TỔ ĐÌNH MINH ĐĂNG QUANG
      
      PHẬT HỌC TỪ ĐIỂN
      
      
      BUDDHIST DICTIONARY
      
      
      VIETNAMESE-ENGLISH
      
      
      THIỆN PHÚC
       
      
      Na
       
      Na A Lại Da Mạn Đà La: 
      Nalaya-mandala (skt)—Không phải là A Lại Da Mạn Đà La, hay là Bồ Đề Đạo 
      Tràng, không phải là nơi cố định—The non-alaya mandala, or the bodhi site 
      or seat, which is without fixed place, independent of place, and entirely 
      pure. 
      Na Da: 
      Naya (skt).
      1)     
      Chính yếu: Leading.
      2)     
      Phương thức: Method.
      3)     
      Chánh Lý: Đạo lý chân chính—Right principle.
      4)     
      Thừa: Yana (skt)—Con đường tu đạo mà hành giả noi theo, từ một niệm 
      thiện cho tới khi thành Phật—Conveyance—Mode of progress.
      5)     
      Đạo: Way—Method. 
      Na Do Tha: 
      Navuta (skt)—Na Du Đa—Na Do Đa—Na Thuật—Tên số đếm, tương đương với 
      100.000, 1.000.000 hay 10 triệu—A numeral, 100,000, or one million, or ten 
      million. 
      Na Đề:
      
      1)     
      Nadi (skt)—Sông—Thác—River—Torrent.
      2)     
      Punyopaya (skt)—Bố Như Na Đề, một vị Tăng nổi tiếng miền Trung Ấn—A 
      noted monk of central India. 
      Na Đề Ca Diếp: 
      Nadikasyapa (skt)—Nại Địa (Đề) Ca Diếp Ba—Em trai của Đại Ca Diếp, sau 
      thành Phật Phổ Minh Như Lai—Brother of Mahakasyapa, to become 
      Samantaprabhasa Buddha. 
      Na Già: 
      Naga (skt).
      1)     
      Một loại rắn: A kind of snake.
      2)     
      Một chủng tộc thờ rắn: A race of serpent-worshippers. 
      
      3)     
      Rồng: Như loài rồng tiêu biểu cho loài bò sát mạnh nhất; nó có thể 
      biến hiện, tăng giảm, dài ngắn tùy ý. Nó có thể bay trên trời, lội dưới 
      nước hay đi vào trong đất. Vào mùa xuân nó bay lượn trên trời, mùa đông 
      lại chui vào đất—As dragon it represents the chief of the scaly reptiles; 
      it can disappear or manifest, increase or decrease, lengthen or shrink at 
      will. It can mount in the sky and in water, and enter the earth. In spring 
      it mounts in the sky and in winter enters the earth.
      
      ·       
      Rồng được xem như hữu ích, vì mang lại mưa: Dragons are 
      regarded as beneficent, bringing the rains.
      
      ·       
      Thiên Long Hộ Pháp: Guarding the heavens.
      
      ·       
      Chúng ẩn dưới vực sâu để kiểm soát sông hồ: They control 
      rivers and lakes, and hibernate in the deep.
      
      ·       
      Long và Đại Long là danh hiệu của Phật: Naga and Mahagana 
      are titles of a Buddha.
      
      ·       
      Long và Đại Long cũng là danh hiệu của những bậc đã thoát 
      vòng sanh tử, vì lực thoát vòng tham dục và trói buộc trần thế của các 
      ngài bay vút như rồng bay lên trời: Naga and Mahanaga are titles of those 
      freed from reincarnation, because of his powers, or because like the 
      dragon he soared above earthly desires and ties. 
      4)     
      Tượng: Elephant.
      Na Già Át Thích Thụ Na: 
      Nagarjuna (skt)—See Long Thọ
      Na Già Định: 
      Thiền định Na Già, khiến người thành “thọ long” hay rồng trường thọ ở nơi 
      chỗ sâu, để sau nầy được gặp Đức Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật—The naga 
      meditation, which enables one to become a dragon, hibernate in the deep, 
      prolonged one’s life and meet Maitreya. 
       
      Na Ná: 
      Similar—Analogous.
      Na La: 
      Nata (skt)—Người nhảy múa hay diễn viên—A dancer or actor. 
      
      Na La Diên: 
      Narayana (skt)—Na La Dã Nã—Tiêu biểu với ba mặt, màu vàng, tay phải cầm 
      bánh xe, cưỡi chim Ca Lâu La—Narayana is represented with three faces, of 
      greenish-yellow colour, right hand with a wheel, riding a garuda bird.
      
      
      1)      
      Tên vị lực sĩ ở Thượng Thiên là tổ phụ của 
      chúng sanh: Son of Nara or the original man, patronymic of the personified 
      Purusha or first living being, author of the Purusha Hymn. 
      
      a)     
      Nara (skt): Người—Man.
      b)     
      Yana (skt): Sinh bản hay gốc của sự sống—The original life. 
      
      2)      
      Tên khác của Phạm Thiên Vương, Tỳ Nữu Thiên: 
      He is also identified with Brahma, Visnu, or Krsna, interpreted by the 
      originator of human life. 
      
      a)     
      Kiên Cố: Firm and stable.
      
      b)     
      Lực Sĩ hay Thiên Giới Lực Sĩ: Hero of divine power.
      
      c)     
      Kim Cang: Vajra (skt)—Mạnh mẽ—Manly and strong. 
      Na La Diên Thiên: 
      Narayana-deva (skt)—Trời Na La Diên. 
      Na La Diên Thiên Hậu: 
      Narayana-deva-sakti (skt)—Phu nhơn của Na La Diên Thiên hay năng lực của 
      nữ giới được chỉ bày trong nhóm Thai Tạng Pháp Giới—Sakti or female energy 
      is shown in the Garbhadhatu group. 
      Na La Đà: Naradhara 
      (skt)—Nhân Trì Hoa—Một loại hoa thơm—A flower carried about for its scent.
      
      Na La Ma Na (Nạp): 
      Naramanava (skt)—Thiếu niên Bà La Môn—A young Brahman, a descendant of 
      Manu.
      Na La Na Lý: 
      Nara-nari (skt)—Sự hợp nhất của hai phái nam nữ—Union of the male and 
      female natures.
      Na La Tu Ma: Name 
      of Jnatr.
      Na Lạc Ca: Naraka 
      (skt)—Địa ngục—Hell.
      
      1)     
      Người làm ác bị hành hạ: The sufferer. 
      
