho 
      biến cố trong đời sống của một Thiền sư không tên tuổi, nhờ đấy mà được 
      chú ý—The P’o-Tsao-To is the name given by Zen master Hui-An to one of his 
      disciples at Tsung-Yueh. It literally means, ‘a broken range falen to 
      pieces,’ which illustrates an incident in the life of a nameless Zen 
      master, whereby he became famous.  
      
      ·       
      Tại một làng vùng núi Tung Nhạc, có một cái miếu  bên trong 
      điện có để một bếp lửa. Dân ở gần xa đến tế tự bếp lửa nầy không ngớt, họ 
      luộc rất nhiều thú vật để cúng. Một hôm có nhà sư vô danh dẫn các Tăng hầu 
      vào miếu. Sư lấy gậy gõ vào bếp ba lần, và bảo: “Chặc! Bếp ơi là bếp! Mi 
      há không phải chỉ là bùn gạch hiệp thành sao? Thánh linh đâu nơi mi vậy? 
      Sao mi đòi luộc nhiều mạng thú vật để cúng như thế?” Nói xong, ông lại gõ 
      vào bếp ba lần nữa. Bếp liền nghiêng đổ xuống đất vỡ ra từng mảnh—There 
      was a shrine in one of the Tsung-Yueh villages where a lonely range was 
      kept. This was the object of worship for the country people far and near, 
      who here roasted alive many animals for sacrifice. One day a nameless monk 
      appeared in the shrine accompanied by his attendants. He struck the range 
      three times  with his staff, and said: “Tut! O you an old range, are you 
      not a mere composite of brick and clay? Whence your holiness? Whence your 
      spirituality? And yet you demand so many animals roasted alive for 
      sacrifice!” So saying, the master struck the range for another three 
      times. The range then tipped by itself, and falling on the ground broke in 
      pieces. 
      
      ·       
      Chốc lát, có một người đến gần sư cúi đầu lạy. Sư hỏi ông là 
      ai. Y đáp: “Tôi là Táo thần của miếu nầy. Tôi ở đây rất lâu do nghiệp báo 
      đời trước của mình. Nay nhờ nghe ‘pháp vô sinh’ của thầy mà thoát khỏi 
      ràng buộc và được thác sinh lên trời. Nay tôi đến đây để bái tạ Thầy.” Sư 
      bảo: “Vô sinh là bản tánh của ngươi, chẳng phải nhờ ta thuyết pháp.” Thần 
      bếp lạy và biến mất—After a while there suddenly appeared a man, and 
      approaching the master bowed reverentially to him. The master asked wo he 
      was, and he answered: “I am the spirit of the range enshrined here. I have 
      been here for a long time owing to my previous karma. But listening to 
      your sermon on the doctrine of no-birth, I am now released from the 
      bondage and born in the heavens. To offer my special thanks to you I have 
      come.” Said the master: “No-birth is the original nature of your being. No 
      sermonizing of mine was needed.” The heavenly being bowed again and 
      vanished.  
      
      ·       
      Sau đó, các Tăng hầu và các người khác hỏi sư: “Chúng con 
      theo hầu thầy rất lâu, nhưng chưa hề được nghe chính ngài giảng pháp. Táo 
      thần được ngài dạy cho pháp gì mà có thể thác sinh ngay trên trời?”—Later 
      on the attendant-monks and others asked the master: “We have been with you 
      for ever so ong, but we have never been permitted to listen to your 
      personal discourses on the Dharma. What effective teaching did the 
      range-spirit get from you which enabled him to be born immediately in the 
      heavens?” 
      
      ·       
      Sư nói: “Ta chỉ bảo nó là nó, do bùn gạch hiệp thành, chứ 
      chẳng có đạo lý gì khác dạy riêng cho nó.”—The master said: “What I told 
      him was simply that he was a composite of brick and clay; I had no further 
      teaching specially meant for him.”
      
      ·       
      Các tăng hầu và những người khác đứng im không nói. Sư lên 
      tiếng: “Hiểu không?”—The attendant-monks and others stood quietly without 
      a saying a word. The master remarked, “Do you understand?”
      
      ·       
      Vị chủ sự thưa: “Bẩm, chúng con không hiểu.”—The chief 
      secretary of the monastery said: “No, we do not.”
      
      ·       
      Sư tiếp lời: “Tánh bản hữu của hết thảy các pháp. Tại sao 
      các ông không hiểu?”—The master continued: “The original nature of all 
      beings, why do you not understand it?” 
      
      ·       
      Các thầy Tăng bèn lạy, sư liền bảo: “Đổ rồi! Đổ rồi! Vỡ rồi! 
      Vỡ rồi!”—The monks all made bows to the master, whereupon exclaimed the 
      master: “It’s fallen, it’s fallen. It’s broken to pieces, it’s broken to 
      pieces!” 
      Năm và nơi sư thị tịch 
      không ai rõ—His whereabout and when he passed away were unknown. 
      
      Phá Tăng: 
      
      1)      Phá 
      Pháp Luân Tăng: Phá rối sự thiền định của vị Tăng, hay đưa ra một pháp để 
      đối lập với Phật pháp (như trường hợp Đề Bà Đạt Đa)—To break, destroy or 
      disrupt a monk’s meditation or preaching, as in the case of Devadatta.
      
      2)      Phá 
      Yết Ma Tăng: Sanghabheda (skt)—Phá hòa hợp Tăng, cùng trong một giới mà 
      đưa ra ý kiến ngoại đạo hay lập ra loại yết ma khác để phá vở sự hòa hợp 
      của yết ma Tăng—Disrupt the harmony of the community of monks, to cause 
      schism, e.g. by heretical opinions. 
      
      Phá Thai: Abortion—Terminating 
      life of a fetus—According to Buddhist scriptures, abortion is a grave 
      offence. 
      
      Phá Trai: Ngã mặn—Phá luật trai 
      giới của tịnh xá, hoặc ăn sái giờ, hình phạt cho sự phá giới nầy là địa 
      ngục hoặc trở thành ngạ quỷ, những con ngạ quỷ cổ nhỏ như cây kim, bụng 
      ỏng như cái trống chầu, hoặc có thể tái sanh làm súc sanh (Phật tử tại gia 
      không bắt buộc trường chay; tuy nhiên, khi đã thọ bát quan trai giới trong 
      một ngày một đêm thì phải trì giữ cho tròn. Nếu đã thọ mà phạm thì phải 
      tội cũng như trên)—To break the monastic rule of the regulation food, or 
      time for meals, for which the punishment is hell, or to become a hungry 
      ghost like with throats small as needles and distended bellies, or become 
      an animal. 
      
      Phá Tướng Tông: Tông phái phá 
      bỏ sự chấp tướng—The sect held the unreality of all things. 
      
      1)      Tông 
      phái Phá Tướng đầu tiên sáng lập bởi ngài Vĩnh Minh, phá bỏ sự chấp tướng: 
      The first sect founded by Yung Ming (Vĩnh Minh) which held the unreality 
      of all things.
      
      2)      Tông 
      Phá Tướng thứ hai do ngài Tịnh Ảnh sáng lập: The second sect founded by 
      Ching-Ying.
      
      3)      Tông 
      Phá Tướng thứ ba do ngài Huệ Viễn sáng lập: The third sect founded by 
      Hui-Yuan. 
      
      Phà:
      
      1)      Chiếc 
      phà: Ferry-boat. 
      
      2)      Phà 
      khói: To puff out (exhale) smoke. 
      
      Phả: Kha 
      khá—Quite—Very—Somewhat—Partial. 
      
      Phả La: Phala 
      (skt)—Quả—Fruit—Produce—Progeny—Profit. 
       
      
      Phả La Đọa: Bharadvaja (skt).
      
      1)      Còn 
      gọi là Phả La Trá, dòng dõi của một trong sáu họ Bà La Môn: Descendant of 
      the ancient sage Bharadvaja, interpreted as one of the six Brahmin  
      surnames.
      
      2)      Lợi 
      căn hay thông minh: Also has the meaning of keen mind, or clever. 
      
      Phả Lê: Rock crystal—See Pha 
      Lê. 
      
      Phả Ni Đa: Phanita (skt)—Đường 
      mía—The inspissated juice of the sugar can, or raw sugar. 
      
      Phác Họa: To outline—To sketch.
      
      
      Phách: 
      
      1)      Rọc ra 
      hay tách ra: To split—To tear—To rend. 
      
      2)      Vuông 
      khăn—Kerchief—Veil. 
      
      3)      Vỗ: To 
      clap (hands). 
      
      Phách Chưởng: Phách Thủ, lệ vỗ 
      tay lúc bắt đầu và lúc chấm dứt cuộc lễ của phái Chân Ngôn—Clapping of 
      hands at the beginning and end of worship, a Shingon custom. 
      
      Phách Lối: To be haughty 
      
      Phách Tiễn Cấp: Nhanh như tên 
      lướt gió hay chẻ gió—Rapid as an arrow cleaving the air.
      
      Phai Mờ: To fade.
      
      Phái: 
      
      1)      Đề cử: 
      To delegate—To detach. 
      
      2)      Môn 
      phái: School—Sect (môn phái). 
      
      Phái Đoàn: Delegation—Mission.
      
      
      Phải: 
      
      1)      Bên 
      phải: Right. 
      
      2)      Cần 
      phải: To have to—Must—Should—Ought to. 
      
      3)      Đúng: 
      Right. 
      
      Phải Chăng: Reasonable. 
      
      Phải Quấy: Right or wrong. 
      
      Phải Trái: Right or left—Right 
      or wrong. 
      
      Phàm: 
      Common—Ordinary—Everybody. 
      
      Phàm Chủng: Common 
      seed—Ordinary people.
      
      Phàm Dân: Common people.
      
      Phàm Lệ: Foreword. 
      
      Phàm Lự: The anxieties of 
      common or unconverted men.
      
      Phàm Ngu: Common, ignorant, or 
      unconverted men.
      
      Phàm Phu: 
      
      (I)     Nghĩa 
      của Phàm Phu—The meanings of ordinary people:
      
      1)      Người 
      phàm hay người thường: Sinner—A sane man—Ordinary man—Worldly man—The 
      sinner—Secular people—Common people—The unenlightened—A common fellow. 
      
      2)      Đệ tử 
      Phàm phu: Đệ tử chưa chứng ngộ—Unenlightened disciples—There are two kinds 
      of ordinary disciples:
      
      a)      Nội 
      Phàm: Đang trên đường giải thoát—The inner or higher ranks of ordinary 
      disciples who are on the road of liberation.  
      
      b)      Ngoại 
      Phàm: Chưa được tự tại—Lower grades who are not on the road of liberation 
      yet. 
      
      (II)  Những 
      lời Phật dạy về Phàm Phu trong Kinh Pháp Cú—The Buddha’s teachings on 
      ordinary people in the Dharmapada Sutra:
      
      1)      Đêm 
      rất dài với những kẻ mất ngủ, đường rất xa với kẻ lữ hành mỏi mệt. Cũng 
      thế, vòng luân hồi sẽ tiếp nối vô tận với kẻ ngu si không minh đạt chánh 
      pháp—Long is the night to the wakeful; long is the road to him who is 
      tired; long is samsara to the foolish who do not know true Law (Dharmapada 
      60).
      
      2)      Không 
      được kết bạn với kẻ hơn mình, không được kết bạn với kẻ ngang mình, thà 
      quyết chí ở một mình tốt hơn kết bạn với người ngu muội—If a traveler does 
      not meet a companion who is better or at least equal, let him firmly 
      pursue his solitary career, rather than being in fellowship with the 
      foolish (Dharmapada 61). 
      
      3)      “Đây 
      là con ta, đây là tài sản ta,” kẻ phàm phu thường lo nghĩ như thế, nhưng 
      chẳng biết chính ta còn không thiệt có, huống là con ta hay tài sản 
      ta?—These are my sons; this is my wealth; with such thought a fool is 
      tormented. Verily, he is not even the owner of himself. Whence sons? 
      Whence wealth?  (Dharmapada 62). 
      
      4)      Ngu mà 
      tự biết ngu, tức là trí, ngu mà tự xưng rằng trí, chính đó mới thật là 
      ngu—A foolish man who knows that he is a fool, for that very reason a wise 
      man; the fool who think himself   wise, he is indeed a real fool 
      (Dharmapada 63).
      
      5)      Người 
      ngu suốt đời gần gũi người trí vẫn chẳng hiểu gì Chánh pháp, ví như cái 
      muỗng múc canh luôn mà chẳng bao giờ biết được mùi vị của canh—If a fool 
      associates with a wise man even all his life, he will understand the 
      Dharma as litle as  a spoon tastes the flavour of soup (Dharmapada 64).
      
      
      6)      Người 
      trí dù chỉ gần gủi người trí trong khoảnh khắc cũng hiểu ngay được Chánh 
      pháp, chẳng khác gì cái lưỡi dù mới tiếp xúc với canh  trong khoảnh khắc, 
      đã biết ngay được mùi vị của canh—An intelligent person associates with a 
      wise man, even for a moment, he will quickly understand the Dharma, as the 
      tongue tastes the flavour of soup (Dharmapada 65). 
      
      7)      Kẻ 
      phàm phu không giác ngộ nên đi chung với cừu địch một đường. Cũng thế, 
      những người tạo ác nghiệp nhất định phải cùng ác nghiệp đi đến khổ báo—A 
      fool with little wit, goes through life with the very self as his own 
      greatest enemy. In the same manner, evil doers do evil deeds,  the fruit 
      of which is bitter (Dharmapada 66).  
      
      8)      Những 
      người gây điều bất thiện, làm xong ăn năn khóc lóc, nhỏ lệ dầm dề, vì biết 
      mình sẽ phải thọ lấy quả báo tương lai—The deed is not well done of which 
      a man must repent, and the reward of which he receives, weeping, with 
      tearful face; one reaps the fruit thereof (Dharmapada 67).
      
      9)      Những 
      người tạo các thiện nghiệp, làm xong chẳng chút ăn năn, còn vui mừng hớn 
      hở, vì biết mình sẽ thọ lấy quả báo tương lai—The deed is well done when, 
      after having done it, one repents not, and when, with joy and pleasure, 
      one reaps the fruit thereof (Dharmapada 68).
      
      10)  Khi ác 
      nghiệp chưa thành thục, người ngu tưởng như đường mật, nhưng khi ác nghiệp 
      đã thành thục, họ nhứt định phải chịu khổ đắng cay—As long as the evil 
      deed done does not bear fruit, the fool thinks it is as sweet as honey;  
      but when it ripens, then he comes to grief (Dharmapada 69).
      
