TỔ ĐÌNH MINH ĐĂNG QUANG
      
      PHẬT HỌC TỪ ĐIỂN
      
      
      BUDDHIST DICTIONARY
      
      
      VIETNAMESE-ENGLISH
      
      
      THIỆN PHÚC
       
      
      K
       
      
      Kẻ Ăn Mày: Beggar.
      
      Kẻ Cầu Nguyện: Those who pray 
      by dedicating of merit or by merit transference, or sharing one’s own 
      merits and virtues with others. 
      
      Kẻ Cướp: Robber .
      
      Kẻ Đào Thoát: An escapist.
      
      Kẻ Lừa Đảo: Swindler. 
      
      Kẻ Thù: Adversary—Enemy.
      
      Kẻ Trộm: Burglar—Thief 
      
      Kẻ Vạch: To get someone into 
      trouble  
      
      Kẻ Xấu Xa: Demon—Devil—Mara.
      
      Kẻ Yếu Hèn: The weak.
      
      Kẽ Tóc Chân Tơ: In detail.
      
      Kém: Less. 
      
      Kém Quan Trọng: Of less 
      importance. 
      
      Kén Ăn: To be fastidious about 
      one’s food. 
      
      Kén Chọn: To choose—To select.
      
      Keo: Tên khác của chùa là Trần 
      Quang Tự, tọa lạc tại thôn Dũng Nhuệ, xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái 
      Bình. Chùa được xây dựng năm 1608 bên bờ sông Hồng Hà, nên bị nước xoáy 
      mòn dần. Năm 1930, Quận Công Nguyễn Quyên đã cúng dường đất để xây lại 
      ngôi chùa. Trong chùa có đại hồng chung  được đúc vào thời nhà Lê—Another 
      name for Trần Quang Tự Temple, a famous ancient temple, located in Dũng 
      Nhuệ hamlet, Duy Nhất village, Vũ Thư district, Thái Bình province. It was 
      built in 1608  by the bank of the Red River, so it has gradually been 
      eroded. In 1930, Duke Nguyễn Quyên donated his own land for rebuilding the 
      temple. The great bell of the temple cast during the Lê dynasty. 
      
      Keo Kiệt: Stingy—Misery.
      
      Kê: 
      
      1)      Con 
      gà: Kukkuta (skt)—A cock—A fowl—Chicken—Hen. 
      
      2)      Kê 
      cứu: To investigate. 
      
      3)      Kê đầu 
      kỉnh lễ: To prostrate oneself. 
      
      Kê Cẩu Giới: Ngoại đạo vùng Bắc 
      Ấn, có loại trí thủ kê giới, cẩu giới, kê thì suốt ngày đứng một chân, cẩu 
      thì ăn phân nhơ bẩn—Heterodox sects in northern India follow cock or dog 
      discipline, e.g. standing on a leg all day, or eating ordure, like certain 
      ascetics. 
      
      Kê Dẫn Bộ: Gokulikas, 
      Kukkulikas, Kukkutikas, or Kaukkutikas (skt)—Một trong 20 bộ của Tiểu 
      Thừa, còn gọi là Khôi Sơn Trụ Bộ, Quật Cự Bộ, Cao Câu Lê Ca Bộ, một trong 
      20 bộ của Tiểu Thừa, thành lập khoảng 200 năm sau ngày Phật nhập diệt và 
      biến mất ngay sau đó—One of the twenty Hinayana branches, a branch of the 
      Mahasanghikas which established around 200 years after the Buddha’s 
      nirvana and early disappeared.  
      
      Kê Độc: Thân Độc—India—Hindu.
      
      
      Kê Khai: To enumerate—To make a 
      list. 
      
      Kê Khương Na: Kikana (skt)—Theo 
      Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, Kê Khương Na là một dân tộc ở A 
      Phú Hãn, trú ngụ khoảng giữa miền đông Kandhar và miền nam Ghazna, vào 
      khoảng những năm 630 sau Tây Lịch được cai trị bởi những vị lãnh chúa độc 
      lập, có lẽ theo niên kỷ của Ả Rập đây là dân tộc Kykanan—According to 
      Eitel in The Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, Kikana is a 
      people in Afghanistan, east of Kandahar, south of Ghazna, ruled 630 A.D. 
      by independent chieftains, perhaps identical with the Kykanan of Arabic 
      chroniclers.  
      
      Kê Quý: 
      
      1)      Người 
      Tây Trúc gọi nước Cao Ly là Câu Câu Tra-Y Thiết La (Câu Câu Tra là kê, Y 
      Thiết La là quý)—Indian people called Korea by Kukkutesvara. 
      
      2)      Tôn 
      quý loài gà: Honouring or reverencing the cock. 
      
      Kê Tác La: Kesara (skt).
      
      1)      Tóc 
      hay lông: Hair.
      
      2)      Lông 
      bờm của sư tử: Mane of a lion.
      
      3)      Lông 
      quắn: Curly hair.
      
      4)      Tên 
      một loại bảo châu: Name of a gem. 
      
      Kê Thủ: Phủ phục—To make 
      obeisance by prostration. 
      
      Kê Túc Sơn: Kukkutapada (skt).
      
      
      1)      Núi 
      Chân Gà, nơi tôn giả Ca Diếp nhập diệt ở xứ Ma Kiệt Đà, nhưng người ta tin 
      ngài hãy còn sống: Cock’s foot mountain, in Magadha, on which Kasyapa 
      entered into nirvana, but where he is still supposed to be living.
      
      2)      Còn 
      gọi là núi Lang Tích (dấu chó sói): Also called the Wolf-Track. 
      
      3)      Tôn 
      Túc Sơn: Gurupada (skt)—Buddha’s Foot Mountain. 
      
      Kê Viên: Kukkutarama (skt)—Theo 
      Tây Vực Ký, Kukkutarama còn gọi là Kê Đầu Ma Tự hay Kê Tước Tự, một ngôi 
      chùa trên núi Kê Đầu do vua A Dục xây (ở phía đông nam cổ thành có ngôi 
      già lam Quật Quật Tra A Lạm Ma mà đời Đường gọi là Kê Viên, do vua Vô Ưu 
      xây dựng. Vua Vô Ưu tín ngưỡng Phật pháp, kính cẩn dựng chùa, chăm làm 
      việc thiện, chiêu tập hàng ngàn Tăng chúng)—According to The Great T’ang 
      Chronicles of the Western World, Kukkutarama, a monastery on the Kukkuta 
      Mountain, built by Asoka. 
      
      Kế: 
      
      1)      Búi 
      tóc: Topknot—Tuft—The hair coil on top. 
      
      2)      Cỏ 
      gai: A thistle. 
      
      3)      Kế 
      bên: Annex. 
      
      4)      Kế 
      thừa: To inherit—To adopt.
      
      5)      Kế 
      tục: Tiếp tục hay tương tục—To continue.
      
      6)      Kế 
      toán: Accounting—To reckon. 
      
      Kế Bảo: Theo Kinh Pháp Hoa, “Kế 
      Bảo” là hạt ngọc báu quý nhất cài trên mái tóc của vị quốc vương (theo 
      Kinh Pháp Hoa thì có một người có công to, nhà vua bèn cởi viên minh châu 
      cài trên tóc ban cho, để ví với việc Đức Phật giảng thuyết Kinh Pháp Hoa 
      cho hạng người đã ra khỏi sinh tử phân đoạn, mà tinh tấn để lìa hẳn sinh 
      tử biến dịch)—According to The Lotus Sutra, this is the precious stone 
      worn in the coiled hair on top of the king’s head. It is the king’s most 
      prized possession.   
      
      Kế Châu: See Kế Bảo. 
      
      Kế Danh Tự Tướng: Theo Đại Thừa 
      Khởi Tín Luận, đây là sự y vào vọng chấp mà lập ra danh từ hư giả (chỉ sự 
      suy tính so đo giữa vật nầy với vật nọ)—According to The Awakening of 
      Faith, this is the stage of giving names (to seeming things, etc.).
      
      Kế Đô: Ketu (skt).
      
      1)      Sao kế 
      đô, tên của hai chòm sao nằm bên trái và phải của chòm sao Aquila: A 
      comet, name of two constellations to the left and right of Aquila—See Cửu 
      Diệu. 
      
      2)      Bất cứ 
      vẻ sáng rực nào: Any bright appearance. 
      
      Kế Độ: Tarka or Vitarka 
      (skt)—Tính toán—Phân biệt—To calculate—To differentiate—To reckon. 
      
      Kế Hoạch: Plan. 
      
      Kế Lợi Cát La: Kelikila 
      (skt)—Kế Lợi Tích La—Kế Lý Kế La—Tên của một vị Kim Cang Thủ Bồ Tát—The 
      attendant of a deva, one of the Vajrapanis. 
      
      Kế Lợi Da: Surya (skt). 
      
      1)      Mặt 
      Trời: The sun.
      
      2)      Thần 
      mặt trời: The sun-god. 
      
      Kế Mẫu: Stepmother. 
      
      Kế Ngã Thực Hữu Tông: Kế Ngã 
      Luận—Một trong 16 tông phái ngoại đạo. Tông nầy vọng chấp vào ngã ly uẩn 
      và phi ngã phi ly uẩn (cho rằng cái ta là có thực, là thường nhất; do chấp 
      có ta nên chấp có cuộc sống, từ đó mà sanh ra 5 cơ quan cảm giác)—The sect 
      that reckons on, or advocates, the reality of personality, one of the 
      sixteen heterodox sects. 
      
      Kế Sinh Nhai: Means of living.
      
      
      Kế Tát La: Kesara 
      (skt)—Tóc—Hair—Filament. 
      
      Kế Tân: Vương quốc cổ Kế Tân, 
      bây giờ là Kashmir, nằm về phía tây bắc Ấn Độ—Ancient Kashmir kingdom, 
      situated in the north-east of India—See Kashmir in 
      Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
      
      
      Kế Thừa: To inherit something 
      from someone. 
      
      Kế Tiếp: To succeed. 
      
      Kế Tục: To continue—To follow.
      
      
      Kế Vị: To succeed to the 
      throne. 
      
      Keà: Close to—Near to. 
      
      Kể: To count—To mention—To 
      enumerate. 
      
      Kể Trên: Above-mentioned. 
      
      Kể Truyện: To tell story—To 
      relate.   
      
      Kệ: Gatha (skt)—Già Đà—Già 
      Tha—Phúng Tụng (gồm bốn câu với số chữ nhứt định trong mỗi 
      câu)—Chant—Metrical hymn or chant—Poem—Stanza—Verse. 
      
      Kệ Đà: Hymn—Chant—To hymn. 
      
      Kệ Huệ Năng: The verse of Hui 
      Neng.
              Bồ đề vốn không 
      cây,
              Gương sáng cũng 
      chẳng đài,
              Xưa nay không một 
      vật,
              Chỗ nào dính bụi 
      bặm?
              Originally Bodhi 
      has no tree,
              The bright mirror 
      has no stand.
              Originally there 
      is not a single thing,
              Where can dust 
      alight?  
      
      Kệ Khai Kinh: Verse for opening 
      a Sutra.
      
      ·       
      Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp (Phật pháp rộng sâu rất 
      nhiệm mầu)
      The 
      unsurpassed, deep, profound, subtle wonderful Dharma.
      
      ·       
      Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ (Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm 
      cầu)
      In a 
      hundred thousand million eons, it is difficult to encounter.
      
      ·       
      Ngã kim kiến văn đắc thọ trì (Con nay nghe được xin trì 
      tụng)
      Now that 
      I have come to receive and hold it, within my sight and hearing.
      
      ·       
      Nguyện giải Như Lai chân thiệt nghĩa (Nguyện rõ Như Lai 
      nghĩa nhiệm mầu)
      I vow to 
      fathom the Thus Come One’s true and actual meaning.
      
      Kệ Phá Địa Ngục: Stanza that 
      destroys hell:
      Nhược 
      nhơn dục liễu tri.
      If 
      people want to really know.
      Tam thế 
      nhứt thiết Phật
      All 
      Buddhas of all times.
      Ưng quán 
      pháp giới tánh
      They should contemplate the nature of the 
      cosmos.
      Nhứt 
      thiết duy tâm tạo
      All is 
      but mental construction
      
      (Everything is made from mind). 
      
      Kệ Sám Hối: Verse of 
      Repentance:
          Từ 
      vô thỉ con tạo bao nghiệp ác
          
      From beginningless, I had done so 
          
      many vicious deeds
          Do 
      bởi tham, sân, si,
          
      Only because of Greed, Anger and 
          
      Stupidity,
          Từ 
      thân, khẩu, ý mà sanh ra
          
      They are coming from body, mouth 
           
      and mind
          Nay 
      con xin thành tâm sám hối tất cả.
               Now I sincerely 
      ask for forgiveness in my   
               repentance. 
      
      Kệ Tán: Dùng câu kệ tán thán 
      công đức của người khác—To sing in verse the praises of the object adored.
      
      
      Kệ Tha: See Kệ. 
      
      Kệ Thần Tú: The verse of Shen 
      Hsiu.
              Thân là cội Bồ đề,
              Tâm như đài gương 
      sáng.
              Luôn luôn phải lau 
      chùi,
              Chớ để dính bụi 
      bặm.
              The body is a 
      Bodhi tree,
              The mind like a 
      bright mirror stand.
              Time and again 
      brush it clean,
              And let no dust 
      alight.
      
      Kệ Tụng: Kệ đà—Hymn—Chant. 
      
      Kệ Tứ Liệu Giản Của Đại Sư Vĩnh Minh: 
      Four options or choices from Yung Ming Master:
      Có Thiền có Tịnh, như cọp 
      mọc sừng, đời nầy làm thầy người, đời sau làm Phật.
      To practice bothe Zen and 
      the Pure Land, one is like a tiger with horns, in the present life the 
      cultivator is a teacher of man, in the future he will be a Buddha or a 
      patriarch.
      Có Thiền không Tịnh, mười 
      tu chín lạc đường
      To practice Zen without 
      the Pure Land, nine out of ten seekers of the way will take the wrong 
      road. 
      Không Thiền có Tịnh, vạn 
      tu vạn chứng.
      To practice the Pure Land 
      without the Zen, ten thousand practice, ten thousand will go to the right 
      way.   
      
      Kệ Tự Tánh Của Lục Tổ Huệ Năng: 
      The verse on the Self-Nature of the Sixth Patriarch Hui neng.
          Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh,
          Đâu ngờ tự tánh vốn không sanh diệt,
          Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ,
          Đâu ngờ tự tánh vốn không dao động,
          Đâu ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp.
          How unexpected!
          The self-nature is pure in itself.
          The 
      self-nature is orginally neither produced nor destroyed. 
      The self-nature is originally complete in itself.
          The 
      self-nature is originally without movement, 
          The 
      self-nature can produce the ten     thousand dharmas. 
      
      Kệ Vô Tướng Của Lục Tổ Huệ Năng: 
      No-Mark Stanza from Hui-Neng Patriarch—Lục tổ muốn nhắc nhở người tu không 
      nên tìm lỗi người, vì càng dùng thời gian để tìm lỗi người chúng ta càng 
      xa đạo—Patriarch Hui-neng wanted to remind the cultivators try not to see 
      anybody’s faults, but our own because the more time we spend to find other 
      people’s faults the farther we are away from the Path: 
      
      ·       
      Nhược kiến tha nhơn phi (nếu là bậc chân tu, chúng ta không 
      bao giờ thấy lỗi đời)
      He who 
      treads the path in earnest, see not the mistake of the world.
      
      ·       
      Tự phi khước thị tả (Nếu như thấy lỗi người, mình chê thì 
      mình cũng là kém dỡ)
      If we 
      find faults with others, we ourselves are also in the wrong.
      
      ·       
      Tha phi ngã bất phi (Người quấy ta đừng quấy).
      When 
      other people are in the wrong, we should ignore it.
      
      ·       
      Ngã phi tự hữu quá (Nếu chê là tự ta đã có lỗi).
      For it 
      is wrong for us to find faults.
      
      ·       
      Đản tự khước phi tâm.
      By 
      getting rid of the habit of fault-finding,
      
      ·       
      Đả trừ phiền não phá (Muốn phá tan phiền não).
      We cut 
      of a source of defilement.
      
      ·       
      Tắng ái bất quan tâm (Thương ghét chẳng để lòng).
      When 
      neither hatred nor love disturb our mind.
      
      ·       
      Trường thân lưỡng cước ngọa (Nằm thẳng đôi chân nghỉ).
      Serenely 
      we sleep.   
      
      Kềm Chế: To refrain. 
      
      Kềnh Càng: Bulky. 
      
      Kết:
      
      (A)    Nghĩa 
      của “Kết”—The meanings of “Bond”
      
      ·       
      Trói buộc: To tie a knot—Bound—Tie—Knot—Settle—Wind up—To 
      form.
      
      ·       
      Trói buộc của luân hồi sanh tử: The bond of transmigration.
      
      
      (B)     Phân 
      loại “Kết”—Categories of “bonds”
      
      1)      Tam 
      Kết: Three bonds—See Tam Kết.
      
      2)      Ngũ 
      Kết: Five bonds to mortality—See Ngũ Kết. 
      
      3)      Ngũ Hạ 
      Phần Kết: The five bonds in the lower desire-realms or the lower 
      fetters—See Ngũ Hạ Phần Kết.
      
      4)      Ngũ 
      Thượng Phần Kết: The five higher bonds of desire still exist in the upper 
      realms of form and formlessness—See Ngũ Thượng Phần Kết.
      
      5)      Cửu 
      Kết: The nine bonds that bind men to mortality—See Cửu Kết.   
      
      Kết Án: To condemn—To 
      sentence—To convict. 
      
      Kết Bạn: To make friends. 
      
      Kết Bệnh: Bệnh của sự trói buộc 
      vào dục vọng và sanh tử luân hồi—The disease of bondage to the passions 
      and reincarnation.
      
      Kết Cuộc: The end. 
      
      Kết Duyên: Kết duyên (với Phật 
      Pháp) để được độ sau nầy. Căn bản 84.000 kiếp qua mà Đức Đại Thông Trí 
      Thắng Như Lai đã dạy trong Kinh Pháp Hoa cho 16 vị đệ tử để trở thành 16 
      vị Phật, mà Phật Thích Ca là lần tái sanh thứ 16—To form a cause or basis, 
      to form a connection, e.g. for future salvation. The basis or condition 
      laid 84,000 kalpas ago by Mahabhijna-jnanabhibhu in his teaching of the 
      Lotus Sutra to 16 disciples who became incarnate as 16 Buddhas, for the 
      subsequent teaching of the Lotus scriptures by Sakyamuni, the last of the 
      16 incarnations, to his disciples.   
      
      Kết Duyên Chúng: Một trong Tứ 
      Chúng, do duyên kiếp trước còn nông cạn, chưa được độ nên kết nhân duyên 
      đắc đạo sau nầy, với hy vọng cải thiện nghiệp chướng trong tương lai—The 
      company or multitude of those who noe become Budhists in the hope of 
      improved karma in the future, one of the four groups of disciples.  
      ** For more information, 
      please see Tứ Chúng 
           (B) (4).
      
      Kết Giải: 
      
      1)      Trói 
      buộc và giải thoát: Bị phiền não trói buộc và giải thoát tự tại—Bondage 
      and release.
      
      2)      Giải 
      thoát khỏi sự trói buộc: Giác ngộ được lý mà giải thoát—Release from 
      bondage.
      
      Kết Giảng: Kết thúc một bài 
      thuyết trình trong buổi bế mạc (kỳ an cư kiết hạ hay buổi nhóm họp chư 
      Tăng Ni)—Concluding an address, or the address, i.e. the final day of an 
      assembly.
      
      Kết Giao: Làm bạn với ai—To 
      form a friendship with someone. 
      
      Kết Giới: See Kiết Giới. 
      
      Kết Hà: Dòng sông trói buộc của 
      khổ đau hay phiền não—The river of bondage, i.e. of suffering or illusion.
      
      
      Kết Hạ: See Kiết Hạ. 
      
      Kết Hợp: To associate—To 
      unite—To combine. 
      
      Kết Kinh: See Kiết Kinh. 
      
      Kết Lậu: Kết và lậu là tên gọi 
      khác của phiền não. Trói buộc và luân hồi sanh tử là do bởi dục 
      vọng—Bondage and reincarnation because of the  passions.
      
      Kết Liên: To League—To unite—To 
      ally. 
      
      Kết Liễu: To finish—To 
      conclude—To close—To end. 
      
      Kết Luận: To end—To conclude—To 
      come to a conclusion (an end)—Conclusion. 
      
      Kết Nạp: To admit. 
      
      Kết Nghĩa: To make friends—To 
      be friends with someone. 
      
      Kết Nghiệp: Sự trói buộc của 
      nghiệp, hay nghiệp là kết quả của sự trói buộc của dục vọng—The bond of 
      karma, the karma resulting from the bondage to passions or delusions.
      
      Kết Nguyện: 
      
      1)      Kết 
      thúc hay hoàn thành lời nguyện: To conclude a vow.
      
      2)      Ngày 
      bế mạc đại hội an cư kiết hạ: The last day of an assembly (of a summer 
      retreat).
      
      Kết Oán: To create enemies. 
      
      Kết Phược: Tên khác của phiền 
      não, dục vọng hay phiền não trói buộc thân tâm—To tie and knot, i.e. in 
      the bondage of the passions, or delusion. 
      
      Kết Quả Của Nghiệp: Karmic 
      results—The natural reward or retribution for a deed, brought about by the 
      law of karma.
      
      Kết Sanh: Sự trói buộc vào tái 
      sanh hay thân trung hữu chết đi để thác sanh vào thai mẹ (theo Câu Xá 
      Luận: “lúc lâm chung thì trung hữu đối với hai tâm niệm trái ngược nhau là 
      yêu và ghét sẽ hiện khởi, đến khi nhập thai thì đẩy bỏ cái tâm ghét chỉ 
      chừa lại cái tâm yêu, bảo đây là của mình, rồi từ đó sinh vui mừng, nên 
      các uẩn lớn thêm lên, thân trung hữu liền mất đi và sinh hữu hay kết sanh 
      đã thành)—The bond of rebirth.
      
      Kết Sử: See Kiết Sử. 
      
      Kết Tặc: Những kẻ trói buộc hay 
      những tên giặc, ý nói dục vọng và phiền não—Binders and robbers, the 
      passions, or delusion.
      
      Kết Tập Kinh Điển: Đức Phật đã 
      nhập diệt, nhưng giáo lý của Ngài vẫn còn lưu truyền đến ngày nay một cách 
      trọn vẹn. Mặc dù giáo huấn của Đức Thế Tôn không được ghi chép ngay thời 
      Ngài còn tại thế, các đệ tử của Ngài luôn luôn nhuần nhã nằm lòng và 
      truyền khẩu từ thế hệ nầy sang thế hệ khác. Vào thời Đức Phật còn tại thế, 
      biết chữ là đặc quyền của giới thượng lưu ở Ấn Độ, vì thế truyền khẩu giáo 
      lý là một dấu hiệu cho thấy dân chủ được coi trọng trong truyền thống Phật 
      giáo đến mức cách trình bày giáo pháp bằng văn chương đã bị bỏ quên. Nhiều 
      người không biết chữ, cho nên truyền khẩu là phương tiện phổ thông và hữu 
      hiệu nhứt  để gìn giữ và phổ biến giáo pháp. Vì có nhiều khuynh hướng sai 
      lạc về giáo pháp nên ba tháng sau ngày Đức Thế Tôn nhập diệt, các đệ tử 
      của Ngài đã triệu tập Đại Hội Kết Tập Kinh Điển Phật Giáo để đọc lại di 
      ngôn của Phật. Lịch sử phát triển Phật giáo có nhiều Hội Nghị kết tập kinh 
      điển với những hoàn cảnh vẫn có phần chưa rõ. Lúc đầu các hội nghị nầy có 
      thể là những hội nghị địa phương chỉ tập hợp vài cộng đồng tu sĩ. Sau đó 
      mới có những nghị hội chung—The Buddha has passed away, but His sublime 
      teaching still exists in its complete form. Although the Buddha’s 
      Teachings were not recorded during His time, his disciples preserved them, 
      by committing to memory and transmitted them orally from generation to 
      generation. At the time of the Buddha, literacy was a privilege of the 
      elite in India, and this another indication of the premium placed on 
      democracy within the Buddhist tradition that literary formulation of the 
      teaching was neglected for so long. Many people were not literate, so word 
      of mouth was the universal medium for preservation and dissemination of 
      the Dharma. Three months after the Buddha’s Parinirvana, there were some 
      tendencies to misinterpret or attempts were being made to pollute His Pure 
      Teaching; therefore, his disciples convened Councils for gathering 
      Buddha’s sutras, or the collection and fixing of the Buddhist canon. In 
      the development of Buddhism, several councils are known, the history of 
      which remains partially obscure. These Councils were originally probably 
      localassemblies of individual monastic communities that were later 
      reported by tradition as general councils.   
      
      (I)     Hội 
      Nghị Kết Tập Lần Thứ Nhất—The First Council: Ba tháng sau ngày Đức Phật 
      nhập diệt (vào khoảng năm 543 trước Tây Lịch), do nhận thấy có khuynh 
      hướng diễn dịch sai lạc và xu hướng suy yếu về giới luật trong nội bộ Tăng 
      Già sau khi Phật nhập diệt, nên Đại Hội kết tập kinh điển lần thứ nhất 
      được vua A Xà Thế tổ chức tại hang Pippala, có sách lại ghi là hang 
      Saptaparni, trong thành Vương Xá thuộc xứ Ma Kiệt Đà. Dù vị trí và tên của 
      hang vẫn chưa được xác định rõ ràng, nhưng không có gì nghi ngờ là Hội 
      Nghị thứ nhất đã diễn ra tại thành Vương Xá. Các học giả đều thừa nhận 
      rằng Hội Nghị Kết Tập lần thứ nhất nầy chỉ bàn về Kinh Tạng (Dharma) và 
      Luật Tạng (Vinaya), phần Luận Tạng không được nói đến ở đây. Trong hội 
      Nghị nầy có 500 vị Tỳ Kheo tham dự, trong đó có ngài Đại Ca Diếp, người 
      được trọng vọng nhất và là bậc trưởng lão, và hai nhân vật quan trọng 
      chuyên về hai lãnh vực khác nhau là Pháp và Luật là ngài A Nan và Ưu Ba Li 
      đều có mặt. Chỉ hai phần Pháp và Luật là được trùng tụng lại tại Đại Hội 
      lần thứ nhất. Tuy không có nhiều ý kiến dị biệt về Pháp, có một số thảo 
      luận về Luật. Trước khi Đức Phật nhập diệt, Ngài có nói với ngài A Nan 
      rằng nếu Tăng Đoàn muốn tu chính hay thay đổi một số luật thứ yếu cho hợp 
      thời, họ có thể làm được. Tuy nhiên, vào lúc đó ngài A Nan vì quá lo lắng 
      cho Đức Phật nên quên không hỏi những luật thứ yếu là những luật nào. Vì 
      các thành viên trong Hội Nghị không đi đến thỏa thuận về những luật nào 
      thuộc về thứ yếu nên ngài Ma Ha Ca Diếp quyết định không có luật lệ nào đã 
      được đặt ra bởi Đức Phật có thể được thay đổi, và cũng không có luật lệ 
      mới nào được đưa ra. Ngài Đại Ca Diếp nói: “Nếu ta thay đổi luật, người ta 
      sẽ nói đệ tử của Đức Cồ Đàm thay đổi luật lệ trước khi ngọn lửa thiêu Ngài 
      chưa tắt.” Trong Hội Nghị nầy, Pháp được chia làm hai phần  và mỗi phần 
      được trao cho một vị trưởng lão cùng với đệ tử của vị ấy ghi nhớ. Pháp 
      được truyền khẩu từ thầy đến trò. Pháp được tụng niệm hằng ngày bởi một 
      nhóm Tỳ Kheo và thường được phối kiểm lẫn nhau để bảo đảm không có sự 
      thiếu sót cũng như không có gì thêm vào. Các sử gia đều đồng ý truyền 
      thống truyền khẩu đáng tin cậy hơn văn bản của một người viết lại theo trí 
      nhớ của mình vài năm sau hội nghị. Nhiều người nghi ngờ hiện thực lịch sử 
      của Hội Nghị Kết Tập Kinh Điển lần đầu nầy, nhưng có thể là việc biên soạn 
      những văn bản Kinh Luật thiêng liêng đầu tiên diễn ra tương đối sớm. Vào 
      lúc Đại Hội sắp kết thúc, có vị Tăng tên là Purana được những người tổ 
      chức mời tham gia vào giai đoạn bế mạc của Đại Hội, Purana đã khước từ và 
      nói rằng ông chỉ thích nhớ lại những lời dạy của Đức Phật như ông đã từng 
      nghe từ chính kim khẩu của Đức Phật. Sự kiện nầy cho thấy tự do tư tưởng 
      đã hiện hữu từ thời khai mở của cộng đồng Phật giáo—Three months after the 
      passing of the Buddha (in about 543 B.C.), detecting tendencies within the 
      Sangha toward loss of discipline, as well as misinterpreting His Pure 
      Teaching, the First Council was organized by King Ajatasatru, and held at 
      the Pippala cave, some said near the Saptaparni cave, at Rajagriha in 
      Magadha. Even though the site and name of the cave have not yet been 
      definitely identified. Nonetheless, there is no dispute about the fact 
      that it is at Rajagrha that the First Council met. It is accepted by 
      critical scholars that the First Council settled the Dharma and the 
      Vinaya, and there is no ground for the view that Abhidharma formed part of 
      the canon adopted at the First Council. In this Council, there were 500 
      Bhiksus, among them Maha-Kasyapa was the most respected and elderly monk, 
      and two very important persons who specialized in the two different areas 
      which are sutras and vinaya were present. One was Ananda and the other was 
      Upali. Only these two sections, the Dharma and the Vinaya, were recited at 
      the First Council. Though there were no differences of opinion on the 
      Dharma, there was some discussion about the Vinaya rules. Before the 
      Buddha’s Parinirvana, he had told Ananda that if the Sangha wished to 
      amend or modify some minor rules, they could do so. However, on that 
      occasion Ananda was so overpowered with grief because the Buddha was about 
      to pass away, he forgot to ask the Master what the minor rules were. As 
      the members of the Council  were unable to agree as to what constituted 
      the minor rules, Maha-Kasyapa finally ruled that no disciplinary rule laid 
      down by the Buddha should be changed, and no new ones should be 
      introduced. Maha-Kasyapa said: “If we changed the rules, people will say 
      that the Buddha’s disciples changed the rules even before his funeral fire 
      has ceased burning.” At the Council, the Dharma was divided into various 
      parts and each part was assigned to an Elder and his pupils to commit to 
      memory. The Dharma was then passed on from teacher to pupil orally. The 
      Dharma was recited daily by groups of people who often cross check with 
      each other to ensure that no omissions or additions were made. Historians 
      agree that the oral tradition is more reliable that a report written by 
      one person from his memory several years after the event. The historicity 
      of this Council is doubted by many. Nevertheless, it is likely that the 
      first collection of writings took place relatively early. At the end of 
      the First Council, a monk named Purana was invited by the organizers to 
      participate in the closing phases of the council, but he declined, saying 
      that he would prefer to remember the teachings of the Buddha as he had 
      heard it from the Buddha himself. This fact indicates the freedom of 
      thought existed at the time of the beginning of Buddhist community. 
      
      a)      Ngài 
      Đại Ca Diếp, người được mọi người trọng vọng  nhất mà cũng là bậc trưởng 
      lão, là chủ tịch Hội Nghị—Maha Kasyapa, the most respected and elderly 
      monk, presided at the First Council. 
      
      b)      Kế đó, 
      ngài Đại Đức Ưu Ba Li/Upali trùng tụng lại những giới luật của Phật bao 
      gồm luật cho cả Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni. Ngài Ưu Ba Li đã tụng đọc 80 lần 
      các văn luật trong 90 ngày mới hoàn tất nên còn gọi là “80 tụng luật.” Đây 
      cũng là giới luật căn bản cho Phật giáo về sau nầy bao gồm những văn bản 
      sau đây—Then, Venerable Upali remembered and recited all the rules set 
      forth by the Buddha (rules of the Order), including all rules for monks 
      and nuns. Venerable Upali recited eighty times all these rules in 90 days. 
      These rules include:
      
      ·       
      Luật Thập Tụng: Sarvastivada-Vinaya.
      