      2)     
      Những cõi thấp: The lower regions.
      Na Lan Đà: Các cơ 
      sở tu viện lừng danh tại Na Lan Đà trong thành Vương Xá có tầm quan trọng 
      rất lớn trong lịch sử Phật giáo thời gian sau nầy. Lịch sử của các kiến 
      trúc tại đây  có thể bắt đầu từ đời vua A Dục (Asoka). Theo Eitel trong 
      Trung Anh Phật Học Từ Điển, Na Lan Đà là ngôi chùa nổi tiếng, nơi mà ngài 
      Huyền Trang từng tòng học, trường khoảng 7 dặm về phía bắc thành Vương Xá 
      của xứ Ma Kiệt Đà,miền bắc Ấn Độ, được vua Thước Ca La A Dật Đa 
      (Sakraditya) xây dựng sau khi Phật nhập diệt. Bây giờ là Baragong. Na Lan 
      Đà được xem như là một trung tâm nghiên cứu Phật giáo, đặc biệt là về 
      triết lý Trung Quán. Na Lan Đà cực thịnh vào khoảng từ thế kỷ thứ 5 đến 
      thế kỷ thứ 12. Sau đó Na Lan Đà được các vua cuối triều Gupta mở mang rộng 
      lớn. Kỳ thật Na Lan Đà là một trường Đại Học Phật Giáo, nơi những cao Tăng 
      tòng học tu để mở mang kiến thức về Phật giáo. Các di tích của tu viện Na 
      Lan Đà  trải ra trên một vùng rộng lớn. Các công trình xây dựng được thấy 
      hôm nay chỉ là một phần của cơ ngơi đồ sộ và là dấu tích của các tu viện, 
      đền, tháp. Các công trình kiến trúc chạy theo hướng bắc nam, các tu viện 
      nằm bên sườn đông, còn các đền tháp nằm bên sườn tây. Qua phế tích, chúng 
      ta thấy những tu viện được xây nhiều tầng và ngay trong những đổ nát ngày 
      nay, chúng vẫn còn gợi lên cho chúng ta sự hoài niệm về một quá khứ đường 
      bệ và vinh quang. Trong viện bảo tàng hiện còn trưng bày nhiều tác phẩm 
      điêu khắc cùng các cổ vật khác tìm được trong các cuộc khai quật. Ngoài 
      ra, còn nhiều di sản khác như các lá đồng, các bia ký bằng đá, chữ khắc 
      trên gạch và các con dấu bằng đất nung. Trong số các con dấu, chúng ta có 
      con dấu thuộc cộng đồng tu sĩ khả kính của Đại Tu Viện. Những chứng liệu 
      cho thấy Phật giáo hành trì tại Na Lan Đà cùng các tu viện đương thời tại 
      Bengal và Bihar không phải là Phật giáo Tiểu Thừa đơn thuần, cũng không 
      phải Đại Thừa thời khởi thủy, mà nó thâm nhiễm các tư tưởng Bà La Môn và 
      Mật tông. Huyền Trang, một cao Tăng Trung Quốc, đã du hành sang Ấn Độ vào 
      thế kỷ thứ bảy, đã kể lại về sự đồ sộ và phồn thịnh của Na Lan Đà. Theo 
      ông thì tu viện nầy đã có lần có đến 10.000 vị sư Đại Thừa đến tu tập tại 
      đây. Ông đã nói rất rõ về các giới điều và sự hành trì của chư Tăng tại 
      đây. Ông còn nhắc đến vua Harsa và các vị tiền nhiệm như những nhà bảo trợ 
      đắc lực cho tu viện nầy. Nghĩa Tịnh, một nhà hành hương khác của Trung 
      Hoa, cũng đã để lại cho chúng ta một bản mô tả cuộc sống của các tu sĩ tại 
      Nalanda, tu viện nầy được duy trì bằng số tiền thu được từ 200 ngôi làng 
      được các đời vua ban cấp cho tu viện. Vào thời ấy, Na Lan Đà nổi tiếng 
      trong thế giới Phật giáo vì có những giáo sư tài giỏi, uyên bác và những 
      tên tuổi như Giới Hiền (Silabhadra), Tịch Hộ (Santaraksita), A Để Sa 
      (Atisa), hay Dipankara, những ngôi sao sáng đã gợi lên hình ảnh cao trọng 
      của tu viện trong suốt thời kỳ phồn thịnh của nó—The famous monastic 
      establishments at Nalanda, near Rajgir, were of extreme importance in the 
      history of latter day Buddhism. The history of the monastic establishments 
      can be traced back to the days of Asoka. According to Eitel in The 
      Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, Nalanda is a famous 
      monastery which was located 7 miles north of Rajarha in Maghada, northern 
      India, built by the King Sakraditya after the Buddha’s nirvana. Now 
      Baragong. As a center of Buddhist study, particularly of Madhyamika 
      philosophy. It prospered from the fifth through the twelfth centuries. 
      Thereafter, the monastery was enlarged by the kings of the late Gupta 
      period. The Nalanda Monastery was in reality a Buddhist university, where 
      many learned monks came to further their study of Buddhism. The ruins of 
      Nalanda extend over a large area. The structures exposed to view represent 
      only a part of the extensive establishment and consist of monastic sites, 
      stupa sites, and temple sites. Lengthwise they extend from north to south, 
      the monasteries on the eastern flank, and stupas and temples on the west.  
      Through the ruins, we can see the evidence that these monasteries were 
      storeyed structures; and even in their ruins, they still convey a memory 
      of their imposing and glorious past. In the museum are deposited numerous 
      sculptures and other antiquities recovered during the excavations. 
      Besides, there are a lot of epigraphic materials, including copper-plate 
      and stone inscriptions, and inscriptions on bricks, and terracotta seals. 
      Among the seals, we have the official seal belonging to the community of 
      venerable monks of the great monastery. Through these materials, we can 
      see that the Buddhism that was practised at Nalanda and other contemporary 
      institutions in Bengal and Bihar was neither the simple Hinayana, nor 
      Mahayana of the early days. It was strongly influenced by the Brahmanism 
      and Tantrism.  Hsuan-Tsang, a famous Chinese monk, who traveled to India 
      in the seventh century, wrote of the imposing structure and prosperity of 
      this monastery. According to Hsuan-Tsang, at one time, there were more 
      than 10,000 Mahayana Buddhist monks stayed there to study. He stated very 
      clearly about their rules and practices. He also mentioned Harsa and 
      several of his predecessors as beneficent patrons of this institution. 
      I-Ching, another Chinese traveller, had also left us a picture of the life 
      led by Nalanda monks. According to I-Ching, Nalanda was maintained by 200 
      villages which donated by different kings. Nalanda was known throughout 
      the Buddhist world of that time for its learned and versatile teachers, 
      and the names of Acarya Silabhadra, Santaraksita, and Atisa or Dipankara, 
      were shining stars  among a galaxy of many others, conjure up a vision of 
      the supreme eminence of the Nalanda Mahavihara throughout its prosperous 
      history. 
      Na Lan Đà Tự: See 
      Na Lan Đà. 
      Na Lạt Già: Naraca 
      (skt).
      
      1)     
      Mũi tên: An arrow.
      
      2)     
      Vật nhọn: A pointed implement. 
      Na Liên Đề Lê Da Xá: 
      Narendrayasas (skt).
      
      1)     
      Tôn xưng: Venerable.
      
      2)     
      Tên vị Tỳ Kheo Na Liên Da Xá, người nước Ô Trành, miền Tây Bắc Ấn, 
      vào thế kỷ thứ sáu, từng dịch khoảng 80 quyển Kinh Luận—A monk of Udyana, 
      northwest India, sixth century, translated the Candra-garbha, 
      Surya-garbha, and other sutras. 
      Na Lợi Kế La: 
      
      1)     
      Narikela or Narikera (skt)—Trái dừa hay cây dừa—The coco-nut.
      