      11)  Từ tháng 
      này qua tháng khác, với món ăn bằng đầu ngọn cỏ Cô-sa (cỏ thơm), người ngu 
      có thể lấy để nuôi sống, nhưng việc làm ấy không có giá trị bằng một phần 
      mười sáu của người tư duy Chánh pháp—Let a fool, month after month, eats 
      only as much food as can be picked up on the tip of a kusa blade; but he 
      is not worth a sixteenth part of them who have comprehended the truth 
      (Dharmapada 70). 
      
      12)  Người cất 
      sửa bò, không phải chỉ  sáng chiều đã thành ra vị đề hồ được. Cũng thế, kẻ 
      phàm phu tạo ác nghiệp tuy chẳng cảm thụ quả ác liền, nhưng nghiệp lực vẫn 
      âm thầm theo họ như lửa ngún giữa tro than—An evil deed committed may not 
      immediately bear fruit, just as newl drawn milk does not turn sour at 
      once. In the same manner,  smouldering, it follows the fool like fire 
      covered with ashes (Dharmapada 71).
      
      13)  Kẻ phàm 
      phu, lòng thì muốn cầu được trí thức mà hành động lại dẫn tới diệt vong, 
      nên hạnh phúc bị tổn hại mà trí tuệ cũng tiêu tan—The knowledge and fame 
      that the fool gains , so far from benefiting; they destroy his bright lot 
      and cleave his head (Dharmapada 72). 
      
      14)  Kẻ ngu 
      xuẫn thường hay muốn danh tiếng mà mình không xứng: chỗ ngồi cao trong 
      Tăng chúng, oai quyền trong Tăng lữ, danh vọng giữa các gia tộc khác—The 
      fool always desire for an undue reputation or undeserved honour, 
      precedence among the monks, authority in the monasteries, honour among 
      other families (Dharmapada 73).  
      
      15)  Hãy để 
      cho người Tăng kẻ tục nghĩ rằng “sự nầy do ta làm, trong mọi việc lớn hay 
      nhỏ đều do nơi ta cả.” Kẻ phàm phu cứ tưởng lầm như thế, nên lòng tham lam 
      ngạo mạn tăng hoài—Let both monks and laymen think, “by myself was this 
      done; in every work, great or small, let them refer to me.” Such is the 
      ambition of the fool; his desires and pride increase (Dharmapada 74). 
      
      16)  
      Một đàng đưa tới thế gian, một đàng đưa tới Niết bàn, hàng 
      Tỳ kheo đệ tửø Phật, hãy biết rõ như thế, chớ nên tham đắm lợi lạc thế 
      gian để chuyên chú vào đạo giải thoát—One is the path that leads to 
      worldly gain, and another is the path leads to nirvana. Once understand 
      this, the monks and the lay disciples of the Buddha, should not rejoice in 
      the praise and worldly favours, but cultivate detachment (Dharmapada 75).
      
      
      Phàm Phu Kiêu Ngạo: Boastful 
      secular people.
      
      Phàm Phu Tánh: The common 
      underlying nature of all men.
      
      Phàm Phúc: Phước báo nhơn 
      thiên—The ordinary blessedness of devas and men as compared with that of 
      the converted. 
      
      Phàm Sở Hữu Tướng, Giai Thị Hư Vọng. Nhược 
      Kiến Chư Tướng Phi Tướng, Tức Kiến Như Lai: Theo Kinh Kim Cang, 
      Đức Phật dạy: “Bất cứ vật gì hễ có hình tướng đều là giả dối. Nếu thấy các 
      tướng không phải hình tướng, như thế mới tạm gọi là thấy được Như Lai.”—In 
      the Diamond Sutra, the Buddha taught: “All forms and phenomena are 
      illusive. If one can see beyond forms, one sees the Tathagata.” 
      
      Phàm Sư: Vị sư chưa giác ngộ 
      chân lý mà Phật đã giảng dạy—Ordinary or worldly teachers who are 
      unenlightened by Buddhist truth.
      
      Phàm Tánh: Common nature of all 
      men.
      
      Phàm Tăng: Phàm Tăng ngược lại 
      với Thánh Tăng (những vị Tăng đã có công đức sâu dầy, đạo cao đức 
      trọng)—The ordinary practicing monk, as contrasted with the holy monk 
      (Thánh Tăng) who has achieved higher merit.
      
      Phàm Thánh: Sinners and Saints.
      
      Phàm Thánh Bất Nhị: Phàm Thánh 
      đều cùng có bổn tánh như nhau: Phật tánh—Sinners and saints are of the 
      same fundamental nature: Buddha-nature. 
      
      Phàm Thánh Đồng Cư Địa: Thế 
      giới nầy nơi mà Thánh phàm đồng cư—This world, where saints and sinners 
      dwell together.
      
      Phàm Thánh Nhứt Như: Phàm Thánh 
      bất nhị—Sinners and Saints are of the same fundamental nature—See Phàm 
      Thánh Bất Nhị and Sinh Phật Nhứt Như.
      
      Phàm Thân: The common mortal 
      body—The ordinary individual.
      
      Phàm Thức: Ordinary knowledge.
      
      Phàm Tập: The practices, good 
      and evil, of common or unconverted men.
      
      Phàm Tình: Desires or passions 
      of the unconverted. 
      
      Phàm Tục: Thói thường tốt hay 
      xấu của phàm nhân—Mundane—Earthly—Ordinary—Common—The practices, good or 
      evil, of common or unconverted men. 
      
      Phạm: 
      
      1)      Phạm 
      Thiên: Brahman (skt)—Supreme Being regarded as impersonal. 
      
      a)      Thanh 
      Tịnh: Celibate and pure.
      
      b)      Ly 
      Dục: Giving up desires. 
      
      2)      Phạm 
      Tội: To violate—To commit—To offend against—To break the law. 
      
      3)      Phạm 
      trù: Khuôn phép—Pattern—Rule—Method. 
      
      Phạm Âm: 
      
      1)      Brahma 
      voice, one of the thirty-two marks of a Buddha:
      
      a)      Tiếng 
      nói trong trẻo: The voice is clear.
      
      b)      Tiếng 
      nói hòa nhã: The voice is melodious.
      
      c)      Tiếng 
      nói thanh tịnh (chính trực): The voice is pure.
      
      d)      Tiếng 
      nói sang sảng: The voice is deep.
      
      e)      Tiếng 
      nói ấy ngân vang, ở nơi xa cũng nghe thấy: The voice is far-reaching.
      
      2)      Tiếng 
      ca hay tụng tán thán Phật: Singing in praise of Buddha.
      **   For more information, 
      please see Âm 
             Thanh Của Đức Như 
      Lai.
      
      Phạm Bổn: Những bộ kinh bằng 
      tiếng Phạn (Ấn Độ)—Sutras in the Indian language. 
      
      Phạm Ca Di: Brahma-kayikas 
      (skt)—Tên của chư Thiên ở cõi sơ thiền sắc giới—The Brahma-devas in the 
      first dhyana in the realm of form. 
      
      Phạm Chí: 
      
      1)      
      Brahmacarin (skt): Người xuất gia học Thánh điển và tu hành phạm 
      hạnh—Studying sacred learning; practising continence or chasity.
      
      2)      
      Brahamacari (skt): Người trẻ Bà La Môn tu tập giai đoạn đầu trong bốn giai 
      đoạn đi vào Phạm Thiên—Young Brahman in his first sarama or period of 
      life; ther are four such periods.
      
      3)      Người 
      Phật tử xuất gia tu đời thanh tịnh: A Buddhist ascetic with his will set 
      on purity. 
      
      Phạm Chung: Đại Hồng Chung của 
      tự viện—The temple or monastery bell. 
      
      Phạm Chúng: Chư Tăng Ni—Monks 
      and nuns. 
      
      Phạm Chúng Thiên: 
      Brahmaparisadya or Parsadya (skt)—Các vị chư Thiên ở cõi trời sơ thiền 
      thuộc sắc giới (Phạm Thiên giới được chia làm ba cấp, các vị chư thiên ở 
      hạ cấp thì được gọi là Phạm Chúng Thiên)—The assembly of Brahmadevas, 
      belonging to the retinue of Brahma; the first Brahmaloka; the first region 
      of the first dhyana heaven of form.
      ** For more information, 
      please see Phạm 
           Thiên (B).  
      
      Phạm Chương: Brahmavastu 
      (skt)—Sách học vần Phạn ngữ gồm 12 chương—A Sanskrit syllabary in twelve 
      parts.  
      
      Phạm Cung: 
      
      1)      Cung 
      điện của Phạm Thiên: Brahma’s palace.
      
      2)      Chùa: 
      Buddhist temple. 
      
      3)      Phạm 
      Giới, cõi thiền thứ nhất trong cõi trời sắc giới: The realm of Brahma; the 
      first dhyana heaven of the realm of form.  
      
      Phạm Diên: Phạm Thiên và Trời 
      Na La Diên—Brahma and Narayana. 
      
      Phạm Diễn Na: Bayana (skt)—Theo 
      Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, Phạm Diễn Na, một vương quốc cổ 
      trong vùng Bokhara, bây giờ là Bamian, nổi tiếng với những tượng Phật Nhập 
      Niết Bàn khổng lồ, dài tới 1.000 bộ Anh—According to Eitel in The 
      Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, Bayana, an ancient kingdom 
      and city in Bokhara (modern Bamian), famous for a colossal statue of 
      Buddha (entering Nirvana) believed to be 1,000 feet long. 
      
      Phạm Diện Phật: Đức Phật có 
      gương mặt giống như Phạm Thiên, người ta nói vị ấy sống tới 23.000 năm—A 
      Buddha with Brahma’s face (said to be 23.000 years old). 
      
      Phạm Đàn: Brahmadanda 
      (skt)—Phép trị tội Phạm Đàn. Khi vị sư nào phạm tội thì được đưa đếm “Phạm 
      Đàn” để cách ly, cấm không cho nói chuyện với ai—Brahma-staff—The Brahma 
      (religious) punishment; the explanation is to send to Coventry a 
      recalcitrant monk, the forbidding of any conversation with him, or 
      exclusion to silence. 
      
      Phạm Đạo: Thanh tịnh đạo—The 
      way of purity, or celibacy; the brahman way. 
      
      Phạm Điển: Kinh điển Phật—The 
      Buddhist sutras, or books. 
      
      Phạm Độ: Brahman-Land—Ấn 
      Độ—India. 
      
      Phạm Đức: Năng lực hay phước 
      đức của Phạm Thiên—The power, or bliss of Brahma. 
      
      Phạm Giáp: Kinh điển làm bằng 
      lá cây đa la (một loại cây kè có lá giống như lá thốt nốt) Palm-leaf 
      scriptures.
      
      Phạm Giới: Phá phạm giới luật 
      mà Đức Phật đã đặt ra—To turn one’s back on the precepts—To offend against 
      or break the moral or ceremonial laws of Buddhism. 
      
      Phạm Hành: Noble action—High 
      conduct.
      
      Phạm Hạnh: Pure living. 
      
      (I)     Nghĩa 
      của “Phạm Hạnh”—The meanings of “Pure living”—Cuộc sống thanh tịnh hay 
      giới pháp giúp hành giả cắt đứt dâm dục, sống đời độc thân để được sanh về 
      cõi trời sắc giới Phạm Thiên hay cao hơn—Pure living; noble action; the 
      discipline of celibacy which ensures rebirth in the Brahmaloka, or in the 
      realms beyond form.
      
      (II)  Những 
      lời Phật dạy về “Phạm Hạnh” trong Kinh Pháp Cú—The Buddha’s teachings on 
      “Pure living” in the Dharmapada Sutra:
      
      1)      Sống 
      trăm tuổi mà phá giới và buông lung, chẳng bằng sống chỉ một ngày mà trì 
      giới, tu thiền định—To live a hundred years, immoral and uncontrolled, is 
      no better than a single-day life of being moral and meditative (Dharmapada 
      110).
      
      2)      Sống 
      trăm tuổi mà thiếu trí huệ, không tu thiền, chẳng bằng sống chỉ một ngày 
      mà đủ trí, tu thiền định—To live a hundred years without wisdom and 
      control, is no better than a single-day life of being wise and meditative 
      (Dharmapada 111).
      
      3)      Sống 
      trăm tuổi mà giải đãi không tinh tấn, chẳng bằng sống chỉ một ngày mà hăng 
      hái tinh cần—To live a hundred years, idle and inactive, is no better than 
      a single-day life of intense effort (Dharmapada 112).
      
      4)      Sống 
      trăm tuổi mà không thấy pháp vô thường sinh diệt, chẳng bằng sống chỉ một 
      ngày mà được thấy pháp sinh diệt vô thường—To live a hundred years without 
      comprehending how all things rise and pass away, is no better than a 
      single-day life of seeing beginning and end of all things (Dharmapada 
      113).
      
      5)      Sống 
      trăm tuổi mà không thấy đạo tịch tịnh vô vi, chẳng bằng sống chỉ một ngày 
      mà được thấy đạo tịch tịnh vô vi—To live a hundred years without seeing 
      the immortal state, is no better than a single-day life of one who sees 
      the deathless state (nirvana) (Dharmapada 114).
      
      6)      Sống 
      trăm tuổi mà không thấy pháp tối thượng, chẳng bằng sống chỉ một ngày mà 
      được thấy pháp tối thượng—To live a hundred years without seeing the 
      Supreme Truth, is no better than a single-day life of someone who see the 
      highest law (Dharmapada 115).
      
      Phạm Hoàng:
      
      1)      Vua 
      của Ấn Độ: The Indian Emperor.
      
      2)      Đức 
      Phật: Buddha. 
      
      Phạm Học: 
      
      1)      Nghiên 
      cứu về Bà La Môn: The study of Brahmanism.
      
      2)      Nghiên 
      cứu về Phật Giáo: The study of Buddhism. 
      
      Phạm Hưởng: Âm thanh của Đức 
      Phật—The sound of Buddha’s voice (Buddha’s preaching). 
      
      Phạm Luân: 
      
      1)      Bánh 
      xe chuyển pháp của Đức Phật: The Brahma-wheel—The wheel of the law, or 
      pure preaching of the Buddha.
      
      2)      Bài 
      pháp đầu tiên mà Phạm Thiên Vương thỉnh Phật quay bánh xe pháp: The first 
      sermon at the request of Brahma.  
      
      3)      Giáo 
      thuyết của Phạm Thiên: The doctrine or preaching of the Brahmans. 
      