      ·       
      Luật Tăng Kỳ: Samghika-Vinaya.
      
      ·       
      Luật Tứ Phần: Dharmagupta-Vinaya.
      
      ·       
      Luật Ngũ Phần: Mahissasaka-Vinaya.
      
      c)      Kế đó 
      nữa là ngài A Nan, người đệ tử thân cận nhất của Phật trong suốt 25 năm, 
      thiên phú với một trí nhớ xuất sắc. Lúc đầu đã không được xếp vào thành 
      viên Hội Nghị. Theo Kinh Tiểu Phẩm, sau đó vì có sự phản đối của các Tỳ 
      Kheo quyết liệt bênh vực cho A Nan, mặc dù ông nầy chưa đắc quả A La Hán, 
      bởi vì ông có phẩm chất đạo đức cao và cũng vì ông đã được học kinh tạng 
      và luật tạng từ chính Đức Bổn Sư. Sau cùng A Nan đã được Đại Ca Diếp chấp 
      nhận vào Hội Nghị. A Nan đã trùng tụng lại tất cả những gì mà Đức Phật 
      nói, gồm những bộ kinh sau đây—Then, Venerable Ananda, the closest 
      disciple and the attendant of the Buddha for 25 years. He was endowed with 
      a remarkable memory. First Ananda was not admitted to the First Council. 
      According to the Cullavagga, later other Bhikhus objected the decision. 
      They strongly interceded for Ananda, though he had not attained Arhathood, 
      because of the high moral standard he had reached and also because he had 
      learnt the Dharma and vinaya from the Buddha himself. Ananda was 
      eventually accepted by Mahakasyapa into the Council, and was able to 
      recite what was spoken by the Buddha (sutras and doctrines), including the 
      following sutras: 
      
      d)      Năm bộ 
      kinh A Hàm, còn gọi là A Kiệt Ma—Five Agamas.
      
      ·       
      Trường A Hàm: Dirghagama Sutra (skt)—Ghi lại những bài pháp 
      dài—Collection of Long Discourses.
      
      ·       
      Trung A Hàm: Madhyamaga Sutra (skt)—Ghi lại những bài pháp 
      dài bậc trung—Collection of Middle-Length Discourses.
      
      ·       
      Tăng Nhất A Hàm: Anguttara-agama Sutra (skt)—Ghi lại những 
      bài pháp sắp xếp theo số—Collection of Gradual Sayings.
      
      ·       
      Tạp A Hàm: Samyuktagama Sutra (skt)—Ghi lại những câu kinh 
      tương tự nhau—Collection of Kindred Sayings. 
      
      ·       
      Tiểu A Hàm: Khuddaka-agama (skt)—Ghi lại những câu kệ 
      ngắn—Smaller Collection. 
      *** For more information, please see A Nan 
      Đà in Vietnamese-English Section.  
      
      (II)  Đại Hội 
      Kết Tập Lần Hai—The Second Council: 
      
      (A)  Đại hội 
      kết tập kinh điển lần thứ hai được tổ chức tại thành Xá Vệ (Tỳ Xá Ly), 100 
      năm sau ngày Phật nhập diệt. Đại Hội nầy được tổ chức để bàn luận về một 
      số giới luật (có sự không thống nhứt về giới luật). Không cần thiết phải 
      thay đổi những giới luật ba tháng sau ngày Đức Phật nhập diệt vì lẽ không 
      có gì thay đổi nhiều về chính trị, kinh tế và xã hội trong khoảng thời 
      gian ngắn ngủi nầy. Nhưng 100 năm sau, một số chư Tăng (theo giáo lý 
      nguyên thủy) nhận thấy cần phải có sự thay đổi một số giới luật thứ yếu. 
      Các nhà sư thuộc phái Vaisali đã chấp nhận vàng và bạc của thí chủ cúng 
      dường. Yasha, một môn đồ của A Nan, còn đưa ra chín điều trách cứ đối với 
      các thành viên của cộng đồng Vaisali, nhứt là việc ăn uống vào những thời 
      điểm bị cấm, về việc dùng rượu, về việc các nhà sư cùng một cộng đồng lại 
      làm lễ Bố Tát một cách phân tán, vân vân.  Hội Nghị lần thứ hai được mô tả 
      cụ thể hơn nhiều trong các văn bản, nói chung được thừa nhận vững chắc về 
      mặt lịch sử—The Second Council was held at Vaisali 100 years after the 
      passing of the Buddha. This Council was held to discuss some Vinaya rules 
      (there was some disunity concerning matter of discipline). There was no 
      need to change the rules three months after the Buddha’s Parinirvana 
      because little or no political, economic or social changes took place 
      during that short interval. But 100 years later, some monks saw the need 
      to change certain minor rules One hundred years after the First Council, 
      the Second Council was held to discuss some Vinaya rules. There was no 
      need to change the rules three months after the Parinirvana of the Buddha 
      bcause little or no political, economic or social changes took place 
      during that short interval. But 100 years later, some monks saw the need 
      to change certain minor rules. The  Second Council is considerably better 
      documented in the texts that the first and is generally recognized as a 
      historical event. The Vaisali monks had accepted gold and silver from lay 
      adherents in violation of the Vinaya rules. Moreover, they were accused by 
      Yasha, a student of Ananda’s, of nine further violations, including taking 
      food at the wrong time, separate observance of the Uposatha by monks of a 
      community, and drinking alcoholic beverages.   
      
      (B)  Những nhà 
      sư chính thống cho rằng không có gì nên thay đổi, trong khi những vị khác 
      thuộc phái Bạt Kỳ ở Tỳ Xá Ly (Vaisali) đã khai trừ trưởng lão Da Xá 
      (Yasha) ra khỏi cộng đồng với nhiều lời buộc tội ngài. Họ đã đề nghị mười 
      điểm thay đổi như sau—The orthodox monks said that nothing should be 
      changed, while the monks of the Vajji from Vaisali expelled Yasha from the 
      community because of his accusations. They insisted on modifying some 
      rules as follows:
      
      1)      Cho 
      phép đựng muối trong sừng trâu hay các đồ chứa bằng sừng: Singilonakappa 
      (p)—Gián tiếp cho phép sát sanh để lấy sừng, trong khi phái chính thống 
      cho rằng việc mang muối đựng trong cái sừng rỗng bị coi như phạm giới cấm 
      Ba Dật Đề thứ 38, về việc cấm tồn trữ thực phẩm và giới sát sanh—Allowing 
      monks and nuns to store salt in buffalo’s horns, while the orthodox monks 
      considered carrying salt in a hollowed horn. This practice is contrary to 
      Pacittiya 38, which prohibits (forbids) the storage of food and killing.
      
      
      2)      Buổi 
      trưa khi mặt trời đã qua bóng hai ngón tay vẫn ăn được: Dvangulakappa 
      (p)—Vẫn được phép ăn sau giờ ngọ. Việc nầy coi như bị cấm trong Ba Dật Đề 
      thứ 37 về giới không được ăn sau giờ ngọ—Allowing monks and nuns to eat in 
      the afternoon: The practice of taking meals when the shadow is two fingers 
      broad. This practice against Pacittiya 37 which forbids the taking of food 
      after midday. 
      
      3)      Được 
      đi qua một làng khác ăn lần thứ hai: Gamantarakappa (p)—Sau khi  ăn rồi, 
      đi đến nơi khác vẫn ăn lại được trong cùng một ngày. Việc làm nầy coi như 
      bị cấm trong Ba Dật Đề thứ 35 về giới cấm ăn quá nhiều—Allowing monks and 
      nuns to eat the second time in a day: The practice of going to another 
      village and taking the second meal there on the same day. This practice 
      forbids in Pacittiya 35 which forbids over-eating. 
      
      4)      Cho Bố 
      tát ở riêng trong một khu: Avasakappa (p & skt)—Thực hiện nghi thức Bố Tát 
      (Uposatha) tại nhiều nơi trong cùng một giáo khu. Điều nầy trái với các 
      giới luật Mahavagga về sự cư trú trong một giáo khu—Allow retreats for 
      spiritual refreshment in a private place: The observance of the Uposatha 
      ceremonies in various places in the same parish. This practice contravenes 
      the Mahavagga rules of residence in a parish (sima). 
      
      5)      Được 
      phép hội nghị với thiểu số: Anumatikappa (p).
      
      a)      Dù 
      không đủ số quy định như tam sư thất chứng, hội nghị vẫn có hiệu lực như 
      thường—Allowing ordination to proceed even though there are not enough 
      three superior monks and seven witnesses (see Tam Sư Thất Chứng).
      
      b)      Được 
      phép yêu cầu chấp nhận một hành động sau khi đã làm. Đây là vi phạm kỹ 
      luật—Obtaining sanction for a deed after it is done. This also amounts to 
      a breach of monastic discipline. 
      
      6)      Cho 
      làm theo các tập quán trước: Acinakappa (p)—Đây cũng là vi phạm kỹ 
      luật—Allowing monks and nuns to follow their customs and habits (customary 
      practices and precedents): This is also opposed to the rules. 
      
      7)      Cho 
      uống các loại sữa sau bữa ăn: Amathitakappa (p)—Cho phép uống các loại sữa 
      dù chưa được lọc. Điều nầy trái với Ba Dật Đề thứ 35 về luật ăn uống quá 
      độ—Allowing monks and nuns to drink unrefined milk after the meal. This 
      practice is in contravention of Pacittiya 35 which prohibits over-eating.
      
      
      8)      Được 
      uống rượu mạnh hòa với đường và nước nóng: Jalogim-patum (p)—Việc làm nầy 
      trái với Ba Dật Đề thứ 51, cấm uống các chất độc hại—Allow monks and nuns 
      to drink the drinking of toddy. This practice is opposed to Pacittiya 51 
      which forbids the drinking of intoxicants. 
      
      9)      Được 
      ngồi tự do khắp nơi: Adasakam-nisidanam (p)
      
      a)      Được 
      phép ngồi các chỗ rộng lớn, không cần phải theo quy định ngày trước của 
      Đức Phật—Allowing monks and nuns to sit down wherever they like to, not to 
      follow rules set forth by the Buddha before.
      
      b)      Được 
      dùng tọa cụ không có viền tua. Việc nầy trái với Ba Dật Đề thứ 89, cấm 
      dùng tọa cụ không có viền—Allow using a rug which has no fringe. This is 
      contrary to Pacittiya 89 which prohibits the use of borderless sheets. 
      
      10)  Được giữ 
      vàng bạc: Jataruparajatam (p)—Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni được phép cất giữ vàng 
      bạc, cũng như được nhận vàng bạc từ đàn na tín thí. Điều nầy trái với giới 
      luật thứ 18 trong Nissaggiya-pacittiya—Allowing monks and nuns to store 
      gold and silver, and they are allowed to accept gold and silver.  This 
      practice is forbidden by rule 18 of the Nissaggiya-pacittiya. 
      (C)   
      Đại Đức Da Xá công khai tuyên bố những việc làm nầy là phi pháp. 
      Sau khi nghe phái Bạt Kỳ phán xử khai trừ mình ra khỏi Tăng Đoàn, Da Xá 
      (Yasha) liền đi đến Kausambi để tìm kiếm sự bảo hộ của các nhà sư có thế 
      lực trong các vùng mà Phật giáo bắt đầu phát triển (Avanti ở phía tây và ở 
      miền nam). Da Xá mời họ họp lại và quyết định để ngăn chận sự bành trướng 
      của việc chà đạp đạo giáo và bảo đảm việc duy trì luật tạng. Sau đó Da Xá 
      đi đến núi A Phù, nơi trưởng lão Tam Phù Đà đang sống để trình lên trưởng 
      lão mười điều đề xướng của các tu sĩ Bạt Kỳ. Da Xá yêu cầu trưởng lão Tam 
      Phù Đà xem xét tánh cách nghiêm trọng của vấn đề. Trong khoảng thời gian 
      nầy có sáu mươi vị A La Hán từ phương Tây đến và họp lại tại núi A Phù, 
      cũng như tám mươi tám vị khác từ Avanti và miền Nam cũng gia nhập với họ. 
      Các vị nầy tuyên bố đây là vấn đề khó khăn và tế nhị. Họ cũng nghĩ đến 
      trưởng lão Ly Bà Đa ở Soreyya, vốn là người nổi tiếng uyên bác và từ tâm. 
      Nên họ quyết định cùng nhau đến gặp trưởng lão để xin sự hỗ trợ của 
      ngài—The Venerable Yasha openly declared these practice to be unlawful. 
      After the sentence of excommunication had been passed on him, he then went 
      to Kausambi to seek support from influential monks in all areas to which 
      Buddhism had spread (the western country of Avanti and of the southern 
      country). He invited them to assemble and decide the question in order to 
      stop the growth of irreligion and ensure the preservation of the Vinaya. 
      Next, he proceeded to Mount Ahoganga where Sambhuta Sanavasi dwelt to show 
      him the ten thesis advocated by the Vajjian monks. He asked the venerable 
      to examine the question in earnest. About the same time, some sixty Arhats 
      from the Western Country and eighty-eight from Avanti and the Southern 
      Country came to assemble on Mount Ahoganga. These monks declared the 
      question to be hard and subtle. They thought of the Venerable Revata who 
      was at Soreyya and was celebrated for his learning and piety. So they 
      proposed to met him and enlist his support. After a good deal of 
      travelling they met the Venerable Revata at Sahajati. On the advice of 
      Venerable Sambuta Sanavasi, Yasha approached the Venerable Revata and 
      explained the issue to him. One by one, Bhikshu Yasha brought up the ten 
      points and asked for his opinion. Each one of them was declared to be 
      invalid by the Venerable Revata. 
      (D)   
      Trong khi đó, các tu sĩ Bạt Kỳ cũng chẳng ngồi yên. Họ cũng đến Câu 
      Xá Di để xin được trưởng lão Ly Bà Đa ủng hộ. Họ dâng cho ông nhiều lễ vật 
      hậu hỷ nhưng đều bị ông từ chối. Họ lại dụ dỗ được đệ tử của ông là Đạt Ma 
      thỉnh cầu dùm họ, nhưng trưởng lão vẫn một mực chối từ. Trưởng lão Ly Bà 
      Đa khuyên họ nên trở về Tỳ Xá Ly là nơi xuất phát vấn đề để mở ra cuộc 
      tranh luận: Meanwhile, the Vajjian monks were not idle. They also went to 
      Sahajati in order to enlist the support of the Venerable Revata. They 
      offered him a lot of presents, but he refused with thanks. They also 
      induced his disciple, Uttara, to take up their cause, but he failed. At 
      the suggestion of Revata, the monks proceeded to Vaisali in order to 
      settle the dispute at the place of its origin.   
      (E)    
      Cuối cùng, nghị hội Vaisali tập hợp 700 nhà sư, tất cả đều là A La 
      Hán, còn gọi là hội nghị các trưởng lão. Tỳ Kheo A Dật Đa được chỉ định 
      làm người tổ chức. Trưởng lão Sabbakhami được bầu làm chủ tịch ủy ban. 
      Từng điểm một của mười điều cho phép của phái Bạt Kỳ được xem xét kỹ càng. 
      Vì thấy 10 điều thay đổi trên hoàn toàn vô lý nên một phán quyết của hội 
      nghị đồng thanh tuyên bố việc làm của các nhà sư Bạt Kỳ là phi pháp. Kết 
      quả là các nhà sư Bạt kỳ ở Tỳ Xá Ly (Vaisali) đã bị một ủy ban gồm bốn nhà 
      sư thuộc cộng đồng phương tây và bốn vị thuộc cộng đồng phương đông  coi 
      là có tội. Họ đều chấp nhận sự phán quyết mà không phản kháng. Những thầy 
      tu vi phạm giới luật coi như đã không tôn trọng luật chính thống và đã bị 
      khiển trách tùy theo lỗi lầm. Do đó giới luật trong lần kết tập nầy hầu 
      như không thay đổi. Trong văn bản tiếng Pali và Sanskrit của Luật Tạng đều 
      có kể lại hội nghị nầy: Finally a council composed of 700 monks, all 
      arhats, also called the Council of the Theras. Bhikshu Ajita was appointed 
      the seatregulator. The Venerable Sabbakami was elected president. The ten 
      points were examined carefully one by one. After seeing these above ten 
      changes were so unreasonable. The unanimous verdict of the assembly 
      declared the conduct of the Vajjian monks to be unlawful. As a result, 
      they (Vajjian monks of Vaisali) were found guilty by a committee composed 
      of four monks from eastern and four from western regions, respectively. 
      The Vaisali monks accepted this judgment without any opposition. The 
      erring monks were declared in violation of the orthodox code of discipline 
      and censured accordingly. Thus, in this council, rules of monastic 
      discipline have remained virtually unchanged. Records of this council are 
      found in both the Pali and Sanskrit versions of the Vinaya-Pitaka.
      (F)    
      Nghị Hội lần thứ hai đánh dấu sự phân phái giữa phe bảo thủ và phe 
      tự do. Người ta kể lại, nhóm sư Bạt Kỳ đã triệu tập một Hội Nghị khác có 
      mười ngàn tu sĩ tham dự với tên là Đại Chúng Bộ. Vào thời đó, dù được gọi 
      là Đại Chúng Bộ, nhưng chưa được biết là Đại Thừa: The Second Council 
      marked a division between the conservative and the liberal. It is said 
      that Vajjian monks of Vaisali  held another Council which was attended by 
      ten thousand monks. It was called The Great Council (Mahasangiti). Even 
      though it was called Mahasanghika, it was not yet known as Mahayana at 
      that time).
      
      (III)           
      Đại Hội Kết Tập Kinh Điển Lần Thứ Ba—The Third Council: Hội nghị 
      thứ ba được tổ chức tại thành Hoa Thị dưới sự bảo trợ của vua A Dục, một 
      Phật tử tại gia nổi tiếng—The Third Council was held at Pataliputra, 
      sponsored by King Asoka, a celebrated Buddhist layman.  
      
      (A)  Nguyên 
      nhân đưa đến Hội Nghị—Reasons for the Third Concil: 
      
      a)      Một 
      nhà sư thuộc thành Hoa Thị tên là Đại Thiên đưa ra luận điểm cho rằng một 
      vị A La Hán có thể để cho mình bị cám dỗ, nghĩa là có những sự xuất tinh 
      ban đêm và không trừ bỏ được sự ngu si cũng như những nghi ngờ về giáo 
      thuyết. Cuối cùng A La Hán có thể tiến bước theo con đường giải thoát, 
      theo Đại Thiên, nhờ ở một sự giúp đở bên ngoài và nhờ gia tăng khả năng 
      tập trung, do đó những cơ may cứu rỗi của người đó là nhờ ở việc lặp đi 
      lặp lai một số âm thanh. Những ý kiến khác nhau về những luận điểm ấy dẫn 
      tới sự phân chia các sư thành hai phe: A monk from Pataliputra, Mahadeva, 
      put forward the following position: An arhat is still subject to 
      temptation, that is, he can have nocturnal emissions. He is not yet free 
      from ignorance. In addition, he is still subject to doubts concerning the 
      teaching. Moreover, according to according to Mahadeva’s view, an arhat 
      can make progress on the path to enlightenment through the helpof others 
      and, through the utterance of certain sounds, he can further his 
      concentration and thus advance on the path. Differing views on these 
      points led to division of the monks into two camps.
      
      b)      Tự cho 
      mình đông hơn, những người bảo vệ những luận điểm của Đại Thiên tự gọi 
      mình bằng cái tên Mahasanghika hay cộng đồng lớn, còn những đối thủ của 
      họ, do những người “Cũ” đại diện, đó là những vị nổi bậc về đại trí và đại 
      đức, thì tự gọi mình là “Sthavira”: Those who affirmed these points of 
      Mahadeva’s, and who believed themselves to be in the majority, called 
      themselves Mahasanghika or Great Community. Their opponents, represented 
      by the “elders,” who were distinguished by outstanding wisdom and virtue, 
      called themselves Sthavira.
      
      c)      Với 
      việc vua A Dục đi theo đạo Phật, nhiều tu viện nhanh chóng phát triển về 
      mặt vật chất và các tu sĩ có một đời sống đầy đủ dễ chịu hơn. Nhiều nhóm 
      dị giáo đã bị mất nguồn thu nhập nên ngã theo Phật giáo. Tuy nhiên, dù 
      theo đạo Phật, nhưng họ vẫn giữ tín ngưỡng, cách hành trì, cũng như thuyết 
      giảng giáo lý của họ thay vì giáo lý đạo Phật. Điều nầy khiến cho trưởng 
      lão Mục Kiền Liên Tư Đế Tu đau buồn vô cùng, nên ông lui về ở ẩn một nơi 
      hẻo lánh trong núi A Phù suốt bảy năm. Số người dị giáo và tu sĩ giả hiệu 
      ngày một đông hơn những tín đồ chân chánh. Kết quả là trong suốt bảy năm 
      chẳng có một tự viện nào tổ chức lễ Bố Tát hay tự tứ. Cộng đồng tu sĩ sùng 
      đạo từ chối không chịu làm lễ nầy với những người dị giáo. Vua A Dục rất 
      lo lắng về sự xao lãng nầy của Tăng chúng nên phải ra lệnh thực hiện lễ Bố 
      Tát. Tuy nhiên, vị đại thần được nhà vua giao phó nhiệm vụ nầy đã gây ra 
      một vụ thảm sát đau lòng. Ông ta hiểu sai mệnh lệnh nhà vua nên đã chặt 
      đầu những tu sĩ không chịu thực hiện lệnh vua. Hay tin nầy, vua rất đau 
      lòng. Ngài đã cho thỉnh trưởng lão Mục Kiền Liên Tư Đế Tu về để tổ chức 
      hội nghị: With the conversion of King Asoka, the material prosperity of 
      the monasteries grew by leaps and bounds and the monks lived in ease and 
      comfort. The heretics who had lost their income were attracted by these 
      prospects to enter the Buddhist Order. They continued, however, to adhere 
      to their old faiths and practices and preached their doctrines instead of 
      the doctrines of the Buddha. This caused extreme distress to Thera 
      Moggaliputta-Tissa who retired to a secluded retreat on Mount Ahoganga and 
      stayed there for seven years. The number of heretics and false monks 
      became far larger than that of the true believers. The result was that for 
      seven years no Uposatha or retreat (Pavarana) ceremony was held in any of 
      the monasteries. The community of the faithful monks refused to observed 
      these festivals with the heretics. King Asoka was filled with distress at 
      this failure of the Sangha and sent commands for the observance of the 
      Uposatha. However, a grievous blunder was committed by the Minister who 
      was entrusted with this task. His misunderstood the command and beheaded 
      several monks for their refusal to carry out the King’s order. When this 
      sad news reported to Asoka, he was seized with grief and apologized for 
      this misdeed. He then invited Maggaliputta Tissa to hold the Third 
      Council.     
      
      d)      Do đó 
      mà Hội Nghị thứ ba được tiến hành với nhu cầu thanh khiết hóa Phật pháp 
      đang lâm nguy do sự xuất hiện của nhiều hệ phái khác nhau với những luận 
      điệu, giáo lý và cách hành trì đối nghịch nhau: Thus the Third Council was 
      held by the need to establish the purity of the Canon which had been 
      imperilled by the rise of different sects and their rival claims, 
      teachings and practices.        
      
      (B)  Thấy thế 
      vua A Dục cho tổ chức Đại Hội kết tập kinh điển lần thứ ba tại thành Ba 
      Tra Lợi Phất (Hoa Thị Thành, thủ đô cổ của Tích Lan), khoảng vào thế kỷ 
      thứ ba trước Tây Lịch. Vua A Dục đã đích thân chọn 60.000 vị Tỳ Kheo tham 
      dự Hội Nghị. Trong khi đó trưởng lão Mục Kiền Liên Tư Đế Tu đã phụng mệnh 
      vua A Dục chọn ra một ngàn vị Tăng tinh thông tam tạng kinh điển kết tập 
      chánh pháp. Hội nghị đã bàn thảo trong chín tháng về những ý kiến dị biệt 
      giữa những Tỳ Kheo của nhiều phái khác nhau. Tại Đại Hội nầy, sự khác biệt 
      không chỉ hạn hẹp trong Giới Luật, mà cũng liên quan đến Giáo Pháp nữa. 
      Đây không phải là một hội nghị toàn thể mà chỉ là một cuộc nhóm họp nhỏ 
      thôi. Lúc kết thúc Hội Nghị, ngài Mục Kiền Liên Tư Đế Tu (see Mục Kiền 
      Liên Tư Đế Tu), đã tổng hợp vào một cuốn sách gọi là Thuyết Sự Luận 
      (Kathavatthupakarana), bác bỏ những quan điểm và lý thuyết dị giáo cũng 
      như những sai lầm của một số giáo phái. Giáo lý được phê chuẩn và chấp 
      thuận bởi Đại Hội được biết là Theravada hay Nguyên Thủy. Vi Diệu Pháp 
      được bao gồm trong Đại Hội nầy—Seeing this division, King Asoka organized 
      the Third Council (in the Third Century B.C.) at Pataliputra, the old 
      capital of Ceylon. King Asoka himself assigned 60,000 monks to participate 
      in this  Council. To obey the order of king Asoka, Thera Tissa thereafter 
      elected a thousand monks who were well versed in the three Pitakas to make 
      a compilation of the true doctrine. The Council lasted for  nine months to 
      discuss the different opinion among the Bhiksus of different sects. At 
      this Council the differences were not confined to the Vinaya but also 
      connected with the Dharma. This was not a general Council, but rather a 
      party meeting. At the end of this Council, the President of the Council, 
      Moggaliputtra-Tissa, compiled a book called the Kathavatthu refuting the 
      heretical, false views and theories held by some sects. The teaching 
      approved and accepted by this Council was known as Theravada. The 
      Abhidharma Pitaka was included at this Council.     
      
      ·       
      Bố Tát Thuyết Giới: Upavasatha-Sila.
      
      ·       
      Kết Tập Tam Tạng Kinh, Luật, Luận: Tripitaka, Sutra, Vinaya, 
      and Abhidharma. 
      
      (C)  Một trong 
      những thành quả quan trọng của Hội Nghị lần thứ ba là nhiều phái đoàn 
      truyền giáo đã được gởi đi khắp các xứ để hoằng dương Phật pháp. Sau Đại 
      Hội kết tập lần thứ ba, người con của Vua A Dục, ngài Hòa Thượng 
      Mahinda,và người con gái tên Tăng Già Mật Đa, đã mang Tam Tạng Kinh Điển 
      đến Sri-Lanka, cùng với những lời bình luận của Hội Nghị nầy. Họ đã đạt 
      được thành công rực rỡ tại đảo quốc nầy. Những kinh điển được mang về 
      Sri-Lanka vẫn được giữ gìn cho đến ngày nay không mất một trang nào. Những 
      kinh điển nầy được viết bằng chữ Pali, căn cứ vào ngôn ngữ của xứ Ma Kiệt 
      Đà là ngôn ngữ của Đức Phật. Chưa có gì gọi là Đại Thừa vào thời bấy giờ. 
      Ngoài ra, qua những chỉ dụ của vua A Dục, chúng ta được biết thêm về những 
      phái đoàn truyền giáo Phật giáo được nhà vua cử đi đến các nước xa xôi ở Á 
      Châu, Phi Châu và Âu Châu. Phật giáo đã trở thành một tôn giáo quan trọng 
      của  nhân loại phần lớn là nhờ ở các hoạt động của phái đoàn nầy—One of 
      the important results of thei Council was the dispatch of missionaries to 
      different countries of the world for the propagation of Buddhism. After 
      the Third Council, Asoka’s son, Venerable Mahinda, and the king’s 
      daughter, Sanghamitta, brought the Tripitaka to Sri-Lanka, along with the 
      commentaries that were recited at the Third Council. They were 
      extraordinarily successful in this island. The texts brought to Sri-Lanka 
      were preserved until today without losing a page. The text were written in 
      Pali which was based on the Magadhi language spoken by the Buddha. There 
      was nothing known as Mahayana at that time. Besides, from the edicts of 
      king Asoka, we know of various Buddhist missions he sent to far-off 
      countries in Asia, Afirca, and Europe. It is to a large extent due to 
      these missionary activities that Buddhism became one of the most important 
      religions of mankind.  
      