      2)     
      Đảo Na Lợi Kế La: Narikeladvipa (skt)—Theo Eitel trong Trung Anh 
      Phật Học Từ Điển, đây là một hòn đảo nằm cách phía nam Tích Lan vài ngàn 
      dặm, trú xứ của những người lùn với chiều cao khoảng ba bộ Anh, có mình 
      người mỏ chim, chỉ ăn dừa mà thôi—According to Eitel in The Dictionary of 
      Chinese-English Buddhist Terms, this is described as “an island several 
      thousand miles south of Ceylon, inhabited by dwarfs 3 feet high, who have 
      human bodies with beaks like birds, and live upon coco-nuts.
      Na Luật: See 
      Aniruddha in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section. 
      Na Ma: Naman 
      (skt)—Tên—A name.  
      Na Mô: Namah 
      (skt)—Quy-y.  
      Na Tiên Tỳ Kheo: 
      Bhiksu Nagasena—Tỳ Kheo Na Tiên—Một vị Tăng nổi tiếng người Ấn vào thế kỷ 
      thứ hai trước Tây Lịch. Theo  Na Tiên Tỳ Kheo Kinh (hay Di Lan Đà Vấn 
      Kinh), Na Tiên sanh ra trong một gia đình Bà La Môn, tại Kajangala, một 
      thành phố nhiều người biết đến bên cạnh dãy Hy Mã Lạp Sơn. Cha ông là một 
      người Bà La Môn tên Sonutttara. Khi Na Tiên đã học hành thông thạo ba kinh 
      Vệ Đà, lich sử cũng như các môn khác thì ông nghiên cứu Phật giáo và xuất 
      gia theo đạo Phật. Thoạt tiên ông học với trưởng lão Rohana, kế tiếp với 
      trưởng lão Assagutta ở Vattaniya. Sau đó ông được gửi đến thành Hoa Thị, 
      nay là Patna để nghiên cứu về giáo lý của đạo Phật. Sau đó ông gặp vua 
      Milinda tại tu viện Sankheyya ở Sagala. Ông là một luận sư rất nổi tiếng. 
      Chính ông đã biện luận với vua Hy Lạp là Di Lan Đà và độ cho vị vua nầy 
      trở thành Phật tử. Đây là cuộc tranh luận nổi tiếng và được biết như là 
      một điển hình về những cuộc gặp gỡ sớm nhất giữa nền văn minh Hy Lạp và 
      Phật giáo. Theo Giáo Sư Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm Phật Giáo thì 
      các tài liệu Pali còn lưu lại cho thấy cuốn Di Lan Đà Vấn Đạo có lẽ được 
      đại trưởng lão Na Tiên biên soạn, được xem là cuốn sách đáng tin 
      cậy—Nagasena, a famous Indian monk of the second century B.C. According to 
      the Milidapanha Sutra (The Questions of King Milinda), he was born to a 
      Brahman family, in a city called Kajangala, a well-known town near the 
      Himalayas, on the eastern border of the Middle country, and his father was 
      a Brahmin called Sonuttara. When Nagasena was well-versed in the study of 
      the three Vedas, history and other subjects, he studied  the Buddha's 
      doctrine and entered the Buddhist Order. First, he studied the Buddha’s 
      doctrine with the Elder Rohana. Later he studied under the Elder Assagutta 
      of Vattaniya. Afterwards he was sent to Pataliputra, now Patna where he  
      made a special study of the Buddha’s doctrine. Then he stayed at Sankheyya 
      monastery, where he met king Milinda. He debated on various subjects with 
      the Greek King Menander, who ruled in northern India and is said to have 
      been converted by Nagasena. This debate is famous as an example of the 
      earliest encounters between Greek civilization and Buddhism. According to 
      Prof. Bapat in  The Twenty-Five Hundred Years Of Buddhism, after the Pali 
      scriptures, the Questions of King Milinda (Milinda-panha) supposed to have 
      been compiled by Mahathera Nagasena, is considered almost as authoritative 
      a text—See Di Lan Đà Vấn Đạo. 
      Na Tra: Nata 
      (skt)—Thái tử con trai của Tỳ Sa Môn Thiên Vương, một Quỷ Vương hùng 
      tráng, ba mặt, tám tay—A powerful demon king, said to be the eldest son of 
      Vaisravana, and represented with three faces, eight arms. 
       
      Na Yết La Hát La: 
      Nagarahara or Nagara (skt)—Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, 
      đây là tên của một vương quốc cổ, nằm trên bờ nam sông Cabool, khoảng 30 
      dặm về phía Tây của Jellalabad—According to The Dictionary of 
      Chinese-English Buddhist Terms, this is the name of an ancient kingdom on 
      the southern bank of the Cabool River, about 30 miles west of Jellalabad.
      
      Nã: 
      
      1)     
      Giựt lấy: To take—To lay hold of.
      
      2)     
      Loài quỷ chuyên làm người ghê sợ: Damara (skt)—Demons that affright 
      sentient beings. 
      Nai Lưng: To 
      toil—To work hard. 
      Nài: To insist. 
      Nài Nỉ: To beg—To 
      request earnestly.
      Nại: 
      
      1)     
      Đè xuống: To press down.
      
      2)     
      Nhẫn nại—To endure—To bear. 
      
      3)     
      Quả na: berries or musk.
      
      4)     
      Quả xoài: Amra (skt)—A mango. 
      Nại Địa Ca Diếp Ba: 
      Nadi-Kasyapa (skt)—Còn gọi là Na Đề, em ruột của ngài Ma Ha Ca Diếp, sau 
      nầy sẽ thành Phật hiệu là Phổ Minh Như Lai—A brother of Maha-Kasyapa, to 
      be reborn as Buddha Samanta-Prabhasa. 
      Nại Hà: Con sông 
      trong địa ngục mà mọi chúng sanh (linh hồn) phải vượt qua không thể tránh 
      được—The inevitable river in purgatory to be crossed by all souls. 
      Nại Hà Cầu (Kiều): 
      Chiếc cầu trong địa ngục, mọi tội nhân đều phải qua và rơi xuống—The 
      bridge in one of the hells, from which certain sinners always fall.  
      Nại Lạc Ca: Naraka 
      (skt).
      
      1)     
      Địa ngục: Hell—The hells.
      
      2)     
      Nơi chịu khổ: The place of torment.
      Nại Lợi: Niraya 
      (skt)—Địa ngục—Hell. 
      Nại Mạt Đà: Narmada 
      (skt)—Con sông mà bây giờ có tên là Nerbudda—The modern Nerbudda river.
      
      Nại Nữ: Amradarika 
      or Amrapali (skt)—Người đàn bà sanh ra trên cây xoài, người đã hiến “Nại 
      Uyển” cho Đức Phật—A woman who is said to have been born on a mango tree, 
      and to have given the Plum-garden to the Buddha.   
      Nại Oán Hại Nhẫn: 
      Sự nhẫn nhục trước những oán hận và gây tổn hại cho chính mình—The 
      patience which endures enmity and injury.
      Nam: 
      
      1)     
      Daksina (skt)—Phía nam—South. 
      
      2)     
      Người nam: Male. 
      Nam Ai: Name of a 
      sad piece of music. 
      Nam Bộ: Jambudvipa 
      (skt)—See Nam Thiệm Bộ Châu. 
      Nam Căn: Bộ phận 
      sinh dục nam—The male organ.
      Nam Châu: 
      Jambudvipa (skt)—See Nam Thiệm Bộ Châu. 
      Nam Cư Sĩ: Laymen
      Nam Diêm Phù Đề: 
      Jambudvipa (skt)—See Nam Thiệm Bộ Châu. 
      Nam Dương Huệ Trung: 
      Nan-Yang Hui-Ch’ung 675-775—Nam Dương Huệ Trung là tên của một nhà sư có 
      ảnh hưởng rất lớn với các sư nhà Đường vào khoảng những năm 761 đến 775 
      sau Tây Lịch. Nam Dương là môn đồ của Lục Tổ Huệ Năng. Người ta kể rằng, 
      đến năm 16 tuổi, Nam Dương không hề nói một lời nào, cũng như không bao 
      giờ băng qua chiếc cầu trước nhà. Một hôm, có một thiền sư vừa qua cầu 
      trước ngõ, ông vội vàng bước qua cầu để gặp thầy và xin được làm đệ tử. 
      Thấy được tài năng của chàng thiếu niên, thầy bèn phái chàng đến gặp Lục 
      Tổ Huệ Năng. Lục Tổ tiên đoán Huệ Trung sẽ là một vị Phật độc nhất trên 
      thế giới, nên nhận làm đệ tử và kế thừa Pháp của Ngài—Nan-Yang, a noted 
      monk who had influence with the T’ang emperors from 761 to 775 A.D. 
      Nan-Yang Hui-Ch’ung, an early Chinese Ch’an master, a disciple and Dharma 
      successor of Hui-Neng. It is said that he did not speak a single word till 
      the age of sixteen and would never cross the bridge in front of his 
      parents’ house. One day a Ch’an master was approaching the house, he ran 
      over the bridge to the master and requested him to accept him as a 
      disciple. The master, who recognized the boy’s great potential, sent him 
      to the monastery of Hui-Neng. Hui-Neng told him that he would be a “Buddha 
      standing alone in the world,” accepted him as a student and later 
      confirmed him as his Dharma successor.
      ** For more information, 
      please see Huệ 
           Trung Thiền Sư.  
      Nam Đốn Bắc Tiệm: 
      Thiền của hai tông nam và bắc ở trung Quốc—Southern immediate, Northern 
      gradual. 
      ** For more information, 
      please see Nam 
           Tông and Nam Năng Bắc 
      Tú.
      Nam Hải Ma La Da Sơn: 
      Malayagiri (skt)—Núi Ma La Da phía nam Ấn Độ—The Malaya mountains in 
      Malabar answering to the western Ghats; a district in the south of India 
      (a mountain in Ceylon). 
      Nam Hành: 
      Daksinayana (skt).
      