      Phạm Luật: To offend against 
      the law—Khi Đức Thế Tôn còn tại thế, có hai vị Tỳ Kheo phạm luật hạnh, 
      lấy làm hổ thẹn, không dám hỏi Phật, đến hỏi Ưu Ba Li rằng: “Dạ thưa ngài 
      Ưu Ba Li! Chúng tôi phạm luật thật lấy làm hổ thẹn, không dám hỏi Phật, 
      mong nhờ ngài giải rõ chỗ nghi hối cho chúng tôi được khỏi tội ấy.” Ưu Ba 
      Li liền y theo pháp, giải nói cho hai vị. Bấy giờ ông Duy Ma Cật đến nói 
      với Ưu Ba Li—At the time of the Buddha, there were two bhiksus who broke 
      the prohibitions, and being shameful of their sins they dared not call on 
      the Buddha.  They came to ask Upali and said to him: “Upali, we have 
      broken the commandments and are ashamed of our sins, so we dare not ask 
      the Buddha about this and come to you.  Please teach us the rules of 
      repentance so as to wipe out our sins.” Upali then taught them the rules 
      of repentance. At that time, Vimalakirti came to Upali and said: 
      
      ·        
      “Thưa ngài Ưu Ba Li, ngài chớ 
      kết thêm tội cho hai vị Tỳ Kheo nầy, phải trừ dứt ngay, chớ làm rối loạn 
      lòng họ. Vì sao? Vì tội tánh kia không ở trong, không ở ngoài, không ở 
      khoảng giữa. Như lời Phật đã dạy: ‘Tâm nhơ nên chúng sanh nhơ, tâm sạch 
      nên chúng sanh sạch.’ Tâm cũng không ở trong, không ở ngoài, không ở 
      khoảng giữa. Tâm kia như thế nào, tội cấu cũng như thế ấy. Các pháp cũng 
      thế, không ra ngoài chơn như. Như ngài Ưu Ba Li, khi tâm tướng được giải 
      thoát thì có tội cấu chăng?”—“Upali, do not aggravate their sins which you 
      should wipe out at once without further disturbing their minds.  Why?  
      Because the nature of sin is neither within nor without, nor in between.  
      As the Buddha has said, ‘living beings are impure because their mind 
      are impure; if their minds are pure they are all pure.’  And mind also 
      is neither within nor without, nor in between. Their minds being such, so 
      are their sins.  Likewise all things do not go beyond (their ) suchness.  
      Upali, when your mind is liberated, is there any remaining impurity?’
      
      ·        
      Ưu Ba Li đáp: ‘Không.”—Upali 
      replied: “There will be no more.”  
      
      ·        
      Ông Duy Ma Cật nói: ‘Tất cả 
      chúng sanh tâm tướng không nhơ  cũng như thế! Thưa ngài Ưu Ba Li! Vọng 
      tưởng là nhơ, không vọng tưởng là sạch; điên đảo là nhơ, không điên đảo là 
      sạch; chấp ngã là nhơ, không chấp ngã là sạch. Ngài Ưu Ba Li! Tất cả pháp 
      sanh diệt không dừng, như huyễn, như chớp; các Pháp không chờ nhau cho đến 
      một niệm không dừng; các Pháp đều là vọng kiến, như chiêm bao, như nắng 
      dợn, như trăng dưới nước, như bóng trong gương, do vọng tưởng sanh ra. 
      Người nào biết nghĩa nầy gọi là giữ luật, người nào rõ nghĩa nầy gọi là 
      khéo hiểu.”—Vimalakirti said: “Likewise, the minds of all living beings 
      are free from impurities.  Upali, false thoughts are impure and the 
      absence of false thought is purity. Inverted (ideas) are impure and the 
      absence of inverted (ideas) is purity.  Clinging to ego is impure and 
      non-clinging to ego is purity.  Upali, all phenomena rise and fall without 
      staying (for an instant) like an illusion and lightning. All phenomena do 
      not wait for one another and do not stay for the time of a thought.  They 
      all derive from false views and are like a dream and a flame, the moon in 
      water, and an image in a mirror for they are born from wrong thinking.  He 
      who understands this is called a keeper of the rules of discipline and he 
      who knows it is called a skillful interpreter (of the precepts).” 
      
      
      ·        
      Lúc đó hai vị Tỳ Kheo khen 
      rằng: “Thật là bực thượng trí! Ngài Ưu Ba Li nầy không thể sánh kịp. Ngài 
      là bực giữ luật hơn hết mà không nói được.”—At that “time, the two bhiksus 
      declared: ‘What a supreme wisdom which is beyond the reach of Upali who 
      cannot expound the highest principle of discipline and morality?” 
      
      
      ·        
      Ưu Ba Li đáp rằng: “Trừ Đức 
      Như Lai ra, chưa có bực Thanh Văn và Bồ Tát nào có thể chế phục được chỗ 
      nhạo thuyết biện tài của ông Duy Ma Cật. Trí tuệ ông thông suốt không 
      lường.”—Upali said: ‘Since I left the Buddha I have not met a sravaka or a 
      Bodhisattva who can surpass hi rhetoric for his great wisdom and perfect 
      enlightenment have reached such a high degree.’ 
      
      ·        
      Khi ấy, hai vị Tỳ Kheo dứt 
      hết nghi hối, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và phát nguyện 
      rằng: “Nguyện làm cho tất cả chúng sanh đều được biện tài như 
      vậy.”—Thereupon, the two bhiksus got rid of their doubts and repentance, 
      set their mind on the quest of supreme enlightenment and took the vow that 
      make all living beings acquire the same power of speech. 
      
      Phạm Ma: 
      
      1)      Phạm 
      Thiên và Ma La Vương—Brahma or Brahman and Mara.
      
      a)      Phạm 
      Thiên là vị chủ ở các cõi trời sắc giới: Brahma is the lord of the realm 
      of form.
      
      b)      Ma là 
      chủ Lục Dục Thiên hay cõi Tha Hóa Tự Tại—Mara is the lord of desire or 
      passion. 
      
      2)      Phạm 
      Thiên: Brahma—See Phạm Thiên.
      
      Phạm Ma Đạt: Brahmadatta (skt).
      
      
      1)      Tên vị 
      vua của xứ Kanyakubja: A king of Kanyakubja.
      
      2)      Tên 
      vua xứ Varanasi, cha của Ca Diếp: A king of Varanasi, father of Kasyapa.
      
      
      Phạm Ma La: See Phạm Ma (1).
      
      
      Phạm Ma Ni: Brahma-mani (skt).
      
      1)      Tịnh 
      Châu: Tên một loại ngọc báu—Pure pearl.
      
      2)      Ngọc 
      báu như ý của Phạm Thiên: The magic pearl of Brahma. 
      
      Phạm Ma Tam Bát: 
      Brahma-sahampati or Mahabrahma-sahampati (skt)—Phạm Thiên, là vị chủ của 
      thế giới—Brahma, lord of the world. 
      
      Phạm Nan: Sự khó khăn trong 
      việc duy trì đời sống phạm hạnh—The diffculty of maintaining celibacy, or 
      purity. 
      
      Phạm Ngữ: Ngôn ngữ của Phạm 
      Thiên—The language came from Brahma.
      
      1)      Ngôn 
      ngữ Phạn: Brahma language (Sanskrit).
      
      2)      Mẫu tự 
      Phạn: The Sanskrit alphabet.
      
      3)      Ngôn 
      ngữ của Ấn Độ: The language of India. 
      
      Phạm Nữ: 
      
      1)      Con 
      gái của Phạm Chí: A noble woman. 
      
      2)      Người 
      con gái phạm hạnh: A woman of high character. 
      
      Phạm Pháp: To break the law.
      
      
      Phạm Phú Lâu: Brahmapurohita 
      (skt). 
      
      1)      Những 
      vị cận thần hay phụ tá của Phạm Thiên: The ministers, or assistants of 
      Brahma.
      
      2)      Tên 
      cõi trời sơ thiền thứ hai thuộc sắc giới: The second Brahmaloka; the 
      second region of the first dhyana heaven of form.
      
      Phạm Phụ Thiên: The 
      Brahmapurohitas, or the etinue of Brahma—See Phạm Phú Lâu (2). 
      
      Phạm Phục: Kasaya (skt).
      
      1)      Y phục 
      của Phạm Thiên: Brahma’s robe. 
      
      2)      Áo cà 
      sa: Monk’s robe.
      
      3)      Y phục 
      của người tu phạm hạnh: The garment of celibacy.
      
      Phạm Sát: Brahmaksetra (skt).
      
      
      1)      Cõi 
      Phật: Buddha-land.
      
      2)      Tên 
      gọi tự viện như là nơi thanh tịnh: A name for a Buddhist monastery, i.e. a 
      place of purity. 
      
      Phạm Tăng: 
      
      1)      Vị 
      Tăng Ấn Độ thời xưa. Vào thời đó Tăng sĩ Ấn Độ mặc áo trịch (để lộ) vai 
      phải: A monk from India: Brahman monk is a Buddhist Master of ancient 
      India. During those days, Buddhist monks wore rope, Buddhist monks wore 
      roped exposing thei right shoulders.  
      
      2)      Vị 
      Tăng gìn giữ tịnh hạnh: A monk who maintains his purity. 
      
      Phạm Tâm: Tâm tu theo phạm hạnh 
      hay  thanh cao và tinh khiết mà người thực tập sẽ được sanh về cõi trời vô 
      sắc—The noble or pure mind (which practises the discipline that ensures 
      rebirth in the realm without form).
      
      Phạm Thanh: Tiếng của Đức 
      Phật—The voice of Buddha
      
      Phạm Thân: 
      
      1)      Thân 
      tâm thanh tịnh: The pure spiritual body.
      
      2)      Pháp 
      thân của Phật: Dharmakaya of the Buddha.
      
      Phạm Thân Thiên: Quyến thuộc 
      của Phạm Thiên (Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ Thiên, và Đại Phạm Thiên)—The 
      Brahmakayika, or retinue of Brahma.  
      ** For more information, 
      please see Phạm 
           Thiên (B). 
      
      Phạm Thất: Nơi Tăng đoàn trú 
      ngụ và tu tập, chùa hay tự viện—A dwelling where the sangha is practicing 
      Buddhist laws—A dwelling where celibate discipline is practised, a 
      monastery, temple.
      
      Phạm Thế Giới: Brahmaloka 
      (skt)—Phạm Thế Thiên—Các cõi trời thuộc sắc giới—The Brahmaloka of the 
      realm of form. 
      
      Phạm Thế Thiên: Brahmaloka 
      (skt)—See Phạm Thế Giới. 
      
      Phạm Thích: Trời Phạm Thiên và 
      trời Đế Thích—Brahma and Sakra:
      
      1)      Trời 
      Phạm Thiên, chủ cung trời sắc giới: Brahma, the lord of the form-realm.
      
      2)      Trời 
      Đế Thích, chủ của trời dục giới: Sakra, the lord of the desire-realm. 
      
      Phạm Thích Tứ Thiên: Trời Phạm 
      Thiên, Đế Thích, và Tứ Thiên Vương—Brahma, sakra, and the four Maharajas.
      
      
      Phạm Thiên: Brahmas (skt).
      
      (A)  Nghĩa của 
      Phạm Thiên—The meanings of Brahma:
      
      1)      Vị 
      thần chính của Ấn giáo, thường được diễn tả như ngưới sáng tạo hệ thống 
      thế giới—A  chief of Hindu gods often described as the creator of world 
      system.
      
      2)      Chủ 
      của cung trời sắc giới. Ngài làm chúa tể của chúng sanh, được Phật giáo 
      thừa nhận là chư Thiên, nhưng thấp hơn Phật hay người đã giác ngộ—Lord of 
      the heavens of form. The father of all living beings; the first person of 
      the Brahmanical Trimurti, Brahma, Visnu, and Siva, recognized by Buddhism 
      as devas but as inferior to a Buddha, or enlightened man. 
      
      3)      Các 
      chư Thiên trong cõi trời sắc giới: Devas in the realm of form.
      
      (B)  Ba loại 
      Phạm Thiên—Three kinds of Brahmas:
      
      1)      Phạm 
      Chúng Thiên: The assembly of brahmadevas, i.e. Brahmakayika.
      
      2)      Phạm 
      Phụ Thiên: Brahmapurohitas, or retinue of Brahma.
      
      3)      Đại 
      Phạm Thiên: Phạm Thiên Vương—Mahabrahman, or Brahman himself. 
      **  For more 
      information, please see Thế Chủ.
      
      Phạm Thiên Giới: The realm of 
      Brahma.
      
      Phạm Thiên Hậu: Hậu phi của 
      Phạm Thiên (Phạm Thiên trong Phật giáo không có hậu phi, tuy nhiên, dân 
      gian Ấn Độ tôn sùng và cho rằng ngài có ba bà hậu phi)—The queen or wife 
      of Braham.
      
      Phạm Thiên Ngoại Đạo: 
      Brahmadeva-heretics—Bà La Môn cho rằng Phạm Thiên là Đấng Tạo Hóa, nhưng 
      với Phật giáo điều nầy trái với chân lý—The Brahmans consider Brahma to be 
      the Creator of al things and the Supreme Being, which is heresy with 
      Budhism.  
      
      Phạm Thiên Vương: See Phạm 
      Thiên (B) (3). 
      
      Phạm Thừa: Brahmayana 
      (skt)—Phạm Thiên Thừa hay Bồ Tát Thừa—The noblest of the vehicles, that of 
      the bodhisattva. 
      
      Phạm Thượng: To be impertinent 
      to superiors.
      
      Phạm Tội: To commit a crime—To 
      commit offences.  
      
      Phạm Trọng: Vi phạm giới trọng 
      hay những giới chính—To break the weightier laws.  
      
      Phạm Tự: 
      
      1)      Chữ 
      Phạn—Brahma letters—samskrtam—Sanskrit. 
      
      a)      Bắc 
      Phạn: Sanskrit.
      
      b)      Nam 
      Phạn: Tiếng Phạn Pali được vài học giả Trung Hoa cho rằng cổ hơn tiếng 
      Phạn Sanskrit về cả tiếng nói lẫn chữ viết—Pali, considered more ancient 
      by some Chinese writers than Sanskrit both as a written and spoken 
      language.  
      
      2)      Phạm 
      Thư: Văn Tự cổ của Ấn Độ, phân biệt với tiếng nói bình dân Prakrit. Chỉ 
      vài ngoại lệ kinh điển Trung Quốc được dịch từ tiếng Phạn Pali (Nam Phạn), 
      còn thì đa phần được dịch sang từ tiếng Phạn Sanskrit (Bắc Phạn). —The 
      classical Aryan language of India, in contradistinction to Prakrit, 
      representing the language as ordinarily spoken. With the exception of a 
      few ancient translations probably from Pali versions, most of the original 
      texts used in China were Sanskrit.  
      