      (D)  Sự xuất 
      hiện của Đại Thừa—Coming of Mahayana: Giữa thế kỷ thứ nhất trước Tây Lịch 
      và thế kỷ thứ hai sau Tây Lịch, hai từ Đại Thừa và Tiểu Thừa xuất hiện 
      trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Vào thế kỷ thứ hai sau Tây Lịch, Đại Thừa 
      được định nghĩa rõ ràng. Ngài Long Thọ triển khai triết học “Tánh Không” 
      của Đại Thừa và chứng minh tất cả mọi thứ đều là “Không” trong một bộ luận 
      ngắn gọi là Trung Quán Luận. Vào khoảng thế kỷ thứ tư sau Tây Lịch, hai 
      ngài Vô Trước và Thế Thân viết nhiều tác phẩm về Đại Thừa. Sau thế kỷ thứ 
      nhất sau Tây Lịch, những nhà Phật giáo Đại Thừa giữ vững lập trường rõ 
      ràng nầy, từ đó hai từ Đại Thừa và Tiểu Thừa được nói đến. Chúng ta không 
      nên lẫn lộn Tiểu Thừa với Nguyên Thủy, vì hai từ nầy hoàn toàn khác nhau. 
      Nguyên Thủy Phật Giáo nhập vào Sri-Lanka vào thế kỷ thứ ba trước Tây Lịch, 
      lúc chưa có Đại Thừa xuất hiện. Phái Tiểu Thừa xuất hiện tại Ấn Độ, có một 
      bộ phận độc lập với dạng thức Phật Giáo tại Sri-Lanka—Between the First 
      Century B.C. to the First Century A.D., the two terms Mahayna and Hinayana 
      appeared in the Saddharma Pundarika Sutra or the Sutra of the Lotus of 
      Good Law. About the Second Century A.D. Mahayana became clearly defined. 
      Nagajuna developed the Mahayana philosophy of Sunyata and proved that 
      everything is void in a small text called Madhyamika-karika. About the 
      Fourth Century, there were Asanga and Vasubandhu who wrote enormous amount 
      of works on Mahayana. After the First Century A.D., the Mahayanists took a 
      definite stand and only then the terms of Mahayana and Hinayana were 
      introduced. We must not confuse Hinayana with Theravada because the terms 
      are not synonymous. Theravada Buddhism went to Sri-Lanka during the Third 
      Century B.C. when there was no Mahayana at all. Hinayana sects developed 
      in India and had an existent independent from the form of Buddhism 
      existing in Sri-Lanka. 
      
      (IV)           
      Hội Nghị lần thứ tư—The Fourth Council:
      (A)  
      Hội nghị nầy dường như chỉ là hội nghị của một phái, phái 
      Sarvastivadin, hơn là một hội nghị chung thật sự—The fourth council seems 
      also to have been the synod of a particular school, the Sarvastivadins, 
      more than a general council. 
      (B)   
      Đại hội kết tập kinh điển lần thứ tư được tổ chức tại thành Ca Thấp 
      Di La (Kashmir) khoảng năm 70 trước Tây Lịch, dưới sự tổ chức của Vua Ca 
      Nị Sắc Ca  (Kanishka), nhưng lần nầy chỉ có sự tham dự bởi phái Nhất Thiết 
      Hữu Bộ, chứ không được phái Nguyên Thủy thừa nhận (Sau thời vua A Dục 
      khoảng 300 năm tức là vào khoảng năm 70 trước Tây Lịch, miền tây bắc Ấn Độ 
      có vua Ca Nị Sắc Ca (Kanishka), rất kính tin Phật pháp, thường thỉnh chư 
      Tăng vào triều thuyết pháp. Vì thấy pháp không đồng và luật lệ của nhóm 
      nầy khác với nhóm kia, nên vua bèn chọn 500 Tăng sĩ kiến thức uyên bác, và 
      triệu thỉnh ngài Hiếp Tôn Giả (Parsvika) tổ chức hội nghị kết tập kinh 
      điển lần thứ tư. Hội nghị đề cử Thượng Tọa Thế Hữu (Vasumitra) làm chủ 
      tọa, còn ngài Mã Minh được mời từ Saketa đến để soạn thảo Luận Thư 
      (commentaries) đồng thời là Phó chủ tọa, địa điểm là tịnh xá Kỳ Hoàn ở Ca 
      Thấp Di La (Kashmir). Mục đích kỳ kết tập nầy là giải thích rõ ràng ba 
      tạng kinh điển, gồm 300.000 bài tụng. Sau đó chế ra bản đồng, đúc chữ in 
      lại tất cả, cho xây bửu tháp để tàng trử kinh điển. Không phải như ba lần 
      kết tập trước, lần nầy nghĩa lý kinh điển được giải thích rõ ràng. Tuy 
      nhiên, ngài Hiếp Tôn Giả Parsvika) là một vị đại học giả về Hữu Bộ, vua Ca 
      Nị Sắc Ca (Kanishka) cũng tin theo Hữu Bộ, nên sự giải thích trong lần kết 
      tập nầy đều y cứ vào “Nhất Thế Hữu Bộ (Sarvastivadah).” Chủ đích của Hội 
      Nghị là phân tích lại một phần Vi Diệu Pháp nhằm ngăn ngừa một số khuynh 
      hướng cải cách bên trong cộng đồng. Nhiều nguồn tin cho biết có sự tham dự 
      của 500 vị A La Hán và 600 vị Bồ Tát tại hội nghị nầy. Nghị Hội được triệu 
      tập theo sự đề xuất của một cao tăng uyên thâm Phật pháp là Hiếp Tôn Giả. 
      Ngài Thế Hữu (Vasumitra) làm chủ tịch Hội Nghị, trong khi ngài Mã Minh 
      được mời đến từ Saketa, làm Phó chủ tọa, và cũng là người lo  biên soạn 
      quyển Mahavibhasa, một quyển bình giải về Vi Diệu Pháp. Hội Nghị nầy chỉ 
      giới hạn trong việc kết tập những lời bình. Có vẻ như là chủ thuyết nào 
      tranh thủ được sự đồng ý rộng rãi nhất thì được chú ý nhất. Mà dường như 
      các tu sĩ của trường phái Nhất Thiết Hữu Bộ chiếm đa số. Và rất có thể là 
      các chi nhánh quan trọng của trường phái Sarvastivada gồm những hệ phái 
      không chính thống cũng đã tham dự với số lượng khá đông. Không có chứng cớ 
      là Phật giáo Đại Thừa và Nguyên Thủy đã tham dự. Tuy nhiên, do sự bành 
      trướng quan trọng sau đó của phong trào Sarvastivadin, người ta thừa nhận 
      hội nghị nầy có tầm quan trọng chung như một Đại Hội Kết Tập Kinh Điển 
      Phật Giáo—The fourth Great Council was held around 70 B.C. in Kashmir 
      under the patronage of King Kanishka, but as the doctrine promulgated were 
      exclusively Sarvastivada school. It is not recognized by the Theravada. 
      The Council was held to discuss new interpretation of part of the 
      Abhidharma that was intended to forestall reformatory tendencies. 
      According to various sources, this Council was attended by 500 arhats as 
      well as 600 Bodhisattvas. King Kanishka summoned this Council at the 
      instigation of an old and learned monk named Parsva. The principal role is 
      ascribed to Vasumitra, while Asvaghosa, who was invited from Saketa to 
      help  supervised the writing of the Mahavibhasa, a commentary on the 
      Abhidharma. There is no evidence that Mahayana Buddhism was represented in 
      this Council. However, because of the great importance later attained by 
      the Sarvastivadins, this synod came to be evaluated as a Council having 
      general authority.   
      
      ·       
      Mười muôn (100.000) bài tụng để giải thích Kinh Tạng: Sutra 
      Pitaka.
      
      ·       
      Mười muôn bài tụng để giải thích Luật Tạng: Vinaya Pitaka.
      
      ·       
      Mười muôn bài tụng để giải thích Luận Tạng: Hiện nay vẫn còn 
      200 quyển A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận do Ngài Huyền Trang 
      dịch—Abhidharma Pitaka. 
      
      ·       
      See Ca Ni Sắc Ca in Vietnamese-English Section. 
      
      (V)  Đại hội 
      kết tập kinh điển lần thứ năm được vua Mindon của Miến Điện tổ chức năm 
      1871 (Buddhist year 2414). Người ta nói có khoảng 2.400 tu sĩ có học vấn 
      cùng các giáo sư tham dự. Các trưởng lão Jagarabhivamsa, Nirindabhidhaja 
      và Sumangala Sami luân phiên chủ trì hội nghị. Công việc kết tập và ghi 
      lại Tam Tạng kép dài trên năm tháng trong hoàng cung và kinh điển được 
      khắc vào 729 bản đá cẩm thạch và lưu trữ tại Mandalay. Điều đáng chú ý là 
      nhiều ấn bản khác nhau đã được xử dụng để đối chiếu trong hội nghị nầy: 
      The fifth council was held in 1871 at the instance of King Mindon of 
      Burma. It is said that about 2,400 learned monks and teachers participated 
      in the Council. The elders Jagarabhivamsa, Narindabhidhaja and Sumangala 
      Sami presided in turn. The recitation and recording of the Tripitaka on 
      marble continued for about five months in the royal palce and the Tipitika 
      was carved on 729 marble slabs and preserved at Mandalay. It should be 
      noted that various available editions of the Tripitaka were used for 
      comparison and references in this Council. 
      
      (VI)           
      Đại hội kết tập kinh điển lần thứ sáu được tổ chức tại Ngưỡng Quang, thủ 
      đô của Miến Điện vào năm 1954. Có khoảng 2500 Tỳ Kheo uyên bác trên khắp 
      thế giới (từ Ấn Độ, Miến Điện, Tích Lan, Népal, Cam Bốt, Thái Lan, Lào, và 
      Pakistan) tham dự, trong đó có khoảng năm trăm Tỳ Kheo Miến Điện, uyên 
      thâm trong việc nghiên cứu và hành trì giáo lý của Đức Phật, được mời đảm 
      nhận việc kiểm lại văn bản tam tạng kinh điển Pali. Hội nghị khai mạc năm 
      1954, và hoạt động liên tục đến ngày trăng tròn Vaisakha năm 1956, nghĩa 
      là trong dịp kỷ niệm 2.500 năm ngày Đức Phật nhập Niết Bàn: The sixth 
      Great Council was held in Rangoon in 1954. About 2,500 learned bhikkhus of 
      the various countries of the world (from India, Burma, Ceylon, Nepal, 
      Cambodia, Thailand, Laos, and Pakistan), among which 500 bhikshus from 
      Burma, who were well versed in the study and practice of the teachings of 
      the Buddha, were invited to take the responsibility for re-examining the 
      text of the entire Pali canon. The Great Council was inaugurated in 1954, 
      was to go on till the completion of its task at the full moon of Vaiskha 
      in 1956, that is, 2,500th anniversary of the Buddha’s mahaparinirvana. 
      **  Nhiều người cho rằng Đại Hội Kết Tập lần 
      thứ năm và sáu là không cần thiết vì Kinh Điển đã hoàn chỉnh mỹ mãn sau 
      lần kết tập thứ tư. Ngoài ra, còn có nhiều Hội Nghị khác ở Thái Lan và 
      Tích Lan, nhưng không được coi như là Nghị Hội đúng nghĩa—Many people 
      believed that the fifth and the sixth councils were not necessary because 
      after the Fourth Council, all Tripitaka scriptures were collected 
      satisfactorily. Besides, there were many other Councils in Thailand and 
      Ceylon, but they were not considered Councils in the true sense of the 
      term. 
      
      ·        
      Hội nghị được triệu tập dưới triều vua Devanampiya Tissa 
      (247-207 trước Tây Lịch). Hội nghị được chủ tọa bởi tôn giả Arittha. Hội 
      nghị nầy được tổ chức sau khi phái đoàn truyền giáo của Hòa Thượng Ma Thẩn 
      Đà, con vua A Dục, đến Tích Lan. Theo lời kể thì có sáu vạn A La Hán tham 
      dự. Thượng Tọa Arittha (người Tích Lan, đại đệ tử của Ma Thẩn Đà thuộc 
      dòng Thera Simhala) tuyên đọc Pháp điển: A Council was held during the 
      reign of King Devanampiya Tissa (247-207 B.C.) under the presidentship of 
      Venerable Arittha Thera. This Council was held after the arrival in the 
      island of Buddhist missionaries, headed by Thera Mahinda, a son of Emperor 
      Ashoka. According to tradition, sixty thousand Arhats took part in the 
      assembly. Venerable Thera Arittha, a Simhalese Bhikshu, a great disciple 
      of Thera Mahinda in the line of Simhalese Theras, recited the Canon.   
      
      
      ·        
      Theo Sangitisamva thì một Hội Nghị được triệu tập dưới triều 
      vua Mahanama vào năm 516 Phật Lịch. Trong hội nghị nầy chỉ có các bài luận 
      giải được dịch từ tiếng Simhala (Tích Lan) ra tiếng Ma Kiệt Đà (pali) bởi 
      tôn giả Bhadhanta Busshaghosa: As mentioned in the Sangitivamsa, another 
      Council was held during the reign of King Mahanama in 516 Buddhist 
      calendar in which only the commentaries were translated from Sinhalese 
      into Magadhi (Pali) by Bhadanta Buddhaghosa. 
      
      ·        
      Một hội nghị khác diễn ra tại Sri-Lanka vào năm Phật Lịch 
      1587 dưới triều vua Parakramabahu. Hội nghị nầy diễn ra trong hoàng cung 
      và kéo dài một năm. Các đại trưởng lão tuyên tụng lại luận tạng của các 
      Đại Trưởng Lão dưới sự chủ trì của tôn giả Đại Ca Diếp: Another Council 
      was held in 1587 Buddhist Calendar in the reign of King Parakramabahu. The 
      conference took place in the royal palce and lasted for one year. The 
      Council was presided by Venerable Mahakapsyapa, and it is said to have 
      revised only the commentaries of the tripitaka of the Mahatheras.    
      
      ·        
      Một Hội Nghị khác đã diễn ra tại Thái Lan trong khoảng những 
      năm 2000 hay  2026 Phật Lịch, và kéo dài một năm. Nhằm xây dựng Phật giáo 
      trên một nền tảng vững chắc, vua Sridharmacakravarti Tilaka Rajadhiraja, 
      vị vua trị vì miền Bắc Thái Lan, đã triệu tập hội nghị nầy tại Chieng-Mai, 
      lúc đó là kinh đô nước này: Another Council took place in Thailand either  
      in 2,000 or in 2,026 Buddhist Calendar, and it lasted for one year. In 
      order to establish Buddhism on a firm basis, King Sridharmacakravarti 
      Tilaka Rajadhiraja, the ruler of Northern Thailand called this Council in 
      Chieng-Mai, his capital. 
      
      ·        
      Một hội nghị khác ở Thái Lan, diễn ra vào năm 2331 Phật 
      Lịch, sau một cuộc chiến tranh giữa Thái Lan và một nước láng giềng. Kinh 
      đô cũ của Thái là Ayuthia bị thiêu rụi và nhiều bộ sách cùng tam tạng cũng 
      ra tro. Lại thêm Tăng chúng bị rối loạn và đạo đức sa sút vì tình trạng 
      thù địch kéo dài. Thế nên vua Rama I cùng hoàng đệ của ông triệu tập hội 
      nghị để lấy lại niềm tin của mọi người. Dưới sự bảo trợ của vương triều, 
      có 218 trưởng lão và 32 học giả cư sĩ họp lại làm việc liên tục trong một 
      năm để kết tập bộ tam tạng: Another Council was held in Thailand in 2331 
      Buddhist Calendar. After a war with its neighboring country, the old 
      capital Ayuthia was destroyed by fire and many books and manuscripts of 
      the Tripitaka were reduced to ashes. Moreover, the Sangha was disorganized 
      and morally weakened by reason of prolonged hostility. Thus, King Rama I 
      and his brother called for a Buddhist Council to restore the faith from 
      everyone. Under the royal patronage, 218 elders and 32 lay scholars 
      assembled together and continued the recitation of the Tripitaka for about 
      a year.     
      
      Kết Thán: Tán thán phần kết của 
      bài kinh hay đoạn kinh—A sigh of praise at the close of a passage of a 
      sutra. 
      
      Kết Thân: To join by marriage.
      
      
      Kết Thúc: See Kết luận. 
      
      Kết Tóc Xe Tơ: To get married.
      
      
      Kết Trụ: Làm dấu kim cang ái 
      trụ, như dấu hiệu của Đức Tỳ Lô Giá Na để kiểm soát quỷ thần—Đây là một 
      phương pháp của Mật Tông—To make the sign of the Vajra armour and helmet, 
      i.e. of Vairocana, in order to control the spirits—A method of the 
      esoteric sects.  
      
      Kêu Án: To convict—To 
      sentence—To condemn. 
      
      Kêu Ca: To complain. 
      
      Kêu Cứu: To call (cry) for 
      help. 
      
      Kêu La: To yell—To shout. 
      
      Kêu Na: To beseech.
      
      Kêu Oan: To claim one’s 
      innocence.
      
      Kêu Rêu: To backbite. 
      
      Kêu Van: See Kêu nài. 
      
      Kích Bác: To criticize—To find 
      fault with. 
      
      Kiêm: Cả hai—Both—Also.
      
      Kiêm Đản Đối Đới: Bốn thời kỳ 
      đầu của giáo thuyết Phật Đà được tông Thiên Thai định nghĩa là Kim Đản Đối 
      Đới (bốn thời kỳ nầy đều nói về tướng)—The first four of the five periods 
      of Buddha’s teaching defined by the T’ien-T’ai sect. 
      
      1)      Kim: 
      Thời Hoa Nghiêm nói về Viên Giáo và Biệt Giáo—Combined teaching, including 
      the complete and differentiating doctrines, the period of Avatamsaka 
      Sutra.
      
      2)      Đản: 
      Thời A Hàm chỉ nói về Tạng Giáo Tiểu Thừa—Sole, i.e. Hinayana only, that 
      of Agamas.
      
      3)      Đối: 
      Thời Phương Đẳng, bốn giáo Tạng Thông Biệt Viên được thuyết giảng đối 
      chiếu với nhau—Comparative, all four forms of doctrines being compared, 
      the period of the Vaipulya Sutras.
      
      4)      Đới: 
      Thời Bát Nhã Viên giáo được hé mở để hoàn thiện những giáo thuyết ở Tạng 
      Thông Biệt—Inclusive, that of the Prajna, when the perfect teaching was 
      revealed as the fulfilment of the rest.  
      
      Kiêm Lợi: Cả hai cùng có lợi 
      (cả mình lẫn người đều được lợi lạc)—Mutual benefit; to benefit self and 
      others. 
      
      Kiếm: 
      
      1)      Lưỡi 
      Kiếm: A sword (a two-edged sword). 
      
      2)      Tìm 
      kiếm: To search for—To look for. 
      
      Kiếm Ba: Kampa or Bhukampa 
      (skt)—Chấn Địa Thiên—Deva of earthquakes. 
      
      Kiếm Chác: To make profit
      
      Kiếm Chuyện: To find fault 
      with—To seek/pick  a quarrel with. 
      
      Kiếm Lâm Địa Ngục: Asipattra 
      (skt)—Một trong mười sáu tiểu địa ngục, địa ngục rùng kiếm—One of the 
      sixteen small hells, the hell of the forest of swords, or sword-leaf 
      trees. 
      
      Kiếm Luân Pháp: Một hệ thống 
      kiếm xoay để hàng phục ma quân—A system of revolving swords for subduing 
      demons. 
      
      Kiếm Ma Xá Đề: Kiếm Ma Xá Đế.
      
      1)      Ma 
      quân: A spirit or demon.
      
      2)      Con đẻ 
      của dục vọng không kềm chế được: The ungovernable, son of Kama (Love and 
      Lust). 
      
      Kiếm Sơn: Kiếm Lâm Địa Ngục, 
      and Địa Ngục in Vietnamese-English Section. 
      
      Kiếm Thụ Địa Ngục: See Kiếm Lâm 
      Địa Ngục. 
      
      Kiềm Chế: To subdue—To master 
      one’s passions—To overcome. 
      
      Kiềm Chế Dục Vọng: To dominate 
      one’s passions. 
      
      Kiềm Hãm: To check—To control.
      
      
      Kiềm Tỏa: To restrain—To bind.
      
      
      Kiểm: To check—To revise. 
      
      Kiểm Duyệt: To 
      censor—Censorship. 
      
      Kiểm Soát: Samyama or Sannama 
      (p)—Control—Restraint—Self-control.
      
      Kiểm Soát Các Căn: 
      Samyatendriyah (p)—Control of senses. 
      
      Kiểm Soát Và Quân Bình: Checks 
      and balances
      
      Kiểm Tra: To examine—To 
      inspect. 
      
      Kiên: 
      
      1)      Vai: 
      Shoulder.
      
      2)      Kiên 
      định: Drdha (skt)—Firm—Firmly fixed—Reliable.
      
      Kiên Chí: 
      Persevering—Constant—Patient
      
      Kiên Cố: Vững chắc không thay 
      đổi hay không bị lay chuyển—Firm and sure. 
      
      Kiên Cố Huệ: Trí huệ không gì 
      lay chuyển được—Strong in wisdom. 
      
      Kiên Cố Lâm: Rừng cây Sa La nơi 
      Đức Phật nhập diệt (vì rừng cây Sa La không hề tàn dù hạ hay dù đông nên 
      gọi là Kiên Cố Lâm)—The grove of Sala trees, in which Sakyamuni died. 
      
      Kiên Cố Ý: Ý chí vững chắc 
      không gì lay chuyển được—Firm-willed.
      
      Kiên Cố Ý Bồ Tát: Kiên Cố Ý Bồ 
      Tát trong Thai Tạng Giới—Firm-Willed Bodhisattva in the Garbhadhatu. 
      
      Kiên Định: To be determined. 
      
      
      Kiên Gan: Persevering—Patient.
      
      
      Kiên Hạ: Vai kề vai—Shoulder by 
      shoulder—One next to another. 
      
      Kiên Lao: Chỉ sự vững chắc của 
      đất—Firm and stable; that which is stable, the earth. 
      
      Kiên Lao Địa Thần: Còn gọi là 
      Kiên Lao Địa Thiên, hay Kiên Lao Địa Kỳ, tên của vị Nữ Thần Đại Địa, tức 
      là đất vững bền và Thần kiên cố—The earth-goddess, or deity, or spirit.
      
      
      Kiên Mãn Bồ Tát: Dhrtiparipurna 
      (skt)—Vị Bồ Tát kiên cố viên mãn, về sau thành Phật hiệu là Hoa Túc An 
      Hành Phật—The firm and complete bodhisattva, who is to be Buddha 
      Padma-vrsabha-vikramin, attending on Padmaprabha. 
      
      Kiên Nhẫn: Persevering—Patient.
      
      
      Kiên Pháp: Ba việc bảo đảm cho 
      những người tín tâm vào tái sanh (ý nói nếu quên đi thân mệnh, vứt bỏ của 
      cải thế tục mà tu đạo thì sẽ có được cái thân vô cực, cái mệnh vô cùng, và 
      cái tài vô tận)—The three things assured to the faithful in reincarnation.
      
      
      1)      Thân 
      tướng hảo: Người tu đạo sẽ được cái thân vô cực—A good body.
      
      2)      Trường 
      Thọ: Mệnh vô cùng—A long life.
      
      3)      Tài 
      sản vô biên: Tài vô tận—Boundless wealth. 
      
      Kiên Quyết: Firm—Determined.
      
      
      Kiên Thân: See Kim Cang Thân.
      
      
      Kiên Thệ Sư Tử: Sư Tử Kiên Thệ, 
      hay thệ nguyện xả thân của sư tử khi đã ngộ đạo. Đức Thích Ca Mâu Ni trong 
      tiền kiếp khi còn ở nhân vị đã nói về công đức của áo cà sa cho sư tử Kiên 
      Thệ lông vàng nghe. Nghe xong sư tử bèn thể nguyện xả thân—The firmly 
      vowing lion, i.e. Sakyamuni in a previous incarnation. 
      
      Kiên Thực: Kiên thật—Firm and 
      solid. 
      
      Kiên Thực Tâm: Tâm kiên thật 
      không gì có thể thay đổi hay lay chuyển được—Firm heart. 
      
      Kiên Trí: 
      
      1)      Trí 
      huệ không có gì có thể thay đổi hay lay chuyển được: Firm knowledge or 
      wisdom.
      
      2)      Tên 
      của Kim Cang Thần: Name of Vajrapani—See Vajrapani in 
      Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
      
      Kiên Trì: To persevere. 
      
      Kiên Tuệ: See Kiên Ý. 
      
      Kiên Ý: Sthiramati (skt)—Còn 
      gọi là Kiên Tuệ—Firm mind, also called firm wisdom.
      
      1)      Tâm ý 
      hay trí tuệ kiên cố không gì có thể thay đổi hay lay chuyển được: Firm 
      mind or wisdom. 
      
      2)      Bồ Tát 
      Sa La Mạt Để, thuộc Phật Giáo Đại Thừa, xuất hiện sau khi Đức Phật nhập 
      diệt khoảng 700 năm: Name of Sthramati Bodhisattva, an early Indian monk 
      of the Mahayana, about 700 years after the Buddha’s nirvana. 
      
      3)      Bồ Tát 
      Tất Xỉ La Mạt Để, soạn bộ Nhập Đại Thừa Luận: Sthiramati Bodhisattva who 
      composed The Commentaries on Entering Mahayana. 
      
      Kiến:
      
      (A)     Nghĩa 
      của Kiến—The meanings of “Kiến.”
      
      1)      Giáo 
      lý: Theory—Doctrine.  
      
      2)      Kiến 
      lập: 
      
      ·       
      Kiến lập cơ sở: To found—To set up—To establish—To build a 
      school, a market, a house, etc.
      
      ·       
      Kiến lập môn phái: To found or to set up a school of thought 
      or practice. 
      
      3)      Kiến 
      Giải (thấy): Darsana (skt)—Nại Lạt Xả Nang—Suy nghĩ tìm tòi để hiểu rõ mà 
      chọn lựa (khẳng định sự lý, kể cả ý nghĩa chính đáng và không chính 
      đáng)—Seeing—Discerning—Views—Opinions—Judgment—Thinking—Reasoning—Discriminating—Selecting 
      truth.
      
      4)      Niềm 
      tin: Belief. 
      
      5)      Thấy: 
      Seeing—Thấy bằng—Seeing by:
      
      a)      Cái 
      thấy của phàm phu—The seeing of ordinary people: Dassanam (p)—Darsana 
      (skt). 
      
      ·       
      Quan sát: Observing.
      
      ·       
      Chú ý: Noticing.
      
      ·       
      Khảo sát: Examining.
      
      ·       
      Trầm ngâm suy tưởng: Contemplating.
      
      b)      Cái 
      thấy của bậc Thánh nhân—The seeing of saintly people: Darsayati 
      (p)—Drisdarsam (skt). 
      
      ·       
      Thấy bằng trực tâm: Seeing with the mind.
      
      ·       
      Thấy bằng trực giác: Seeing by divine intuition. 
      
      (B)  Phân Loại 
      Kiến—Categories of “Kiến.”—For more information, please see Nhị Kiến, Ngũ 
      Kiến Thô Thiển, Ngũ Kiến Vi Tế, Tà Kiến and Hữu Kiến. 
      
      Kiến Ái: Tất cả mọi mê hoặc về 
      lý như ngã kiến tà kiến, cũng như tất cả mọi mê hoặc về tham, sân, si đều 
      là gốc rễ của khổ đau phiền não—Views and desires are the root of all 
      suffering, i.e. the illusion that the ego is a reality and the consequent 
      desires and passions.
      ** For more information, 
      please see Kiến 
           Hoặc Tư Hoặc and Tam 
      Hoặc. 
      
      Kiến Chánh: 
      
      1)      Thấy 
      đúng theo Chánh Pháp: Seeing correctly.
      
      2)      Tên 
      của một đệ tử Đức Phật, nghi ngờ về hậu thế: Name of a disciple of the 
      Buddha who doubted a future life.
      
      Kiến Chánh Kinh: Một vị đệ tử 
      của Phật tên là Kiến Chánh, nghi ngờ về hậu thế. Nhân đó Phật đã đưa ra 
      nhiều thí dụ để bác bỏ những thiên kiến mê chấp (đoạn kiến và thường kiến) 
      của Tỳ Kheo Chánh Kiến—A Bodhisattva name “Correct Vision,” a disciple of 
      the Buddha who doubted a future life, to whom the Buddha is said to have 
      delivered the contents of the Correct Vision Sutra.  
      
      Kiến Chân: Tattva-dris 
      (skt)—Perceiving truth—Thấy được chân tánh tuyệt đối của vạn hữu—To behold 
      truth or ultimate reality. 
      
      Kiến Chấp: View-attachment. 
      
      Kiến Chí Bộ La: Kancipura 
      (skt)—Kiến Chí Thành—Kinh đô của Dravida, bây giờ là Conjevaram, khoảng 
      chừng 48 dậm về phía tây nam Madras—Capital of Dravida, the modern 
      Conjevaram, about 48 miles south-west of Madras. 
      
      Kiến Chính: See Kiến Chánh. 
      
      Kiến Chướng: Các loại tà kiến 
      dấy lên gây chướng ngại cho Bồ Đề Tâm—The obstruction of heterodox views 
      to enlightenment. 
      
      Kiến Đà Ca: Kanthaka (skt)—Ngựa 
      “kiền trắc” mà Thái tử Tất Đạt Đa đã cỡi ra khỏi kinh thành để xuất gia 
      (người ta nói con ngựa nầy là hóa thân của Đế Thích)—The horse on which 
      Sakyamuni rode when he left home. 
      
      Kiến Đại: Kiến tính bao trùm 
      khắp pháp giới, một trong thất đại như sắc tính bao trùm khắp pháp 
      giới—Visibility or perceptibility as one of the seven elements of the 
      universe.
      
      Kiến Đạo: 
      
      1)      Con 
      đường của sự thấy biết chân lý: Darsanamarga (skt)—Ditthimagga (p)—The 
      path of insight. 
      
      2)      
      Ditthapada (p)—Thấy được chân lý chấm dứt luân hồi sanh tử, như các bậc 
      Thanh Văn và Sơ Địa Bồ Tát (bậc đã thấy được chân lý)—Theory, the way or 
      stage of beholding the truth, i.e. that of the Sravakas and the first 
      stage of Bodhisattva (one who has seen the Truth).
      **  For more information, 
      please see Tam Đạo 
            (B). 
      
      Kiến Đế: Chứng ngộ chân lý—The 
      realization of correct views. 
      
      1)      Bậc 
      Thánh chứng quả Dự Lưu trong Tiểu Thừa: The Hinayana stage of one who 
      entered the stream of holy living. 
      
      2)      Bồ Tát 
      Kiến Địa trong Đại Thừa (trên bậc sơ địa): The Mahayana stage after the 
      first Bodhisattva stage.
      