      1)     
      Mặt trời trịch về phương nam, cứ sáu tháng là nó di chuyển từ bắc 
      xuống nam một lần: The course or declination of the sun to the south; the 
      half- year in which it moves from north to south.
      
      2)     
      Khoảng thời gian sáu tháng: A period of six months.
      Nam Kha: Empty 
      dream. 
      Nam La: Malava 
      (skt)—Nam La là một vương quốc ở miền Trung Ấn Độ, tổng hành dinh của tà 
      phái ngoại đạo, bây giờ là Malwa, đối lại với Bắc La ở Gujarat—Southern 
      Lara, an ancient kingdom in central India; headquarters of heretical 
      sects, in the present Malwa, in contrast with northern Valabhi in Gujarat.
      
      Nam Mô: Namo or 
      Namah (skt)—Nam Mầu—Na Mô—Nạp Mô—Na Mầu—Nam Mang—Nạp Mặc—Nẵng Mồ  (chúng 
      sanh hướng về Phật, quy-y tín thuận). 
      
      1)     
      Quy Mạng—Homage—To submit oneself to—To make obeisance.
      
      2)     
      Kỉnh Lễ: To pay homage to—To bow to—An expression of submission to 
      command—Complete commitment—Reverence—Devotion.  
      
      3)     
      Cứu Độ: Trust for salvation.
      Nam Mô A Di Đà Phật: 
      Namah Amitabha or Namo Amitayuse-Buddha (skt)—Nam Mô A Di Đà Phật, là quy 
      mệnh đối với Đức Phật A Di Đà hay chúng sanh một lòng quy ngưỡng nơi lời 
      nguyện cứu độ của Đức Phật A Di Đà mà niệm hồng danh của Ngài, tức là mở 
      cửa đi vào cõi Tịnh Độ—Namah Amitabha, the formula of faith of the Pure 
      Land sect, representing the believing heart of all beings and Amitabha’s 
      power and will to save; repeated in the hour of death it opens the 
      entrance to the Pure Land.  
      Nam Mô Bổn Sư Thích Ca 
      Mâu Ni Phật: Namo Sakya Muni Buddha—Namo Fundamental (Original) 
      Teacher Sakyamuni Buddha—Homage to our Teacher Sakyamuni Buddha—Con xin 
      quy mạng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
      Nam Mô Chư Tổ Bồ Tát: 
      Namo Descending line of Patriarchs Bodhisattvas.
      Nam Mô Cực Lạc quốc A 
      Di Đà Phật: Namo The Land of Ultimate Bliss Amitabha Buddha.
      Nam Mô Cực Lạc Thế Giới 
      A Di Đà Phật: Namo Amitabha Buddha of the Land of Ultimate Bliss. 
      Nam Mô Diệu Pháp Liên 
      Hoa: Nama! Wonderful-Law Lotus-Flower!—Câu trí niệm của Tông Pháp Hoa 
      bên Nhật—The recitation of the Nichiren Sect.    
      ** For more information, 
      please see Bổn Tích 
           Nhị Môn. 
      Nam Mô Dược Sư Hội 
      Thượng Phật Bồ Tát: Namo Medicine Master Assembly of Buddhas and 
      Bodhisattvas. 
      Nam Mô Dược Sư Lưu Ly 
      Quang Phật: Namo Quelling Disasters Lengthening Life Medicine Master.
      Nam Mô Đại Bi Quan Thế 
      Âm Bồ Tát: Namo Kuan Shi Yin Great Compassion Bodhisattva—Namo Great 
      Compassionate Bodhisattva Avalokitesvara—Namo Kuan Shi-Yin Bodhisattva of 
      great Compassion. 
      Nam Mô Đại Thánh Khẩn 
      Na La Vương Bồ Tát: Namo Great Holy Kinnara King Bodhisattva. 
      Nam Mô Đại Hạnh Phổ 
      Hiền Bồ Tát: Namo Universal Worthy Great Conduct Bodhisattva (Namo 
      Samantabhadra Bodhisattva of great conduct).
      Nam Mô Đại Nguyện Địa 
      Tạng Vương Bồ Tát: Namo Earth Treasury King Vow Bodhisattva—Namo Great 
      Vows Earth Store Bodhisattva (Namo Earth Store King Bodhisattva of great 
      vows).
      Nam Mô Đại Thế Chí Bồ 
      Tát: Namo Great Strength Bodhisattva—Namo Bodhisattva Mahasthama—Namo 
      Bodhisattva who has attained great strength.
      Nam Mô Đại Trí Văn Thù 
      Sư Lợi Bồ Tát: Namo Manjusri Great Wisdom Bodhisattva (Bodhisattva of 
      great wisdom).
      Nam Mô Đương Lai Hạ 
      Sanh Di Lặc Tôn Phật: Namo Maitreya Honored Future Buddha (Namo the 
      Honoured Buddha Maitreya, Soon to be born in the world).
      Nam Mô Già Lam Thánh 
      Chúng Bồ Tát: Namo Holy Assembly of Temple-Guarding Bodhisattvas. 
      Nam Mô Hộ Pháp Chư 
      Thiên Bồ Tát: Namo All Heavenly Dharma-Protecting Bodhisattvas. 
      Nam Mô Hộ Pháp Thiên 
      Long Bồ Tát: Namo All Dharma Guardian Deva Bodhisattvas.
      Nam Mô Hộ Pháp Vi Đà 
      Tôn Thiên Bồ Tát: Namo Vajrapani Bodhisattvas, Dharma Protector and 
      Honoured Deva (God).
      Nam Mô Hương Vân Cái Bồ 
      Tát Ma Ha Tát: Homage to the Enlightened Being, Cloud Canopy of 
      Fragrance Bodhisattva, Mahasattva. 
      Nam Mô Kim Cang Tạng Bồ 
      Tát: Namo Vaira Treasury Bodhisattvas.
      Nam Mô Lăng Nghiêm Hội 
      Thượng Phật Bồ Tát: Namo Shurangama Assembly of Buddhas and 
      Bodhisattvas.
      Nam Mô Lịch Đại Tổ Sư 
      Bồ Tát: Namo Generations of Patriarchs, Bodhisattvas. 
      Nam Mô Liên Trì Hải Hội 
      Phật Bồ Tát: Namo Sea Vast Lotus Pool Assembly of Buddhas and 
      Bodhisatvas—Homage to the Lotus Pool Assembly of Buddhas and Bodhisattvas 
      as vast as the sea. 
      Nam Mô Phạm Võng Giáo 
      Chủ Tỳ Lô Xá Na Phật: Namo (Homage) Lord of Brahma Net, Vairocana 
      Buddha. 
      Nam Mô Phật: Quy 
      mệnh đối với Phật, với Tam Bảo, với Phật A Di Đà—Namo Buddha; I devoted 
      myself entirely to the Buddha, or Triratna, or Amitabha. 
      Nam Mô Phật Đảnh Thủ 
      Lăng Nghiêm: Namo Supreme Shurangama of the Buddha’s Summit.
      Nam Mô Quan Thế Âm Bồ 
      Tát: Namo Kuan Shi Yin Bodhisattva. 
      Nam Mô Sư: Master 
      of Namah, i.e. Buddhist or Taoist priests and sorcerers. 
      Nam Mô Tam Bảo: See 
      Nam Mô Phật. 
      Nam Mô Tây Phương Cực 
      Lạc thế giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật: Namo Great Merciful and 
      Compassionate Buddha Amitabha of the Western Land of Ultimate Bliss.
      Nam Mô Thanh Lương Địa 
      Bồ Tát Ma Ha Tát: Homage to the Bodhisattva, Mahasattva of the Clear 
      Cool Ground. 
      Nam Mô Thanh Tịnh Đại 
      Hải Chúng Bồ Tát: Namo Pure Assembly of Bodhisattvas as Vast as the 
      Oceans—Namo Great Pure Sea-Vast Assembly of Bodhisattvas.
      Nam Mô Thập Phương Tam 
      Thế Nhứt Thiết Chư Phật: Namo all Buddhas of the Ten Directions 
      (Quarters) and three times (Namo all Buddhas everywhere throughout all 
      realms of time). 
      Nam Mô Thích Ca Mâu Ni 
      Phật: Namo Sakyamuni Buddha.
      Nam Mô Thường Trụ Thập 
      Phương Pháp: Namo Permanently dwelling Ten Directions Dharmas—Namo 
      Eternally Abiding (Everlasting) Dharma of the ten directions. 
      Nam Mô Thường Trụ Thập 
      Phương Phật: Namo Eternally Dwelling Ten Directions Buddhas—Namo 
      Eternally Abiding (Everlasting) Buddhas of the ten directions.
      Nam Mô Thường Trụ Thập 
      Phương Tăng: Namo Eternally Dwelling (abiding)  of the Ten Directions 
      of  Sanghas—Namo Eternally Abiding (Everlasting) Sangha of the ten 
      directions.   
      Nam Mô Tiêu Tai Diên 
      Thọ Dược Sư Phật: Namo Medicine Master Buddha who dispels calamities 
      and lengthens life. 
      Nam Mô Tịnh Nhãn Bồ Tát 
      Ma Ha Tát: Namo Universal Eye Bodhisattva, Mahasattva.  
      Nam Mô Trời: Namo 
      Heaven—Từ nầy thường được dân miền quê Việt Nam dùng để cầu nguyện—This 
      term is usually used to pray by the Vietnamese countryside people.
      Nam Mô Vu Lan Hội 
      Thượng Phật Bồ Tát: Namo Homage To The Ullambana Assembly of Buddhas 
      and Bodhisattvas
      Nam Năng Bắc Tú: 
      Nam tông được xem như tông đốn ngộ của Lục Tổ Huệ Năng, bắc tông được xem 
      như tông tiệm ngộ của đại sư Thần Tú—Huệ Năng của Nam Tông, Thần Tú của 
      Bắc Tông)—The southern of the Sixth Patriarch Hui-Neng came to be 
      considered the orthodox Intuitional school or the immediate method, the 
      northern of the great monk Shen-Hsiu came to  be considered as the gradual 
      medthod.
      ** For more information, 
      please see Nam 
           Tông and Nam Đốn Bắc 
      Tiệm.
      Nam Nhạc Hoài Nhượng 
      Thiền Sư: Nan-Yueh-Huai-Jang, sanh năm 677 sau Tây Lịch tại Kim Châu, 
      ông là một thiền sư xuất sắc đời nhà Đường, đại đệ tử của Lục Tổ Huệ Năng, 
      và cũng là thầy của Mã Tổ. Nam Nhạc xuất gia năm 15 tuổi với luật Sư Hoàng 
      Cảnh. Sau khi thọ giới cụ túc, sư học hết Tạng Luật, nhưng sư không thỏa 
      mãn nên du phương tìm đến một vị thầy tên là Huệ An ở núi Tung Sơn. Dù sư 
      có tiến bộ, nhưng Hòa Thượng Huệ An bảo sư nên đến Tào Khê tham vấn Lục Tổ 
      Huệ Năng—Nan-Yueh was born in 677 A.D. in Jing-Chou, one of the famous Zen 
      masters during the T’ang dynasty. He was the great disciple of the Sixth 
      Patriarch. He left home at the age of fifteen to study under a Vinaya 
      master named Hung-Jing. After his ordination, he studied the Vinayapitaka, 
      but he became dissatisfied, and then traveled to see a teacher named 
      Hui-An on Mount Tsung. Although Nan-Yueh made some spiritual progress with 
      Hui-An, he soon continued on to Tsao-Xi to studied with the Sixth 
      Patriarch Hui-Neng.    
      