      Phạm Tướng: Brahmadhvaja 
      (skt)—Một trong những người con trai của Mahabhijna, trong cõi Phật ở về 
      phía tây nam vũ trụ của chúng ta—One of the sons of Mahabhijna; his Buddha 
      domain is south-west of our universe. 
      
      Phạm Uyển: Tự viện, nơi các vị 
      xuất gia sống đời độc thân tu tập—A monastery or any place where celibate 
      discipline is practised. 
      
      Phạm Vi: 
      
      1)      Phạm 
      trù: Domain—Field.
      
      2)      Khuôn 
      khổ hay nguyên tắc: Rule and restraint—To guard by proper means.   
      
      Phạm Võng: Brahmajala 
      (skt)—Brahma-net. 
      
      Phạm Võng Giới: See Phạm Võng 
      Giới Bổn.
      
      Phạm Võng Giới Bổn: Bồ Tát Giới 
      Kinh hay phần sau của Kinh Phạm Võng—The latter part of the Brahma-sutra.
      ** For more information, 
      please see Bốn Mươi 
           Tám Giới Khinh, and 
      Mười Giới Trọng của 
           chư Bồ Tát trong Kinh 
      Phạm Võng.  
      
      Phạm Võng Giới Phẩm: Tên của 
      Kinh Phạm Võng (Kinh Phạm Võng ngày nay chỉ còn lại một phẩm Bồ Tát Tâm 
      Địa Giới trong bộ Kinh Phạm Võng nên gọi là Phạm Võng Giới Phẩm)—A name 
      for the Brahma-sutra. 
      
      Phạm Võng Kinh: Tên gọi tắt của 
      Phạm Võng Kinh Lư Xá Na, Phật Thuyết Bồ Tát Tâm Địa Giới Phẩm Đệ Thập Phạm 
      Võng Kinh, được ngài Cưu Ma La Thập dịch sang Hoa ngữ khoảng năm 406 sau 
      Tây Lịch. Lấy tên Phạm Võng là vì pháp giới vô biên, như những mắt lưới 
      của vua Trời Đế Thích (giao nhau mà không hề vướng víu trở ngại), cũng 
      giống như giáo pháp của của chư Phật cũng tầng tầng vô tận, trang nghiêm 
      pháp thân cũng không hề có chướng ngại—Brahmajala-sutra, translated into 
      Chinese by Kumarajiva around 406 A.D., the infinitude of worlds being as 
      the eyes or holes in Indra’s net, which is all-embracing, like the 
      Buddha’s teaching. There are many treatises on it. 
      **  For More information, please see Kinh Phạm Võng, Mười Giới Trọng của 
      chư Bồ Tát trong Kinh Phạm Võng, and Bốn Mươi Tám Giới Khinh.  
      
      Phạm Võng Tông: Luật Tông được 
      mang vào hoằng hóa tại Nhật Bản bởi một nhà sư Trung Hoa tên Giám Chân vào 
      khoảng năm 754 sau Tây Lịch—The sect of Ritsu, brought into Japan by the 
      Chinese monk Chien-Chen in 754 A.D.
      
      Phạm Vũ: Chùa hay tự viện—A 
      sacred house, i.e. a Buddhist monastery, or temple.  
      
      Phạm Vương: See Phạm thiên. 
      
      Phạm Vương Cung: Cung điện của 
      Phạm Thiên—The palace of Brahma. 
      
      Phan: 
      
      1)      Cờ 
      phướn: Pataka (skt)—Ba Đa Ca—Lá cờ hay phướn treo tại chùa trong các ngày 
      lễ (vật trang nghiêm biểu tượng cho uy đức của Đức 
      Phật)—Flag—Banner—Streamer—Pennant. 
      
      2)      Leo 
      lên: To climb. 
      
      3)      Nắm 
      lấy: To grasp—To detain.
      
      Phan Duyên: Duyên—Tâm nương vịn 
      vào cảnh sở mà khởi lên, giống như người già vịn vào cây gậy mà đứng lên 
      (tâm thay đổi lúc thế nầy lúc thế khác, tùy theo sự vật của thế giới bên 
      ngoài, giống như con vượn chuyền cây, hay con ngựa vô cương)—Something to 
      lay hold of, a reality, cause, basis, similar to an old man relies on his 
      cane (the mind likea monkey, the thought like a horse).
      ** For more information, 
      please see Duyên in 
           Vietnamese-English 
      Section.  
      
      Phan Giác: Nắêm lấy và hiểu 
      biết những cái cạn cợt bên ngoài, như con vượn chuyền hết cành nầy qua 
      cành khác—Seizing and perceiving, like a monkey jumping from branch to 
      branch, i.e. attracted by external unstable. 
      
      Phán: 
      
      1)      Phán 
      lệnh: To order.
      
      2)      Phán 
      Quyết: To judge—To try.
      
      3)      Phán 
      định: To decide. 
      
      4)      Phán 
      xét: To examine and judge. 
      
      Phán Đoán: Phán quyết—To judge.
      
      
      Phán Lự Tư: Phân biệt tư 
      tưởng—Discriminating thought. 
      
      Phán Quyết: 
      Determination—Decision.  
      
      Phán Giáo: Phân chia hay phân 
      tích giáo pháp hay giáo tướng một đời của Đức Phật—Division of the 
      Buddha’s teaching.
      
      1)    Phán 
      Giáo Thiên Thai Ngũ Thời Bát Giáo: Division of T’ien-T’ai, into the five 
      periods and eight teachings—See Thiên Thai Ngũ Thời Bát Giáo.
      
      2)    Phán 
      Giáo Hoa nghiêm Ngũ Giáo: Division of Hua-Yen into five teachings—See Hoa 
      nghiêm Thời and Ngũ Giáo. 
      
      Phán Thích: Phán đoán ý chỉ của 
      kinh luận, và giải thích ý nghĩa của nó. Phê phán phân tích giáo lý mà Đức 
      Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng—To divide and explain sutras; to arrange in 
      order, analyse the Buddha’s teaching.
      
      Phàn Nàn: To blame—To complain.
      
      Phản: 
      
      1)      Chiếc 
      phản: Camp-bed—Plank bed.
      
      2)      Chống 
      lại: Anti—Counter.
      
      3)      Làm 
      phản: To rebel. 
      
      4)      Ngược 
      lại: Contrary. 
      
      5)      Phản 
      bội: To betray.
      
      6)      Trở 
      về: Turn over—Trun or send back.
      
      Phản Ảnh: To reflect 
      
      Phản Chiếu: Paribimbaya 
      (skt)—Phản ánh—To reflect. 
      
      Phản Đạo Đức: Immoral. 
      
      Phản Đối: To oppose—To object.
      
      
      Phản Quang: Reflected light.
      
      
      Phản Quang Tự Kỷ: Hồi quang tự 
      kỷ—Hồi quang biến chiếu—To turn the spotlight to ourselves—To turn back 
      and reflect ourselves.
      
      Phản Xoa Hợp Chưởng: Một trong 
      mười hai cách chấp tay, đan bện những ngón tay vào nhau—One of the twelve 
      forms of folded hands, with interlocking fingers. 
      
      Phản Suất Sanh Tử: 
      
      1)      Một 
      trong bảy loại sanh tử—One of the seven kinds of mortality.
      
      2)      Thoát 
      vòng sanh tử để đi vào Niết Bàn—Escape from mortality into nirvana.
      
      Phản Tỉnh: A turning about. 
      
      Phản Tỉnh Khẩu Nghiệp: Trong 
      Kinh Giáo Giới La Hầu La ở Rừng Am Bà La trong Trung Bộ Kinh, Đức Phật đã 
      dạy La Hầu La về ‘Phản Tỉnh Khẩu Nghiệp’—The Buddha taught Venerable 
      Rahula about ‘Action With the Speech’ in the Ambalatthikarahulovada Sutta 
      in the Middle Length Discourses of the Buddha:
      
      1)      Này La 
      Hầu La, khi ông muốn làm  một khẩu nghiệp gì, hãy phản tỉnh khẩu nghiệp ấy 
      như sau: “Khẩu nghiệp nầy của ta có thể đưa đến tự hại, có thể đưa đến hại 
      người, có thể đưa đến hại cả hai; thời khẩu nghiệp nầy là bất thiện, đưa 
      đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ.” Rahula, when you wish to do an 
      ction by speech (please see Phản Tỉnh Thân Nghiệp 1, just substituting 
      “speech” for “body”).
      
      a)      Này La 
      Hầu La, nếu trong khi phản tỉnh, ông biết:”Khẩu nghiệp nầy ta muốn làm. 
      Khẩu nghiệp nầy của ta có thể đưa đến tự hại, có thể đưa đến hại nguời, có 
      thể đưa đến hại cả hai; thời khẩu nghiệp nầy là bất thiện, đưa đến đau 
      khổ, đem đến quả báo đau khổ.” Một khẩu nghiệp như vậy, này La Hầu La, 
      nhất định chớ có làm (please see Phản Tỉnh Thân Nghiệp 1a, just 
      substituting “speech” for “body”).
      
      b)      Này La 
      Hầu La, nếu trong khi phản tỉnh, ông biết: “Khẩu nghiệp nầy ta muốn làm. 
      Khẩu nghiệp nầy của ta không có thể đưa đến tự hại, không có thể đưa đến 
      hại người; không có thể đưa đến hại cả hai; thời khẩu nghiệp nầy là thiện, 
      đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc.” Một khẩu nghiệp như vậy, này La 
      Hầu La, ông nên làm (please see Phản Tỉnh Thân Nghiệp 1b, just 
      substituting “speech” for “body”).
      
      2)      Này La 
      Hầu La, khi ông đang làm một khẩu nghiệp, ông cần phải phản tỉnh khẩu 
      nghiệp ấy như sau: “Khẩu nghiệp nầy ta đang làm. Khẩu nghiệp nầy của ta 
      đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời khẩu nghiệp 
      nầy là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ.”  Rahula, when 
      you are doing an action by speech (please see Phản Tỉnh Thân Nghiệp 2, 
      just substituting “speech” for “body”).
      
      a)      Này La 
      Hầu La, nếu trong khi phản tỉnh, ông biết: “Khẩu nghiệp nầy ta đang làm. 
      Khẩu nghiệp nầy của ta đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả 
      hai; thời khẩu nghiệp nầy là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo 
      đau khổ.” Này La Hầu La, ông hãy từ bỏ một khẩu nghiệp như vậy (Please see 
      Phản Tỉnh Thân Nghiệp 2a, just substituting “speech” for “body”).
      
      b)      Nhưng 
      nếu này La Hầu La, khi phản tỉnh, ông biết như sau: “Khẩu nghiệp nầy ta 
      đang làm. Khẩu nghiệp nầy của ta không đưa đến tự hại, không đưa đến hại 
      người, không đưa đến hại cả hai; thời khẩu nghiệp nầy là thiện, đưa đến an 
      lạc, đem đến quả báo an lạc.” Khẩu nghiệp như vậy, nầy La Hầu La, ông cần 
      phải tiếp tục làm (please see Phản Tỉnh Thân Nghiệp 2b, just substituting 
      “speech” for “body”).
      
      3)      Sau 
      khi ông làm xong một khẩu nghiệp, này La Hầu La, ông cần phải phản tỉnh 
      khẩu nghiệp ấy như sau: “Khẩu nghiệp nầy ta đã làm. Khẩu nghiệp nầy của ta 
      đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời khẩu nghiệp 
      nầy là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo khổ.”—Rahula, after you 
      have done an action by speech (please see Phản Tỉnh Thân Nghiệp 3, just 
      substituting “speech” for “body”). 
      
      a)      Nếu 
      trong khi phản tỉnh, này La Hầu La, ông biết như sau: “Khẩu nghiệp nầy ta 
      đã làm. Khẩu nghiệp nầy đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả 
      hai; thời khẩu nghiệp nầy là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo 
      đau khổ.” Một khẩu nghiệp như vậy, này La Hầu La, ông cần phải thưa lên, 
      cần phải tỏ lộ, cần phải trình bày trước vị Đạo Sư, hay trước các vị đồng 
      phạm hạnh có trí. Sau khi đã thưa lên, tỏ lộ, trình bày, cần phải phòng hộ 
      trong tương lai (please see Phản Tỉnh Thân Nghiệp 3a, just substituting 
      “speech” for “body”).
      
      b)      Nếu 
      trong khi phản tỉnh, này La Hầu La, ông biết như sau: “Khẩu nghiệp nầy ta 
      đã làm. Khẩu nghiệp nầy không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, 
      không đưa đến hại cả hai; thời khẩu nghiệp nầy là thiện, đưa đến an lạc, 
      đem đến quả báo an lạc.” Do vậy, này La Hầu La, ông phải an trú trong niềm 
      hoan hỷ, tự mình tiếp tục tu học ngày đêm trong các thiện pháp (please see 
      Phản Tỉnh Thân Nghiệp 3b, just substituting “speech” for “body”).    
      
      Phản Tỉnh Thân Nghiệp: Trong 
      Kinh Giáo Giới La Hầu La Ở Rừng Am Bà La trong Trung Bộ Kinh, Đức Phật đã 
      dạy La Hầu La về ‘Phản Tỉnh Thân Nghiệp’—The Buddha taught Venerable 
      Rahula about ‘Action With the Body’ in the Ambalatthikarahulovada Sutta in 
      the Middle Length Dicourses of the Buddha:
      
      1)      “Này 
      La Hầu La, khi ông muốn làm một thân nghiệp gì, hãy phản tỉnh thân nghiệp 
      ấy như sau: “Thân nghiệp nầy của ta có thể đưa đến tự hại, có thể đưa đến 
      hại người, có thể đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp nầy là bất thiện, 
      đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ.”—Rahula, when you wish to do an 
      action with the body, you should reflect upon that same bodily action 
      thus: “Would this action that I wish to do with the body lead to my own 
      affliction, or to the affliction of others, or to the affliction of both? 
      Is it an unwholesome bodily action with painful consequences, with painful 
      results?”   
      
      a)      Này La 
      Hầu La, nếu trong khi phản tỉnh ông biết: “Thân nghiệp nầy ta muốn làm. 
      Thân nghiệp nầy của ta có thể đưa tự hại, có thể đưa đến hại người, có thể 
      đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp nầy là bất thiện, đưa đến đau khổ, 
      đem đến quả báo đau khổ.” Một thân nghiệp như vậy, này La Hầu La, ông nhất 
      định chớ có làm—When you reflect, if you know: “This action that I wish to 
      do with the body would lead to my own affliction, or to the affliction of 
      others, or to the affliction of both; it is an unwholesome bodily action 
      with painful consequences, with painful results,” then you definitely 
      should not do such an action with the body.  
      
      b)      Này La 
      Hầu La, khi ông muốn làm một thân nghiệp, nếu sau khi phản tỉnh ông biết: 
      “Thân nghiệp nầy ta muốn làm. Thân nghiệp nầy của ta không có thể đưa đến 
      tự hại, không có thể đưa đến hại người, , không thể đưa đến hại cả hai; 
      thời thân nghiệp nầy là thiện, đưa đến an lạc, đưa đến quả báo an lạc.” 
      Một thân nghiệp như vậy, này La Hầu La, ông nên làm—When you reflect, if 
      you know: “This action that I wish to do with the body would not lead to 
      my own affliction, or to the affliction of others, or to the affliction of 
      both; it is a wholesome bodily action with pleasant consequences, with 
      pleasant results,” then you may do such an action with the body.  
      