      Kiến Địa: Thấy được chân lý Tứ 
      Đế, vị thứ tư trong thập địa, tương đương với quả vị “Dự Lưu” trong Tiểu 
      Thừa—The stage of insight—The discernment of reality of the four Noble 
      Truths, the fourth in the ten stages of progress toward Buddhahood, 
      agreeing with the fruit of stream-entry of Hinayana. 
      ** For more information, 
      please see Thập Địa 
           Bồ Tát Tam Thừa.
      
      Kiến Điên Đảo: Mắt nhận biết 
      ngoại cảnh điên đảo hư ảo mà cho là thực, một trong ba điên đảo—To see 
      things upside down—To regard illusion as reality, one of the three 
      subversions (subverters).
      ** For more information, 
      please see Tam Điên 
           Đảo. 
      
      Kiến Độc: Chất độc hay sự độc 
      hại của tà kiến—The poison of wrong views.
      
      Kiến Giải: Samakhya 
      (skt)—Comprehension—Understanding.  
      
      Kiến Hành: Rational 
      behaviour—See Ái Hành. 
      
      Kiến Hiệu: Effective.
      
      Kiến Hoặc: Các loại phiền não 
      và cám dỗ khởi lên từ tà kiến—Perplexities or illusions and temptations 
      arise from false views or theories—Delusive views—Delusions of views. 
      
      Kiến Hoặc Tư hoặc: Ảo tưởng đưa 
      đến tà kiến—Illusory or misleading views and thoughts:
      
      1)      Kiến 
      Hoặc: Các loại vọng kiến, phân biệt tà vạy, gây ra những mê 
      hoặc—Delusions  in the visible world.
      
      2)      Tư 
      Hoặc: Lấy tình cảm mê chấp tham, sân, si, mà nghĩ cảm về vạn hữu trên thế 
      gian—Illusions in the mental or moral world. 
      **   For more information, 
      please see Tam 
             Hoặc.
      
      Kiến Huệ: Do sự tu tập thiền 
      định mà được phát trí tuệ về các thứ kiến chấp—The wisdom of right views, 
      arising from dhyana meditation. 
      
      Kiến Kết: Phiền não do tà kiến 
      gây ra khiến chúng sanh lăn trôi trong luân hồi sanh tử, một trong cửu 
      kết—The bond of heterodox views, which fastens the individual to the chain 
      of transmigration, one of the nine attachments.  
      ** For more information, 
      please see Cửu Kết 
           and Cửu Phược.
      
      Kiến Lập: Samaropa (skt).
      
      ·       
      Xây dựng—Thành lập—Sáng lập—To build—To establish—To 
      errect—To set up—To found a school, sect, thought or practice. 
      
      ·       
      Sự khẳng định hay sự thiết lập lý trí, trái lại với đối lập: 
      Assertion, or theory-making. Samaropa stands against refutation (apavada).
      
      
      Kiến Lập Trí: 
      Pratishthapikabuddhi (skt)—Cái trí nhờ đó một mệnh đề được thiết lập—The 
      intelligence whereby a proposition is set up. 
      
      Kiến Lậu: Ảo tưởng tà kiến cho 
      rằng những thứ giả hợp là có thật—The illusion of viewing the seeming as 
      real. 
      
      Kiến Nghị: Motion. 
      
      Kiến Phân Biệt: Drishtivikalpa 
      (skt)—Các thứ kiến giải dựa vào sự phân biệt nhị biên về hiện hữu –Views 
      based on the dualistic discrimination of existence. 
      
      Kiến Phật: Thấy báo thân và ứng 
      thân của Phật—Beholding Buddha—To see Buddha.  
      
      1)      Hàng 
      phàm phu và nhị thừa, do cái biết phân biệt nên chỉ thấy được ứng thân của 
      Phật: Due to clinging to discrimination, ordinary people and Hinayana see 
      only the nirmanakaya or body of incarnation of the Buddha.
      
      2)      Bồ Tát 
      và Đại Thừa, không còn phân biệt nên thấy cả ứng thân và báo thân Phật: 
      Bodhisattvas and Mahayana, without clinging to discrimination, see both 
      the body of incarnation (nirmanakaya) and the spiritual body or body in 
      bliss (sambhogakaya) of the Buddha.
      
      3)      Những 
      người không có duyên lành (không trồng căn lành) ở kiếp trước không thấy 
      cả hai thứ ứng thân và báo thân: Those who did not cultivate good roots in 
      their past lives, see neither nirmanakaya nor sambhogakaya of the Buddha. 
      
      
      Kiến Phi Kiến: Những cái dễ 
      thấy dễ biết và những điều sâu sắc huyền diệu—The visible and the 
      invisible—Phenomenal and noumenal. 
      
      Kiến Phược: Phiền não do tà 
      kiến (cho những thứ giả hợp là có thật) gây ra, trói buộc con nguời vào 
      vòng sanh tử—The bond of the illusion of heterodox opinions which binds 
      men and robs them of freedom (mistaking the seeming for the real).
      ** For more information, 
      please see Cửu Kết 
           and Cửu Phược. 
      
      Kiến Quốc: To found (build up) 
      a state. 
      
      Kiến Sơ: Tên của một ngôi chùa 
      tọa lạc tại làng Phù Đổng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, Bắc Việt Nam. 
      Theo Thiền Uyển Tập Anh và Đại Nam Thiền Uyển Truyền Đăng Lục, chùa được 
      xây vào trước năm 820 bởi Thiền Sư Cẩm Thành người huyện Tiên Du. Trước 
      kia sư tu ở chùa Phật Tích, sau được một ông phú hộ họ Nguyễn mời về Kiến 
      Sơ lập chùa. Đến năm 820, bên Tàu là đời nhà Đường, có Thiền Sư Vô Ngôn 
      Thông, trụ trì chùa Hòa An, thuộc tỉnh Quảng Châu, Trung Quốc, sang nước 
      ta, đến làng Phù Đổng, được Thiền Sư Cảm Thành tôn làm Thầy, mời ở lại trụ 
      trì chùa Kiến Sơ. Từ đó Kiến Sơ trở thành trung tâm của Thiền Phái Vô Ngôn 
      Thông. Hiện tại trong chùa vẫn còn tượng Lý Công Uẩn và mẹ ông ở hai bên 
      điện thờ Tam Bảo. Trong điện thờ Tổ có gác chuông với kiến trúc nổi bậc và 
      chiếc khánh bằng đá cổ, đường kính 2 mét 3, chiếu cao sáu tấc, bề dầy 17 
      phân. Kiến Sơ là một trong những ngôi chùa cổ của Việt Nam được xây cất 
      trước thế kỷ thứ 5, chùa đã được trùng tu nhiều lần—Name of a temple, 
      located in Phù Đổng village, Gia Lâm district, Hà Nội province, North 
      Vietnam. According to Thiền Uyển Tập Anh and Đại Nam Thiền Uyển Truyền 
      Đăng Lục, the temple was built before 820 by Ch’an Master Cẩm Thành from 
      Tiên Du district. He previously practised Buddhism at Phật Tích Pagoda, 
      then was requested by a rich landlord, whose last name was Nguyễn, to move 
      to Kiến Sơ temple and built it. In 820, during the T’ang dynasty, Ch’an 
      Master Wu Yun T’ung, Head of Hòa An Temple in Kuang-Chou province, in 
      China, arrived in Vietnam. He went to Phù Đổng village and later became 
      Ch’an Master Cẩm Thành’s teacher. He, then, was invited to stay and 
      appointed to be head of Kiến Sơ Temple. Since then, the temple has become 
      the center of the Wu-Yun-T’ung Sect. At present, the statues of Lý Công 
      Uẩn and his mother are placed on the left and right sides of the temple’s 
      Buddhist Trinity. Inside the Patriarch Hall is a remarkably architectural 
      bell tower and an old stone gong, 2.3 meters wide, 0.60 meter high, 0.17 
      meter thick, has still been kept in the temple. Kiến Sơ is one of the most 
      ancient temples in Vietnam which was constructed before the fifth century. 
      It has been rebuilt many times—See Cảm Thành.      
      
      Kiến Tâm Kiến Tánh: Seeing 
      (beholding) the Mind, beholding the Nature. 
      
      Kiến Tánh: Nhìn thấy được Phật 
      tánh hay nhìn thấy bản tánh thật của chính mình. Về mặt từ nghĩa, “kiến 
      tánh” và “ngộ” có cùng một ý nghĩa và chúng thường được dùng lẫn lộn với 
      nhau. Tuy nhiên khi nói về sự giác ngộ của Phật và chư tổ, người ta thường 
      dùng chữ “ngộ” hơn là “kiến tánh” vì ngộ ám chỉ một kinh nghiệm sâu hơn. 
      Đây là một câu nói thông dụng trong nhà Thiền—To behold the Buddha-nature 
      within oneself or to see into one’s own nature. Semantically “Beholding 
      the Buddha-nature” and “Enlightenment” have virtually the same meaning and 
      are often used interchangeably. In describing the enlightenment of the 
      Buddha and the patriarchs, however, it is often used the word 
      “Enlightenment” rather than “Beholding the Buddha-nature.” The term 
      “enlightenment” implies a deeper experience. This is a common saying of 
      the Ch’an (Zen) or Intuitive School.    
      
      Kiến Tánh Thành Phật: Thấy được 
      tự tánh và thành Phật—To see one’s own nature and become a Buddha—To 
      behold the Buddha-nature to reach the Buddhahood or to attain 
      enlightenment. 
      
      Kiến Tạo: To build—To errect—To 
      construct. 
      
      Kiến Thiết: See Kiến Tạo. 
      
      Kiến Thủ: Kiến chấp tà vạy, một 
      trong tứ thủ—Clinging to heterodox views, one of the four kinds of 
      clinging.
      ** For more information, 
      please see Tứ Thủ. 
      
      Kiến Thủ Kiến: Drstiparamasra 
      (skt).
      
      ·       
      Những tranh cãi do chấp vào ý kiến cố chấp vào thiên kiến 
      của mình, một trong ngũ Kiến—Wrong views caused by attachment to one’s own 
      erroneous understandings—To hold heterodox doctrines and be obsessed with 
      the sense of the self. 
      
      ·       
      Kiến thủ kiến (khư khư bảo thủ ý kiến của mình)—Conservative 
      standpoint: Lối nầy là khuynh hướng của những người giữ lấy ý mình và 
      chống lại sự thay đổi. Không ý thức được sự sai quấy, mà vẫn giữ ý, không 
      thèm nghe  người khác; hoặc vì tự ái hay vì cứng đầu ngang ngạnh cứ tiếp 
      tục giữ cái sai cái dở của mình. Chẳng hạn như ở Việt Nam người ta có thói 
      quen đốt giấy vàng mã theo phong tục của Trung Hoa trong đám tang. Kỳ 
      thật, đám tang theo nghi thức Phật giáo thật đơn giản. Thân bằng quyến 
      thuộc tề tựu về tụng Kinh A Di Đà để hộ niệm cho người chết thoát khổ. 
      Phật tử, nhất là chư Tăng Ni thích được hỏa táng hơn là địa táng vì cách 
      nầy vừa đở tốn kém lại vừa hợp vệ sinh hơn. Hơn nữa, theo thời gian đất 
      chôn sẽ tăng một cách đáng kể làm giảm đi đất dành cho sự canh tác và xây 
      cất các công thự tiện ích khác—That is the tendency of those who maintain 
      their point of view or resist and oppose change. For example, there are 
      some out-dated customs still practiced in Vietnam such as using Chinese 
      money papers and burning them at funeral ceremonies. In fact, Buddhist 
      funeral rites are simple. Relatives and friends recite the Amitabha Sutra 
      to help free the dead from suffering. Buddhists, especially monks and 
      nuns,  prefer cremation to burial, since the first mode is more economic, 
      and hygienic than the second one. Moreover, with time, the burial grounds 
      would extend considerably, reducing thus the land reserved for cultivation 
      and other utilities. 
      ** For more information, 
      please see Ngũ Kiến 
           Thô Thiển and Ngũ 
      Kiến Vi Tế. 
      
      Kiến Thủ Sứ: The trials of 
      delusion and suffering from holding heterodox doctrines. 
      
      Kiến Thức: Learning—Knowledge.
      
      
      Kiến Thức Phàm Phu: Worldly 
      knowledge. 
      
      Kiến Thức Phân Biệt Của Phàm Phu: 
      Kiến thức biện biệt của phàm phu, phân biệt ta và người, đúng và 
      sai—Differentiating knowledge—For ordinary beings, it is the everyday mind 
      continually making distinction between self and others, right and 
      wrong—Provisional wisdom.
      
      Kiến Thức Rộng: Wide knowledge.
      
      
      Kiến Tính: See Kiến Tánh. 
      
      Kiến Tranh: Cố chấp nơi ý kiến 
      sai lầm của mình mà tranh cãi—Wrangling on behalf of heterodox views; 
      striving to prove them.
      
      Kiến Trọc: See Kiến Trược.  
      
      Kiến Trược: Drsti-kasaya 
      (skt)—Tà kiến khởi lên làm vẩn đục Chánh Pháp, một trong ngũ trược—Wrong 
      views which cause corruption of doctrinal views, one of the five 
      corruptions. 
      ** For more information, 
      please see Ngũ 
           Trược. 
      
      Kiến Tu: Kiến hoặc và tu hoặc 
      (kiến hoặc là mê hoặc về nghĩa lý mà bậc kiến đạo phải dứt bỏ; tu hoặc là 
      mê hoặc về sự việc mà người tu phải loại trừ)—Wrong views and wrong views 
      in practice (heterodoxy). 
      
      Kiến Tuệ: See Kiến Huệ. 
      
      Kiến Tư: Views and thoughts—See 
      Kiến Hoặc and Tư Hoặc.  
      
      Kiến Tư Giới: The realm of view 
      and thought.
      
      Kiến Tướng: Chuyển Tướng—Theo 
      Khởi Tín Luận, do cái nghiệp tướng thứ nhất mà chuyển hóa thành các tướng 
      có thể thấy được—The state or condition of visibility, which according to 
      the Awakening of Faith, arises from motion. 
      
      Kiến Văn: 
      
      1)      Thấy 
      và nghe—Experience—Knowledge—Learning—Seeing and hearing.
      
      2)      Thấy 
      Phật bằng mắt và nghe Phật pháp bằng chính tai của mình—Beholding the 
      Buddha with the eyes and hearing his truth with the ears. 
      
      Kiến Võng: Lưới bủa của tà kiến 
      (trói buộc không cho thân tâm ta giải thoát khỏi luân hồi sanh tử)—The net 
      of heterodox views, or doctrines, which binds men and rob them of freedom.
      
      
      Kiến Vương Trai: Lễ cúng Trai 
      Tăng ba ngày sau khi có người chết, khi mà vong linh người  chết đang chầu 
      Diêm Vương (Lễ Kiến Diêm Vương)—The service on the third day when the 
      deceased goes to see King Yama.
      
      Kiến Xứ: Ngay nơi tà kiến khởi 
      sanh luân hồi—The state of wrong views—The state of wrong views gives rise 
      to transmigration.  
      
      Kiền Đạt Bà: Càn Thát Bà—See 
      Gandharva in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section. 
      
      Kiền Trắc: Kanthaka (skt & 
      p)—Tên con ngựa mà Đức Phật đã dùng để cỡi khi Ngài rời bỏ cung điện để đi 
      xuất gia—The name of the steed (horse) on which Sakyamuni Buddha was 
      mounted when he left his palace to renounce the world (rode away from 
      home). 
      
      Kiện: 
      
      1)      Bò 
      thiến: A gelded bull, an ox. 
      
      2)      Chốt 
      khóa hay chốt bánh xe: The bolt of a lock.
      
      3)      Khóa 
      lại: To lock. 
      
      4)      Kiện 
      cáo: To sue—To have a law-suit against someone. 
      
      5)      Mạnh 
      mẽ: Strong—Sturdy—Hard—Unwearied. 
      
      6)      Một 
      loại động vật nửa người nửa báo: A creature half man, half leopard. 
      
      Kiện Cáo: Law suit—Case. 
      
      Kiện Dũng Tọa: Cách ngồi kiết 
      già của Đức Phật, hai bàn chân tréo lên hai đùi—The heoric posture of the 
      Buddha with his feet on his thighs soles upward. 
      
      Kiện Đà La: Gandhara (skt)—Tên 
      vương quốc cổ Kiện Đà La ở vùng bắc Ấn Độ—Name of an ancient kingdom, 
      north of India. 
      
      Kiện Đà Lê: Gandhara (skt)—Loại 
      mật chú cho ta khả năng bay được—A spell that gives power to fly. 
      
      Kiện Đạt: Gandha (skt).
      
      1)      Hương 
      thơm: Smell—Scent.
      
      2)      Một 
      loại cây làm nhang thơm: A tree producing incense. 
      
      Kiện Địa: Khanda (skt)—See Kiện 
      Độ. 
      
      Kiện Độ: Khanda (skt). 
      
      1)      Một 
      miếng, một mảnh, một phần, một chương sách—A piece, a fragment, a portion, 
      a section, a chapter. 
      
      2)      Quy 
      luật tự viện: Monastic rules. 
      
      Kiện Đức: See Kiền Trắc. 
      
      Kiện Hoàng Môn: Cung điện của 
      quan thái giám—Palace eunuchs. 
      
      Kiện Khang: To be in good 
      health—See Kiện (4).
      
      Kiện Nam: 
      
      1)      Người 
      bị thiến: Pandaka (skt)—A eunuch by castration (deprive of testes, or 
      ovaries; render impotent).
      
      2)      Thời 
      kỳ thứ tư trong năm thời kỳ của bào thai, tức là 47 ngày sau khi thọ thai 
      (thời kỳ kiên hậu): Ghana (skt)—The fourth in the five periods of a 
      foetus, a foetus of forty-seven days.
      
      3)      Vững 
      chắc: Solid—Compact—Firm.     
      
      Kiện Từ: Kiến Chi—Kiến Từ—Kiền 
      Từ—Thiển Thiết Bát hay chiếc bát cạn bằng sắt, loại bát sắt nhỏ, một trong 
      8 vật cần có của một vị Tỳ Kheo—A bowl, small almsbowl, one of the eight 
      requisites of monks and nuns (attha-parikkhara). 
      ** For more information, 
      please see Tám Món 
           Cần Dùng Của Phật.
      
      
      Kiêng: To abstain from—To 
      forbear—To be on a diet. 
      
      Kiêng Cữ: 
      Abstinence—Forbearance—Abstention---To  abstain. 
      
      Kiêng Dè: To economize—To save.
      
      
      Kiêng Nể: To have regard and 
      consideration for—To respect.  
      
      Kiêng Thịt: To abstain from 
      eating meat. 
      
      Kiêng Tránh: To abstain 
      
      Kiếp: Kalpa (skt).
      
      (I)     Nghĩa 
      của Kiếp—The meanings of Kalpa:
      
      1)      Một 
      khoảng thời gian rất dài: Aeon—Life—An infinitely long time.
      
      2)      Khoảng 
      thời gian một ngày một đêm trên cõi Trời Phạm Thiên (tương đương với 4 tỷ 
      320 triệu năm): The length of a day and night of Brahma (4.320.000.000 
      years).
      
      3)      Khoảng 
      thời gian từ lúc vũ trụ được thành lập, đến hoại diệt rồi lại được thành 
      lập: A period of time between the creation and recreation of a world or 
      universe.  
      
      4)      Lấy áo 
      trời vỗ vào một tảng đá dài 40 dậm, cứ mỗi trăm năm lại vỗ một lần, cứ thế 
      cho đến khi áo trời rách nát, tiểu kiếp vẫn chưa hết—To pass a heaven 
      cloth over a solid rock 40 li in size once in a hundred years, when 
      finally the rock has been thus worn away a kalpa will not yet have passed.
      
      (II)  Phân 
      loại Kiếp—Categories of Kalpas:
      
      (A)  Phân loại 
      theo Phương cách, có ba loại—Methodologically speaking, there are three 
      types of kalpas:
      
      1)      Tiểu 
      Kiếp: Small kalpa—See Tiểu Kiếp.
      
      2)      Trung 
      Kiếp: Middling Kalpa—See Trung Kiếp. 
      
      3)      Đại 
      Kiếp: Mahakalpa—See Đại Kiếp.
      
      (B)  Phân loại 
      theo sự cấu tạo vụ trụ—Có bốn loại kiếp—Categories based on the formation 
      of the universe—The kalpa is divided into four parts:
      
      1)      Thành 
      Kiếp: The period of world formation.
      
      2)      Trụ 
      Kiếp: The period of world-continuation (stability or development).
      
      3)      Hoại 
      Kiếp: The period of the world-dissolution.
      
      4)      Không 
      Kiếp: The period of void.
      
      Kiếp Ba: Kalpa (skt)—See Kiếp.
      
      
      Kiếp Bất Hạnh: A wretched life
      
      Kiếp Bố Đảm: Kapotana or 
      Kebudhana (skt)—Vương quốc cổ, bây giờ là Kebud, về phía Bắc của 
      Samarkand—An ancient kingdom, the modern Kebud, north of Samarkand. 
      
      Kiếp Bố La: Karpura (skt)—Hương 
      long não—Camphor, described as dragon-brain scent. 
      
      Kiếp Con Người Ngắn Ngủi: The 
      shortness of our lifespan on earth. 
      
      Kiếp Diệm: Kalpa-flames—See 
      Kiếp Hỏa. 
      
      Kiếp Độc: Kiếp bất tịnh, khi mà 
      tuổi thọ giảm và bệnh hoạn hoành hành chúng sanh—The impure or turbid 
      kalpa, when the age of life is decreasing and all kinds of diseases 
      afflict men. 
      
      Kiếp Hải: Số lượng kiếp rất 
      nhiều, ví như lượng nước biển—The ocean of kalpas, great in number.
      
      Kiếp Hỏa: Kiếp Diệm—Kiếp Tận 
      Hỏa—Kiếp Thiêu—Hỏa tai trong thời hoại kiếp, một trong đại tam tai (kiếp 
      hỏa tai sẽ đốt hết từ mặt đất cho đến cõi sơ thiền)—The fire in the kalpa 
      destruction, one of the three great calamities. 
      
      Kiếp Hôi: Kiếp tro, thời kỳ chỉ 
      toàn những tro, ngay sau sự tàn phá của kiếp hỏa—Kalpa-ash, the ash after 
      the fire kalpa of destruction.
      
      Kiếp Kiếp: Generations after 
      generations. 
      
      Kiếp Luân Hồi: In Samsara.  
      
      Kiếp Nầy Và Nhơn Quả: Kiếp nầy 
      và nhơn quả theo Kinh Nhân Quả—Present life and cause and effect according 
      to Cause and Effect Sutra.  
      1)  Kiếp Nầy Canh Cô Quạnh Quẻ Cũng Vì 
      Kiếp Trước Hay Hãm Hại Người Khác: Being all alone in this life is 
      the consequence of harming other people with a wicked mind in previous 
      life. 
      2)   Kiếp Nầy Câm, Điếc, Đui Mù Cũng Vì 
      Kiếp Trước Hay Phỉ Báng (Người Tụng Đọc) Kinh Điển Đại Thừa: Being 
      dumb, deaf, or blind in this life is the consequence of slandering (people 
      who read or recite) Mahayana sutras in previous life.
      3)  Kiếp Nầy Chẳng Tu Còn Đợi Đến Kiếp 
      Nào ? If we do not cultivate in this life, then when will we do 
      so ? 
      
      4)      
      Kiếp Nầy Có Xe Có Ngựa Vì Tiền Kiếp Hay 
      Sửa Cầu Vá Lộ: Having the previlege to ride on a horse or travel in 
      luxurous sedan cars in this life is the consequence of one’s contribution 
      made to public welfare by building the bridges and repairing the roads in 
      his previous life.   
      
      5)      
      Kiếp Nầy Con Cháu Đầy Đàn Cũng Nhờ Tiền 
      Kiếp Hay Phóng Sanh Lợi Vật: Having so many children and 
      grandchildren in this life is the consequence of setting free birds, 
      animals as well as doing good deeds to other beings in previous life. 
      
      6)      
      Kiếp Nầy Được Kính Trọng Nể Vì Cũng Nhờ 
      Tiền Kiếp Hay Kính Trọng Nể Vì Người Khác: Being respectful in this 
      life is the consequence of paying respect to other people in previous 
      life. 
      
      7)      
      Kiếp Nầy Hay Gây Hờn Chuốc Não Cho Người, 
      Kiếp Sau Sẽ Bị Cọp Beo Rắn Hãm Hại: To create hatred and 
      afflictions to other people in this life, next life will be harmed by 
      tigers, bears or snakes.
      
      8)      
      Kiếp Nầy Hay Nói Thị Phi, Kiếp Sau Câm 
      Điếc Không Ra Một Lời: Frequent gossip in this life, will be born 
      dumb and deaf in the next life.  
      
      9)      
      Kiếp Nầy Giàu Có Với Quần Là Áo Lụa Cũng 
      Vì Tiền Kiếp Hay Cúng Dường Vải Và Áo Cho Chư Tăng Ni: Being so 
      rich as to wear in silk fabrics or in satin dress in this life is the 
      consequence of one’s offerings of robes to the monks and nuns in his 
      previous life. 
      
      10)  
      Kiếp Nầy Hại Người Để Hưởng Lợi Thì Kiếp 
      Sau Làm Thân Trâu Ngựa Để Đền Trả Và Cuối Cùng Bị Giết Làm Thịt: To 
      benefit oneself by bringing harm to others, next life will become a 
      buffalo or a horse to pay retribution and at the end of the life will be 
      killed for meat. 
      10) Kiếp Nầy Hạnh Phúc Vì Kiếp Trước 
      Không Làm Khổ Người Khác: Being happy in this life is the 
      consequence of not causing physical or mental harm or damage to any being 
      in previous life. 
      
      11)  
      Kiếp Nầy Hay Khinh Miệt Người, Kiếp Sau 
      Sanh Vào Chỗ Hạ Tiện Cho Người Miệt Khinh: To look down upon other 
      people in this life, will be reborn in the mean and poor family and looked 
      down by other people in the next life.
      
      12)  
      Kiếp Nầy Hay Ly Gián Đố Kỵ Kẻ Khác, Kiếp 
      Sau Hôi Thúi Không Ai Tới Gần: To be jealous of others or to cause 
      disputes among other people, will have a body with bad odour (nobody dares 
      to come near) in the next life. 
      
      13)  
      Kiếp Nầy Không Đau Ốm Bịnh Hoạn Cũng Nhờ 
      Kiếp Trước Hay Giúp Đở Thuốc Men Cho Người Nghèo: Being free from 
      illness in this life is the consequence of donating medicines to the poor 
      in previous life. 
      
      14)  
      Kiếp Nầy Không Tin Phật Pháp, Kiếp Sau Câm 
      Điếc Để Không Nghe Gì: Don’t believe in the Buddhist doctrines in 
      this life, will be dumb and deaf  (not be able to read and hear) in the 
      next life. 
      
      15)  
      Kiếp Nầy Làm Thân Làm Tôi Tớ Người Cũng Vì 
      Kiếp Trước Hay Hành Hạ Tôi Tớ Hay Nợ Nần Không Trả: Working as a 
      servant in this life is the consequence of ill-treating servants or not 
      paying debts in previous life. 
      16)  Kiếp Nầy Làm Thân Trâu Ngựa Cũng 
      Vì Kiếp Trước Ác Độc Và Giựt Nợ: Becoming a cow or horse in this 
      life is the consequence of wicked deeds and not paying debts in previous 
      life. 
      
      16)  
      Kiếp Nầy Lường Gạt Giựt Tiền Chùa, Kiếp 
      Sau Phải Làm Thân Trâu, Bò, Heo Chó Để Đền Trả: To deceive the 
      monks and nuns to get the money from the temple in this life, will become 
      a buffalo, a cow, a pig or even a dog to pay retribution in the next life.
      
      
      17)  
      Kiếp Nầy Ngược Đãi Súc Vật, Kiếp Sau Sanh 
      Thân Súc Vật Đền Trả: To maltreat animals, will be reborn as 
      animals to pay retribution in the next life. 
      
      18)  
      Kiếp Nầy Nhà Cao Cửa Rộng Nhờ Tiền Kiếp 
      Hay Cúng Dường Gạo Thóc Cho Chùa: Being so rich as to be able to 
      live in luxurious life is the consequence of offerings rice to the temples 
      in previous life. 
      
      19)  
      Kiếp Nầy No Cơm Ấm Áo Vì Tiền Kiếp Hay 
      Giúp Đở Người Nghèo: Being sufficient with food and dress in this 
      life is the consequence of giving alms to the poor in one’s previous life.
      
      20) Kiếp Nầy Nói Xấu Người Tu, Kiếp 
      Sau Mang Thân Làm Thằn Lằn Tắc Lưỡi Mỗi Đêm: To slander the monks 
      and nuns (not to slander the Triratna) in this life, will be reborn as a 
      lizard to click the tongue every night. 
      
      20)  
      Kiếp Nầy Phú Quí Thịnh Vượng Vì Tiền Kiếp 
      Hay Xây Chùa Cất Miễu Cũng Như Dựng Nhà Chẩn Tế: Being sufficient 
      with luck, nobility and prosperity in this life is the consequence of 
      one’s generous offerings made in the construction of the temples and 
      monasteries as well as building of the shelters for the needy in previous 
      life.  
      
      21)  
      Kiếp Nầy Thấy Nạn Mà Cười, Kiếp Sau Hoạn 
      Nạn Triền Miên Một Đời: To feel happy when seeing the misfortunes 
      of others in this life, will be in constant troubles and sicknesses in the 
      next life. 
      
      22)  
      Kiếp Nầy Thấy Nguy Không Cứu, Kiếp Sau 
      Phải Mang Thân Tù Đày: To refuse to rescue others when they are in 
      danger, will have the bad fate of staying in prison in the next life. 
      
      23)  
      Kiếp Nầy Thông Minh Đại Trí Cũng Nhờ Tiền 
      Kiếp Hay Tụng Kinh Niệm Phật: Being full of great intelligence and 
      wisdom in this life is the consequence of praying and reciting Amitabha 
      Buddha’s name in previous life.
      
      24)  
      Kiếp Nầy Trường Thọ Cũng Nhờ Kiếp Trước 
      Hay Phóng Sanh Lợi Vật: Enjoying longevity in this life is the 
      consequence of setting free animals as well doing good deeds to other 
      people in previous life. 
      
      25)  
      Kiếp Nầy Tướng Mạo Khôi Ngô Cũng Nhờ Kiếp 
      Trước Hay Thành Tâm Dâng Hoa Cúng Phật: Being so beautiful and 
      dignified in outer aspects in this life is the consequence of sincere 
      offerings flowers to the Buddha (statue or image) in previous life. 
      