      ·       
      Sư đến Tào Khê tham vấn Lục Tổ Huệ Năng. Tổ hỏi: “Ở đâu 
      đến?” Sư thưa: “Ở Tung Sơn đến.” Tổ hỏi: “Vật gì đến?” Sư thưa: “Nói in 
      tuồng một vật tức không trúng.” Tổ hỏi: “Lại có thể tu chứng chăng?” Sư 
      thưa: “Tu chứng tức chẳng không, nhiễm ô tức chẳng được.” Tổ nói: “Chính 
      cái không nhiễm ô nầy là chỗ hộ niệm của chư Phật, người đã như thế, ta 
      cũng như thế. Tổ Bát Nhã Đa La ở Tây Thiên có lời sấm rằng: ‘Dưới chân 
      ngươi sẽ xuất hiện NHẤT MÃ CÂU (con ngựa tơ) đạp chết người trong thiên 
      hạ. Ứng tại tâm ngươi chẳng cần nói sớm.’” Sư hoát nhiên khế hội. Từ đây 
      sư ở hầu hạ Tổ ngót mười lăm năm—Nan-Yueh came to Tsao-Xi to study with 
      Hui-Neng. Hui-Neng said to Nan-Yueh: “Where did you come from?” Nan-Yueh 
      said: “From Mount Song.” Hui-Neng said: “What is it that thus come?” 
      Nan-Yueh couldn’t answer. After eight years, Nan-Yueh suddenly attained 
      enlightenment. He informed the Sixth Patriarch of this, saying: “I have an 
      understanding.” The Sixth Patriarch said: “What is it?” Nan-Yueh said: “To 
      say it’s a thing misses the mark.” The Sixth Patriarch said: “Then can it 
      be made evident or not?” Nan-Yueh said: “I don’t say it can’t be made 
      evident, but it can’t be defiled.” The Sixth Patriarch said: “Just this 
      that is undefiled is what is upheld and sustained all Buddhas. You are 
      thus. I am also thus.  “Prajnadhara has foretold that from beneath your 
      feet will come a horse which will trample  to death everyone in the world. 
      Bear this in mind but don’t soon repeat it.” Nan-Yueh suddenly experienced 
      Great Enlightenment. He then served the Sixth Patriarch for fifteen 
      years.  
      