      2)      Này La 
      Hầu La, khi ông đang làm một thân nghiệp, ông cần phải phản tỉnh thân 
      nghiệp ấy như sau: “Thân nghiệp nầy ta đang làm. Thân nghiệp nầy của ta 
      đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp 
      nầy là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ.”—Rahula, while 
      you are doing an action with the body, you should reflect upon that same 
      bodily action thus: “Does this action that I am doing with the body lead 
      to my own affliction, or to the affliction of others, or to the affliction 
      of both? Is it an unwholesome bodily action with painful consequences, 
      with painful results?” 
      
      a)      Này La 
      Hầu La, nếu trong khi phản tỉnh, ông biết: “Thân nghiệp nầy ta đang làm. 
      Thân nghiệp nầy của ta đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả 
      hai; thời thân nghiệp nầy là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo 
      đau khổ.” Này La Hầu La, ông hãy từ bỏ một thân nghiệp như vậy.—Rahula, 
      when you reflect, if you know: “This action that I am doing with the body 
      leads to my own affliction, or to the affliction of others, or to the 
      affliction of both; it is an unwholesome bodily action with painful 
      consequences, with painful results,” then you should suspend such a bodily 
      action. 
      
      b)      Nhưng 
      nếu, này La Hầu La, trong khi phản tỉnh, ông biết như sau: “Thân nghiệp 
      nầy ta đang làm. Thân nghiệp nầy của ta không đưa đến tự hại, không đưa 
      đến hại người, không đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp nầy là thiện, 
      đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc.” Thân nghiệp như vậy, này La Hầu 
      La, ông cần phải tiếp tục làm.—But when you reflect, if you know: “This 
      action that I am doing with the body does not lead to my own affliction, 
      or to the affliction of others, or to the affliction of both; it is a 
      wholesome bodily action with pleasant consequences, with pleasant 
      results,” then you may continue in such a bodily action.
      
      3)      Này La 
      Hầu La, sau khi làm xong một thân nghiệp, ông cần phải phản tỉnh thân 
      nghiệp ấy như sau: “Thân nghiệp nầy ta đã làm, thân nghiệp nầy của ta đưa 
      đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp nầy là 
      bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ.”—Rahula, after you 
      have done an action with the body, you should reflect upon that same 
      bodily action thus: “Does this action that I have done with the body lead 
      to my own affliction, or to the affliction of others, or to the affliction 
      of both? Was it an unwholesome bodily action with painful consequences, 
      with painful results?”
      
      a)      Nếu 
      trong khi phản tỉnh, này La Hầu La, ông biết như sau: “Thân nghiệp nầy ta 
      đã làm. Thân nghiệp nầy đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả 
      hai; thời thân nghiệp nầy là bất thiện đưa đến đau khổ, đem đến quả báo 
      đau khổ.” Một thân nghiệp như vậy, này La Hầu La, ông cần phải thưa lên, 
      cần phải tỏ lộ, cần phải trình bày trước các vị Đạo Sư, hay trước các vị 
      đồng phạm hạnh có trí. Sau khi đã thưa lên, tỏ lộ, trình bày, cần phải 
      phòng hộ trong tương lai.—When you reflect, if you know: “This action that 
      I have done with the body leads to my own affliction, or to the affliction 
      of others, or to the affliction of both; it was an unwholesome bodily 
      action with painful consequences, with painful results,” then you should 
      confess such a bodily action, reveal it, and lay it open to the Teacher or 
      to your wise companions in the holy life. Having confessed it, revealed 
      it, and laid it open, you should undertake restraint for the future. 
      
      b)      Này La 
      Hầu La, nếu trong khi phản tỉnh, ông biết như sau: “Thân nghiệp nầy ta đã 
      làm. Thân nghiệp nầy không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không 
      đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp nầy thiện, đưa đến an lạc, đem đến 
      quả báo an lạc.” Do vậy, này La Hầu La, ông phải an trú trong niềm hoan hỷ 
      tự mình tiếp tục tu học ngày đêm trong các thiện pháp.—Rahula, but when 
      you reflect, if you know: “This action that I have done with the body does 
      not lead to my own affliction, or to the affliction of others, or to the 
      affliction of both; it was a wholesome bodily action with pleasant 
      consequences, with pleasant results," you”can abide happy and glad, 
      training day and night in wholesome states.    
      
      Phản Tỉnh Ý Nghiệp: Đức Phật đã 
      dạy Đại Đức La Hầu La về ‘Phản Tỉnh Ý Nghiệp’ trong Kinh Giáo Giới La Hầu 
      La Ở Rừng Am Bà La—The Buddha taught Venerable about ‘Action With the 
      Mind’ in the Ambalatthikarahulovada Sutta in the Middle Length Discourses 
      of the Buddha:
      
      1)      Này La 
      Hầu La, như ông muốn làm một ý nghiệp gì, hãy phản tỉnh ý nghiệp ấy như 
      sau: “Ý nghiệp nầy của ta có thể đưa đến tự hại, có thể đưa đến hại người, 
      có thể đưa đến hại cả hai; thời ý nghiệp nầy là bất thiện, đưa đến đau 
      khổ, đem đến quả báo đau khổ.”—Rahula, when you wish to do an action by 
      mind (please see Phản Tỉnh Thân Nghiệp 1, just substituting “mind” for 
      “body’).
      
      a)      Này La 
      Hầu La, nếu trong khi phản tỉnh, ông biết: “Ý nghiệp nầy ta muốn làm. Ý 
      nghiệp nầy của ta có thể đưa đến tự hại, có thể đưa đến hại người, có thể 
      đưa đến hại cả hai; thời ý nghiệp nầy là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem 
      đến quả báo đau khổ.” Một ý nghiệp như vậy, này La Hầu La, ông nhất định 
      chớ có làm (please see Phản Tỉnh Thân Nghiệp 1a, just substituting “mind” 
      for “body”).
      
      b)      Này La 
      Hầu La, nếu trong khi phản tỉnh, ông biết: “Ý nghiệp nầy ta muốn làm. Ý 
      nghiệp nầy của ta không có thể đưa đến tự hại, không có thể đưa đến hại 
      người, không có thể đưa đến hại cả hai; thời ý nghiệp nầy là thiện, đưa 
      đến an lạc, đem đến quả báo an lạc.” Ý nghiệp như vậy, này La Hầu La, ông 
      nên làm (please see Phản Tỉnh Thân Nghiệp 1b, just substituting “mind” for 
      “body”).
      
      2)      Này La 
      Hầu La, khi ông đang làm một ý nghiệp, ông cần phải phản tỉnh ý nghiệp ấy 
      như sau: “Ý nghiệp nầy ta đang làm. Ý nghiệp nầy của ta đưa đến tự hại, 
      đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời ý nghiệp nầy là bất thiện, đưa 
      đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ.” Rahula, while you are doing an 
      action by mind (please see Phản Tỉnh Thân Nghiệp 2, just substituting 
      “mind” for “body”).
      
      a)      Này La 
      Hầu La, nếu trong khi phản tỉnh, ông biết: “Ý nghiệp nầy ta đang làm. Ý 
      nghiệp nầy của ta đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; 
      thời ý nghiệp nầy là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ.” 
      Này La Hầu La, ông hãy từ bỏ một ý nghiệp như vậy (please see Phản Tỉnh 
      Thân Nghiệp 2a, just substituting “mind” for “body”).
      
      b)      Nhưng 
      nếu, này La Hầu La, khi phản tỉnh ông biết như sau: “Ý nghiệp nầy ta đang 
      làm. Ý nghiệp nầy của ta không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, 
      không đưa đến hại cả hai; thời ý nghiệp nầy là thiện, đưa đến an lạc, đem 
      đến quả báo an lạc.” Ý nghiệp như vậy, này La Hầu La, ông phải tiếp tục 
      làm (please see Phản Tỉnh Thân Nghiệp 2b, just substituting “mind” for 
      “body”).
      
      3)      Sau 
      khi làm xong một ý nghiệp, này La Hầu La, ông cần phải phản tỉnh ý nghiệp 
      ấy như sau: “Ý nghiệp nầy ta đã làm. Ý nghiệp nầy của ta đưa đến tự hại, 
      đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời ý nghiệp nầy là bất thiện, đưa 
      đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ.”—Rahula, after you have done an 
      action by mind (please see Phản Tỉnh Thân Nghiệp 3, just substituting 
      “mind” for “body”).
      
      a)      Này La 
      Hầu La, nếu trong khi phản tỉnh, ông biết như sau: “Ý nghiệp nầy ta đã 
      làm. Ý nghiệp nầy đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; 
      thời ý nghiệp nầy là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ.” 
      Một ý nghiệp như vậy, này La Hầu La, ông cần phải lo âu, cần phải tàm quý, 
      cần phải nhàm chán. Sau khi lo âu, tàm quý, nhàm chán, cần phải phòng hộ 
      trong tương lai (please see Phản Tỉnh Thân Nghiệp 2a, just substituting 
      “mind” for “body”). 
      
      b)      Còn 
      nếu trong khi phản tỉnh, này La Hầu La, ông biết: “Ý nghiệp này ta đã làm. 
      Ý nghiệp nầy không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến 
      hại cả hai; thời ý nghiệp nầy là thiện, đưa đến an lạc, đem đến quả báo an 
      lạc.” Do vậy, này La Hầu La, ông phải an trú trong niềm hoan hỷ, tự mình 
      tiếp tục tu học ngày đêm trong các thiện pháp (please see Phản Tỉnh Thân 
      Nghiệp 3b, just substituting “mind” for “body”). 
      
      Phản Trắc: 
      Unreliable—Dishonest. 
      
      Phản Ứng: Reaction. 
      
      Phản Xuất Sanh Tử: See Phản 
      Suất Sanh Tử. 
      
      Phạn: 
      
      1)      Ăn 
      cơm: To eat a meal. 
      
      2)      Cơm: 
      Rice.
      
      3)      Thức 
      ăn: Food.
      
      Phạn Âm: Buddha’s voice—See 
      Phạm Âm and Âm Thanh của Đức Như Lai. 
      
      Phạn Đái Tử: Cái túi đựng gạo, 
      ví với Tỳ Kheo vô dụng, chỉ biết có ăn uống ngủ nghỉ—A rice-bag fellow, a 
      useless monk who only devoted to his food, drinking, sleeping, and 
      resting. 
      
      Phạn Đầu: Vị Tăng coi về việc 
      nấu nướng trong chùa—A monk who is responsible for the cooking (kitchen) 
      in a monastery.  
      
      Phạn Khánh: Chiếc khánh nhỏ 
      dùng để đánh báo giờ cơm—The dinner-gong.  
      
      Phạn Na: Vana (skt)—Một chòm 
      cây—A wood—A grove. 
      
      Phạn Ngữ: Sanskrit (skt)—See 
      Phạm Ngữ. 
      
      Phảng Phất: 
      Vaguely—Dimly—Faintly 
      
      Phanh Phui: To speak out the 
      truth. 
      
      Phao Ngôn: To spread a rumour.
      
      
      Phao Vu: To slander—To 
      calumniate. 
      
      Phân Biệt: Distinction.
      
      Phân Biệt Giai Cấp: Distinction 
      of class and caste. 
      
      Phân Chia: Division-Separation.
      
      Phân Tách: Analyst.
      
      Phẩn Nộ: Anger—Fierce;
      
      Phẩn Nộ Minh Vương: Maharajas 
      as opponents of evil and guardian of Buddhism. 
      
      Pháp: Dhamma (p)—Dharma 
      (skt)—Doctrine—Law—Method—Phenomena—Thing—Truth—Pháp là một danh từ rắc 
      rối, khó xử dụng cho đúng nghĩa; tuy vậy, pháp là một trong những thuật 
      ngữ quan trọng và thiết yếu nhất trong Phật Giáo. Pháp có nhiều 
      nghĩa—Dharma is a very troublesome word to handle properly and yet at the 
      same timeit is one of the most important and essential technical terms in 
      Buddhism.  Dharma has many meanings:
      
      1)      Luật 
      lệ: Rule—Law. 
      
      2)      Theo 
      Phạn ngữ, chữ “Pháp” phát xuất từ căn ngữ “Dhri” có nghĩa là cầm nắm, 
      mang, hiện hữu, hình như luôn luôn có một cái gì đó thuộc ý tưởng “tồn 
      tại” đi kèm với nó—Etymologically, it comes from the Sanskrit root “Dhri” 
      means to hold, to bear, or to exist; there seems always to be something of 
      the idea of enduring also going along with it.
      
      a)      Ý 
      nghĩa thông thường và quan trọng nhất của “Pháp” trong Phật giáo là chân 
      lý—The most common and most important meaning of “Dharma” in Buddhism is 
      “truth,” “law,” or “religion.” 
      
      b)      Thứ 
      hai, pháp được dùng với nghĩa “hiện hữu,” hay “hữu thể,” “đối tượng,” hay 
      “sự vật.”Secondly, it is used in the sense of “existence,” “being,” 
      “object,” or “thing.” 
      
      c)      Thứ 
      ba, pháp đồng nghĩa với “đức hạnh,” “công chánh,” “chuẩn tắc,” về cả đạo 
      đức và tri thức—Thirdly, it is synonymous with “virtue,” “righteousness,” 
      or “norm,” not only in the ethical sense, but in the intellectual one 
      also. 
      
      d)      Thứ 
      tư, có khi pháp được dùng theo cách bao hàm nhất, gồm tất cả những nghĩa 
      lý vừa kể, nên chúng ta không thể dịch ra được. Trong trường hợp nầy cách 
      tốt nhất là cứ để nguyên gốc chứ không dịch ra ngoại ngữ—Fourthly, it is 
      occasionally used in a most comprehaensive way, including all the senses 
      mentioned above. In this case, we’d better leave the original untranslated 
      rather than to seek for an equivalent in a foreign language.  
      