      26)  
      Kiếp Nầy Vinh Hiển Làm Quan Cũng Vì Tiền 
      Kiếp Đắp Vàng Tượng Phật: Holding the position of high ranking 
      officer in this life is the consequence of one’s decorating the statue of 
      the Buddha with gold leaf in his previous life.  
      
      27)  
      Kiếp Nầy Vu Oan Giá Họa Cho Người, Kiếp 
      Sau Sẽ Bị Người Vu Oan Giá Họa Để Hãm Hại: To bring harm to others 
      by spreading false rumours, will be harmed by false rumours in the next 
      life. 
      
      Kiếp Người: Human life 
      (condition). 
      Những lời Phật dạy trong 
      Kinh Pháp Cú—The Buddha’s teachings on Human Life in the Dharmapada Sutra:
      
      1)      Được 
      sinh làm người là khó, được sống còn là khó, được nghe Chánh pháp là khó, 
      được gặp Phật ra đời là khó—It is difficult to obtain birth as a human 
      being; it is difficult to have a life of mortals; it is difficult to hear 
      the Correct Law; it is even rare to meet the Buddha (Dharmapada 182).
      
      2)      “Mùa 
      mưa ta ở đây, đông hạ ta cũng ở đây,” đấy là tâm tưởng của hạng người ngu 
      si, không tự giác những gì nguy hiểm—Here I shall live in the rainy 
      season, here in the winter and the summer. These are the words of the 
      fool. He fails to realize the danger (of his final destination) 
      (Dharmapada 286). 
      
      3)      Người 
      đắm yêu con cái và súc vật thì tâm thường mê hoặc, nên bị tử thần bắt đi 
      như xóm làng đang say ngủ bị cơn nước lũ lôi cuốn mà không hay—Death 
      descends and carries away that man of drowsy mind greedy for children and 
      cattle, just like flood sweeps away a sleeping village (Dharmapada 287).
      
      4)      Một 
      khi tử thần đã đến, chẳng có thân thuộc nào có thể thế thay, dù cha con 
      thân thích chẳng làm sao cứu hộ—Nothing can be saved, nor sons, nor a 
      father, nor even relatives; there is no help from kinsmen can save a man 
      from death (Dharmapada 288).
      
      Kiếp Người Hữu Hạn: Human life 
      is limited. 
      
      Kiếp Người Mong Manh Ngắn Ngủi: 
      Human life is uncertain and ephemeral. 
      
      Kiếp Sau: Future life.
      
      Kiếp Sơ: Thời kỳ đầu của Thành 
      Kiếp hay lúc mới hình thành của thế giới—The beginning of the kalpa of 
      formation.
      
      Kiếp Tai: Những thời kỳ tai họa 
      của lửa, gió, nước trong thời hoại kiếp (sau thành kiếp là hoại kiếp, cuối 
      hoại kiếp có ba tai nạn hỏa tai, phong tai, và thủy tai lan tràn phá hoại 
      hết thế giới)—The calamity of fire, wind and water during the kalpa of 
      destruction.
      
      Kiếp Tân Na: Kapphina 
      (skt)—Kiếp Thí Na—Kiếp Tỷ Na—Kiếp Tỳ Nô—Một đệ tử của Phật Thích Ca, tên 
      trong Tăng đoàn là Đại Kiếp Tân Na. Ngài rất giỏi về tinh tú, sau nầy sẽ 
      thành Phật danh hiệu Phổ Minh Như Lai—A disciple of Sakyamuni, whose 
      monastic name was Mahakappina. He was very good at astronomy and 
      constellations. He is to be reborn as Samantaprabhasa Buddha.   
      
      Kiếp Tận Hỏa: See Kiếp Hỏa.
      
      Kiếp Thiêu: See Kiếp Hỏa. 
      
      Kiếp Thủy: Đại thủy tai sanh ra 
      vào thời hoại kiếp, một trong tam đại tai—The flood in the kalpa of 
      destruction, one of the three great calamities. 
      
      Kiếp Trước: Past life.
      
      Kiếp Tỳ La: Kapila (skt).
      
      1)      Hoàng 
      xích: Màu vàng đỏ hay nâu—Brown.
      
      2)      Vị 
      Thánh Kiếp Tỳ La, người sáng lập ra Số Luận và trường phái Số Luận: The 
      sage Kapila, founder of the classical   Samkhya philosophy and the school 
      of that name.
      
      Kiếp Tỳ La Phạt Thốt Đổ: 
      Kapilavastu (skt)—Nước Kiếp Tỳ La Phạt Thốt Đô hay Kiếp Tỳ La Quốc, trước 
      kia là Ca Tỳ La Vệ hay Ca La, đây là xứ sở của vua cha Tịnh Phạn của Đức 
      Phật Thích Ca. Đất nước nầy bị tiêu diệt ngay khi Đức Phật còn tại thế. 
      Theo truyền thuyết thì xứ nầy khoảng 100 dậm về phía Bắc của thành Ba La 
      Nại, tây bắc của Gorakhpur bây giờ—Capital of the principality occupied by 
      the Sakya clan; destroyed during Sakyamuni’s life, according to legend; 
      about 100 miles due north of Benares, northwest of present Gorakhpur.
      
      Kiếp Tỳ La Thiên: Tên của một 
      loại chư thiên hay một loại quỷ—Deva or demon, called Kapila, or Kumbhira, 
      or Kubera.
      
      Kiếp Tỳ Tha: Kapittha (skt).
      
      1)      Tăng 
      Khư Thi: Một vương quốc cổ ở Trung Ấn—An ancient kingdom of Central India.
      
      2)      Theo 
      Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, đây là một vị Bà La Môn đối xử tệ 
      với Phật tử, sau đó tái sanh làm một loài cá, và cuối cùng được Đức Thích 
      Ca chuyển hóa:  According to Eitel in The Dictionary of Chinese-English 
      Buddhist Terms, this is a Brahman of Vrji who ill-treated  the Budhists of 
      his time, was reborn as a fish, and was finally converted by Sakyamuni.
      
      Kiếp Tỳ Xá Dã: Nơi mà bây giờ 
      người ta gọi là Kashmir—Said to be presently Kashmir.
      
      Kiết: 
      
      1)      Da 
      dê—Deer-skin. 
      
      2)      Thiến: 
      To castrate. 
      
      3)      Tốt: 
      Sri (skt)—Auspicious—Lucky—Fortunate. 
      
      Kiết Ấn: Phép truyền trao của 
      Mật Giáo (người nhận Kết Ấn phải phát Bồ Đề Tâm và phải thụ nhận phép quán 
      đảnh)—A  binding agreement sealed as a contract, employed by the esoteric 
      sects.
      
      Kiết Bệnh: See Kết Bệnh. 
      
      Kiết Bố La: Karpura (skt)—Long 
      não—Dragon-brain scent—Camphor. 
      
      Kiết Địa Lạc Ca: Khadiraka 
      (skt)—Vòng thứ ba trong bảy vòng quanh núi Tu-Di—The third of the seven 
      circles or concentric mountains around Meru (Sumeru).
      
      Kiết Già: Padmasana (skt)—Thế 
      ngồi hoa sen, theo kiểu ngồi của Phật Tổ Thích Ca, hai chân tréo nhau, bàn 
      chân ngửa lên—The Buddha’s sitting posture with legs crossed and soles 
      upward—To sit cross-legged.
      
      a)      Hàng 
      Ma Kiết Già: Chân trái tréo lên chân phải—The left leg is over right, the 
      left hand is over the right hand for being subduing of demons.  
      b)  Cát Tường 
      Kiết Già: Chân phải tréo lên chân trái, bàn tay phải đặt trên bàn tay 
      trái—The right leg is over left for blessing, the right hand is being 
      placed over the left one. 
      
      Kiết Già Bà Sa: Khadga-visana (skt)—Kiết Già Tỳ Sa Nã—Sừng tê giác—A 
      rhinoceros’ horn. 
      
      Kiết Già Phu Tọa: See Kiết Già.  
      
      Kiết Giới:
      
      
      
      1)       
      
      Kết thành giới luật để hộ trì—Bound by the commandments.
      
      
      2)       
      
      Bàn thờ Phật được đặt tại một nơi cố định, hay một vùng cố 
      định trong tự viện: A fixed place, or territory; a definite area; to fix a 
      place for a monastery, or an altar;
      
      
      3)       
      
      Một số nhất định cho buổi họp chúng Tăng: A determined 
      number, e.g. for an assembly of monks.
      
      
      4)       
      
      Kiết Giới Ngũ Tướng: It is a term specially used by the 
      esoteric sects for an altar and its area, altar being of five different 
      shapes. 
      
      
      ·         
      
      Phương Tướng: A square shape.
      
      
      ·         
      
      Viên Tướng: A round shape.
      
      
      ·         
      
      Cổ Tướng: Rectangular shape.
      
      
      ·         
      
      Bán Nguyệt Tướng: Semi-circle.
      
      
      ·         
      
      Tam Giác: Triangle.
      
      Kiết Giới Ngũ Tướng: The five different shapes of an altar—See Kiết Giới (4). 
      
      
      Kiết Giới Nhị Bất 
      Định: Aniyata (skt)—Hai giới quan hệ tới vấn đề tình dục, nhưng 
      sự vi phạm lại mơ hồ không rõ—Two offences which are connected with 
      activities of sex, but the violation is not clear—See Nhị Bất Định Giới.
      
      
      Kiết Giới Thập Tam 
      Tăng Tàn: Sanghadisesa (skt)—Mười ba giới Tổn Hại Tăng Tàn khiến cho 
      Tăng Ni phạm phải bị tạm thời trục xuất khỏi giáo đoàn—Thirteen offences 
      which entail upon a monk temporary expulsion from the Order—See Thập Tam 
      Giới Tăng Tàn. 
      
      Kiết Giới Tứ Ba La 
      Di: Parajika (skt)—See Tứ Đọa. 
      Kiết Hà: 
      A river of bondage (suffering or illusion). 
      Kiết Hạ: 
      Chấm dứt kỳ an cư kiết hạ—The end of the summer retreat.
      Kiết Kinh: 
      Chấm dứt bài—The end of a sutra. 
      Kiết La Nã 
      Tô Phạt Lạt Na: Karnasuvarna 
      (skt)—See Yết La Nã Tô Phạt Lạt Na. 
      Kiết Lật Đà: 
      Grdhra 
      (skt)—Linh thứu (kênh kênh)—Vulture.
      
      Kiết Lợi La: 
      Một trong những vị Thế Tôn trong nhóm Kim Cang giới—One of the honourable 
      ones in the Vajra-dhatu groups.
      Kiết Lợi 
      Vương: Kaliraja (skt)—Tiền kiếp 
      của Kiều Trần Như, khi còn làm quốc vương ông đã cắt tay chân của 
      Ksanti-rsi vì những thê thiếp của ông đã lạc vào thiền thất của vị nầy. Do 
      sự tự tại của vị ẩn sĩ nầy mà ông đã cải đổi và người ta đoán rằng về sau 
      nầy ông sẽ là đệ tử của Phật Thích Ca—A former incarnation of Kaundinya, 
      when as king he cut off the hands and feet of Ksanti-rsi because his 
      concubines had strayed to the hermit hut. He was converted by the hermit’s 
      indifference, it was predicted that he would become a disciple of Buddha.
      
      Kiết Ma: 
      Karma (skt)—See Yết Ma. 
      Kiết Nghiệp: 
      See Kết Nghiệp. 
      Kiết Nhật: 
      A good or an auspicious day.  
      Kiết Ni Ca: 
      Kanaka (skt). 
      
      1)      
      Tên của một vài loại cây màu vàng: Name of several yellow plants.
      2)     
      Táo gai: Thorn apple.
      3)     
      Một loại đàn hương: A species of sandalwood. 
      Kiết Nô Bộc: 
      Kanabhuj  or Kanada (skt)—Người sáng lập trường phái Triết Lý Ấn Độ 
      Vaisasika—Founder of Vaisesika school of Indian philosophy. 
      Kiết Phược: 
      See Kết Phược. 
      Kiết Sử: 
      Fetters. 
      
      1)      
      Kiết và sử, hai tên gọi khác nhau của phiền não, kiết là trói buộc 
      thân tâm kết thành quả khổ, sử là theo đuổi và sai sử chúng sanh—The 
      bondage and instigators of the passions, two other names for afflictions.
      
      2)      
      Theo Thanh Tịnh Đạo, kiết sử là mười pháp khởi từ sắc tham; gọi là 
      kiết sử vì chúng trói buộc các uẩn trong đời nầy với các uẩn đời kế tiếp, 
      hoặc trói buộc nghiệp với quả, hoặc trói buộc hữu tình vào đau khổ. Vì bao 
      lâu cái nầy còn hiện hữu thì cái kia không chấm dứt: The fetters are the 
      ten states beginning with greed for the fine-material, so called because 
      they fetter aggregates in this life to aggregates of the next, or karma to 
      its fruit, or beings to suffering. For as so long the ones exist there is 
      no cessation of the others—See Ngũ Hạ Phần Kết, and Ngũ Thượng Phần Kết in 
      Vietnamese-English Section.
      **   For 
      more information, please see Sử (3). 
      Kiết Tặc: 
      See Kết Tặc. 
      Kiết Tập: 
      The collecting and fixing of the Buddhist canon. The first assembly was 
      presided by Kasyapa (Ca Diếp), Ananda for the Sutras  (Kinh) and the 
      Adhidharma , and Upali for the Vinaya (Luật)—See Kết Tập.  
      
      Kiết Thán: See Kết Thán. 
      
      Kiết Thất: Retreats.
      
      Kiết Thất Định Kỳ: Periodic 
      retreats. 
      
      Kiết Tra Bố Đảm Na: See Yết Tra 
      Bố Đảm Na. 
      
      Kiết Tường: See Cát Tường. 
      
      Kiết Xác: Very poor. 
      
      Kiệt: 
      
      1)      Đơn vị 
      tương đương với một phần 32.000 do tuần—A unit equivalent to the 32,000th 
      part of a yojana. 
      
      2)      Kiệt 
      sức: Exhausted—Used up—Finished.
      
      3)      Kiệt 
      xuất: Utmost. 
      
      Kiệt Chi: See Tăng Kỳ Chi. 
      
      Kiệt Đà La: Khadira or Karavira 
      (skt)—Loại gỗ cứng—Hard wood. 
      
      Kiệt Liệt:Very famous. 
      
      Kiệt Lực: To be exhausted. 
      
      Kiệt Quệ: Exhausted.
      
      Kiệt Sức: To be burned out—To 
      be worn out—To be exhausted.  
      
      Kiệt Tác: Masterpiece. 
      
      Kiệt Xoa: Một nơi trên núi 
      Karakoram mà theo ngài Pháp Hiền, nơi đây các vương triều đã từng tổ chức 
      những cuộc cúng dường Trai Tăng hay những chúng hội thật vĩ đại. Theo 
      Eitel trong trung Anh Phật Học Từ Điển, thì đây là vùng Khasa, nơi trú ngụ 
      của một bộ tộc cổ Kasioi trong vùng Paropamisus; trong khi những học giả 
      khác thì cho rằng đây có lẽ là những vùng bây giờ là Kashmir, Iskardu, hay 
      Kartchou—A place said to be in Karakoram mountains, where according to 
      Fa-Hsien formerly great assemblies were held under royal patronage and 
      with royal treatment. Eitel, in The Dictionary of Chinese-English Buddhist 
      Terms, gives it as Khasa, and says an ancient tribe on the Paropamisus, 
      the Kasioi of Plotemy; others give different places, i.e. Kashmir, 
      Iskardu, Kartchou. 
      
      Kiệt Xuất: Outstanding
      
      Kiêu: 
      
      1)      Sự 
      kiêu ngạo (cậy vào sự việc trôi chảy hay tài của mình mà sanh lòng kiêu 
      ngạo): Arrogant—Haughty—Proud—Boastful—Bragging—Self-indulgent—Indulgent.
      
      2)      Tưới 
      nước: To sprinkle—To water.  
      
      Kiêu Đàm Di: Gautami (skt)—See 
      Ma Ha Ba Xà Ba Đề in Vietnamese-English Section. 
      
      Kiêu Khang: Hầm hố của ngã mạn 
      cống cao—The pit of pride and arrogance. 
      
      Kiêu Mạn: Kiêu mạn là tên một 
      loại phiền não, một trong ngũ thượng phần kết—Arrogance and pride, a kind 
      of klesa, one of the five higher bonds of desire—See Ngũ Thượng Phần Kết.
      
      
      Kiêu Ngạo: See Kiêu. 
      
      Kiêu Phạm Ba Đề: Gavampati 
      (skt)—Còn gọi là Ca Phạm Ba Đề, Cấp Phòng Bát Để, Kiêu Phạm Bát Đề, Kiều 
      Phạm Ba Đề, hay Kíp Phòng Bát Để, dịch là Ngưu Thi hay Ngưu Vương, là tên 
      một vị Tỳ Kheo có cái miệng cứ nhai tới nhai lui như trâu nhai lại vì tội 
      của đời quá khứ (theo Pháp Hoa Huyền Nghĩa, tiếng Phạn Gavampati dịch là 
      Ngưu Vương. Ngài do ở đời quá khứ có ngắt một nhánh lúa ném xuống đất, nên 
      trong 500 đời phải làm kiếp trâu để đền bù, nay tuy mang thân người, nhưng 
      có hình tướng và tiếng nói giống như loài trâu)—Interpreted as chewing the 
      cud; lord of cattle, etc. (with the feet and cud-chewing characteristic of 
      an ox) A man who became a monk, born with a mouth always ruminating like a 
      cow because of former oral sins; he had spilled some grains from an ear of 
      corn he plucked in a former life. 
      
      Kiêu Tát La: Kosala (skt)—See 
      Kiều Tát La
      
      Kiêu Thi: See Kiêu Thi Ca. 
      
      Kiêu Thi Ca: Kausika or Kusika 
      (skt). 
      
      1)      Còn 
      gọi là Kiêu Chi Ca, họ của Đế Thích (trong Đại Trí Độ Luận, theo Kinh Tạp 
      A Hàm: “Vị Tỳ Kheo lại bạch với Đức Phật rằng: Bạch Thế Tôn, do duyên gì 
      mà ngài Đế Thích Đề Hoàn lại có tên là Kiêu Thi Ca? Đức Phật nói với vị Tỳ 
      Kheo rằng: Ngài Thích Đề Hoàn ấy khi còn là người có họ là Kiêu Thi Ca. Vì 
      nhơn duyên ấy mà ngài có tên là Kiêu Thi Ca.”)—Kausika, of the family of 
      Kusika, family name of Indra. This story is mentioned in the Maha-Prajna 
      Sastra. 
      
      2)      Có 
      người cho rằng Đức Phật A Di Đà cũng có họ Kiêu Thi Ca: One account says 
      Amitabha was of the same family name. 
      
      Kiêu Thưởng Di: Kausambi 
      (skt)—Một thành phố cổ nằm bên bờ sông Hằng, nằm bên dưới Doab. Có nhiều 
      người cho rằng đây là vùng Kusia gần Kurrah, nhưng Kusia bây giờ là làng 
      Kosam nằm bên bờ nhánh sông Jumna, khoảng 30 dậm bên trên vùng 
      Allahabad—An ancient city on the Ganges, in the lower part of Doab. It has 
      been identified by some with Kusia near Kurrah, but is the village of 
      Kosam, on the Jumna, 30 miles above Allahabad. 
      
      Kiêu Trần Na: Kaundinya 
      (skt)—See Kiều Trần Như.
      
      Kiêu Trần Như: Kaundinya 
      (skt)—See Kiều Trần Như. 
      
      Kiêu Xa: Proud and luxurious   
      
      
      Kiêu Xa Da: Kauseya (skt)—Cao 
      Thế Da—Kiêu Xá—Vải làm bằng lụa thô—Cloth made of wild silk. 
      
      Kiếu Hoán: See Khiếu Hoán. 
      
      Kiều:
      
      1)      Cầu: 
      Bridge—Cross-beam. 
      
      2)      Kiều 
      Diễm: Beautiful. 
      
      Kiều Diễm: Charming—Graceful.
      
      
      Kiều Đàm Ni: Gautami (skt)—See 
      Ma Ha Ba Xà Ba Đề in Vietnamese-English Section. 
      
      Kiều Lương: Nhẫn nại—A bridge, 
      trampled on by all but patiently bearing them, a synonym for patience, or 
      endurance.  
      
      Kiều Mỵ: Beautiful. 
      
      Kiều Nhi: Beloved daughter.
      
      Kiều Nữ: See Kiều Nhi. 
      
      Kiều Phạm Ba Đề: Gavampati 
      (skt)—See Kiêu Phạm Ba Đề.
      
      Kiều Tát La: Kosala (skt)—Còn 
      gọi là Câu Sa La, Câu Tát La, hay Cư Tát La.  
      
      1)      Bắc 
      Kiều Tát La: Uttarakosala (skt)—Một vương quốc cổ mà bây giờ là vùng Oude, 
      nằm về miền Trung Ấn Độ (theo Truyện Pháp Hiển, Bắc Kiều Tát La là tên một 
      vương quốc cổ ở miền Trung Ấn, khác với nước Nam Kiều Tát La. Đây là một 
      trong 16 vương quốc lớn thời Đức Phật còn tại thế, thủ phủ là thành Xá Vệ, 
      nơi Đức Phật đã lưu trú trong một thời kỳ dài)—Northern Kosala—An ancient 
      kingdom in Central India, the modern Oude.  Its capital is Sravasti, where 
      the Buddha and his order stayed for a long period of time—See Xá Vệ Quốc.
      
      
      2)      Nam 
      Kiều Tát La: Daksinakosala (skt)—Vương quốc cổ mà bây giờ thuộc về các 
      tỉnh trung tâm Ấn Độ (theo Tây Vực Ký thì ngài Huyền Trang cho rằng vùng 
      nầy là vùng Trung Ấn. Theo Truyện Pháp Hiển, đây là nước Đạt Thân hay Nam 
      Kiều Tát La, để phân biệt với Bắc Kiều Tát La, còn gọi là Đại Kiều Tát La. 
      Đây là nơi mà ngài Long Thọ đã từng lưu trú, được vua Sa Đa Bà Ha rất kính 
      trọng. Nhà vua đã cho xây một ngôi chùa lớn năm tầng tại Bạt La Vị La. Vị 
      trí thủ phủ của nước nầy ngày nay chưa ai định rõ)—Southern Kosala—An 
      ancient kingdom, also in Central India, part of the present Central 
      Provinces.  
      
      Kiều Trần Như: Kaundinya (skt).
      
      
      1)      
      Ajnata-Kaundinya (skt)—Kondanna (p)—Tên của một trong năm vị đệ tử đầu 
      tiên của Đức Phật. Ông là người trẻ tuổi nhất  trong tám vị Bà La Môn được 
      vua Tịnh Phạn thỉnh đến lễ quán đảnh Thái Tử sơ sinh. Ông nguyên là thái 
      tử xứ Ma Kiệt Đà, là cậu của Đức Phật, và cũng là bạn cùng tu khổ hạnh với 
      Đức Phật khi Ngài mới xuất gia (Nhóm ông Kiều Trần Như có năm người, trước 
      kia theo làm bạn tu khổ hạnh với Đức Phật. Sau khi thấy Đức Phật thọ nhận 
      bát sữa của nàng Mục Nữ cúng dường, cho rằng Đức Phật đã thối tâm trên 
      đường tìm đạo giải thoát nên họ đã ly khai với Phật. Sau khi Đức Phật 
      thành đạo, năm vị nầy lại gặp Đức Phật tại vườn Lộc Uyển/Mrgadava trong 
      thành Ba La Nại/Varanasi, được Phật thuyết giảng về Tứ Diệu Đế để độ họ 
      trở thành những vị Tỳ Kheo đầu tiên. Đây là năm vị đệ tử đầu tiên của Đức 
      Phật)—Name a prince of Magadha, uncle and one of the first five disciples 
      of Sakyamuni. He was the youngest and cleverst of the eight brahmins who 
      were summoned by King Suddhodana to name the infant prince. He used to 
      practise ascetic practices with Prince Siddhartha when he just left home.
      
      
      2)      
      Vyakarana-Kaundinya (skt)—Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, thì 
      Vyakarana-Kaundinya là vị tôn giả, xuất thân từ một gia đình Bà La Môn 
      giàu có trong thành Ca Tỳ La Vệ, sanh ra trước Đức Phật. Người đã được Đức 
      Phật bảo rằng một Đức Phật quả là quá thiêng liêng để mà để lại bất cứ xá 
      lợi nào trên trần thế nầy—According to Eitel in The Dictionary of 
      Chinese-English Buddhist Terms, Vyakarana-Kaundinya, son of a very wealthy 
      Brahman family near Kapilavastu, and was born before the Buddha. He was 
      the one, who was told by the Buddha that a Buddha is too spiritual to 
      leave any relics behind.   
      
      Kim:
      
      1)      
      Kim Tinh: Sukra (skt)—Venus.
      
      2)      Vàng 
      hay quý kim: Hiranya (skt)—Y Lại Nã—Gold or any precious metal.
      
      3)      Bây 
      giờ: Now—The present—At present.   
      
      4)      Màu 
      sặc sỡ: Suvarna (skt)—Tô Phạt Thích—Of a good or beautiful 
      colour—Golden—Yellow.
      
      Kim Ba: The moonlight. 
      
      Kim Cang: Vajra (skt)—Diamond 
      or adamantine—Biểu tượng năng lực tâm linh vô thượng được so sánh với viên 
      ngọc quý nhất, kim cương với sự trong suốt và sáng ngời của nó, các màu 
      khác được phản chiếu trong ấy, mà nó vẫn giữ được tính không màu sắc của 
      nó. Nó có thể cắt đứt được mọi vật rắn khác, trong khi một một thứ gì có 
      thể cắt đứt được nó—The symbol of the highest spiritual power, which is 
      compared with the gem of supreme value, the diamond, in whose purity and 
      radiance other hues are reflected while it remains colorless, and which 
      can cut every other material, itself is being cut by nothing. 
      
      (A)  Nghĩa của 
      Kim Cang—The meanings of Vajra:
      
      1)      Kim 
      Cang chùy của vua Trời Đế Thích: The thunderbolt of Indra, often called 
      the diamond club.
      
      2)      Biểu 
      tượng của mặt trời: A sun symbol.
      
      3)      Một 
      trong thất bảo: One of the seven precious stones (saptaratna).
      
      (B)  Ba đặc 
      tánh của Kim Cang—Three special natures of diamond:
      
      1)      Cứng 
      rắn: Solid—Firm.
      
      2)      Chiếu 
      sáng: Bright—It has brilliance.
      
      3)      Sắc 
      bén: Sharp—It is piercing—Trong Phật giáo, kim cang có thể cắt đứt mọi 
      phiền não, khiến cho chúng sanh có được đại trí để tiến đến tâm Bồ đề—In 
      Buddism, vajra can cut off all afflictions of living beings so that they 
      can open great wisdom and advance to bodhi-mind.  
      
      Kim Cang Bảo Giới: Nhất Tâm Kim 
      Cang Bảo Giới hay Đại Thừa giới trình bày trong Kinh Phạm Võng—The 
      Mahayana rules according to the Brahma Net sutra. 
      ** For more information, 
      please see Bốn Mươi 
           Tám Giới Khinh.
      
      Kim Cang Bảo Tạng: Theo Kinh 
      Niết Bàn, Bảo Tạng Kim Cang gồm Niết Bàn và Bồ Đề tâm, là nguồn tâm của 
      mọi chúng sanh—According to the Nirvana Sutra, the “Diamond” treasury, 
      i.e. nirvana and the pure bodhi-mind, as the source of the mind of all 
      sentient beings. 
      
      Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa: 
      Vajracchedika Prajnaparamita—See Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa in 
      Appendix A (6). 
      
      Kim Cang Bất Hoại: 
      
      1)      Tánh 
      chất bất hoại của kim cương: The indestructibility of the diamond.
      
      2)      Kim 
      Cang thân bất hoại của Đức Phật: The diamond indestructible body of the  
      Buddha. 
      
      Kim Cang Bồ Tát: There are 
      several Vajra-bodhisattvas:
      
      1)      Kim 
      Cang Nhân Bồ Tát: Vajrahetu bodhisattva.
      
      2)      Kim 
      cang Thủ Bồ Tát: Vajrapani bodhisattva.
      
      3)      Kim 
      Cang Bảo Bồ Tát: Vajraratna bodhisattva.
      
      4)      Kim 
      Cang Tạng Bồ Tát: Vajragarbha bodhisattva.
      
      5)      Kim 
      Cang Châm Bồ Tát: Vajrasuci bodhisattva.
      
      6)      Kim 
      Cang Tướng Bồ Tát: Vajrasena bodhisattva.
      
      7)      Kim 
      Cang Tác Bồ Tát: Vajrapasa bodhisattva.
      
      8)      Kim 
      Cang Câu Bồ Tát: Vajrankusa bodhisattva.
      
      9)      Kim 
      Cang Hương Bồ Tát: Vajradhupa bohisattva.
      
      10)  Kim Cang 
      Quang Bồ Tát: Vajratejah bodhisattva.
      
      11)  Kim Cang 
      Pháp Bồ Tát: Vajradharma bodhisattva.
      
      12)  Kim Cang 
      Lợi Bồ Tát: Vajratiksna bodhisattva. 
      
      Kim Cang Bộ: Vajrapani 
      (skt)—Nhóm Kim Cang trong Kim Cang Giới hay Thai Tạng Giới (các vị tôn tay 
      cầm chày Kim Cang nêu cao trí của Đức Như Lai, 13 vị tôn trong Kim Cang 
      Thủ bên trái của Đức Đại Nhật Như Lai) —Groups of the same in the 
      Vajradhatu or Garbhadhatu mandalas.
      
      Kim Cang Bộ Bồ Tát: 
      Vajrapani-bodhisattva (skt)—Kim Cang Bộ Tát Đỏa—Vị Bồ Tát trong Kim Cang 
      Bộ như Bồ tát Phổ Hiền—Vajrapani-bodhisattva, especially P’u-Hsien 
      (Samantabhadra). 
      
      Kim Cang Câu Vương: The Vajra 
      Hook King. 
      
      Kim Cang Châm: Vajrasena 
      (skt)—Kim kim cang—The straight vajra. 
      
      Kim Cang Chúng: Quyến thuộc của 
      chư Kim Cang Thần—The retinue of the Vajradevas.
      
      Kim Cang Chử: Chày Kim Cang rất 
      bén—The Vajra or thunderbolt. It is generally sharp as such, but has 
      various other forms.
      