      ·       
      Có vị Sa Môn ở huyện Truyền Pháp hiệu Đạo Nhất, hằng ngày 
      ngồi thiền. Sư biết đó là pháp khí (người hữu ích trong Phật pháp) bèn đi 
      đến hỏi: “Đại đức ngồi thiền để làm gì?” Đạo Nhất thưa: “Để làm Phật.” Sau 
      đó sư lấy một cục gạch đến trên hòn đá ở trước am Đạo Nhất ngồi mài. Đạo 
      Nhất thấy lạ hỏi: “Thầy mài gạch để làm gì?” Sư đáp: “Mài để làm gương.” 
      Đạo Nhất nói: “Mài gạch đâu có thể thành gương được?” Sư hỏi lại: “Ngồi 
      thiền đâu có thể thành Phật được?” Đạo Nhất hỏi: “Vậy làm thế nào mới 
      phải?” Sư nói: “Như trâu kéo xe, nếu xe không đi, thì đánh xe là phải hay 
      đánh trâu là phải?” Đạo Nhất lặng thinh, sư nói tiếp: “Ngươi học ngồi 
      thiền hay học ngồi Phật? Nếu học ngồi thiền, thiền không phải ngồi nằm. 
      Nếu học ngồi Phật, Phật không có tướng nhất định, đối pháp không trụ, 
      chẳng nên thủ xả. Ngươi nếu ngồi Phật, tức là giết Phật, nếu chấp tướng 
      ngồi, chẳng đạt ý kia.” Đạo Nhất nghe sư chỉ dạy như uống đề hồ, lễ bái 
      hỏi: “Dụng tâm thế nào mới hợp với vô tướng tam muội?” Sư bảo: “Ngươi học 
      pháp môn tâm địa như gieo giống, ta nói pháp yếu như mưa móc, nếu duyên 
      ngươi hợp sẽ thấy đạo nầy.” Đạo Nhất lại hỏi: “Đạo không phải sắc tướng 
      làm sao thấy được?” Sư nói: “Con mắt pháp tâm địa hay thấy được đạo. Vô 
      tướng tam muội cũng lại như vậy.” Đạo Nhất hỏi: “Có thành hoại chăng?”  Sư 
      nói: “Nếu lấy cái thành hoại tụ tán, thiện ác mà thấy đạo, là không thể 
      thấy đạo. Nghe ta nói kệ:  
                  Tâm địa hàm 
      chư chủng,
                  (Đất tâm chứa 
      các giống)
                  Ngộ trạch tức 
      giai manh
                  (Gặp ướt liền 
      nẩy mầm)
                  Tam muội hoa 
      vô tướng
                  (Hoa tam muội 
      không tướng)
                  Hà hoại phục 
      hà thành?
                  (Nào hoại lại 
      nào thành?) .
      
             Nhờ những lời 
      nầy mà Đạo Nhất khai ngộ    
      
             tâm ý siêu 
      nhiên—During the Kai-Yuan  
      
             era of the 
      T’ang dynasty (713-741) there  
      
       was a novice monk 
      called Ma-Tsu T’ao-Yi who constantly practice Zen meditation upon Mount 
      Heng. Nan-Yueh knew that T’ao-Yi  was a great vessel for the Dharma, and 
      once walked up to him and said: “ What does your Worthiness intend to do 
      by sitting in meditation?” Ma-Tsu said: “I intend to become a Buddha.” 
      Nan-Yueh then picked up a piece of tile from the ground and began grinding 
      on a rock. T’ao-Yi then asked: “What are you trying to make by grinding 
      that?” Nan-Yueh said: “I’m grinding it to make a mirror.” T’ao-Yi said: 
      “How can you make a irror by grinding a tile on a rock?” Nan-Yueh said: 
      “If you can’t make a mirror by grinding a tile on a rock, how can you 
      become a Buddha by sitting in meditation?” T’ao-Yi said: “What is the 
      correct way?” Nan-Yueh said: “It can be compared to an ox pulling a cart. 
      If the cart doesn’t move, do you strike the cart or strike the ox?” 
      T’ao-Yi didn’t answer. Nan-Yueh then said: “Are you sitting in order to 
      practice Zen, or are you sitting to be a Buddha? If you’re sitting to 
      practice Zen, then know that Zen is not found in sitting or lying down. If 
      you’re sitting to become a Buddha, then know that Buddha has no fixed 
      form. With respect to the constantly changing world, you should neither 
      grasp it nor reject it. If you sit to become a Buddha, you kill Buddha. If 
      you grasp sitting form then you have not yet reached the meaning.” When 
      T’ao-Yi heard this instruction it was as though he had drunk sweet nectar. 
      He bowed and asked: “How can one cultivate mind to be in accord with 
      formless samadhi?”  Nan-Yueh said: “You’re studying the Dharma gate of 
      mind-ground, and this activity is like planting seeds there. The essential 
      Dharma of which I speak may be likened to the rain that falls upon the 
      seeded ground. In this same manner your auspicious karmic conditions will 
      allow you to perceive the Way.”  T’ao-Yi then asked: “The Way is without 
      color or form. How can one perceive it?” Nan-Yueh said: “The Dharma eye of 
      mind-ground can perceive the true way. The formless samadhi is likewise 
      perceived.” T’ao-Yi then asked: “Does it have good and bad, or not?” 
      Nan-Yueh said: “If the Way is seen in the aggregation and disintegration 
      of good and bad, then it is not the way. Listen to this verse: 
      
          “The mind-ground 
      fully sown,
      
          When moisture 
      comes, all seeds sprout
      
          The formless 
      flower of samadhi,
      
          How can it be 
      bad or good?”     
      
      At these words 
      T’ao-Yi experienced great enlightenment and unsurpassed realization. 
               
      
      ·       
      Đệ tử nhập thất gồm có sáu người, sư ấn khả rằng: “Sáu 
      người  các ngươi đồng chứng thân ta, mỗi người khế hội một phần—Six 
      disciples entered Nan-Yueh-Huai-Rang’s room to received transmission. He 
      commended each of them, saying: “Six of you represent my body, each in 
      accord with one part of it.”  
      
      1.     
      Người được chân mày ta, giỏi về uy nghi là Thường Hạo—Chang-Hao 
      inherits my eyebrows and their dignified appearance. 
      
      2.     
      Người được mắt ta giỏi về ngó liếc là Trí Đạt—Zhi-T’a inherits my 
      eyes and their stern glare. 
      
      3.     
      Người được tai ta giỏi về nghe lý là Thản Nhiên—T’an-Ran inherits 
      my ears and their ability to hear true principle. 
      
      4.     
      Người được mũi ta giỏi về biết mùi là Thần Chiếu—Shen-Zhao inherits 
      my nose and its ability to perceive smelling. 
      
      5.     
      Người được lưỡi ta giỏi về đàm luận là Nghiêm Tuấn—Yuan-Xuan 
      inherits my tongue and its ability to articulate speaking. 
      
      6.     
      Người được tâm ta giỏi về xưa nay là Đạo Nhất—T’ao-Yi inherits my 
      mind and its knowledge of past and present.  
      
      ·       
      Sư lại bảo: “Tất cả các pháp đều từ tâm sanh, tâm không chỗ 
      sanh, pháp không thể trụ. Nếu đạt tâm địa, việc làm không ngại, không phải 
      thượng căn thì dè dặt chớ nói (nhất thiết chư pháp giai tùng tâm sanh, tâm 
      vô sở sanh, pháp vô sở trụ. Nhược đạt tâm địa sở tác vô ngại, phi ngộ 
      thượng căn nghi thận từ tai)—Nan-Yueh also said: “All dharmas are born of 
      mind. Mind is unborn. Dharmas are nonabiding. When one reaches the 
      mind-ground, one’s actions are unobstructed. Be careful using this 
      teaching with those not of superior understanding.  
      
      ·       
      Có vị Đại đức đến hỏi sư: “Như gương đúc tượng, sau khi 
      tượng thành không biết cái sáng của gương đi về chỗ nào?” Sư bảo: “Như Đại 
      đức tướng mạo lúc trẻ thơ hiện thời ở đâu?” Đại đức lại hỏi: “Tại sao sau 
      khi thành tượng không chiếu soi?” Sư bảo: “Tuy không chiếu soi, nhưng đối 
      y một điểm cũng chẳng được.”—A great worthy one asked Nan-Yueh: “If an 
      image is reflected in a mirror, where does the light of the image go when 
      it’s no longer observed?” Nan-Yueh said: “It’s similar to remembering when 
      Your Worthiness was a child. Where has your childlike appearance gone now? 
      The worthy one asked: “But afterward, why does the image not remain?” 
      Nan-Yueh said: “Although it is no longer reflected, it can be reproved 
      even slightly.”   
      