      3)      Luật 
      vũ trụ hay trật tự mà thế giới chúng ta phải phục tòng. Theo đạo Phật, đây 
      là luật “Luân Hồi Nhân Quả”—The cosmic law which is underlying our world. 
      According to Buddhism, this is the law of karmically determined rebirth.
      
      
      4)      Hiện 
      Tượng: Phenomenon—Mọi hiện tượng, sự vật và biểu hiện của hiện thực. Mọi 
      hiện tượng đều chịu chung luật nhân quả, bao gồm cả cốt tủy giáo pháp Phật 
      giáo—All phenomena, things and manifestation of reality. All phenomena are 
      subject to the law of causation, and this fundamental truth comprises the 
      core of the Buddha’s teaching. 
      
      5)      Chân 
      Lý: Ultimate truth. 
      
      6)      Dharma 
      (skt)—Đạt Ma—Đàm Ma—Đàm Vô—Giáo pháp của Phật hay những lời Phật dạy—Con 
      đường hiểu và thương mà Đức Phật đã dạy—Phật dạy: “Những ai thấy được pháp 
      là thấy được Phật.” Vạn vật được chia làm hai loại: vật chất và tinh thần; 
      chất liệu là vật chất, không phải vật chất là tinh thần, là tâm—The 
      teaching of the Buddha (Understanding and 
      Loving)—Law—Doctrine—Things—Events—Phenomena—The way of understanding and 
      love taught by the Buddha—The Buddha says: “He who sees the Dharma sees 
      me.”. All things are divided into two classes: physical and mental; that 
      which has substance and resistance is physical, that which is devoid of 
      these is mental (the root of all phenomena is mind). 
      
      7)      Toàn 
      bộ giáo thuyết Phật giáo, các quy tắc đạo đức bao gồm kinh, luật, giới: 
      The doctrines of Buddhism, norms of behavior and ethical rules including 
      pitaka, vinaya and sila. 
      
      8)      Theo 
      Giáo Sư Junjiro Takakusu trong Cương Yếu Triết Học Phật Giáo, chữ Dharma 
      có năm nghĩa như sau—According to Prof. Junjiro Takakusu in The Essentials 
      of Buddhist Philosophy, the word “Dharma” has five meanings: 
      
      a)      Dharma 
      là cái được nắm giữ hay lý tưởng nếu chúng ta giới hạn ý nghĩa của nó 
      trong những tác vụ tâm lý mà thôi. Trình độ của lý tưởng nầy sẽ sai biệt 
      tùy theo sự  tiếp nhận của mỗi cá thể khác nhau. Ở Đức Phật, nó là sự toàn 
      giác hay viên mãn trí (Bodhi): Dharma would mean ‘that which is held to,’ 
      or ‘the ideal’ if we limit its meaning to mental affairs only. This ideal 
      will be different in scope as conceived by  different individuals. In the 
      case of the Buddha it will be Perfect Enlightenment or Perfect Wisdom 
      (Bodhi). 
      
      b)      Thứ 
      đến, lý tưởng diễn tả trong ngôn từ sẽ là giáo thuyết, giáo lý, hay giáo 
      pháp của Ngài: Secondly, the ideal as expressed in words will be his 
      Sermon, Dialogue, Teaching, Doctrine. 
      
      c)      Thứ 
      ba, lý tưởng đề ra cho các đệ tử của Ngài là luật nghi, giới cấm, giới 
      điều, đức lý: Thirdly, the ideal as set forth for his pupils is the Rule, 
      Discipline, Precept, Morality. 
      
      d)      Thứ 
      tư, lý tưởng là để chứng ngộ sẽ là nguyên lý, thuyết lý, chân lý, lý tính, 
      bản tính, luật tắc, điều kiện: Fourthly, the ideal to be realized will be 
      the Principle, Theory, Truth, Reason, Nature, Law, Condition. 
      
      e)      Thứ 
      năm, lý tưởng thể hiện trong một ý nghĩa tổng quát sẽ là thực tại, sự 
      kiện, sự thể, yếu tố (bị tạo hay không bị tạo), tâm và vật, ý thể và hiện 
      tượng: Fifthly, the ideal as realized in a general sense will be Reality, 
      Fact, Thing, Element (created and not created), Mind-and-Matter, 
      Idea-and-Phenomenon.   
      
      9)      Những 
      phản ánh của các hiện tượng vào tâm con người, nội dung tâm thần, ý tưởng: 
      Reflection of a thing in the human mind, mental content, object of thought 
      or idea.
      
      10)  Những 
      nhân tố tồn tại mà trường phái Tiểu thừa cho đó là nền tảng của nhân cách 
      kinh nghiệm: Factors of existence  which the Hinayana considers as bases 
      of the empirical personality.  
      
      11)  Theo phái 
      Trung Quán, chữ Pháp trong Phật Giáo có nhiều ý nghĩa. Nghĩa rộng nhất thì 
      nó là năng lực tinh thần, phi nhân cách bên trong và đằng sau tất cả mọi 
      sự vật. Trong đạo Phật và triết học Phật giáo, chữ Pháp gồm có bốn 
      nghĩa—According to the Madhyamakas, Dharma is a protean word in Buddhism. 
      In the broadest sense it means an impersonal spiritual energy behind and 
      in everything. There are four important senses in which this word has been 
      used in Buddhist philosophy and religion:  
      
      a)      Pháp 
      có nghĩa là thực tại tối hậu. Nó vừa siêu việt vừa ở bên trong thế giới, 
      và cũng là luật chi phối thế giới: Dharma in the sense of one ultimate 
      Reality. It is both transcendent and immanent to the world, and also the 
      governing law within it. 
      
      b)      Pháp 
      theo ý nghĩa kinh điển, giáo nghĩa, tôn giáo pháp, như Phật Pháp: Dharma 
      in the sense of scripture, doctrine, religion, as the Buddhist Dharma. 
      
      c)      Pháp 
      có nghĩa là sự ngay thẳng, đức hạnh, lòng thành khẩn: Dharma in the sense 
      of righteousness, virtue, and piety. 
      
      d)      Pháp 
      có nghĩa là thành tố của sự sinh tồn. Khi dùng theo nghĩa nầy thì thường 
      được dùng cho số nhiều: Dharma in the sense of ‘elements of existence.’ In 
      this sense, it is generally used in plural.    
      
      Pháp A Dục: Dharmasoka 
      (skt)—Pháp danh vua A Dục trong ngày vị vua này qui-y Phật—Name given to 
      Asoka on his conversion.
      ** For more information, please see A Dục Vương in Vietnamese-English 
      Section and Asoka in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
      
      Pháp Ái: Tình yêu trong phạm 
      trù tôn giáo—Tình yêu của những vị Bồ tát muốn cứu độ chúng sanh, ngược 
      lại với Dục ái hay tình yêu phàm tục—Religious love—Bodhisattva love with 
      desire to save all creatures, in contrast with ordinary love (Dục ái). 
      
      1)      Pháp 
      Ái Tiểu và Đại Thừa—Hinayana and Mahayana Dharma-love:
      
      a)      Pháp 
      Ái Tiểu Thừa: Lòng yêu niết bàn của kẻ căn cơ thấp kém—Hinayana 
      Dharma-love as desire for nirvana.
      
      b)      Pháp 
      Ái Đại Thừa: Lòng ái thiện của bậc Bồ Tát Đại Thừa—Mahayana Dharma-love or 
      Bodhisattva attachment to illusory things
      **   Cả hai thứ pháp ái 
      nầy đều cần phải loại 
             bỏ—Both of which 
      are to be eradicated.
      
      2)      Pháp 
      Ái Như Lai: Tâm Đại Bi của Như Lai hay tình yêu cứu độ chúng sanh chân 
      chánh vô thượng—Tathagata-love, which goes out to all beings for 
      salvation. 
      
      Pháp Âm: Âm thanh thuyết pháp 
      hay của chân lý—The sound of the Truth, or of preaching.
      
      Pháp Ân: Ân Tam 
      Bảo—Dharma-grace, i.e. the grace of Triratna. 
      
      Pháp Ấn: 
      
      1)      Dấu ấn 
      của diệu pháp, diệu pháp chân thực, không chuyển động hay biến đổi nên gọi 
      là “Ấn.”—The seal of Buddha-truth, expressing its reality and 
      immutability.
      
      2)      Dấu 
      hiệu chứng ngộ mà chư Phật hay chư Tổ trao truyền tâm pháp cho nhau—Its  
      universality and its authentic transmission from one Buddha or patriarch 
      to another.
      
      Pháp Ba La Mật: Một trong bốn 
      vị Bồ Tát Ba La Mật trong Kim Cương Giới—One of the four Paramita 
      Bodhisattvas in the Diamond realm. 
      
      Pháp Báo Hóa Tam Thân: The 
      trikaya (skt)—See Tam Thân Phật.  
      
      Pháp Bảo: Dharmaratna (skt).
      
      1)      Kho 
      tàng Phật Pháp hay diệu pháp mà Đức Phật đã thuyết giáo, được trân quý như 
      của báu của người thế tục, ngôi hai trong Tam Bảo—Dharma-treasure—The Law 
      or Buddha-truth, the second personification in the Triratna.
      
      2)      Những 
      vật cá nhân của một vị Tăng hay Ni như  Y Bát, vân vân: The personal 
      articles of a monk or nun, i.e. robe, almsbowl, etc.  
      ** For more information, 
      please see Tam Bảo. 
      
      Pháp Bảo Đàn Kinh: The Platform 
      Sutra—See Kinh Pháp Bảo Đàn. 
      
      Pháp Bảo Tạng: Nơi tồn trữ kinh 
      điển Phật Pháp—The storehouse of all law and truth, i.e. the sutras.
      
      Pháp Bích: Similes or 
      illustrations of the dharma.  
      
      Pháp Bình Đẳng: Dharmasamata 
      (skt).
      
      1)      Sự  
      bình đẳng về chân lý đã được chư Phật dạy, một trong tứ bình đẳng—The 
      sameness of truth as taught by all the Buddhas, one of the fourfold 
      sameness—See Tứ Bình Đẳng (4). 
      
      2)      Theo 
      Kinh Duy Ma Cật, Phẩm Đệ Tử, khi Đức Phật bảo Tu Bồ Đề đi đến thăm bệnh 
      ông Duy Ma Cật dùm Ngài. Tu Bồ Đề bèn bạch Phật như sau—According to The 
      Vimalakirti Sutra, Chapter Three, the Disciples, when the Buddha asked 
      Subhuti to go to visit Vimalakirti on his behalf, Subhuti said to the 
      Buddha as follows:  
      
      ·        
      Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch Thế 
      Tôn! Con không kham lãnh đến thăm bệnh ông. Vì sao? Nhớ lại thuở trước, 
      con vào khất thực nơi nhà ông, lúc đó trưởng giả Duy Ma Cật lấy cái bát 
      của con đựng đầy cơm rồi nói với con rằng ‘Thưa ngài Tu Bồ Đề! Đối với cơm 
      bình đẳng, thì các Pháp cũng bình đẳng, các Pháp bình đẳng thì cơm cũng 
      bình đẳng, đi khất thực như thế mới nên lãnh món ăn. Như Tu Bồ Đề không 
      trừ dâm nộ si, cũng không chung cùng với nó, không hoại thân mà theo một 
      hình tướng, không dứt si ái sanh ra giải thoát, ở tướng ngũ nghịch mà đặng 
      giải thoát, không mở cũng không buộc, không thấy tứ đế cũng không phải 
      không đắc quả, không phải phàm phu cũng không phải rời phàm phu, không 
      phải Thánh nhơn, không phải không Thánh nhơn, tuy làm nên tất cả các Pháp 
      mà rời tướng các Pháp, thế mới nên lấy món ăn. Như Tu Bồ Đề không thấy 
      Phật, không nghe Pháp, bọn lục sư ngoại đạo kia như Phú Lan Na Ca Diếp, 
      Mạc Dà Lê Câu Xa Lê Tử, San Xà Dạ Tỳ La Chi Tử, A Kỳ Đa Xý Xá Khâm Ba La, 
      Ca La Cưu Đà Ca Chiên Diên, Ni Kiền Đà Nhã Đề Tử là thầy của ngài. Ngài 
      theo bọn kia xuất gia, bọn lục sư kia đọa, ngài cũng đọa theo, mới nên lấy 
      món ăn. Tu Bồ Đề! Nếu ngài vào nơi tà kiến, không đến bờ giác, ở nơi tám 
      nạn, đồng với phiền não, lìa Pháp thanh tịnh, ngài được vô tránh tam muội, 
      tất cả chúng sanh cũng được tam muội ấy, những người thí cho ngài chẳng 
      gọi phước điền, những kẻ cúng dường cho ngài đọa vào ba đường ác, ngài 
      cùng với ma nắm tay nhau làm bạn lữ, ngài cùng với các ma và các trần lao 
      như nhau không khác, đối với tất cả chúng sanh mà có lòng oán hận, khinh 
      báng Phật, chê bai Pháp, không vào số chúng Tăng, hoàn toàn không được 
      diệt độ, nếu ngài được như thế mới nên lấy món ăn—Subhuti said: “World 
      Honoured One, I am not qualified to call on him and enquire after his 
      health.  The reason is that once when I went to his house begging for 
      food, he took my bowl and filled it with rice, saying: ‘Subhuti, if your 
      mind set on eating is in the same state as when confronting all (other) 
      things, and if this uniformity as regards all things equally applies to 
      (the act of) eating, you can then beg for food and eat it.  Subhuti, if 
      without cutting off carnality, anger and stupidity you can keep from these 
      (three) evils: if you do not wait for the death of your body to achieve 
      the oneness of all things; if  you do not wipe out stupidity and love in 
      your quest of enlightenment and liberation; if you can look into (the 
      underlying nature of) the five deadly sins to win liberation, with at the 
      same time no idea of either bondage or freedom; if you give rise to 
      neither the four noble truths nor their opposites; if you do not hold both 
      the concept of winning and not winning the holy fruit; if you do not 
      regard yourself as a worldly or unworldly man, as a saint or not as a 
      saint; if you perfect all Dharmas while keeping away from the concept of 
      Dharmas, then can you receive and eat the food.  Subhuti, if you neither 
      see the Buddha nor hear the Dharma; if the six heterodox teachers, 
      Purana-kasyapa, Maskari-gosaliputra, Yanjaya-vairatiputra, 
      Ajita-kesakambala, Kakuda-katyayana and Nirgrantha-jnatiputra are regarded 
      impartially as your own teachers and if, when they induce leavers of home 
      into heterodoxy, you also fall with the latter; then you can take away the 
      food and eat it.  If you are (unprejudiced about) falling into heresy and 
      regard yourself as not reaching the other shore (of enlightenment); if you 
      (are unprejudiced about) the eight sad conditions and regard yourself as 
      not free from them; if you (are unprejudiced about) defilements and 
      relinquish the concept of pure living; if when you realize samadhi in 
      which there is absence of debate or disputation, all living beings also 
      achieve it; if your donors of food are not regarded (with partiality) as 
      (cultivating) the field of blessedness; if those making offerings to you 
      (are partially looked on as also) falling into the three evil realms of 
      existence; if you (impartially regard demons as your companions without 
      differentiating between them as well as between other forms of defilement; 
      if you are discontented with all living beings, defame the Buddha, break 
      the law (Dharma), do not attain the holy rank, and fail to win liberation; 
      then you can take away the food and eat it.
      