      1)      Một 
      loại vũ khí của binh lính Ấn Độ: The Vajra is also interpreted as a weapon 
      of Indian soldier.
      
      2)      Mật 
      giáo và những tông phái khác dùng Kim Cang Chử như một biểu tượng của trí 
      tuệ và sức mạnh để chặt đứt phiền não và khắc phục ma chướng: It is 
      employed by the esoteric sects, and others, as a symbol of wisdom and 
      power over illusion and evil spirits.
      
      3)      Độc Cổ 
      Kim Cang Chữ: Khi thẳng thì Kim Cang Chử được gọi là “Độc Cổ”—When 
      straight as a sceptre it is one limbed vajra.
      
      4)      Tam Cổ 
      Kim Cang Chử: Khi có ba chia thì gọi là “tam cổ”—When it has three prongs, 
      it is called  “three-pronged” vajra. 
      
      5)      Ngũ Cổ 
      Kim Cang Chử: Khi có năm chia thì gọi là “ngũ cổ”—When it has five prongs, 
      it is called “five-pronged” vajra.
      
      6)      Cửu Cổ 
      Kim Cang Chử: Khi có chín chia thì gọi là “cửu cổ”—When it has nine 
      prongs, it is called “nine-pronged” vajra.
      
      Kim Cang Dạ Xoa: Vajrayaksa 
      (skt).
      
      1)      Vị 
      Thần Hộ Pháp thường được đặt ngay cổng của các chùa. Kim Cang Dạ Xoa hay 
      Phẫn nộ Minh Vương, là một trong năm vị Minh Vương, người hộ trì Phật 
      pháp, nhưng lại là kẻ thù của ma quỷ. Vị nầy có ba mặt sáu tay hay một mặt 
      bốn tay, trụ tại phương Bắc, là vị Phẫn Nộ Tôn Bất Không Thành Tựu Như Lai 
      ở phương Bắc trong ngũ trí Như Lai (ngũ Phật) của Kim Cang Giới—The 
      guardian spirits represented on the temple gates. One of the five kings of 
      hells or messengers and manifestation of Vairocana. The fierce maharaja as 
      an opponent of evil, he is one of the guardians of  Buddhism. He has 
      either three faces and six arms, or one face and four arms. He is a fierce 
      guardian of the north in the region of Amoghasiddhi in the Vajradhatu—See 
      Ngũ Phật.
      
      2)      Vị Bồ 
      Tát có răng nanh: A Bodhisattva with the fangs.  
      
      Kim Cang Diệt Định: Kim cang 
      diệt định là giai đoạn sau cùng của Bồ Tát với trí tuệ bất hoại—Diamond 
      meditation, the last stage of a bodhisattva, characterized by firm and 
      indestructible knowledge, penetrating all reality. 
      
      Kim Cang Dụ Định: 
      Vajra-meditation—See Kim Cang Định and Kim Cang Tam Muội.  
      
      Kim Cang Đài: Diamond Lotus.
      
      
      Kim Cang Đàm: Hỏa Viện—Giới 
      Ấn—Mật Phong Ấn—Vòng tròn lửa ngăn cấm sự xâm nhập của ma 
      quỷ—Diamond-blaze, acircle of fire to forbid the entry of evil spirits.
      ** For more information, 
      please see Hỏa Ấn, 
           Hỏa Giới, and Hỏa 
      Viện.
      
      Kim Cang Đảnh: 
      
      1)      Vương 
      miện Kim Cang: The vajra (diamond) apex or crown.
      
      2)      Tên 
      gọi chung các kinh của Mật Giáo: A general name of the esoteric doctrine 
      and sutras of Vairocana.  
      
      Kim Cang Đảnh Kinh: Kim Cang 
      Đảnh Kinh là kinh chính của Kim cang Đảnh Tông, một trong ba bộ kinh chính 
      của Chân Ngôn Giáo—Vajra-crown sutra, the authority for the Vajra-Crown 
      sect, one of the three main sutras of the Shingon.
      
      
      Kim Cang Định: Vajrasamadhi 
      (skt)—Kim Cang Dụ Định—Kim Cang Tam Muội—Thiền định của Bồ tát ở ngôi tối 
      hậu. Người tu hành và đắc phép thiền định nầy sẽ được trí bền vững, sắc 
      bén và bất hoại như kim cương, có thể cắt đứt tất cả phiền não và tà kiến 
      thiên lệch—Vajra-meditation—Samadhi as a state of great stability, that of 
      the last stage of the Bodhisattva, characterized by firm, indestructible 
      knowledge, penetrating all reality; attained after all remains of illusion 
      and wrong views have been cut off.
      ** For more information, 
      please see Kim Cang 
           Tam Muội. 
      
      Kim Cang Đoạn: Vajracchedika 
      (skt)—Cắt đứt Kim Cang, một đoạn văn ngắn trong Kinh Bát Nhã Ba La Mật 
      Đa—Diamond cutter, a short paragraph in the Perfection of Wisdom Sutra 
      (Prajnaparamita Sutra)—See Kinh Kim Cang in Appendix G. 
      
      Kim Cang Đồng Tử: Vajrakumara 
      (skt). 
      
      1)      Kim 
      Cang Sứ Giả của chư Phật và chư Bồ Tát: A Vajra-messenger of the Buddhas 
      or Bodhisattvas.
      
      2)      Hóa 
      thân của Đức Phật A Di Đà thành một đứa trẻ tay cầm kim cương chùy, mặt có 
      vẻ phẫn nộ: An incarnation of Amitabha in the form of a youth with fierce 
      looks holding a vajra. 
      
      Kim Cang Giới: Vajradhatu 
      (skt).
      
      ·       
      Kim Cang giới là một phần tử của vũ trụ; nó là TRÍ ĐỨC bất 
      hoại của Đức Tỳ Lô Giá Na; nó khởi lên từ trong Thai Tạng Giới—The Diamond 
      or Vajra realm, element of the universe; it is the wisdom of Vairocana in 
      its indestructibility and activity; it arises from the Garbhadhatu (the 
      womb of all things). 
      
      ·       
      Kim Cang Giới được diễn dịch là “Trí” giới—Vajradhatu is 
      interpreted as the realm of intellection.  
      
      ·       
      Kim cang giới tiêu biểu cho thế giới tâm linh của sự toàn 
      giác: The Vajradhatu represents the spiritual world of complete 
      enlightenment.
      
      ·       
      Mật Giáo coi Kim Cang Giới là Pháp Thân, trong khi Hiển Giáo 
      thì coi nó như là Hóa Thân: The esoteric Dharmakaya doctrine as contrasted 
      with the exoteric Nirnamakaya. 
      
      ·       
      Kimg Cang Giới là yếu tố thứ sáu của tâm, nó biểu hiệu bằng 
      một hình tam giác mũi chúi xuống và mặt trăng tròn tượng trưng cho trí tuệ 
      hay sự hiểu biết—It is the sixth element of “Conscious mind,” and is 
      symbolized by a triangle with the point downwards and by the full moon, 
      which represents “wisdom” or “understanding.”
      
      ·       
      Kim Cang Giới tương ứng với “quả.”—Vajradhatu corresponds to 
      fruit or effect.
      
      ·       
      Kim Cang giới là vũ trụ được nhìn như là sự thể hiện của Đức 
      Phật Tỳ Lô Giá Na mà hình ảnh của Ngài được phản chiếu trong tâm của mọi 
      chúng sanh: Vajradhatu is the universe viewed as the manifestation of 
      Vairocana Buddha whose image is reflected in the heart of every being. 
      
      
      Kim Cang Giới Ngũ Bộ: Five 
      divisions of the Vajradhatu represented by five Dhyani-Buddhas:
      
      1)      Trung 
      Đài Đại Nhựt Như Lai: Vairocana in the center.
      
      2)      Đông 
      Độ A Súc Bệ Phật: Aksobhya in the east.
      
      3)      Nam 
      Phương Bảo Sanh Phật: Ratnasambhava in the south.
      
      4)      Tây 
      Phương A Di Đà Phật: Amitabha in the west.
      
      5)      Bắc 
      Phương Bất Không Thành Tựu: Amoghasiddhi or Sakyamuni in the north.  
      **  For more information, 
      please see Ngũ Phật
      
      Kim Cang Giới Thai Tạng Giới: 
      Vajradhatu and Garbhadhatu (skt).
      
      (I)     Kim 
      Cang Giới: Vajradhatu (skt)—See Kim Cang Giới.
      
      (II)  Thai 
      Tạng Giới: Garbhadhatu (skt). 
      
      1)      Thai 
      Tạng Giới là kho chứa mọi lý luận của trí: Garbhadhatu is the womb or 
      store of the Vairocana reason or principles of the wisdom. 
      
      2)      Nơi 
      tồn chứa tất cả mọi LÝ LUẬN của Tỳ Lô Giá Na bất hoại trí—The womb or 
      store of the Vairocana reason or principles of the Vairocana’s 
      indestructible wisdom—The womb or store of all things.
      
      3)      Thai 
      Tạng Giới được diễn dịch như là chất liệu căn bản của Kim Cang 
      Giới—Garbhadhatu is interpreted as the substance underlying the Vajradhatu 
      (realm of intellection).
      
      4)      Thai 
      Tạng Giới tương ứng với nhân: Garbhadhatu corresponds to the cause.   
      
      Kim Cang Hộ Bồ Tát: Vị Bồ Tát 
      bảo hộ che chở cho con người với lòng đại bi như một chiếc nón sắt bao 
      bọc—The Bodhisattva Vajra pala, who protects men like a helmet and 
      surrounds them like mail by his great pity. 
      
      Kim Cang Huệ: Trí tuệ thấu rõ 
      lý của thực tướng mà phá vỡ chư tướng hay trí tuệ ảo giác—Diamond-wisdom, 
      which by its reality overcomes all illusory knowledge.  
      
      Kim Cang Khẩu: Lời nói hay giáo 
      thuyết xuất ra từ kim khẩu của Phật bền vững như kim cương bất 
      hoại—Diamond mouth (of a Buddha)—The diamond-like firmness of the Buddha 
      doctrine.
      
      Kim Cang Kinh: 
      Vajracchedika-prajnaparamita-sutra—Kim cang Năng Đoạn Bát Nhã Ba La Mật 
      Kinh, tóm lược cô đọng của Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, trước tiên được 
      dịch sang Hoa ngữ bởi ngài Cưu Ma La Thập, sau đó có nhiều bản dịch 
      khác—The Diamond Sutra, a condensation of the Prajnaparamita; first 
      translated into Chinese Kumarjiva, later by others.
      ** For more information, 
      please see Kinh Kim 
           Cang Bát Nhã Ba La 
      Mật Đa. 
      
      Kim Cang Linh: Chuông Kim Cang 
      có công dụng làm tăng sự chú tâm và phấn chấn người nghe—The diamond or 
      vajra bell for attracting the attention of the objects of worship, and 
      stimulating all who hear it. 
      
      Kim Cang Linh Bồ Tát: 
      Vajra-ghanta (skt)—Vị Bồ Tát tay cầm chuông trong Kim Cang Mạn Đồ La—A 
      Bodhisattva holding a bell in the Vajradhatu mandala.
      
      Kim Cang Luân: 
      
      1)      Kim 
      Cang Pháp Luân: Bánh xe Pháp Kim cang—The diamond or vajra wheel.
      
      2)      Kim 
      Cang Thừa: Vajrayana (skt)—Symbolical of the esoteric sects. 
      
      3)      Kim 
      luân của tầng đất thấp nhất: The lowest of the circles beneath the earth. 
      
      
      Kim Cang Luân Sơn: See Kim Cang 
      Vi Sơn. 
      
      Kim Cang Luân Tọa: See Đại Nhân 
      Đà La Tọa. 
      
      Kim Cang Lực: Sức mạnh như kim 
      cương, sức mạnh không ai chống nổi—Vajra-power—Irresistible strength. 
      
      Kim Cang Lực Sĩ: See Kim Cang 
      Thần, Kim Cang Dạ Xoa, and Kim Cang Mật Tích. 
      
      Kim Cang Mạn Đồ La: See Kim 
      Cang Giới, and Kim cang Giới Ngũ Bộ. 
      
      Kim Cang Mật Tích: Mật Tích Kim 
      Cang—Mật Tích Lực Sĩ—Kim Cang Lực Sĩ—Kim Cang Thủ—Chấp Kim Cang—Những vị 
      tay cầm chày kim cang thể hiện đại uy ủng hộ Phật pháp. Đức Đại Nhật Như 
      Lai lấy các vị Kim Cang Mật Tích nầy làm nội quyến; lấy các vị Phổ Hiền, 
      Văn Thù làm đại quyến hay ngoại quyến. Cũng như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni 
      lấy các vị Thanh Văn như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên…, làm nội quyến, lấy 
      các vị Bồ Tát làm đại quyến—The deva-guardians of the secrets of 
      Vairocana, his inner or personal group of guardians in contrast with the 
      outer or major group of P’u-Hsien, Manjusri, etc. Similarly, Sariputra, or 
      Maudgalyayana, the sravakas, etc., are the inner guardians of Sakyamuni, 
      the Bodhisattvas being the major group. 
      
      Kim Cang Môn: Cổng Kim Cang 
      trong Thai Tạng Mạn Đồ La—The diamond door of the Garbhadhatu mandala. 
      
      Kim Cang Ngữ Ngôn: See Kim Cang 
      Niệm Tụng. 
      
      Kim Cang Niệm Tụng: Kim cang 
      Ngữ Ngôn—Niệm thầm—Silent repetition.
      
      Kim Cang Phan: Vajraketu 
      (skt)—Cờ treo trên cột đầu rồng—A flag hung to a pole with a dragon’s 
      head. 
      
      Kim Cang Phan Bồ Tát: Vajraketu 
      Bodhisattva (skt)—Vị Bồ Tát cầm cờ, một trong 16 vị Bồ Tát trong nhóm Kim 
      Cang Giới—The flag-bearer, one of the sixteen in the Vajradhatu group. 
      
      Kim Cang Pháp Giới Cung: Cung 
      điện của Thai Tạng Giới, nơi trụ của Đức Đại Nhật Như Lai (kim cương là 
      thực tướng của Như Lai, pháp giới là trí thể của thực tướng. Pháp thân của 
      Đức Đại Nhật Như Lai trụ ở trí thể của thực tướng)—The palace or shrine of 
      Vairocana in the Garbhadhatu. 
      
      Kim Cang Phật: Vajra-buddha 
      (skt)—Đức Đại Nhật Như Lai, có lúc chỉ Đức Thích Ca Mâu Ni như là hóa thân 
      của chân lý, trí tuệ và thanh tịnh—Vairocana, the Sun-Buddha; sometimes 
      applied to Sakyamuni as embodiment of the Truth, of Wisdom, and of Purity.
      
      Kim Cang Phật Tử: Con của Kim 
      Cang Phật hay con của Đức Đại Nhật Như Lai, từ dùng để chỉ những người mới 
      được làm phép gia nhập vào Mật Giáo—Son of the Vajra-buddha, i.e. of 
      Vairocana, a term applied to those newly baptized into the esoteric sect.
      
      Kim Cang Quán: Phép Kim Cang 
      quán là phép quán xuyên qua chân lý—The diamond insight or vision which 
      penetrates into reality. 
      
      Kim Cang Quyền: Nắm tay Kim 
      Cang hay hai tay nắm lại và để ngay trước ngực (có bốn loại quyền: nắm tay 
      thông thường, để ngón cái nằm thẳng, đặt ngón cái vào lòng bàn tay, nắm 
      tay lại với nhau)—Vajra-fist—The hands doubled together on the breast.
      
      Kim Cang Quyền Bồ Tát: Một 
      trong những vị Bồ Tát trong nhóm Kim Cang—One of the Bodhisattvas in the 
      Diamond group. 
      
      Kim Cang Sát: Vajraksetra 
      (skt)—Tên gọi các chùa hay tự viện—Buddhist monastery or building. 
      
      Kim Cang Tác: Vajrapasa 
      (skt)—Dây thòng lọng kim cang trong tay của Bất Động Minh Vương—The 
      diamond lasso or noose in the hand of the subduer of demons 
      (Arya-achlanatha-raja) and others. 
      
      Kim Cang Tác Bồ Tát: Kim Cang 
      Tác Bồ Tát trong Kim cang Giới Mạn Đồ La, người mang lưới từ bi quấn lấy 
      tâm hồn của chúng sanh hữu tình—Vajrapasa-bodhisattva in the Vajradhatu 
      mandala, who carries the snare of compassion to bind the souls of the 
      living. 
      
      Kim Cang Tam Muội: 
      Vajravimbopama (skt)—Tam muội thông suốt các pháp giống như Phật tánh chân 
      như. Đây là loại tam muội cao nhất mà người tu Phật có thể đạt được. Nhờ 
      tam muội nầy mà người tu có thể đoạn diệt cái hình thức vi tế nhất của 
      phiền não—A samadhi on the idea that all things are of the same 
      Buddha-nature. This is the highest samadhi attainable by the Buddhist 
      yogin who by this destroys the subtlest form of the klesa. 
      ** For more information, 
      please see Kim Cang 
           Định.  
      
      Kim Cang Tạng: Vajragarbha 
      (skt). 
      
      1)      Kho 
      Tạng Kim Cang: The Diamond treasury. 
      
      2)      Vị Bồ 
      Tát trong Kinh Lăng Già: The Bodhisattva in the Lankavatara sutra.
      
      Kim Cang Tạng Bồ Tát: Vajra 
      Treasury Bodhisatva.
      
      Kim Cang Tạng Vương: 
      
      1)      Kiếp 
      kế tiếp của Kim cang Tạng Bồ Tát: A form of the next entry of the Vajra 
      Treasury Bodhisattva.
      
      2)      Đức 
      Phật Thích Ca Mâu Ni: Sakyamuni Buddha. 
      
      Kim Cang Tát Đỏa: 
      Vajrasattva-mahasattva (skt)—Kim Cang Thủ.
      
      1)      Bí Mật 
      Chủ Phổ Hiền, vị tổ thứ hai trong tám vị tổ Chân Ngôn, vị tổ thứ nhất là 
      Đức Đại Nhật Như Lai: A form of P’u-Hsien (Samantabhadra), reckoned as the 
      second of the eight patriarchs of the Shingon, Vairocana was the first.
      
      
      2)      Các vị 
      Chấp Kim Cang Thần, hay các vị Bồ Tát, đặc biệt chỉ ngài Kim Cang Nguyệt 
      Luân ở Đông độ của Kim Cang Mạn Đồ La: All vajra-beings, or 
      vajra-bodhisattvas; especially those in the moon circle in the east of the 
      Diamond mandala.
      
      3)      Ngài 
      Nhất Thiết Nghĩa Thành Tựu Bồ tát (tiền thân của Đức Phật Thích Ca): 
      Sakyamuni in a previous incarnation as a vajrasattva.
      
      4)      Tất cả 
      chúng hữu tình đều là “Kim cang Tát Đỏa” vì tất cả đều có Phật tính: All 
      beings are vajrasattva, because of their Buddha-nature. 
      
      5)      Tất cả 
      những người sơ cơ tín hành đều là Kim Cang tát Đỏa: All beginners in the 
      faith and practice are vajrasattva.
      
      6)      Tất cả 
      quyến thuộc của Ngài A Súc Bệ Phật đều là Kim Cang Tát Đỏa: All the 
      retinue of Aksobhya are vajrasattva.
      
      7)      Bất cứ 
      vị Đại Phổ Hiền (bất cứ ai thành tựu mười thệ nguyện lớn đều là trưởng tử 
      Như Lai, và đều được gọi là Phổ Hiền) nào cũng đều là Kim Cang Tát Đỏa: 
      Any Great P’u-Hsien is a vajrasattva.  
      
      Kim Cang Tâm: Cái tâm lớn của 
      Bồ Tát bền vững và bất hoại như kim cương—Diamond heart, that of a 
      bodhisattva, i.e. infrangible, unmoved by illusion.
      
      Kim Cang Tâm Điện: Bất Hoại Kim 
      Cang Quang Minh Tâm Điện hay Kim Cang Giới Mạn Đà La, nơi trụ của Phật Tỳ 
      Lô Giá Na—The shrine of the indestructible diamond-brillant heart—The 
      Vajradhatu (mandala) in which Vairocana dwells.
      
      Kim Cang Thân: Kiên Thân (thân 
      kiên cố)—Chân Thân (thân chân thật)—Thân kim cang bất hoại của Phật—Golden 
      body—The diamond body, the indestructible body of Buddha. 
      
      Kim Cang Thần: 
      
      1)      Vị 
      Thần hộ pháp  (bảo hộ chư Tăng)—The guardian spirits of the Buddhist 
      order. 
      
      2)      Tượng 
      hộ pháp lớn nơi cổng các tự viện: The large idols at the gate (entrance) 
      of Buddhist monasteries.
      **   For more information, 
      please see Kim  
             Cang Thủ, Kim Cang 
      Dạ Xoa, and Kim 
             Cang Mật Tích.  
      
      Kim Cang Thể: Thân thể bền vững 
      như kim cương, nói về công đức của Phật thân (thân của Như Lai là thể kim 
      cương. Mọi thứ ác đều đã cắt đứt, mọi điều vui sướng đều đã huân tập)—The 
      diamond body, that of Buddha and his merit. 
      
      Kim Cang Thiên: Vị Trời hộ pháp 
      trong nhóm Kim Cang Giới—The vajra-deva in the Vajradhatu group. 
      
      Kim Cang Thủ: Vajrapani (skt)—
      
      1)      Vị 
      Thần tay cầm Kim Cang Chùy: A holder (protector) of the vajra.
      
      2)      Hình 
      ảnh hay dấu hiệu Kim Cang Chùy: Any image or symbol of a Vajra. 
      **   For more information, 
      please see Đại 
             Thắng Kim Cang and 
      Kim Cang Mật Tích.
      
      Kim Cang Thủy: Nước Kim Cương, 
      tên một thứ nước mà người thọ giới phải uống khi làm nghi thức quán đảnh 
      trong Mật Giáo—Diamond or Vajra-water, drunk by a person who receives the 
      esoteric baptismal rite. 
      
      Kim Cang Thừa:Vajrayana 
      (skt)—Tên khác của tông phái Chân Ngôn, giáo pháp sắc bén như kim cương. 
      Kim Cang Thừa thường được gọi đơn giản là Phật Giáo Tây Tạng và nó được 
      chia ra làm bốn tông phái chính: Nyingmapa, Kagyupa, Sakyapa và 
      Gelugpa—The Diamond Vehicle, another name of the Shingon. The Vajrayana is 
      simply often called Tibetan Buddhism, and it is divided into four main 
      sects: Nyingmapa, Kagyupa, Sakyapa and Gelugpa.
      
      1)      
      Nyingmapa: Giáo phái Nyingmapa là giáo phái cổ nhất của Phật giáo Tây 
      Tạng, được ngài Liên Hoa Sinh hay Đạo sư Rinpoche sáng lập vào thế kỷ thứ 
      8 dưới triều vua Trisong Detsen: The Nyingmapa sect is the oldest Tibetan 
      Buddhism, founded by Padmasambhava or Guru Rinpoche in the 8th century 
      under the reign of King Trisong Detsen (742-797).
      
      2)      
      Kagyupa: Phái Kagyupa được thành lập bởi Marpa Chokyi Lodoe, một dịch giả 
      Tây Tạng nổi tiếng vào thế kỷ 11 và vị đại đệ tử của ngài là ngài Milarepa 
      vào thế kỷ thứ 12: The Kagyupa sect was founded by Marpa Chokyi Lodoe 
      (1012-1099), a famous Tibetan translator in the 11th century and his 
      outstanding disciple Milarepa (1040-1123) in the 12th century.
      
      3)      
      Sakyapa: Phái Sakyapa được vị dịch giả Tây Tạng là Drogmi Sakya Yeshe sáng 
      lập vào thế kỷ thứ 11: The Sakyapa sect was founded by the Tibetan 
      translator Drogmi Sakya Yeshe (992-1074) in the 11th century.
      
      4)      
      Gelugpa: Phái Gelugpa là phái trẻ nhất và đông nhất trong các phái Tây 
      Tạng, được ngài Tông Khách Ba hay Je Rinpoche sáng lập vào thế kỷ thứ 14: 
      The Gelugpa sect, the youngest and largest among the schools of Tibetan 
      Buddhism, was founded by Thongkhapa (1357-1419) or Je Rinpoche in the 14th 
      century.      
      
      Kim Cang Tọa: Vajrasana (skt).
      
      
      1)      Kim 
      Cang Tòa nơi Đức Phật ngồi khi đắc Chánh Đẳng Chánh 
      Giác—Bodhimanda—Buddha’s seat on attaining enlightenment—The Diamond 
      throne. 
      
      2)      Dáng 
      vẻ lúc ngồi: The posture or manner of sitting. 
      
      Kim Cang Trí: 
      1)    For more 
      information, please see Tự Giác 
             Thánh Trí. 
      3)      
      Kim Cang Trí Pháp Sư—Dharma Master Vajrabodhi:
      
      ·       
      Tên của một vị sư người Tây Ấn, đến         Trung Quốc vào 
      khoảng năm 619 sau Tây Lịch, dưới thời nhà Đường; người ta nói ông chính 
      là người đầu tiên giới thiệu Du Già Luận và là sơ tổ của Mật Tông tại 
      Trung Quốc, nhưng có thuyết lại cho rằng chính A Mục Khư Bạt Triết La mới 
      chính là Sơ Tổ Mật Tông Trung Quốc—Name of an Indian monk who came to 
      China around 619 A.D., during the T’ang dynasty; he is said to have 
      introduced the Yogacara system and founded the esoteric school, but this 
      is attributed to Amoghavajra.
      
      ·       
      Kim Cương Trí (Vajrabodhi 663-723): Ông là người Nam Ấn, học 
      đạo tại Na Lan Đà. Năm 15 tuổi ông sang Tây Ấn và học tập Nhân Minh Luận 
      trong bốn năm với Pháp Xứng (Dharmakirti), nhưng trở về Na Lan Đà để thọ 
      đại giới. Trong sáu năm, ông chuyên học Luật (Vinaya) và trung Quán Luận 
      (Madhyamika) với Santabodhi, ba năm kế đó ông nghiên cứu Du Già Luận 
      (Yogacara) của Vô Trước, Duy Thức Luận (Vijnaptimatra) của Thế Thân và 
      Biện Trung Biên Luận (Madhyanta-vibhanga) của An Huệ (Sthiramati) với 
      Jinabhadra tati Ca Tỳ La Vệ, vùng Bắc Ấn. Rồi bảy năm sau nghiên cứu Kim 
      Cang Đảnh (Vajra-sekhara) và các kinh Mật giáo khác với Long Trí 
      (Nagabodhi) ở Nam Ấn. Sau cùng, ông đáp thuyền theo đường Nam Hải đến Lạc 
      Dương vào năm 720. Ông dịch thuật nhiều kinh điển quan trọng  của Mật 
      giáo, như Kim Cang Đảnh, vân vân. Năm 741, trong lúc ở Trường An, ông được 
      phép trở về Ấn Độ nhưng mất trên đường về Lạc Dương: Vajrabodhi came from 
      South India, became a novice at Nalanda. At the age of fifteen he went to 
      West India and studied logic for four years under Dharmakirti, but came 
      again to Nalanda where he received full ordination at twenty. For six 
      years he devoted himself to the study of  Discipline (Vinaya) text and the 
      Middle Doctrine (Madhyamika) under Santabodhi; for three years he studied 
      the Yogacara by Asanga, the Vijnaptimatra by Vasubandhu and the 
      Madhyanta-vibhanga by Sthiramati under Jinabhadra, at Kapilavastu, North 
      India; and for seven years he studied the Diamond Head (Vajra-sekhara) and 
      other mystical texts under Nagabodhi, in South India. At last, he sailed 
      to the southern sea and reached Lo-Yang, China, in 720. He translated 
      several important mystical texts, such as the Vajra-sekhara. In 741, while 
      in Ch’ang-An, he obtained  permission to return to India, but on his way 
      he died in Lo-Yang.    
      
      Kim Cang Trí Tam Tạng: 
      Vajrabodhi (skt)—Bạt Viết La Bồ Đề—See Kim Cang Trí (2).
      
      Kim Cang Trượng: See Kim Cang 
      Chử. 
      
      Kim Cang Tuệ: Diamond 
      wisdom—See Kim Cang Huệ.
      
      Kim Cang Tử: Rudraksa (skt)—Hạt 
      kim cang để làm chuỗi—A seed similar to a peachstone used for beads. 
      ** For more information, 
      please see Ác Xoa, 
           and Ác Xoa Tụ.
      
      Kim Cang Tự: Tên của một ngôi 
      chùa tọa lạc trong ấp Bình Cang, xã Bình Thạnh, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long 
      An, Nam Việt Nam. Chùa Kim cang được dựng lên vào giữa thế kỷ thứ 17 và đã 
      được trùng tu nhiều lần. Trong chùa hiện còn bản Kinh Kim Cang bằng chữ 
      Hán được khắc trên gỗ—Name of a pagoda located in Bình Cang hamlet, Bình 
      Thạnh village, Thủ Thừa district, Long An province, South Vietnam. Kim 
      Cang Pagoda was built in the middle of the nineteenth century and has been 
      rebuilt many times. The copies of the Diamond Sutra in Chinese character, 
      engraved in wood, has still been kept in the pagoda.  
      
      Kim Cang Vi Sơn: 
      
      1)      Núi 
      Thiết Vi bao quanh thế giới: The concentric iron mountains about the 
      world.
      
      2)      Núi Tu 
      Di: The Sumeru.
      
      3)      Kim 
      Sơn, tên của một ngọn núi trong huyền thoại: Golden Mountain, name of a 
      fabulous mountain.  
      
      Kim Cang Viêm: See Hỏa Giới and 
      Hỏa Viện. 
      
      Kim Cang Vương: Cái thù thắng 
      (mạnh nhất và tốt nhất) của kim cang—The Vajra-king, i.e. the strongest, 
      or finest, e.g. a powerful bull.
      
      Kim Cang Vương Bảo Giác: Ngọc 
      Ma Ni nẩy nở trong Vô Thượng Giác, đức hiệu của Như Lai Chánh Giác—The 
      diamond royal-gem enlightenment, i.e. that of the Buddha. 
      
      Kim Cang Vương Bồ Tát: Một 
      trong 16 vị Bồ Tát trong Kim Cang Giới—The Diamond King Bodhisattva, one 
      of the sixteen bodhisattvas in the Diamond realm.
      
      Kim Chi Ngọc Diệp: Gold 
      branches and jade leaves—Noble.
      