      ·       
      Sau Đạo Nhất đi giáo hóa ở Giang Tây, sư hỏi chúng: “Đạo 
      Nhất vì chúng thuyết pháp chăng?” Chúng thưa: “Đã vì chúng thuyết pháp.” 
      Sư hỏi: “Sao không thấy người đem tin tức về?”Chúng lặng thinh. Sư bèn sai 
      một vị Tăng đi thăm. Trước khi hỏi: ‘Làm cái gì?’ Y trả lời, nhớ ghi những 
      lời ấy đem về đây.” Vị Tăng đi thăm, làm đúng như lời sư đã dặn. Khi trở 
      về vị Tăng thưa: “Đạo Nhất nói: ‘Từ loạn Hồ sau ba mươi năm, chưa từng 
      thiếu tương muối.” Sư nghe xong gật đầu—Once after T’ao-Yi left Nan-Yueh 
      and was teaching in Jiang-Hsi, Nan-Yueh addressed the monks, saying: “Is 
      T’ao-Yi teaching for the benefit of beings or not?” Some monks in the 
      congregation replied: “He’s been teaching for the benefit of beings.” 
      Nan-Yueh said: “I’ve never heard any specific news about this.”  The 
      congregation couldn’t offer any news on this. Nan-Yueh dispatched a monk 
      to Ma-Tsu’s place, instructing him: “Wait until he enters the hall to 
      speak, and then ask him: ‘What’s going on?’ Take note of his answer and 
      then bring it back to tell it to me.” The monk then carried out Nan-Yueh’s 
      instructions. He returned and said: “Master Ma-Tsu said: ‘In the thirty 
      years since the barbarian uprising I’ve never lacked salt or sauce.’” 
      Nan-Yueh approved this answer.  
      
      ·       
      Sư thị tịch vào năm 744 sau Tây Lịch—He died in 744 A.D. 
      
      Nam Nhân: A man.
      
      Nam Nữ: Male and 
      female. 
      Nam Phong: South 
      wind. 
      Nam Phổ Đà: Tên một 
      ngôi chùa nổi tiếng trong quận sáu, thành phố Sài Gòn, Nam Việt Nam. Chùa 
      được xây dựng vào năm 1953 và đã trải qua bốn đời trụ trì. Chùa kiến lập 
      ba ngôi điện thờ của Phật Thích Ca, Bồ Tát Quán Thế Âm, và Bồ tát Địa 
      Tạng. Nam Phổ Đà là ngôi chùa nổi tiếng của người Trung Hoa bên tỉnh Phúc 
      Kiến, thuộc dòng Thiền Phổ Đà Tây Sơn. Chánh điện tôn trí thờ Tam Bảo với 
      tượng Phật bằng đá, tượng gỗ Tây Thiên Tam Thánh, hai bên có tượng Già 
      Lam, Hộ Pháp. Mặt sau thờ Tổ Bồ Đề Đạt Ma—Name of a famous pagoda, located 
      in the sixth district, Saigon City, South Vietnam. The pagoda was built in 
      1953 and headed by four successive elders. It was constructed with three 
      Holy Shrines worshipping Sakyamuni Buddha, Avalokitesvara Bodhisattva, and 
      Yama of Hell. Nam Phổ Đà is a famous Chinese pagoda from Fu-Chian province 
      belonging to the Buddhist sect of Tsi-Shan Ch’an Tzih. In the the Main 
      Hall stand stone statues of the Three Jewels and the wooden statues of the 
      Three Noble Ones of the West Heaven are worshipped. On both sides of the 
      statues stand those of Buddhist Bonze, Dharma Guardian. Patriarch 
      Bodhidharma is worshipped in the Back Hall.  
      Nam Phù: Jambudvipa 
      (skt)—See Nam Thiệm Bộ Châu. 
      Nam Phương: Phương 
      nam—Southern quarter.  
      Nam Phương Phật Giáo: 
      Nam Phương Phật Giáo đối lại với Bắc Phương Phật Giáo (từ đời vua A Dục 
      trở về sau, Phật giáo truyền từ vùng nam Ấn Độ như Tích Lan, Miến Điện, 
      Thái Lan)—Southern Buddhism, in contrast with Northern Buddhism 
      (Mahayana—Bắc phương Phật giáo).
      Nam Phương Vô Cấu Thế 
      Gới: Theo Kinh Pháp Hoa thì Nam Phương Vô Cấu Thế Giới là thế giới mà 
      nàng Long Nữ đã thành Phật—According to the Lotus Sutra, the Southern Pure 
      Land is a land to which the dragon-maid went on attaining Buddhahood.
      Nam Sơn: Ngài Đạo 
      Tuyên đời nhà Đường là vị tổ của tông Tứ Phần Luật, trụ trì tại chùa trong 
      núi Chung Nam, nên chùa được gọi là Nam Sơn—Southern hill, name of a 
      monastery which gave its name to T’ao-Hsuan of the T’ang dynasty, founder 
      of the Vynaya school.
      ** For more information, 
      please see Đạo 
           Tuyên. 
      Nam Tạng: 
      
      1)     
      Tạng Kinh Pali của miền Nam Ấn (ở các xứ Tích Lan, Miến Điện, Thái 
      Lan)—The Southern collection or Edition of Buddhist Canon from Ceylon, 
      Burma, and Thailand.
      
      2)     
      Nam Tạng Kinh của Trung Quốc, ấn bản tại Nam Kinh đời nhà Minh 
      (1368-1398)—The Southern Collection, or edition, of the Chinese Buddhist 
      Canon, published at Nanking under the ming dynasty (1368-1398).    
      Nam Thanh Nữ Tú: 
      Handsome man and woman. 
      Nam Tháp Quang Dũng 
      Thiền Sư: Zen Master Nan-Ta-Kuang-Yong—See Quang Dũng Thiền Sư. 
      Nam Thiệm Bộ Châu: 
      Jambudvipa (skt)—Nam Châu—Nam Bộ—Nam Diêm Phù Đề—Nam Phù—Nam Thiệm Bộ 
      Châu, một trong tứ đại châu, tọa lạc phía nam núi Tu Di, bao gồm thế giới 
      được biết đến bởi người Ấn Độ thời cổ sơ. Theo Eitel trong Trung Anh Phật 
      Hoc Từ Điển, Nam Thiệm Bộ Châu bao gồm những vùng quanh hồ Anavatapta và 
      núi Tuyết (tức là cõi chúng ta đang ở, trung tâm châu nầy có cây diêm phù. 
      Chính ở cõi nầy, Đức Phật đã thị hiện, và ở cõi nầy có nhiều nhà tu hành 
      hơn hết)—The Southern Continent, one of the four continents, that situated 
      south of Mount Meru, comprising the world known to the early Indian.  
      According to Eitel in The Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, 
      Jambudvipa includes the following countries around the Anavatapta lake and 
      the Himalayas:
      
      1)     
      Bắc—North: Hung Mông Thổ—Huns-Mongolians-Turks.
      
      2)     
      Đông—East: Trung Quốc-Đại Hàn-Nhật—China-Korea-Japan. 
      
      3)     
      Nam—South:
      
      a)     
      Bắc Ấn—Northern India: Hai mươi bảy vương quốc—Twenty-seven 
      kingdoms.
      
      b)     
      Đông Ấn—Eastern India: Mười vương quốc—Ten kingdoms.
      
      c)     
      Nam Ấn—Southern India: Mười lăm vương quốc—Fifteen kingdoms.
      
      d)     
      Trung Ấn—Central India: Ba mươi vương quốc—Thirty kingdoms.
      
      e)     
      Tây Ấn—Western Indian: Ba mươi bốn vương quốc—Thirty-four kingdoms.
      