      ·        
      Bạch Thế Tôn! Lúc đó con nghe 
      những lời ấy rồi mờ mịt không biết là nói gì, cũng không biết lấy lời chi 
      đáp, con liền để bát lại muốn ra khỏi nhà ông. Ông Duy Ma Cật nói ‘Thưa 
      ngài Tu Bồ Đề! Ngài lấy bát chớ sợ! Ý ngài nghĩ sao? Như Phật biến ra một 
      ngàn người huyễn hóa và nếu người huyễn hóa đó đem việc nầy hỏi Ngài, 
      chừng ấy Ngài có sợ chăng?’ Con đáp: “Không sợ!” Trưởng giả Duy Ma Cật lại 
      nói: “Tất cả các Pháp như tướng huyễn hóa, ngài không nên có tâm sợ sệt. 
      Vì sao? Vì tất cả lời nói năng không lìa tướng huyễn hóa, chí như người 
      trí không chấp vào văn tự, nên không sợ. Vì sao thế? Tánh văn tự  vốn 
      ly, không có văn tự đó là giải thoát. Tướng giải thoát đó là các Pháp vậy—“World 
      Honoured One, I was dumbfounded when I heard his words which were beyond 
      my reach and to which I found no answer.  Then I left the bowl of rice and 
      intended to leave his house but Vimalakirti said: ‘Hey, Subhuti, take the 
      bowl of rice without fear.  Are you frightened when the Tathagata makes an 
      illusory man ask you questions?  I replied: ‘No.’ He then continued: ‘All 
      things are illusory and you should not fear anything.  Why?  Because words 
      and speech are illusory.  So all wise men do not cling to words and 
      speech, and this is why they fear nothing.  Why?  Because words and 
      speech have no independent nature of their own, and when they are no more, 
      you are liberated.  This liberation will free you from all bondage.’
      
      
      Pháp Bố Thí: The almsgiving of 
      the Buddha-truth—See Pháp Thí and Tam Bố Thí. 
      
      Pháp Bổn: Bhutatatthata 
      (skt)—Chân như hay tinh yếu của vạn pháp—The root or essence of  al 
      things.
      
      Pháp Chấp: Chấp vào ý niệm chư 
      pháp hay hiện tượng là có thật. Đây là một ảo tưởng—Holding (bonding) on 
      the concept that of the reality of dharma, things or phenomena (holding to 
      things as realities or false tenet that things are real).  This holding is 
      an illusion. 
      
      Pháp Châu: Thuyền Phật pháp có 
      thể chở người ta ra khỏi biển sanh tử luân hồi để đến cõi Niết Bàn—The 
      barque of the Buddha-truth which ferries men out from the sea of mortality 
      and reincarnation to nirvana.
      
      Pháp Chế: Law. 
      
      Pháp Chiếu: Sự chiếu sáng của 
      Phật pháp—Dharma-shinning.
      