      Kim Cốt: Xá lợi của Đức 
      Phật—Golden bons, i.e. Buddha’s relics. 
      
      Kim Cương: See Kim Cang. 
      
      Kim Đại Vương: Vị Thần bảo hộ 
      khách lữ hành, Thiên Thủ Quán Âm—Protector of travellers, shown in the 
      train of the 1,000-hand Kuan-Yin. 
      
      Kim Đề: Kanthaka-asvaraja 
      (skt)—Tên của con ngựa Kiến Trắc mà Đức Phật đã cỡi đi trong đêm xuất 
      gia—Name of the steed on which Sakyamuni left his home. 
      
      Kim Địa: Kim Điền—Tự viện Phật 
      giáo (do tích trưởng giả Tu Đạt lấy vàng mua Kỳ Viên)—A  Buddhist 
      monastery.
      
      Kim Địa Quốc: Suvarnabhumi 
      (skt)—Một nước về phía nam thành Hoa Tử, vua A Dục đã gửi đoàn truyền giáo 
      Phật giáo đến hoằng pháp tại đây—A country south of Sravasti, to which 
      Akosa sent missionaries. 
      
      Kim Gia: Trường phái mà mình 
      đang theo—The present school—My school or sect.
      
      Kim Hà: See Kim Sa Hà. 
      
      Kim Kê: Gà vàng và hạt thóc 
      trong miệng. Đem gà vàng ví với lời sấm của Tổ Bồ Đề Đạt Ma—The golden 
      cock or fowl, with a grain of millet in its beak, a name for Bodhidharma.
      
      
      Kim Khẩu: The golden mouth of 
      the Buddha.
      
      Kim Khẩu Quỷ: Châm khẩu quỷ—Quỷ 
      có cổ nhỏ như cây kim—Needle-mouth ghosts, with mouth so small that they 
      cannot satisfy their hunger or thurst. 
      
      Kim Khu: See Kim Thân. 
      
      Kim Lai: The present and the 
      future. 
      
      Kim Lan Cà Sa: See Kim Lan Y.
      
      
      Kim Lan Y: Kim Sắc Y—Kim Lan Cà 
      Sa—Áo cà sa dệt bằng sợi vàng—A kasaya or robe embroidered with gold; a 
      golden robe.
      
      Kim Liên:
      
      1)      Hoa 
      sen vàng:  Golden lotus bloom.
      
      2)      Tên 
      của một ngôi chùa cổ, tọa lạc trong làng Nghi Tàm, xã Quảng An, huyện Từ 
      Liên, Hà Nội, Bắc Việt Nam. Nguyên xưa là chùa Đống Long, dựng từ thời nhà 
      Trần (1225-1413) trên một nền nhà cũ, nơi công chúa Từ Hoa, con gái vua Lý 
      Thần Tông ra đời. Về sau chỗ nầy lập trại trồng dâu nuôi tằm nên gọi là 
      làng Nghi Tàm. Năm 1639, chùa được tu sử lại, gọi là chùa Đại Bi, đến năm 
      Lê Cảnh Hưng thứ 32 (1771), lại được trùng tu, và chùa được mang tên Kim 
      Liên từ đó. Vào năm 1792, chùa lại được trùng tu và nhiều lần về sau nầy 
      nữa. Chùa hiện nay được coi như là di sản kiến trúc thời Tây Sơn. Cổng tam 
      quan của chùa có kiến trúc gỗ độc đáo, đượm dáng vẻ cung đình. Nổi bậc còn 
      có những bức chạm trỗ hình rồng và hoa nổi trên mặt gỗ hết sức tinh xảo: 
      Name of an ancient temple, located in Nghi Tàm hamlet, Quảng An village, 
      Từ Liêm disrict, Hanoi, North Vietnam. Its old name was Đống Long Temple, 
      built in the Trần dynasty (1225-1413) on an old floor of a house where 
      Princess Từ Hoa, King Lý Thần Tông’s daughter, was born. The house was 
      once turned into a plantation for growing mulberry and silk worms. This is 
      why the village is called Nghi Tàm. In 1639, the temple was repaired  and 
      renamed Đại Bi. In the thirty-second Lê Cảnh Hưng year (1771), it was 
      rebuilt again, and given the present name, Kim Lien Temple. In 1792, it 
      was restored on the larger scale and has been resconstructed many times. 
      At present, Kim Liên Temple is an architectural artistic vestige of the 
      Tây Sơn dynasty. The three-entrance gate is of distinctive wooden 
      structure styled Vietnamese royal palace. Distinguished from the 
      three-entrance structure are the skillfully carved wooden bas-reliefs 
      representing the image of flowers and dragons.   
      
      Kim Liên Tịch Truyền: Zen 
      Master Kim Liên Tịch Truyền (1745-1816)—Thiền sư Kim Liên, người Việt Nam, 
      quê ở Thượng Phước, Bắc Việt. Ngài xuất gia từ thuở bé tại chùa Vân Trai. 
      Sau dó ngài đến chùa Liên Tông và trở thành đệ tử của ngài Từ Phong Hải 
      Quýnh. Hầu hết cuộc đời ngài hoằng pháp tại miền Bắc Việt Nam. Ngài thị 
      tịch năm 1816, thọ 70 tuổi—A Vietnamese Zen master from Thượng Phước, 
      North Vietnam. He left home and stayed at Vân Trai Temple when he was very 
      young. Later he went to Liên Tông Temple and became a disciple of Zen 
      Master Từ Phong Hải Quýnh. He spent most of his life to expand the Buddha 
      Dharma in North Vietnam. He passed away in 1816, at the age of 70. 
      
      Kim Luân: 
      
      1)      Nơi 
      thấp nhất của thế giới là phong luân; phong luân dựa vào hư không (bề dầy 
      là 16 ức do tuần, bền vững như kim cương). Trên phong luân có thủy luân 
      (sâu 8 ức do tuần). Trên thủy luân có kim luân (dầy 3 ức 2 vạn do tuần do 
      có hình bánh xe nên gọi là kim luân). Trên kim luân là địa luân (gồm 9 núi 
      8 biển)—The metal circle on which the earth rests, above the water circle 
      which is above the wind or air circle which rests on space. 
      
      2)      Kim 
      Luân là một trong bảy báu vật của Chuyển Luân Thánh Vương—The cakra or 
      wheel or disc, emblem of sovereignty, one of the seven precious 
      possessions of a Cakra-King—See Tứ Luân (D).  
      
      Kim Luân Phật Đảnh: See Đại 
      Thắng Kim Cang. 
      
      Kim Luân Phật Đảnh Tôn: Đại Xí 
      Thạnh Quang—The Great Blazing Perfect Light. 
      
      Kim Luân Vương: A Golden-wheel 
      (cakra) king—See Tứ Luân (D).
      
      Kim Mao Quỷ: Ghosts with needle 
      hair, distressing to themselves and others. 
      
      Kim Mao Sư Tử: 
      
      1)      Sư tử 
      lông vàng mà ngài Văn Thù Sư Lợi cỡi—The lion with golden hair on which 
      Manjusri rides. 
      
      2)      Sư Tử 
      lông vàng cũng là tiền thân của Đức Phật: A previous incarnation of the 
      Buddha.  
      
      Kim Môn: Golden door (gate).
      
      
      Kim Ngân: Gold and silver.  
      
      Kim Ngọc: Gold and jade. 
      
      Kim Ngôn: Lời vàng của 
      Phật—Golden words, i.e. those of Buddha. 
      
      Kim Nhân: Tượng Phật bằng kim 
      loại hay bằng vàng—A image of Buddha of metal or gold. 
      
      Kim Ô: The sun. 
      
      Kim Phật: See Kim Nhân.  
      
      Kim Quang: Golden light.
      
      Kim Quang Đồng Tử: Kim Quang 
      Minh Cổ—Người trẻ tuổi dòng Thích Ca trong thành Ca Tỳ La Vệ, có thân hình 
      đẹp đẽ như ánh kim quang, xuất gia và gia nhập Tăng đoàn của Đức 
      Phật—Golden Light Drum—A youth of the Sakya tribe in Kapilavastu, who had 
      a beautiful golden light body, left home and joined the Order. 
      
      Kim Quang Minh: Ánh sáng vàng 
      chói sáng—The golden light. 
      
      Kim Quang Minh Kinh: 
      Suvarna-prabhasa-uttamaraja (skt)—Kim Quang Minh Kinh được dịch sang Hoa 
      ngữ vào thế kỷ thứ sáu và hai bản dịch khác về sau nầy (có 3 bản dịch: Đàm 
      Vô Sám đời Bắc Lương, Nghĩa Tịnh đời Đường, Thiên Thai Trí Giả). Kinh được 
      sơ tổ tông Thiên Thai là ngài Trí Giả dịch và dùng cho tông phái 
      mình—Golden Light Sutra, translated in the sixth century and twice later, 
      used by the founder of T’ien-T’ai.
      
      Kim Quang Minh Nữ: Phu nhân của 
      Kim Quang Đồng Tử—Wife of Golden Light Drum—See Kim Quang Đồng Tử. 
      
      Kim Quang Phật Sát: Cảnh giới 
      thấp nhất của Phật Giới—The lowest of the Buddha-ksetra. 
      
      Kim Quang Tự: Tên của một ngôi 
      chùa cổ ở Huế, Trung Việt. Kim Quang ban đầu có tên là Tường Quang, là một 
      ngôi chùa  do dì của Vua Thành Thái là bà Nguyễn Thị Lựu xây dựng năm 
      1871. Bốn năm sau khi lên ngôi, vua Thành Thái  đã sắc tứ biển ngạch đổi 
      tên là Kim Quang Tự, và cấp tiền để phụng thờ tiên tổ. Hoàng Thái Hậu Từ 
      Minh, thân mẫu của vua Thành Thái ban tiền để thếp vàng tượng Phật và mở 
      rộng nhà Tăng cũng như hậu liêu. Sau cơn bão lịch sử năm 1904, chùa bị hư 
      hại nặng, nên nhà vua cấp tiền trùng tu, qui mô chùa lại một lần nữa đổi 
      mới. Năm 1962, sư Bích Phong chùa Qui Thiện đôn đốc trùng tu. Năm 1963 sư 
      Toàn Lạc xây cổng tam quan, trùng tu bình phong, làm cho cảnh chùa trở nên 
      uy nghi hơn. Chùa Kim Quang gắn liền với họ ngoại của vua Thành Thái. Ảnh 
      của hai vị vua Thành Thái và Duy Tân đã được thờ trên án thờ phía sau 
      chùa. Chùa Kim Quang là nơi lưu niệm của hai vì vua yêu nước—Name of an 
      ancient temple in Huế, Central Vietnam. The temple’s original name was 
      Tường Quang. It was built in 1871 by one of king Thành Thái’s aunts, Mrs. 
      Nguyễn Thị Lựu.  In 1892, four years after he came to the throne, king 
      Thành Thái officially recognized the temple and renamed it Kim Quang, and 
      allotted land for the use of the temple to keep up worship services. The 
      Từ Minh, the king’s mother, granted money for the statues to be gilted and 
      the staff house as well as the house enlarged. After the historic storm in 
      1904, the temple was badly damaged, so the king granted money for an 
      overall reconstruction. The structure of the temple once more changed for 
      the better. In 1962, Venerable Bich Phong from Qui Thiện  temple 
      supervised the reconstruction of the temple. In 1963, Venerable Toàn Lạc 
      built the three-entrance gate, restored the screen wall, giving the temple 
      a more impressive appearance. Kim Quang temple was closely linked with the 
      maternal family of king Thành Thái. Portraits of king Thành Thái and king 
      Duy Tân were positioned on the altar in the back room of the temple. Kim 
      Quang temple is also a souvenir to the above two patriotic kings.      
      
      Kim Quy: Con rùa vàng mà cả thế 
      giới phải tựa vào—The golden tortoise on which the world rests.
      ** For more information, 
      please see Kim 
           Luân.  
      
      Kim Sa: Cát vàng—Golden sand.
      
      Kim Sa Hà: Một dòng sông tưởng 
      tượng ở Niết Bàn—An imaginary river in the Nirvana.  
      
      Kim Sát: 
      
      1)      Kim 
      Tháp: A golden pagoda.
      
      2)      Cửu 
      Kim Luân đặt trên đỉnh tháp: The nine golden circles on top of a pagoda.
      
      Kim Sắc: Có màu vàng—Golden 
      coloured. 
      
      Kim Sắc Ca Diếp: Tên của Ngài 
      Đại Ca Diếp. Ngài có tên Kim Sắc Ca Diếp do bởi tương truyền ngài nuốt ánh 
      sáng, nên thân tỏa ra kim sắc—Name of Mahakasyapa, as he is said to have 
      swallowed light, hence his golden hue. 
      
      Kim Sắc Khổng Tước Vương: Vị 
      Thiên Thần hỗ trợ người tu hành, là quyến thuộc của Thiên Thủ Quán Âm—The 
      golden-hued peacock king, protector of travellers, in the retinue of the 
      1,000-hand Kuan-Yin.
      
      Kim Sắc Nữ: Công chúa Kim Sắc 
      Nữ, người mà người ta nói rằng đã ưng chịu Thái Tử Tất Đạt Đa vì màu da 
      của Ngài giống màu da “kim sắc” của bà—The princess of Varanasi, who is 
      said to have ben offered in marriage to Sakyamuni because he was of the 
      same colour as herself.
      
      Kim Sắc Thế Giới: Cõi trời Kim 
      Sắc hay cõi Tịnh Độ của ngài Văn Thù Sư Lợi—The golden coloured heaven of 
      Manjusri.  
      
      Kim Sắc Vương: Tiền thân của 
      Đức Phật Thích Ca Mâu Ni—A previous incarnation of the Buddha. 
      
      Kim Sắc Y: See Kim Lan Y. 
      
      Kim Sơn: 
      
      1)      Núi 
      Thiết Vi hay Tu Di: Metal or golden mountain or Sumeru.
      
      2)      Thân 
      Phật: The Buddha’s body. 
      ** For more information, 
      please see Thất Kim 
           Sơn.
      
      3)      Tên 
      một ngôi chùa cổ ở Huế, Trung Việt. Kim Sơn trước đây tên là Bửu Sơn, rồi 
      Ngọc Sơn. Không ai biết chùa được xây dựng từ đời nào, nhưng hiện nay tại 
      sân Bảo Tàng Cổ Vật Huế vẫn còn một tấm bia đá chùa Bửu Sơn đề năm 1667. 
      Năm 1904, cơn bão lớn đã làm cho chùa sụp đổ. Qua năm 1908, vua Duy Tân 
      cho đem tượng Phật và pháp khí về chùa Thiên Mụ. Trên nền cũ chỉ dựng lại 
      một nhà từ đường để thờ những vị Tăng quá cố. Vào khoảng cuối thập niên 
      1970s, chùa được tái thiết, vẫn tọa lạc trên ngọn đồi tròn thuộc làng Bảo 
      Hựu, cuối một dãy đồi thấp về phía tây của Huế—Name of an ancient temple 
      in Huế, Central Vietnam. The temple was first named Bửu Sơn, then Ngọc 
      Sơn. No one knows when the temple was built; however, there is still a 
      stele of the temple positioned in the yard of the Museum of Historic 
      Antiques of Huế which dated 1667.  In 1904, a big storm badly damaged the 
      temple. In 1908, king Duy Tân ordered to dismantle the temple and to 
      transfer Buddha statues  and ritual instruments to Thiên Mụ temple. On the 
      old side, only a worhsip house was built for the worship of the dead 
      monks. In the 1970s, the temple was rebuilt on the the round hill at Bảo 
      Hựu village, at one end of a range of low hills west of Huế.  
      
      Kim Sơn Vương: Phật, đặc biệt 
      là Phật A Di Đà—Buddha, especially Amitabha. 
      
      Kim Tạng: Kim Tạng là tạng chứa 
      châu báu vàng bạc, như là Phật tánh trong mỗi chúng sanh—Golden treasury, 
      i.e. the Buddha-natue in all the living. 
      
      Kim Tạng Vân: Khi Hiền Kiếp mới 
      hình thành, giữa bầu trời Quang Âm đầy mây kim sắc (sắc vàng), mang lại 
      trận mưa đầu tiên—The first golden treasury cloud when a new world is 
      completed, arising in the abhasvara heaven and bringing the first rain.
      
      
      Kim Thai: See Kim Cang Giới 
      Thai Tạng Giới. 
      
      Kim Thân: Thân Kim Sắc của Đức 
      Phật—The golden body or person, that of Buddha—The whole body of the 
      Buddha.
      
      Kim Thóc Như Lai: 
      
      1)      Kim 
      Thóc Như Lai: Hạt thóc vàng Như Lai—The golden grain Tathagata.
      
      2)      Danh 
      hiệu của Duy Ma Cật trong một tiền kiếp:  A title of Vimalakirti in a 
      previous incarnation. 
      
      Kim Thời: Present time. 
      
      Kim Thủy: Nước vàng, ám chỉ trí 
      tuệ—Golden water, i.e. wisdom. 
      
      Kim Tiên: 
      
      1)      Thần 
      Tiên: Golden rsi or immortal.
      
      2)      Người 
      tu Tiên (đạo Lão): Taoist genii.
      
      3)      Tiếng 
      tôn xưng để gọi Đức Phật: A venerable term for Buddha.  
      
      4)      Tên 
      của một ngôi chùa cổ ở Huế, Trung Việt. Tuy không phải là tổ đình của một 
      hệ phái nào nhưng chùa Kim Tiên là một ngôi chùa được xây dựng rất sớm ở 
      Huế. Hòa Thượng Bích Phong là vị sư đầu tiên trùng tu chùa Kim Tiên vào 
      khoảng thế kỷ 17. Sau đó chùa trở thành phế tích, chỉ còn là một mái thảo 
      am. Đến khoảng giữa triều Gia Long, Hòa Thượng Đức Hóa tái thiết lại mái 
      thảo am. Mấy mươi năm sau, dưới triều Tự Đức, chùa được Hòa Thượng Thánh 
      Thông Nhất Trí, một Tăng Cang của triều đình tại chùa Thiên Mụ trùng tu 
      chùa trên qui mô rộng lớn hơn, và giao cho Hòa Thượng Tâm Chính Hải Từ trụ 
      trì. Năm 1888, Hòa Thượng Hải Từ với sự trợ giúp của Hòa Thượng Diệu Giác 
      đã tái thiết ngôi chùa lần nữa. Năm 1930, chùa được Hòa Thượng Thanh Đức 
      Tâm Khoan, Tăng Cang chùa Diệu Đế trùng tu lần nữa. Sau đó Hòa Thượng Hưng 
      Mãn Trừng Gia trùng tu lại chánh điện, tái thiết phương trượng, xây dựng 
      lại Tăng xá, hậu liêu. Ngày nay, dù chùa đã trải qua nhiều cuộc trùng tu 
      nhưng vẫn giữ được nét kiến trúc cổ kính—Name od an old temple in Huế, 
      Central Vietnam. Though it is not a temple that has relations with a 
      certain venerable patriarch of a Buddhist sect, Kim Tiên was one of the 
      oldest temples in Huế. Most Venerable Bích Phong  was the first monk who 
      rebuilt the temple in the seventeenth century. Sometime later, the temple 
      became a ruin, only a thatched small temple survived. In the middle of 
      King Gia Long'’ reign, Most Venerable Đức Hóa Đạo Thành rehabilitated the 
      thatched temple in a small structure. Several decades later, during the 
      reign of king Tự Đức, the temple was rebuilt on a larger scale by Most 
      Venerable Tánh Thông Nhất Trí, who was a royal-recognized monk of Thiên Mụ 
      Temple. In 1888, with the help of Most Venerable Diệu Giác, Most venerable 
      Tâm Chính Hải Từ rebuilt the temple again. In 1930, Most Venerable Thanh 
      Đức Tâm Khoan, a royal-recognized monk from Diệu Đế temple rebuilt the 
      temple again. Though it has been rebuilt so many times, it still maintains 
      its ancient architectural style.   
      
      Kim Tinh: 
      
      1)      Sukra 
      (skt)—The planet Venus. 
      
      2)      Tóc 
      của Phật: The Buddha’s hair.  
      
      Kim Trượng: Đức Phật lấy cây 
      gậy và mảnh áo xé (thụ ký việc chia thành 18 bộ Tiểu Thừa trong giấc mơ 
      của vua Tần Bà Sa La thấy một chiếc áo bị xé làm 18 mảnh, một cây gậy vàng 
      gẫy thành 18 đoạn. Ông lo sợ bèn hỏi Đức Phật. Đức Phật nói: “Sau khi ta 
      diệt độ hơn 100 năm sẽ có vị vua tên A Dục uy danh lẫy lừng. Lúc ấy về 
      Luật thì chia làm 18 môn phái khác nhau, nhưng cứu cánh vẫn là tu giải 
      thoát)—The golden staff broken into eighteen pieces and the skirt 
      similarly torn, seen in a dream by king Bimbisara (eighteen divisions of 
      Hinayana as in a dream of King Bimbisara).
      
      Kim Tự Tháp: Pyramid. 
      
      Kim Tỳ La: Kumbhira (skt)—Kim 
      Ba La-Cấm Tỳ La. 
      
      1)      Cá 
      Sấu—A crocodile—Alligator.
      
      2)      Vua Dạ 
      Xoa, quy-y và trở thành vị hộ pháp: A Yaksa-king, who was converted and 
      became a guardian of Buddhism.  
      
      Kim Tỳ La Đà Ca Tỳ La: Kampilla 
      (skt)—Kim Tỳ La Thần—Kim Tỳ La Đại Tướng.
      
      1)      Quyến 
      thuộc của Thiên Thủ Quán Âm: The retinue of 1,000-hand Kuan-Yin.
      
      2)      Kim Tỳ 
      La Tỳ Kheo: Một vị sư Ấn Độ: An Indian monk. 
      
      Kim Văn: Modern literature. 
      
      Kim Viên: Thuật ngữ mà tông 
      Thiên Thai dùng để chỉ “viên giáo” của Pháp Hoa, so với Tích Viên trước 
      đó—A T’ien-T’ai term indicating the “perfect” teaching, that of the Lotus, 
      as compared with the old “perfect” teaching which preceded it.  
      
      Kim Xí Điểu Vương: Garuda-raja 
      (skt)—Ca Lâu La Vương.
      
      1)      Vua 
      của loài chim Kim Xí (Loài chim thù thắng nhất trong các loài chim Kim 
      Xí), bạn đồng hành của thần Visnu—The king of birds, with golden wings, 
      companion of Visnu.
      
      2)      Kim Xí 
      Điểu Vương còn được dùng để ví với các bậc đại nhân, trong khi tiểu nhân 
      được ví với loài quạ: Garuda-raja or king of birds are used to compare 
      with the great people, while the crow are used to compare with the wicked 
      people.
      
      3)      Kim Xí 
      Điểu Vương còn để chỉ Đức Phật: The king of birds is a symbol of the 
      Buddha.    
      
      Kín: Secret. 
      
      Kinh: 
      
      1)      Gai: 
      Thorns.
      
      2)      Sutras 
      (skt)—Sutta (p)—Prayer book—Nghĩa đen của tiếng Phạn là “sợi chỉ xâu các 
      hạt châu.” Kinh là Thánh Thư của Phật giáo, tức là những cuộc đối thoại có 
      định hướng, những bài thuyết pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni. Người ta nói 
      có hơn vạn quyển, nhưng chỉ một phần nhỏ được dịch ra Anh ngữ. Các kinh 
      Tiểu Thừa được ghi lại bằng tiếng Pali hay Nam Phạn, và các kinh Đại Thừa 
      được ghi lại bằng tiếng Sanskrit hay Bắc Phạn. Đa số các tông phái Phật 
      giáo được sáng lập theo một kinh riêng từ đó họ rút ra uy lực cho tông 
      phái mình. Phái Thiên Thai và Pháp Hoa (Nhật Liên Tông ở Nhật—Nichiren in 
      Japan) thì dùng Kinh Pháp Hoa; Tông Hoa Nghiêm thì dùng Kinh Hoa Nghiêm. 
      Tuy nhiên, Thiền Tông không liên hệ với kinh nào cả, điều nầy cho phép các 
      thiền sư tự do sử dụng các kinh tùy ý khi các thầy thấy thích hợp, hoặc có 
      khi các thầy không dùng bộ kinh nào cả. Có một câu quen thuộc trong nhà 
      Thiền là “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền,” nghĩa là không theo 
      ngôn ngữ văn tự, giáo lý biệt truyền ngoài kinh điển.  Điều nầy chỉ có 
      nghĩa là với Thiền Tông, chân lý phải được lãnh hội trực tiếp và không 
      theo uy thế của bất cứ thứ gì ngay cả uy thế của kinh điển—Literally sutra 
      means a thread on which jewles are strung. The sutras are Buddhist 
      scriptures, that is, the purported dialogues and sermons of sakyamuni 
      Buddha. There are said to be over ten thousand, only a fraction of which 
      have been translated into English. The so-called Hinayana were originally 
      recorded in Pali, the Mahayana in Sanskrit. Most Buddhist sects are 
      founded upon one particular sutra from which they derive their authority. 
      The T’ien-T’ai and Lotus Sects from the Lotus sutra; the Hua-yen from the 
      Avatamsaka Sutra. The Zen sects, however, is associated with no sutra, and 
      this gives Zen masters freedom to use the scriptures as and when they see 
      fit or to ignore them entirely. There is a  familiar statement that Zen is 
      a special transmission outside the scriptures, with no dependence upon 
      words and letters. This only means that for the Zen sect, truth must be 
      directly grasped and not taken on the authoriry of any thing, even the 
      sutras.     
      
      Kinh A Di Đà: Sukhavati Vyuha 
      Sutra—Một trong ba bộ kinh chủ yếu của trường phái Tịnh Độ. Kinh được Ngài 
      Cưu Ma La Thập dịch sang Hán tự—Sutra of Amitabha—Short form of Amitabha 
      Sutra. One of the three basic sutras of the Pure Land sect. It was 
      translated into Chinese by Kumarajiva. This is the short form of Amitabha 
      Sutra. 
      ** See Kinh A Di Đà trong phần Appendix A. 
      
      Kinh A Di Đà Bổn Nguyện: Longer 
      Sukhavativyuha Sutra—Longer Amitabha Sutra—See Tây Phương Cực Lạc và Kinh 
      A Di Đà. 
      
      Kinh A Di Đà Tiểu Bổn: 
      Sukhavati-vyuha (skt)—Kinh A Di Đà Tiểu Bổn là một bản toát yếu hay trích 
      yếu của Đại phẩm Đại Vô Lượng Thọ Kinh (Sukhavati-Vyuha). Bộ chót trong số 
      ba kinh, Quán Vô Lượng Thọ Kinh (Amitayr-dhyana-sutra) cho chúng ta biết 
      nguyên lai của giáo lý Tịnh Độ do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết. Nguyên 
      do Đức Phật thuyết  Kinh A Di Đà là khi thái tử A Xà Thế nổi loạn chống 
      lại vua cha là Tần Bà Sa La và hạ ngục nhà vua nầy. Hoàng hậu Vi Đề Ha 
      cũng bị giam vào một nơi. Sau đó Hoàng Hậu thỉnh Đức Phật  chỉ cho bà một 
      chỗ tốt đẹp hơn, nơi không có những tai biến xãy ra như vậy. Đức Thế Tôn 
      liền hiện thân trước mặt bà và thị hiện cho thấy tất cả các Phật độ, và bà 
      chọn quốc độ của Đức Phật A Di Đà coi như là tối hảo. Phật bèn dạy bà cách 
      tụng niệm về quốc độ nầy để sau cùng được thác sanh vào đó. Ngài dạy bà 
      bằng giáo pháp riêng của Ngài, và đồng thời giảng giáo pháp của Phật A Di 
      Đà. Đức Phật đã căn dặn ngài A Nan như sau: “Này A Nan! Hãy ghi nhớ bài 
      thuyết pháp nầy và lặp lại cho đại chúng ở Kỳ Xà Quật nghe. Thuyết giáo 
      nầy, ta gọi đấy là Kinh A Di Đà.” Đối tượng của bài thuyết pháp nầy của 
      Phật là sự tôn thờ Phật A Di Đà, và từ đó chúng ta cũng thấy rằng giáo 
      thuyết của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cuối cùng cũng không khác với giáo 
      thuyết của Phật A Di Đà. Kinh A Di Đà Tiểu Bổn là giáo tụng chính yếu của 
      tông Tịnh Độ. Theo Tịnh Độ tông, việc chuyên tâm niệm Phật là cần thiết để 
      đào sâu đức tin, vì nếu không có đức tin nầy thì không bao giờ có sự cứu 
      độ trọn vẹn—The smaller text of Sukhavati-vyuha is a résumé or abridged 
      text of the larger one. The last of the three texts, the Amitayur-dhyana 
      Sutra, tells us the origin of the Pure Land doctrine taught by Sakyamuni 
      Buddha. The reason for the Buddha to preach this sutra was from the 
      following story, Ajatasatru, the prince heir-apparent of Rajagriha, 
      revolted against his father, King Bimbisara, and imprisoned him. His 
      consort, Vaidehi, toow was confined to a room. Thereupon the Queen asked 
      the Buddha to show her a better place where no such calamities could be 
      encountered. The World-Honored One  appeared before her and showed all the 
      Buddha lands and she chose the Land of Amitabha as the best of all. The 
      Buddha then taught her how to meditate upon it and finally to be admitted 
      there. He instructed her by his own way of teaching and at the same time 
      by the special teaching of Amitabha. That both teachings were one in the 
      end could be seen from the words he spoke to Ananda at the conclusion of 
      his sermons. “Oh Ananda! Remember this sermon and rehearse it to the 
      assembly on the Vulture Peak. By this sermon, I mean the name of 
      Amitabha." ” From this we can see that the object of the sermon was the 
      adoration of Amitabha. Thus, we see that Sakyamuni Buddha’s teaching was 
      after all not different from that of Amitabha. The smaller Sakhavati-vyuha 
      is the main text for reciting of the Pure Land Sect. With the Pure Land, 
      the devotional repetition of the Buddha's name is a necessary action of 
      the pious to deepen the faith, without which salvation will never be 
      complete. 
      ** For more information, 
      please see Kinh A Di 
           Đà in Appendix A.  
      
      
      Kinh A Dục Vương: Asokaraja 
      Sutra (skt)—Kinh nói về vua A Dục, vị vua thứ ba của triều đại Mauryan của 
      xứ Ma Kiệt Đà, thuộc Trung Ấn. Một quân vương Phật tử đã cải từ  Ấn giáo 
      sang đạo Phật sau cuộc trường chinh—The sutra written about the life of 
      King Asoka, a Buddhist ruler and the third king of the Maurya Dynasty of 
      Magadha, in central India. He converted from Hinduism to Buddhism after a 
      long period of war and conquest.      
      