      Pháp Chiếu Đại Sư: Tên của vị 
      Tổ thứ tư của Liên Tông, vào đời nhà Đường, khoảng năm 767 sau Tây Lịch. 
      Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong Liên Tông Thập Tam Tổ, Quê ngài ở Lô 
      Sơn, một hôm nhập định, thần thức dạo chơi nơi miền Cực Lạc, lễ cẩn Đức 
      Phật A Di Đà, thì thấy đứng kề bên Đức Phật có một vị Tăng mặc áo rách nát 
      đứng hầu. Đức Phật A Di Đà chỉ vị Tăng ấy mà bảo rằng: “Ngươi có biết 
      chăng, người nầy là Sa Môn Thừa Viễn ở Hoành Sơn đấy!” Sau khi xuất định 
      Pháp Chiếu liền đến Hoành Sơn để tìm, lúc gặp Thừa Viễn, nhìn kỹ thì quả 
      đúng là vị Tăng mà ngài đã thấy, liền cúi lạy xin theo làm đệ tử. Chưa ai 
      rõ ngài Pháp Chiếu là người bậc như thế nào. Trong năm Đại Lịch thứ hai 
      đời nhà Đường, hàng đạo tục mới được biết đến ngài khi ngài ở chùa Vân 
      Phong tại đất Hoành Châu, ngày đêm chuyên cần tu tập. Tương truyền vào một 
      buổi sáng, vào lúc thanh trai nơi Tăng đường, ngài thấy trong bát cháo 
      hiện ra bóng mây ngũ sắc, trong mây ấy hiện rõ một cảnh sơn tự, phía đông 
      bắc của sơn tự ấy có một dãy núi, dưới chân núi có khe suối, phía bắc khe 
      suối ấy có một cửa ngõ bằng đá, trong cửa ngõ ấy lại có một ngôi chùa to, 
      biển treo trước chùa đề tên “Đại Thánh Trúc Lâm Tự.” Mấy hôm sau, ngài lại 
      thấy nơi bát cháo hiện ra cảnh chùa lớn ấy. Trong chùa gồm có vườn cây, ao 
      nước, lâu đài tráng lệ nguy nga. Chùa lại có một vạn vị Bồ Tát đang ở 
      trong đó. Thấy thế, ngài bèn đem cảnh tượng ấy hỏi nơi các bậc tri thức. 
      Có một vị cao Tăng bảo rằng: “Sự biến hiện của chư Thánh khó có thể nghĩ 
      bàn, nhưng nếu luận riêng về địa thế, non sông, thì đây đích thực là cảnh 
      Ngũ Đài Sơn vậy.” Sau khi nghe lời ấy, ngài có ý muốn đến viếng cảnh Ngũ 
      Đài để thử xem sự thật như thế nào? Hai năm sau, đại sư mở “Đạo Tràng Niệm 
      Phật” tại chùa Hồ Đông. Ngày khai mở hội cảm được mây ngũ sắc giăng che 
      trên chốn đạo tràng, trong mây hiện ra cung điện, lầu các, Phật A Di Đà 
      cùng hai vị Quán Âm, Thế Chí hiện thân vàng sáng chói khắp cả hư không. 
      Tại thành Hoành Châu, bá tánh trông thấy, thảy đều đặt bàn hương án, đốt 
      nhang đảnh lễ. Do điềm lành nầy mà có vô số người phát tâm tinh tấn niệm 
      Phật. Đạo tràng khai mở liên tiếp được năm hội. Một hôm, đại sư gặp một cụ 
      già đến bảo rằng: “Ông đã từng có ý niệm muốn đến Kim Sắc Thế Giới tại Ngũ 
      Đài Sơn để đảnh lễ Đức Bồ Tát Văn Thù, vì sao đến nay mà vẫn chưa chịu 
      thực hành ý nguyện?” Nói xong liền biến mất. Biết là thần nhân nhắc nhở 
      nên ngài sửa soạn hành trang, cùng thêm với mấy pháp hữu nữa, đồng nhau 
      đến viếng cảnh núi Đài Sơn. Năm Đại Lịch thứ năm, vào ngày mồng 6 tháng 4, 
      đại sư cùng đồng bạn mới đến được chùa Phật Quang ở huyện Ngũ Đài. Đêm ấy 
      vào khoảng canh tư, ngài thấy có ánh sáng lạ từ xa chiếu đến thân mình, 
      ngài liền nhắm chừng theo tia sáng ấy mà theo dõi. Đi được 50 dặm thì đến 
      một dãy núi, dưới chân núi có khe suối, phía bắc khe suối có cửa bằng đá, 
      nơi cửa có hai vị đồng tử đứng đón chờ, một vị xưng là Nan Đà, một vị tự 
      xưng là Thiện Tài. Ngài theo chân hai vị đồng tử dẫn đường đến một ngôi 
      chùa cực kỳ nguy nga lộng lẫy, có biển đề “Đại Thánh Trúc Lâm Tự.” Nơi đây 
      đất vàng, cây báu, ao sen, lầu các thảy đều kỳ diễm, trang nghiêm. Cảnh 
      giới quả đúng như ảnh tượng mà ngài đã thấy trong bát cháo khi trước. Ngài 
      vào chùa, lên giảng đường, thấy Đức Văn Thù Bồ Tát ở phía bên Tây, Đức Phổ 
      Hiền Bồ Tát ở phía bên Đông. Hai vị đều ngồi trên tòa sư tử báu cao đẹp, 
      đang thuyết pháp cho một vạn vị Bồ Tát ngồi phía dưới lặng lẽ lắng nghe. 
      Đại sư Pháp Chiếu bước đến chí thành đảnh lễ, rồi quỳ xuống thưa rằng: 
      “Kính bạch Đại Thánh, hàng phàm phu đời mạt pháp, cách Phật đã xa, lại 
      thêm bị chướng nghiệp nặng sâu, trí thức kém cõi. Tuy là có Phật tánh mà 
      không biết làm sao hiển lộ, giáo pháp của Phật thì quá rộng rãi mênh mông. 
      Chưa rõ pháp môn nào thiết yếu để tu hành cho mau được giải thoát?” Đức 
      Văn Thù Bồ Tát bảo: “Thời kỳ nầy chính là đúng vào lúc các ngươi nên niệm 
      Phật. Trong tất cả các hành môn thì không chi hơn là niệm Phật và gồm tu 
      phước huệ. Thuở đời quá khứ, ta nhờ quán Phật, niệm Phật, cúng dường Tam 
      Bảo mà chứng được Nhất Thiết Chủng Trí. Tất cả các pháp như Bát Nhã Ba La 
      Mật, những môn Thiền Định rộng sâu, cho đến chư Phật cũng từ nơi niệm Phật 
      mà sanh. Vì thế nên biết Niệm Phật là Vua trong các Pháp Môn.” Ngài Pháp 
      Chiếu lại hỏi rằng: “Kính bạch Đại Thánh, nên niệm như thế nào?” Đức Văn 
      Thù Bồ Tát dạy: “Về phương Tây của thế giới nầy có Phật A Di Đà là giáo 
      chủ cõi nước Cực Lạc, Đức Thế Tôn ấy có nguyện lực lớn không thể nghĩ bàn. 
      Ngươi nên chuyên niệm danh hiệu của ngài nối tiếp nhau không gián đoạn, 
      khi mạng chung quyết định được vãng sanh, chẳng còn bị thối chuyển nữa.” 
      Nói xong hai vị Bồ Tát đồng đưa tay vàng xoa đầu ngài Pháp Chiếu và bảo 
      rằng: “Do nơi ngươi niệm Phật nên không bao lâu nữa sẽ chứng được quả Vô 
      Thượng Bồ Đề. Nếu có thiện nam tín nữ nào muốn được thành Phật, thì không 
      còn chi hơn là niệm Phật. Kẻ ấy nhứt định sẽ mau lên ngôi Chánh Đẳng Chánh 
      Giác.” Được hai vị Đại Thánh thọ ký xong, ngài Pháp Chiếu vui mừng đảnh lễ 
      rồi từ tạ lui ra. Hai đồng tử khi nãy theo sau đưa tiển. Vừa ra khỏi cổng 
      chùa, quay nhìn lại thì cả người và cảnh đều biến mất. Ngài liền dựng đá 
      đánh dấu chỗ ấy rồi trở về chùa Phật Quang. Đến ngày 13 tháng 4, Đại sư 
      Pháp Chiếu cùng hơn 50 vị Tăng nữa đồng đến hang Kim Cang, thành tâm đảnh 
      lễ hồng danh 35 Đức Phật. Vừa lạy được 10 lượt, ngài bỗng thấy hang Kim 
      Cang hiện ra, rộng lớn, thanh tịnh trang nghiêm, hai vị Bồ Tát Văn Thù, 
      Phổ Hiền đều đồng ngự ở trong đó. Hôm khác, ngài lại một mình đi riêng đến 
      hang Kim Cang, gieo mình đảnh lễ, nguyện thấy Đại Thánh. Đang khi cúi lạy 
      xuống và vừa ngước lên, đại sư bỗng thấy có một vị Phạm Tăng tự xưng tên 
      là Phật Đà Ba Lỵ. Vị nầy đưa ngài vào trong một đại điện trang nghiêm, 
      biển đề tên “Kim Cang Bát Nhã Tự.” Toàn diện do nhiều thứ báu lạ, đẹp, sắc 
      màu trang nghiêm, ánh sáng lấp lánh chiếu tỏa cùng khắp.  Dù đã nhiều lần 
      thấy được các sự linh dị như thế, nhưng đại sư vẫn chưa tường thuật lại 
      với một ai hết cả. Thánh chạp năm ấy, ngài nhập đạo tràng niệm Phật nơi 
      chùa Hoa Nghiêm, định kỳ tuyệt thực, tu hành nguyện được vãng sanh về Cực 
      Lạc Tịnh Độ. Đến đầu hôm của ngày thứ bảy, đang lúc niệm Phật, đại sư bỗng 
      thấy có một vị Phạm Tăng bước vào bảo: “Ông đã từng thấy cảnh giới Ngũ Đài 
      Sơn, sao không truyền thuật lại cho người đời cùng biết?” Nói xong vị ấy 
      liền ẩn mất. Hôm sau, trong lúc niệm Phật vị Tăng ấy lại hiện ra, bảo y 
      như  hôm trước. Ngài đáp rằng: “Không phải tôi dám dấu kín Thánh tích, 
      nhưng chỉ sợ nói ra người đời không tin rồi sanh ra sự chê bai mà thôi.” 
      Phạm Tăng bảo: “Chính Đức Đại Thánh Văn Thù hiện tại ở núi nầy mà còn bị 
      người đời hủy báng, thì ông còn lo ngại làm chi. Hãy đem những cảnh giới 
      mà ông đã được thấy truyền thuật lại cho chúng sanh, hầu làm duyên cho các 
      kẻ nghe biết để họ phát khởi tâm Vô Thượng Bồ Đề.” Ngài tuân lời, nhớ kỹ 
      lại những sự việc đã thấy rồi ghi chép ra truyền lại cho mọi người. Năm 
      sau có sư Huệ Tùy ở Giang Đông cùng với chư Tăng chùa Hoa Nghiêm theo đại 
      sư Pháp Chiếu đến hang Kim Cang lễ Phật. Kế đó lại đến chỗ dựng bia đá lúc 
      trước để chiêm ngưỡng Thánh tích. Trong lúc đại chúng còn đang ngậm ngùi 
      ngưỡng vọng, bỗng nghe tiếng hồng chung từ trong vách đá vang ra, giọng 
      chuông thanh thoát ngân nga, nhặt khoan rành rẽ. Ai nấy thảy đều kinh lạ, 
      đồng công nhận những lời của Pháp Chiếu đại sư tường thuật là đúng sự 
      thật. Vì muốn cho mọi người viếng cảnh đều được phát khởi đạo tâm, nên 
      Tăng chúng nhân cơ duyên ấy, cho khắc lại những sự việc của ngài nghe thấy 
      vào trong vách đá để lưu truyền cho các đời mai hậu. Về sau, ngay ở tại 
      nơi đó, một cảnh chùa trang nghiêm được xây dựng lên, cũng lấy hiệu là 
      “Trúc Lâm Tự” để lưu niệm. Triều vua Đường Đức Tông, đại sư Pháp Chiếu mở 
      đạo tràng niệm Phật tại miền Tinh Châu, cũng liên tiếp được năm hội. Mỗi 
      đêm vua và các người trong hoàng cung đều nghe có tiếng niệm Phật rất 
      thanh thoát từ xa đưa vẳng lại. Sau cho người dò tìm, được biết đó là 
      tiếng niệm Phật ở đạo tràng Tịnh Độ tại Tinh Châu. Vua liền phái sứ giả 
      mang lễ vật đến thỉnh ngài vào triều. Ngài mở đạo tràng niệm Phật tại 
      hoàng cung, cũng gồm đủ năm hội. Vì thế người đương thời gọi ngài là Ngũ 
      Hội Pháp Sư. Từ đó đại sư tinh tấn tu hành, ngày đêm không biếng trễ. Một 
      hôm, ngài thấy vị Phạm Tăng khi trước là Phật Đà Ba Lỵ hiện đến bảo rằng: 
      “Hoa sen công đức của ông nơi ao thất bảo ở cõi Cực Lạc đã được thành tựu. 
      Ba năm sau là đúng thời kỳ hoa nở. Ông nên chuẩn bị” Đến kỳ hạn, đại sư 
      cho gọi Tăng chúng đến căn dặn rằng: “Ta nay về Cực Lạc, mọi người ở lại 
      phải cố gắng tinh tu.” Nói xong, ngài ngồi ngay ngắn, chắp tay lặng yên mà 
      thoát hóa—Name of the fourth patriarch of the Chinese Lotus Sect or 
      Pureland Buddhism, during the T’ang dynasty, around 767 A.D.  According to 
      Most Venerable Thích Thiền Tâm in The Thirteen Patriarchs of Pureland 
      Buddhism, Great Master Fa-Chao, a native of Mount Lu region. One day while 
      entering samadhi, his spirit came to the Ultimate Bliss World. As he 
      prostrated to Amitabha Buddha, he saw a Bhikshu wearing a completely worn 
      out robe attending the Buddha. Amitabha Buddha pointed at that Bhikshu and 
      told Fa-Chao the following: “Do you know him? This good man is Sheng-Yien 
      Bhikshu living in the region of Hung-Shan.” After coming out of the 
      samadhi, Great Master Fa-Chao immediately went to Hung-Shan Mount to seek 
      out the Bhikshu he had seen in his spiritual vision. Upon meeting and 
      observing carefully the Great Venerable Sheng-Yien, he realized the Great 
      Master was the Bhikshu he had seen in the Ultimate World. He immediately 
      prostrated himself to the Great Master and asked to become a disciple. The 
      Great Venerable Master Fa-Chao’s true identity remains unclear.  In the 
      second year of the Đại Lịch reign period of the T’ang Dynasty, Buddhists 
      began hearing about him. He lived at Wind Cloud Temple at Hoành Châu 
      region, day and night always cultivating and practicing the Way. One 
      morning, during breakfast at the Bhiksu during area, he saw in his bowl of 
      rice soup a cloud of five colors. In this cloud clearly emerged a scene of 
      a mountainous temple; on the Northeast side of the temple was a mountain 
      range. Toward the bottom of the mountain lay a creek and in the North of 
      that creek was a stone door. Inside the small door was another large 
      temple. The sign in front of the temple read: “Great Saints Bamboo Grove 
      Temple.” Several days later, once again, he saw the great temple appearing 
      in his bowl of rice-soup. In this temple were a garden, a pond, large and 
      magnificent castles and palaces, which were occupied by ten thousand 
      Bodhisattvas at that time. After having these visions, the Great Master 
      inquired about them to some of the great knowledgeable advisors. A highly 
      virtuous master told him: “The appearance and transformation of the 
      Enlightened Saints are difficult to imagine, but if we are just referring 
      to the landscape and general region, then what you saw has to be the 
      Wu-Tai-Shan Mountains. Taking the advice he received, the Great Master 
      wanted to visit  Wu-Tai-Shan to seek the truth. Two years later, he opened 
      a “Buddha Recitation Congregation” at Hu-Tung Temple in Hung-Chou. His 
      opening of the congregation caused the cloud of five colors to appear and 
      cover the area. Within the cloud appeared many castles and palaces, the 
      Amitabha Buddha as well as Avalokitesvara and Mahasthamaprapta 
      Maha-Bodhisattvas’ golden bodies shone and illuminated the entire sky. In 
      the Hung-Chou City, witnessing this miracle, the people made shrines to 
      light incense and prostrated themselves to this sighting. This miraculous 
      appearance remained for several minutes before disappearing. Because of 
      this magnificently virtuous event, countless people developed faith to 
      practice Buddha Recitation diligently. In turn, the Great Master opened 
      five congregations to practice Pureland Recitation. One day, he 
      encountered an elderly woman who told him: “You have had the thought of 
      going to the Golden World at the Wu-Tai-Shan Mountains to pay homage to 
      the Manjusri Maha-Bodhisattva, but up to this time, why have you not 
      carried out your intentions?” After speaking, the elderly woman 
      immediately vanished. Knowing this was a reminder by a guardian angel, or 
      Dharma protector, the Great Master made preparations to travel with 
      several fellow Dharma friends to visit Wu-Tai-Shan Mountain. It was not 
      until June 4th of the fifth year of the Tai-Li reign period before the 
      Great Master and his fellow cultivators reached the Buddha’s Light Temple 
      of the Wu-Tai-Shan region. That night, approximately at four in the 
      morning, the Great Master saw a mysterious light from afar shining toward 
      him; he immediately followed the light to investigate. After traveling 
      about fifty miles, he came to a mountain range. At the bottom of the 
      mountain, there was a creek and in the North of the creek was a stone 
      gate, at the gate, there were two young children who awaited his arrival. 
      One of them introduced himself as Nanda and the other as Tien-Tsai. The 
      Grat Master followed the two children to a marvelously enchanting temple; 
      the sign read “Great Saints Bamboo Grove Temple.” In this land, the ground 
      was made of gold. The trees were made of jewels; the lotus pond, palaces, 
      and castles were all extremely beautiful and enchanting. This world was 
      the exact duplicate of the vision he had seen years ago in his rice-soup. 
      As the Great Master entered the temple and came to the large hall where 
      the Dharma was taught, he saw Manjusri Maha-Bodhisattva in the West 
      (represents Wisdom) and Samantabhadra Maha-Bodhisattva in the East 
      (represents wholesome conducts). Both Maha-Bodhisattvas were sitting on 
      beautiful precious thrones high above, preaching the Dharma to ten 
      thousand Bodhisattvas as they sat silently below to listen. Great Master 
      Fa-Chao stepped forward to prostrate himself sincerely to the 
      Maha-Bodhisattvas. He then knelt down and asked the following: “Dear the 
      Great Saints, all unenlightened beings and I of this Dharma Ending Age 
      have been separated from the Buddha for a long time now, we are  bound by 
      heavy and deep-rooted karma as well as  lacking wisdom; thus even though 
      having the Buddha Nature within us, we do not know how to reveal it. The 
      Buddha Dharma is too vast and great making it very difficult to be certain 
      which Dharma Door is essential to cultivate to gain enlightenment 
      quickly?” Manjusri Maha-Bodhisattva told him: “This period is truly the 
      proper time for you to practice Buddha Recitation . In all the Ways or 
      Dharma Doors of cultivation, nothing surpasses the practice of Buddha 
      Recitation to accumulate merits and wisdom. In the past, relying on the  
      practice of envisioning  Buddha, reciting Buddha, and making offerings to 
      the Triple Jewels, I was able to achieve the Great Perfect Wisdom or 
      Maha-Prajna Wisdom. All the other Dharmas such as Maha-Prajna Paramita, 
      the various deep and vast doors of Zen Meditation, including all the 
      Buddhas themselves originated and came about by reciting Buddha. 
      Therefore, you must know ‘Buddha Recitation is the King of all Dharma 
      Doors.’” Great Maste Fa-Chao continued to ask: “Dear the Great saint, how 
      should I recite?” Manjusri Maha-Bodhisattva taught: “To the West of this 
      world, there exists a Buddha named Amitabha who rules over the Ultimate 
      Bliss World. That Lokanatha has an unimaginably great vow power. You 
      should  often and diligently recite His Name continuously without 
      interruption; once death arrives, you are guaranteed to gain rebirth and 
      will no longer regress from attaining Buddhahood.” After speaking, the two 
      Maha-Bodhisattvas simultaneously used their golden hands to rub the Great 
      Master Fa-Chao’s head, saying: “Through your practice of Buddha 
      Recitation, it will not be much longer before you will attain the Ultimate 
      Enlightenment of Buddhahood. If any good man or faithful woman wishes to 
      become a Buddha, there is nothing that surpasses cultivating Buddha 
      Recitation. Such an individual is guaranteed to achieve the state of 
      ‘Ultimate and Perfect Enlightenment of Buddhahood.’” After receiving this 
      prophecy from the two Great Saints, Great Master Fa-Chao felt contented. 
      He then  prostrated himself to them and then withdrew slowly from the 
      assembly. The two young people from before followed behind to escort him 
      out.  As soon as he stepped outside the temple gate, when he turned 
      around, both people and the landscape had vanished completely. He quickly 
      assembled a rock to make a reference of the area and then returned to the 
      Buddha’s Light Temple. On April thirteenth, he and over fifty other 
      Bhiksus came to the “Diamond Cave” to”prostrate sincerely the virtuous 
      names of thirty-five past Buddhas. They had just completed ten 
      prostrations when suddenly they saw the Diamond Cave transformed into its 
      full appearance. The cave was large, tranquil, and enchantingl in it were 
      Manjusri and Samantabhadra Maha-Bodhisattvas. On another occasion, he came 
      to the Diamond Cave alone, prostrated himself to the ground as he prayed 
      to witness the Great Saints. As he lifted his head from the ground after a 
      prostration, he suddenly saw a Brahman Monk who introduced himself as 
      Buddhabhallika. This Buddhist Master escorted the Great Master into a 
      great and anchanting temple; the sign read: “Vajra Prajna Temple.” The 
      inside was formed entirely of various rare, precious gems and jewels. The 
      light reflecting from these priceless treasures reflected on one another 
      and brilliantly  radiated throughout. Despite many times witnessing these 
      miraculous and metaphysical worlds, he did not once mention it to anyone. 
      In December of that year, at the Avatamsaka Temple, he retreated and went 
      on a fast for a pre-determined period in order to practice Buddha 
      Recitation vowing to gain rebirth to the Ultimate Bliss Pureland. In the 
      morning of the seventh day, deeply engaged in Buddha Recitation, suddenly 
      he saw a Brahman Monk who said as he came in: “You have seen the greatly 
      enlightened world within Wu-Tai-Shan Mountain, why have you not recounted 
      what you saw so others will also know of it?” After speaking, the Brahman 
      Monk disappeared. The next day, while reciting Buddha’s name, the same 
      Saintly Master once again made his appearance saying exactly what he had 
      said previously. Great Master Fa-Chao replied: “It is not that I dare to 
      hide the living areas of the enlightened saints, but I am just afraid if I 
      tell of it, people will not believe but criticize and ridicule me.” The 
      Brahman Monk said: “Even the Great Saint Manjusri currently living in this 
      mountain is often degraded by people, what reason do you have to worry? 
      You should recount the worlds you have witnessed to sentient beings so 
      they will lay a foundation for those who hear and know of these worlds; 
      perhaps it will help them develop their minds to want to attain the 
      Ultimate Enlightenment of Buddhahood.” Great Master Fa-Chao followed these 
      instructions as he tried to remember carefully all the details of what he 
      had seen and then wrote them down to pass out to everyone to read. In the 
      next year, a Buddhist Master named Hui-Tsuy of Jiang-Tung region as well 
      as the Sangha of the Avatamsaka Temple followed Great Master Fa-Chao to 
      the Diamond Cave to prostrate to the Buddha. Thereafter, they came to the 
      rock formation the Great Master had built earlier to admire the sight. 
      They prayed for a miracle, but felt sad because nothing happened. But then 
      suddenly they heard sounds of bells resonating from the mountain walls. 
      The ringing sounds were peaceful, enchanting, and harmonious. Everyone was 
      overwhelmed with joy and all accepted what the Great Master Fa-Chao had 
      said before was true. Because they wanted for everyone who visited this 
      sight to develop a faithful mind, they used this opportunity to inscribe 
      on the mountain wall the events the Great Master had seen and heard to 
      pass down to future generations. Eventually, a beautiful temple was built 
      at this site as a memorial, also using the title “Bamboo Grove Temple.” 
      During the reign of Emperor T’ang-Te-Tsung, Great Master Fa-Chao opened 
      five consecutive Budha Recitation Congregations at the Tinh-Chou region. 
      For this reason, people of the day called him “Five Buddha Recitations 
      Dharma Master.” From then on, the Great Master cultivated with vigor, day 
      and night he was never lazy or late in getting to his practice. Then one 
      day, he once again saw the Brahman Monk, as Buddhabhallika Master appeared 
      to tell him: “Your lotus flower of virtues and merits in the lake of seven 
      jewels of the Ultimate Bliss World is now complete. Three years from now 
      your flower will blossom, prepare yourself." ”When that time arrived,