      Kinh A Hàm: Agamas (for 
      Hinayana).
      
      Kinh Bát Châu Tam Muội: 
      Pratyutpannabuddhasammukha-Vasthitasamadhi-Sutra—Kinh nói về trạng thái 
      tâm linh được dùng để quán tưởng các vị Phật hay quán chư Phật hiện tiền 
      Tam muội. Kinh được Ngài Chi Lô Ca Sám dịch sanh Hán tự—The sutra shows 
      ways of contemplations of any Buddhas. The sutra was translated into 
      Chinese by Lokaksema.  
      
      Kinh Bát Đại Nhân Giác: Sutra 
      on the Eight Awakenings of Great People. 
      
      (A)  Lịch sử 
      và công năng của Kinh Bát Đại Nhân Giác—History and usage of the Sutra on 
      the Eight Awakenings of Great People:
      
      a)      Sa môn 
      An Thế Cao, người Parthia, dịch từ Phạn sang Hán vào khoảng năm 150 sau 
      Tây Lịch (đời Hậu Hán) tại Trung Tâm Phật Giáo Lạc Dương . Hòa Thượng 
      Thích Thanh Từ dịch từ Hán sang Việt vào khoảng thập niên 70s. Nguyên văn 
      bản kinh bằng Phạn ngữ không biết còn lưu truyền tới ngày nay hay không. 
      Kinh nầy thích hợp với cả hai truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy và Đại 
      Thừa—Shramana An Shi Kao, a Partian monk, translated from Sanskrit into 
      Chinese in about 150 A.D. (during the Later Han Dynasty). Most Venerable 
      Thích Thanh Từ translated from Chinese into Vietnamese in the 1970s. The 
      original text of this sutra in Sanskrit is still extant to this day.  This 
      sutra is entirely in accord with both the Theravada and Mahayana 
      traditions. 
      
      b)      Kỳ 
      thật, từng điều trong tám điều giác ngộ của các bậc vĩ nhân trong kinh nầy 
      có thể được coi như là đề tài thiền quán mà hàng Phật tử chúng ta, đêm lẫn 
      ngày hằng giữ thọ trì, chí thành tụng niệm ghi nhớ, tám điều giác ngộ của 
      các bậc vĩ nhân—In fact, each of the eight items in this sutra can be 
      considered as a subject of meditation which Buddhist disciples should at 
      all times, by day and by night, with a sincere attitude, recite and keep 
      in mind eight truths that all great people awaken to. 
      
      c)      Tám 
      Chơn Lý mà chư Phật, chư Bồ Tát và các bật vĩ nhân đã từng giác ngộ. Sau 
      khi giác ngộ, các vị ấy lại tiến tu vô ngần từ bi đạo hạnh để tăng trưởng 
      trí huệ. Dùng thuyền Pháp Thân thong dong dạo chơi cõi Niết Bàn, chỉ trở 
      vào biển sanh tử theo đại nguyện cứu độ chúng sanh. Các bậc nầy lại dùng 
      tám Điều Giác Ngộ để khai lối dắt dìu chúng sanh, khiến cho ai nấy đều 
      biết rành sự khổ não của tử sanh sanh tử, để từ đó can đảm xa lìa ngũ dục 
      bợn nhơ mà quyết tâm tu theo Đạo Thánh—Eight Truths that all Buddhas, 
      Bodhisattvas and great people awaken to. After awakening, they then 
      energetically cultivate the Way. By steeping themselves in kindness and 
      compassion, they grow wisdom. They sail the Dharma-body ship all the way 
      across to Nirvana’s other shore, only to re-enter the sea of death and 
      rebirth to rescue all living beings. They use these Eight Truths to point 
      out the right road to all beings and in this way, help them to recognize 
      the anguish of death and rebirth. They inspire all to cast off and forsake 
      the Five Desires, and instead to cultivate their minds in the way of all 
      Sages. 
      
      d)      Nếu là 
      Phật tử phải nên luôn trì tụng kinh nầy, hằng đêm thường trì tụng và nghĩ 
      tưởng đến tám điều nầy trong mỗi niệm, thì bao nhiêu tội lỗi thảy đều tiêu 
      sạch, thong dong tiến vào nẻo Bồ Đề, nhanh chóng giác ngộ, mãi mãi thoát 
      ly sanh tử, và thường trụ nơi an lạc vĩnh cửu—If Buddhist disciples recite 
      this Sutra on the Eight Awakenings, and constantly ponder its meaning, 
      they will certainly eradicate boundless offenses, advance toward Bodhi, 
      quickly realize Proper Enlightenment, forever be free of death and 
      rebirth, and eternally abide in joy.  
      
      (B)  Hình thức 
      của kinh—The form of the sutra: Xét về phương diện hình thức thì kinh văn 
      rất đơn giản. Kinh văn rất cổ, văn thể của kinh thuộc loại kết tập như 
      Kinh Tứ Thập Nhị Chương và Kinh Lục Độ Tập. Tuy nhiên, nội dung của kinh 
      rất sâu sắc nhiệm mầu—The form of the sutra is very simple. The text form 
      is ancient, just like the Forty-Two Chapters and the Sutra on the Six 
      Paramitas. However, its content is extremely profound and marvelous. 
      
      (C)  Nội dung 
      của kinh—The content of the Sutra:
      
      1)      Điều 
      Giác Ngộ thứ nhất—The First Awakening:  
      
      ·       
      Đời vô thường quốc độ bở dòn—The world is impermanent, 
      countries are perilous and fragile.
      
      ·       
      Tứ đại khổ không—The body’s four elements are a source of 
      pain; ultimately, they are empty.
      
      ·       
      Năm ấm vô ngã có còn chi đâu—The Five Aggregates (Skandhas) 
      are not me. 
      
      ·       
      Đổi đời sanh diệt chẳng lâu—Death and rebirth are simply a 
      series of transformations.
      
      ·       
      Giả dối không chủ lý mầu khó tin—Misleading, unreal, and 
      uncontrollable. 
      
      ·       
      Tâm là nguồn ác xuất sanh—The mind is the wellspring of 
      evil.
      
      ·       
      Thân hình rừng tội mà mình chẳng hay—The body is the 
      breeding ground of offenses. 
      
      ·       
      Người nào quán sát thế nầy—Whoever can investigate and 
      contemplate these truths,
      
      ·       
      Lần hồi sanh tử sớm chầy thoát ra—Will gradually break free 
      of death and rebirth. 
      
      2)      Điều 
      Giác Ngộ thứ hai—The Second Awakening:
      
      ·         
      Tham dục nhiều, khổ thiệt thêm nhiều—Too much desire brings 
      pain.
      
      ·       
      Nhọc nhằn sanh tử bao nhiêu—Death and rebirth are tiresome 
      ordeals.
      
      ·       
      Bởi do tham dục, mà chiêu khổ nầy—They stem from our 
      thoughts of greed and desire.
      
      ·       
      Bớt lòng tham dục chẳng gây—By reducing desires.
      
      ·       
      Thân tâm tụ tại vui nầy ai hơn—We can realize absolute truth 
      and enjoy independence and well-being in both body and mind.
      
      3)      
      Điều Giác Ngộ thứ ba—The Third Awakening:
      
      ·       
      Đắm mê trần mải miết chẳng dừng—Our minds are never 
      satisfied or content with just enough.
      
      ·       
      Một bề cầu được vô chừng—The more we obtain, the more we 
      want.
      
      ·       
      Tội kia thêm lớn có ngừng được đâu—Thus we create offenses 
      and do evil deeds.
      
      ·       
      Những hàng Bồ Tát hiểu sâu—Bodhisattvas do not make 
      mistakes.
      
      ·       
      Nhớ cầu tri túc chẳng lâu chẳng sờn—Instead, they are always 
      content.
      
      ·       
      Cam nghèo giữ đạo là hơn—Nurture the way by living a quiet 
      life in humble surroundings.
      
      ·       
      Lầu cao trí huệ chẳng khờn dựng lên—Their sole occupation is 
      cultivating wisdom. 
      
      4)      
      Điều Giác Ngộ thứ tư—The Fourth Awakening:
      
      ·       
      Kẻ biếng lười hạ liệt trầm luân—Idleness and self-indulgence 
      will be our downfall.
      
      ·       
      Thường tu tinh tấn vui mừng—With unflagging vigor, 
      
      ·       
      Dẹp trừ phiền não ác quân nhiều đời—Great people break 
      through their afflictions and baseness.
      
      ·       
      Bốn ma hàng phục như chơi—They vanquish and humble the Four 
      Kinds of Demons.
      
      ·       
      Ngục tù ấm giới thảnh thơi ra ngoài—And they escape from the 
      prison of the Five Skandhas.
      
      5)      
      Điều Giác Ngộ thứ năm—The Fifth Awakening:
      
      ·       
      Ngu si là gốc khổ luân hồi—Stupidity and ignorance are the 
      cause of death and rebirth.
      
      ·       
      Bồ Tát thường nhớ không ngơi—Bodhisattvas are always 
      attentive to.
      
      ·       
      Nghe nhiều học rộng chẳng lơi chút nào—And appreciative of 
      extensive study and erudition.
      
      ·       
      Vun bồi trí tuệ càng cao—They strive to expand their wisdom.
      
      ·       
      Biện tài đầy đủ công lao chóng thành—And refine their 
      eloquence.
      
      ·       
      Đặng đem giáo hóa chúng sanh—Teaching and transfoming living 
      beings.
      
      ·       
      Niết bàn an lạc còn lành nào hơn—Nothing brings them greater 
      joy than this.
      
      6)      
      Điều Giác Ngộ thứ sáu—The Sixth Awakening:
      
      ·       
      Người khổ nghèo lắm kết oán hờn—The suffering of poverty 
      breeds deep resentment.
      
      ·       
      Không duyên tạo tác ác đâu sờn—Wealth unfairly distributed 
      creates ill-will and conflict among people.
      
      ·       
      Bồ Tát bố thí, ai hơn kẻ nầy, lòng không còn thấy kia 
      đây—So, Bodhisattvas practice giving and treat friend and foe alike.
      
      ·       
      Ít khi nhớ đến buồn gây thuở nào. Dù nguời làm ác biết bao, 
      một lòng thương xót khổ đau cứu giùm—They neither harbor grudges nor 
      despite evil-natured poeple.
      
      7)      Điều 
      Giác Ngộ Thứ Bảy—The Seventh Awakening:
      
      ·       
      Năm dục gây lầm lỗi ngất trời. Tuy người thế tục ngoài 
      đời—Great people, even as laity, are not blightly by worldly pleasures.
      
      
      ·       
      Mà lòng không nhiễm vui chơi thế tình, ba y thường nhớ của 
      mình, ngày nào sẽ được ôm bình ngao du—Instead, they constantly aspire to 
      take up the three precepts-robes and blessing-bowl of the monastic life.
      
      ·       
      Chí mong lìa tục đi tu, đạo gìn trong sạch chẳng lu không 
      mờ—Their ideal and ambition is to leave the household and family life to 
      cultivate the way in immaculate purity.
      
      ·       
      Hạnh lành cao vút kính thờ, thương yêu tất cả không bờ bến 
      đâu—Their virtuous qualities are lofty and sublime; their attitudes toward 
      all creatures are kind and compassionate.
      
      8)      Điều 
      Giác Ngộ Thứ Tám—The Eighth Awakening:
      
      ·       
      Tử sanh hoài đau khổ vô cùng—Rebirth and death are beset 
      with measureless suffering and afflictions, like a blazing fire.
      
      ·       
      Phát tâm dõng mãnh đại hùng—Thus, great people make the 
      resolve to cultivate the Great Vehicle.
      
      ·       
      Quyết lòng độ hết đồng chung Niết bàn—To rescue all beings.
      
      ·       
      Thà mình chịu khổ muôn vàn, thay cho tất cả an nhàn thảnh 
      thơi—To endure endless hardship while standing in for others.
      
      ·       
      Mọi người đều được vui tươi, đến bờ giác ngộ rạng ngời hào 
      quang—To lead everyone to ultimate happiness. 
      **   For more information, 
      please see Bát Đại 
             Nhân Giác.
      
      Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh: 
      Prajnaparamitahrdaya-Sutra—Bát Nhã Ba La Mât Đa Tâm Kinh hay gọi tắt là 
      Tâm Kinh, là phần kinh ngắn nhất trong 40 kinh tạo thành Đại Bát Nhã Ba La 
      Mật Đa Kinh. Đây là một trong những kinh văn quan trọng nhất trong Phật 
      giáo Đại thừa. Kinh được nhấn mạnh về tánh không. Kinh thường được các 
      Phật tử tụng thuộc lào trong các tự viện. Một trong những câu nổi tiếng 
      trong kinh là “Sắc bất dị không, không bất dị sắc” (hình thức chỉ là hư 
      không, hư không chỉ là hình thức), một công thức được lập đi lập lại trong 
      nhà thiền. Toàn bộ văn kinh của Bát Nhã Ba La Mật có nghĩa là “trí huệ đáo 
      bỉ ngạn.” Kinh được Ngài Huyền Trang dịch sang Hán tự—The Heart of the 
      Prajna-Paramita-Sutra or Heart Sutra, the shortest of the forty sutras 
      that constitute the Prajanparamita-sutra. It is one of the most important 
      sutras of Mahayana Buddhism. The sutra is especially emphasized on 
      emptiness (Shunyata). It is recited so frequently in the temple that most 
      Buddhists chant it from memory. One of the most famous sentences in the 
      sutra is “Form is no other than emptiness; emptiness is no other than 
      form,” an affirmation that is frequently referred to in Zen. The 
      Prajna-Paramita Heart Sutra literally means “the wisdom that leads to the 
      other shore.” The sutra was translated into Chinese by Hsuan-Tsang. 
      ** See Bát Nhã Tâm Kinh 
      trong phần  
           Appendix A. 
      
      Kinh Biệt Giải Thoát: 
      Pratimoksa sutra (skt)—Kinh Biệt Giải Thoát là cốt lõi của Tạng Luật. Đây 
      là phần cổ xưa nhất của Luật Tạng bằng tiếng Ba Li—Pratimoksa sutra is the 
      nucleus of the Vinaya-pitaka. It is the oldest part of the Pali Pitaka—See 
      Cụ Túc Giới Tỳ Kheo in Vietnamese-English Section, and Pratimoksa and 
      Pratimoksa-sutra in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.   
      
      Kinh Bồ Đề Hành Kinh: 
      Bodhicaryavatara Sutra—Kinh nói về “Đi vào con đường Giác Ngộ” được Ngài 
      Long Thọ soạn—Entering the Path of Enlightenment, composed by Nagarjuna.
      
      
      Kinh Bổn: Sutra (skt)—Kinh điển 
      trong Tam Tạng được Đức Phật thuyết giảng—The sutras in the Tripitaka are 
      the sermons attributed to the Buddha.
      **For more information, 
      please see Kinh. 
      
      Kinh Bổn Sanh: Jataka—Kinh nói 
      chi tiết về tiền thân Đức Phật, các đệ tử cũng như những kẻ chống phá 
      Ngài. Kinh chỉ bày những hành động trong tiền kiếp ảnh hưởng thế nào đến 
      những hoàn cảnh của cuộc sống hiện tại theo đúng luật nghiệp 
      quả—Narratives of birth stories detail past (previous) lives of the Buddha 
      and of his followers and foes. The sutra shows how the acts of previous 
      lives influence the circumstances of the present life according to the law 
      of karma. 
      
      Kinh Bổn Sự: 
      Itvritaka—Narratives of past lives of the Buddha’s disciples.
      
      Kinh Chúng Tập: Sangiti Sutta 
      (p). 
      
      Kinh Cô Khởi: Phúng 
      Tụng—Gatha—Verses containing ideas not expressed in prose.
      
      Kinh Di Bộ Tông Luân Luận: 
      Samayabhedo Sutra—Kinh được soạn bởi Ngài Thế Hữu vào khoảng 100 năm sau 
      khi Phật nhập diệt, sau được Ngài Huyền Trang dịch ra Hoa ngữ, nói về thời 
      kỳ phân rẽ thành hai phái của Phật giáo là Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng 
      Bộ—The sutra was composed by Vasumitra about 100 years after the death of 
      the Buddha, later was translated into Chinese by Hsuan-Tsang. The sutra 
      mentioned about the first division of Buddhism into two divisions: The 
      Theravada (elder monks or intimate disciples) and Mahasanghika (general 
      body of disciples).   
      
      Kinh Dị: Frightened. 
      
      Kinh Diệu Pháp Liên Hoa: 
      Saddharma-pundarika-Sutra (skt)— Wonderful Law Lotus Flower—The Lotus of 
      the True Law—Thời gian giữa Đại Hội Kết Tập lần thứ nhì và thế kỷ thứ nhất 
      trước Tây Lịch, văn hóa Đại Thừa phát triển tại Ấn Độ và sự phổ biến một 
      số kinh điển quan trọng. Sau đó là hàng trăm kinh điển Đại Thừa được viết 
      bằng tiếng Phạn xuất hiện. Liên Hoa Kinh, được viết vào thế kỷ thứ nhất 
      sau Tây Lịch, một trong những kinh chính của Phật giáo Đại thừa vì nó chứa 
      đựng những ý tưởng chủ yếu của Đại thừa, ý tưởng về bản chất siêu việt của 
      Phật và việc phổ cứu chúng sanh. Trong nhiều phương diện, kinh Pháp Hoa 
      được xem là kinh căn bản của truyền thống Phật giáo Đại Thừa. Kinh nầy ảnh 
      hưởng rất lớn đến thế giới Phật tử Đại Thừa, không những chỉ ở Ấn Độ mà 
      còn tại các xứ khác như Trung Hoa, Nhật Bản, và Việt Nam, qua các tông 
      Thiên Thai, Nhật Liên và những tông khác. Hơn nữa, kinh nầy dẫn giải con 
      đường từ bi vô lượng, cũng như cốt lõi hướng đi căn bản của truyền thống 
      Đại Thừa, đó là tâm đại từ bi. Phật giáo Đại thừa coi Kinh Liên Hoa là bộ 
      kinh chứa đựng toàn bộ học thuyết của Phật. Kinh nầy được Phật thuyết 
      giảng trên núi Linh Thứu. Kinh Pháp Hoa là một trong những bộ kinh lớn 
      trong giáo pháp của Phật. Ý nghĩa của kinh nầy là Đức Phật đã gom tam thừa 
      Thanh Văn, Duyên Giác, và Bồ Tát về một thừa duy nhất là Phật Thừa. Trong 
      kinh nầy Đức Phật đã giải thích rõ ràng về nhiều phương pháp đạt tới đại 
      giác như Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, v.v. chỉ là những phương tiện được 
      đặt ra cho thích hợp với trình độ của từng người. Thật ra chỉ có một cỗ xe 
      duy nhất: Phật thừa dẫn đến đại giác cho chúng sanh mọi loài. Kinh Pháp 
      Hoa tiêu biểu cho giai đoạn chuyển tiếp từ Phật giáo Tiểu Thừa sang Đại 
      Thừa. Phần lớn kinh được dùng để chứng minh rằng Đức Phật đã giảng giáo 
      pháp Tiểu Thừa cho lớp người đầu óc thấp kém, vì đối với những người nầy 
      không thể giải bày toàn bộ chân lý được. Các Phật tử Tiểu Thừa được Phật 
      khuyên nên hành trì ba mươi bảy phẩm trợ đạo, hay các phép tu dẫn đến sự 
      giác ngộ để rũ sạch phiền não, nên hiểu rõ Tứ Diệu Đế, luật Nhân Quả và 
      nhận thức Nhân Không hay Vô Ngã, để qua đó có thể đạt được niết bàn. Sau 
      đó Đức Phật nhấn mạnh rằng những người nầy cần nỗ lực thêm nữa ở đời sau, 
      tạo được những công đức và phẩm hạnh cần thiết của một vị Bồ Tát để chứng 
      đắc Phật quả. Kinh được Ngài Dharmaraksa dịch ra Hán văn năm 268 và Cưu Ma 
      La Thập dịch năm 383. Chúng ta nên nhớ rằng Kinh Pháp Hoa, nguyên đã được 
      ngài Cưu Ma La Thập phiên dịch thành bảy quyển gồm 27 phẩm. Pháp Hiển, tìm 
      kiếm một phẩm nữa nên du hành sang Ấn Độ vào năm 475. Khi đến Khotan, ông 
      tìm thấy phẩm về Đề Bà Đạt Đa. Đề Bà Đạt Đa là anh họ và cũng là kẻ phá 
      hoại Phật. Ông trở về, và yêu cầu Pháp Ý, người Ấn, phiên dịch phẩm nầy. 
      Phẩm nầy về sau được phụ thêm vào bản kinh trước. Do đó kinh Pháp Hoa hiện 
      thời có 28 phẩm. Năm 602 hai vị Jnanagupta và Dharmagupta cũng dịch bộ 
      kinh nầy sang Hán văn—The period between the Second Council and the first 
      century B.C., Mahayana literature developed in India, and the emergence of 
      a number of important texts. After that, hundreds of Mahayana sutras were 
      composed in Sanskrit. Sutra of the Lotus Flower, sutra of the Lotus of the 
      Good Dharma, written in the first century A.D., one of the most important 
      sutras of Mahayana Buddhism because it contains the essential teachings of 
      Mahayana, including the doctrines of the transcendental nature of the 
      buddha and of the possiblity of universal liberation. In many ways, the 
      Lotus is the foundation sutra of the Mahayana tradition. It has great 
      influence in the Mahayana Buddhist world, not only in India, but also in 
      China, Japan, and Vietnam, where it is the favorite text of the 
      T’ien-T’ai, Nichiren and some other schools. Moreover, it expounds the way 
      of great compassion, the lotus sutra represents the essence of the 
      Mahayana tradition’s fundamental orientation, which is great compassion. 
      It is considered in the Mahayana as that  sutra  that contains the 
      complete teaching of the Buddha. The Lotus Sutra is a discourse of the 
      Buddha on Vulture Peak Mountain. Dharma Flower Sutra or the Maha 
      Saddharma-pundarika Sutra, or the Lotus Sutra, is one of the greatest 
      sutras taught by the Buddha. Its significance is that the Buddha united 
      all three vehicles of Sravaka-Yana (Sound-Hearer Vehicle), 
      Pratyeka-Buddha-Yana, and Bodhisattva-Yana and said there is only one 
      vehicle and that is the vehicle of Buddhahood. In  it the Buddha shows 
      that there are many methods through which  a being can attain 
      enlightenment such as shravaska, pratyekabuddha and bodhisattva, etc. 
      These are only expedients adapted to varying capabilities of beings. In 
      reality, there is only one vehicle: Buddhayana (Buddha vehicle), which 
      leads all beings to enlightenment, including Mahayana and Hinayana. The 
      Saddharma-pundarika sutra represents the period of transition from 
      Hinayana to Mahayana Buddhism. A large part of this sutra is devoted to 
      proving that Hinayana Buddhism was preached by the Buddha for the benefit 
      of people of lower intelligence, to whom the whole truth was not divulged. 
      Hinayana Buddhists were adivised to practise the thirty-seven limbs of 
      enlightenment in order to rid themselves of moral impurities, to 
      comprehend the Four Noble Truths and the Law of Causation, and to realize 
      the absence of soul or individuality whereby they can reach a place of 
      rest or nirvana.  The Buddha then advises those who had reached perfection 
      in these attainments, to exert themselves further in their future 
      existences in order to acquire the merits and virtues prescribed for the 
      Bodhisattvas for the attainment of Buddhahood. The sutra was translated 
      into Chinese by Kumarajiva. We should bear in mind that the Lotus Sutra 
      was originally translated into Chinse by Dharmaraksa in 268 and Kumarajiva 
      in 383 in seven volumes of twenty-seven  chapters. Fa-Hsien, in quest of 
      another chapter, started for India in 475 A.D. When he reached Khotan, he 
      found the chapter on Devadatta, a treacherously acting cousin of the 
      Buddha. He eturned and requested Fa-I, an Indian monk, to translate it. 
      This translation was later added to the earlier text. Thus, there are 
      twenty-eight chapters in the present text.  In 601A.D., Jnanagupta and 
      Dharmagupta also translated this sutra into Chinese.   
      ** For more information, 
      please see Diệu 
           Pháp Liên Hoa and 
      Diệu Pháp Liên Hoa 
           Kinh.
      
      Kinh Duy Ma Cật: 
      Vimalakirtinirdesa-Sutra—Kinh Duy Ma Cật là một bộ kinh Đại thừa quan 
      trọng, đặc biệt cho Thiền phái và một số đệ tử trường phái Tịnh Độ. Nhân 
      vật chính trong kinh là Ngài Duy Ma Cật, một cư sĩ mà trí tuệ và biện tài 
      tương đương với rất nhiều Bồ Tát. Trong kinh nầy, Ngài đã giảng về Tánh 
      Không và Bất Nhị. Khi được Ngài Văn Thù hỏi về Pháp Môn Bất Nhị thì Ngài 
      giữ im lặng. Kinh Duy Ma Cật nhấn mạnh chỗ bản chất thật của chư pháp vượt 
      ra ngoài khái niệm được ghi lại bằng lời. Kinh được Ngài Cưu Ma La Thập 
      dịch sang Hán tự—The Vimalakirti Sutra, a key Mahayana Sutra particularly 
      with Zen and with some Pure Land followers. The main protagonist is a 
      layman named Vimalakirti who is equal of many Bodhisattvas in wisdom and  
      eloquence. He explained the teaching of “Emptiness” in terms of 
      non-duality. When asked by Manjusri to define the non-dual truth, 
      Vimalakirti simply remained silent. The sutra emphasized on real practice 
      “The true nature of things is beyond the limiting concepts imposed by 
      words.”  The sutra was translated into Chinese by Kumarajiva. 
      
      Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Bản Nguyện Công 
      Đức: 
      Bhaisaya-guru-vaiduryaprabhasapurvapranidhanavisesavistara—Kinh nhấn mạnh 
      về những công đức của Đức Dược Sư Như Lai và khuyên chúng sanh hãy tin 
      tưởng vị Phật nầy để được vãng sanh Thiên đường Đông Độ; tuy nhiên, kinh 
      không phủ nhận Tây phương Cực Lạc. Kinh được Ngài Huyền Trang dịch sang 
      Hán tự—The Medicine Buddha Sutra—The sutra stresses on the merits and 
      virtues of Bhaisaya-Guru and encourages sentient beings to have faith in 
      this Buddha so that they ca be reborn in the Eastern Paradise; however, 
      the sutra never denies the Western Paradise. The Sutra was translated into 
      Chinese by Hsuan-Tsang—See Mười Hai Lời nguyện của Đức Dược Sư Lưu Ly 
      Quang Phật. 
      
      Kinh Đại Bát Niết Bàn: 
      Mahaparinirvana-Sutra—Kinh thuyết về Phật nhập diệt và nhữõng giáo lý của 
      Ngài, còn gọi là Kinh Thiên Đường. Kinh cũng bàn về lý thuyết bản tánh 
      Phật vốn có ở mọi thực thể. Kinh được Ngài Đàm Vô Sám dịch sang Hán 
      tự—Maha Parinirvana Sutra—Great Nirvana—The sutra or sermon of the Great 
      Decease or passing into final Nirvana—A long sutra containing a 
      description of the Buddha’s passing and his teaching—The Paradise Sutra. 
      The sutra also deals with the doctrine of Buddha-nature, which is immanent 
      in all beings.  The sutra was translated into Chinese by Dharmaksema. 
      
      Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni: 
      Mahakaruna Dharani Sutra—A Sutra of the Esoteric Buddhist tradition—The 
      Teaching of the powerful effect of the Avalokitesvara Maha-Bodhisattva 
      Great Compassion Mantra.  
      
      Kinh Đại Bửu Tích: Maha 
      Ratnakuta Sutra—Kinh được ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch sang Hoa ngữ, là một 
      trong những kinh điển xưa nhất của Phật Giáo Đại Thừa. Trong Đại Bảo Tích, 
      tư tưởng Trung Đạo được triển khai. Kinh cũng nói về trí huệ siêu việt 
      (Bát Nhã Ba La Mật Đa trong trường Kinh A Di Đà)—Tạng kinh điển rất quan 
      trọng gồm 6000 trang trong chín quyển chứa đựng hầu hết những giáo điển 
      trọng đại của Đại Thừa nhằm đưa chúng sanh đến chỗ Giác Ngộ Tối Thượng của 
      Phật quả—The sutra was translated into Chinese by Bodhiruci, one of the 
      oldest sutras of Mahayan. In the Ratnakuta, the thought of the Middle Way 
      is developed. It also contains sutras on transcendental wisdom (Prajan 
      Paramita Sutra and Longer Amitabha Sutra)—A very important sutra (6000 
      pages in nine volumes) which contains almost all the most critical 
      teaching of the Mahayana Tradition (Great Vehicle) to carry sentient 
      beings to the Ultimate Enlightenment of Buddhahood.  
      
      Kinh Đại Lạc Kim Cang Bất Không Chân Thật 
      Tam Ma Đà: Adhyardhasatika-Prajnaparamita-Sutra—Còn được gọi là 
      “Lý Thú Kinh” hoặc “Bát Nhã Lý Thú Kinh.” Đây là tinh yếu giáo lý của Mật 
      Tông, dạy cách tu hành thành Phật ngay trong đời nầy. Kinh được Ngài Bất 
      Không dịch sang Hán tự—Also called “The Interesting Sutra” or “The 
      Interesting Prajna Sutra.” It stressed on the essence of the Tantric 
      schools that taught how to practice and become a Buddha in this very life. 
      The sutra was translated into Chinese by Amoghavajra.   
      
      Kinh Đại Niết Bàn: 
      Maha-Parinirvana Sutra—Great Nirvana Sutra—See Kinh Đại Bát Niết Bàn.
      
      Kinh Đại Phương Quảng Hoa Nghiêm: 
      MahaVaipulya-Avatamsaka-Sutra—Buddhavatamsaka Sutra—Kinh điển Đại Thừa gồm 
      những giáo lý căn bản của trường phái Hoa Nghiêm, nhấn mạnh ý tưởng về “Sự 
      thâm nhập tự do lẫn nhau” của tất cả mọi sự vật. Kinh cũng dạy rằng nhơn 
      tâm là cả một vũ trụ và đồng nhất với Phật. Do đó, tâm, Phật, và chúng 
      sanh không sai khác. Trường phái Thiền đặc biệt nhấn mạnh đến khía cạnh