      Nam Thiên Nhất Trụ: 
      Tên của một ngôi chùa nổi tiếng nằm trong quận Thủ Đức, thành phố Sài Gòn, 
      Nam Việt Nam. Chùa được Hòa Thượng Trí Dũng kiến lập vào năm 1959, được 
      làm theo kiểu chùa Một Cột ở Hà Nội. Chánh điện được xây cất rất công phu. 
      Các pho tượng Phật, các bàn hương án, bao lam, và phù điêu là những tác 
      phẩm nghệ thuật đặc sắc. Chùa có bản kinh Phật bằng lá bối do Thủ Tướng Ấn 
      Độ tặng năm 1964—Name of a famous pagoda located in Thủ Đức district, 
      Saigon City, South Vietnam. It was built in 1959 by Most venerable Trí 
      Dũng. Its general structure follows the design of One-Pillar Pagoda in Hà 
      Nội. The Main Hall was constructed skillfully. The Buddha statues, altars, 
      carved drafts, bas-reliefs, etc. are magnificient masterpieces. The pagoda 
      has conserved a sutra copied on palm leaves, a gift from Indian Prime 
      Minister in 1964.   
      Nam Thiên Trúc: Nam 
      Ấn Độ—Southern India. 
      Nam Tông: Nam Tông, 
      hay trường phái Đạt Ma chia làm hai phái bắc nam, bắc Thần Tú, nam Huệ 
      Năng, vào khoảng năm 700 sau Tây Lịch—The Southern sect, or Bodhidharma 
      school, divided into northern and southern, the northern under Shen-Hsiu, 
      the southern under Hui-Neng, around 700 A.D. 
      Nam Trung Tam Giáo: 
      Tam giáo của Đức Thích Ca Mâu Ni đã được Dương Tử thuyết giảng—The three 
      modes of Sakyamuni’s teaching as expounded by the teachers south of 
      Yang-Tze:
      
      1)     
      Tiệm Giáo: Tiệm giáo đưa hành giả từng bước vào niết bàn—The 
      gradual method, leading the disciples step by step to nirvana.
      
      2)     
      Đốn Giáo: Đốn Giáo được Phật Thích Ca dùng để giảng dạy cho hàng Bồ 
      Tát—The immediate method, by which he instructed the bodhisatvas, 
      revealing the whole truth.
      
      3)     
      Bất Định Giáo: Bất định giáo ứng dụng cho từng cá nhân riêng lẻ—The 
      undetermined method, by which the teaching is adapted to each individual 
      or group.    
      Nam Tuyền: Nam 
      Tuyền, đệ tử của ngài Mã Tổ—Nan-Ch’uan, a monk of the T’ang dynasty around 
      800, a disciple of Ma-Tzu.
      ** For more information, 
      please see Nam 
           Tuyền Phổ Nguyện 
      Thiền Sư.
      Nam Tuyền Phổ Nguyện 
      Thiền Sư: Nan-Ch’uan-Pu-Yuan 749-835—Thiền sư Nam Tuyền Phổ Nguyện 
      sanh năm 749, là đệ tử của Mã Tổ và là thầy của Triệu Châu. Nam Tuyền là 
      một trong những thiền sư lớn của Trung Quốc vào thời nhà Đường. Nam Tuyền 
      đã nghiên cứu sâu xa triết học Phật giáo, đặc biệt là triết thuyết của các 
      phái Pháp Tướng, Hoa Nghiêm và Tam Luận của Trung Quốc. Khi ông đến học 
      với Mã Tổ Đạo Nhất, ông đạt được đại giác thâm sâu—Zen master 
      Nan-Ch’uan-Pu-Yuan was born in 749 A.D., was a disciple of Ma Tsu (Mã Tổ) 
      and a teacher of Zhao-Chou. Nan-Ch’uan, one of the great Chinese Zen 
      masters of the T’ang dynasty. Nan-Ch’uan already had a period of intensive 
      study of Buddhist philosophy behind him, including the teachings of the 
      Fa-Hsiang, Hua-Yen, and San-Lun doctrines of Chinese Buddhism. When he 
      came to Ma-Tsu, under whose guidance he realized profound enlightenment.  
      
      
      ·       
      Trong cuộc gặp gỡ đầu tiên với Mã Tổ, người ta nói sư đã đạt 
      được Du hý tam muội (chánh định ngao du tự tại)—At his first meeting with 
      Ma-Tsu, he is said to have “instantly forgot the net of delusions and 
      delighted in samadhi.”
      
      ·       
      Một hôm, sư bưng cháo cho chúng Tăng, Mã Tổ hỏi: “Trong 
      thùng thông là cái gì?” Sư thưa: “Ông già nên ngậm miệng, nói năng làm 
      gì?”—One day, Nan-Ch’uan was serving rice gruel to the monks from a 
      bucket, Ma-Tsu asked: “What’s in the bucket?” Nan-Ch’uan said: “The old 
      monk should close his mouth and say this!” 
      
      ·       
      Năm 795, sau khi được Mã Tổ truyền pháp, sư đến núi Nam 
      Tuyền cất am, lấy tên ngọn núi nầy làm tên mình, và ở mãi hơn ba mươi năm 
      chưa từng xuống núi. Niên hiệu Thái Hòa năm 827. Liêm sứ thành Tuyền Châu 
      là Lục Công Tuyên nghe đạo phong của sư bèn cùng Giám quân, và nhiều thiền 
      sư khác trong vùng đồng đến thỉnh sư xuống núi, với tư cách đệ tử thỉnh 
      thầy. Từ đây, sư mở rộng đạo huyền, số người tham học không khi nào dưới 
      vài trăm—In 795, after gaining transmission from Ma-Tsu, Nan-Ch’uan built 
      a solitary hut on Mount Nan-Ch’uan in Chi-Chou, from which his naem is 
      derived,  and remained there for more than thirty years practicing Zen. In 
      827, a high-ranking official named Lu-Kung and some Zen monks persuaded 
      and invited Nan-Ch’uan to descend from the mountain and honoured him by 
      becoming his student. Due to this event, Nan-Ch’uan’s reputation spread 
      widely  and students numbering in hundreds came to study under him. 
      
      ·       
      Sư dạy chúng: “Mã Tổ ở Giang Tây nói ‘Tức tâm tức Phật,’ 
      Vương lão sư chẳng nói thế ấy, mà nói ‘Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, 
      chẳng phải vật,’ nói thế có lỗi chăng?” Triệu Châu lễ bái lui ra—Once, Zen 
      master Nan-Ch’uan said: “Ma-Tsu of Jiang-Xi said: ‘Mind is Buddha.’ But 
      old teacher Wang doesn’t talk that way. It’s not mind, it’s not Buddha, 
      it’s not a thing. Is there any error in speaking thus?” Zhao-Chou bowed 
      and went out. 
      
      ·       
      Nhà Đông nhà Tây tranh nhau hai con mèo, sư trông thấy liền 
      bảo chúng: “Nói được là cứu con mèo, nói không được thì chém nó.”  Chúng 
      Tăng đều ngơ ngác không nói được. Sư liền chém con mèo. Triệu Châu ở ngoài 
      đi vào. Sư dùng câu nói trước hỏi. Triệu Châu liền cỡi giày để trên đầu đi 
      ra. Sư bảo: “Giá khi nảy có ngươi ở đây, đã cứu được con mèo.”—The monks 
      of the eastern and western halls were arguing about a cat. Nan-Ch’uan 
      picked it up and said to the monks: “Say the appropriate word and you’ll 
      save the cat. If you don’t say the appropriate word then it gets cut in 
      two!” The monks were silent. Nan-Ch’uan cut the cat in two. Later, 
      Zhao-Chou returned from outside the temple and Nan-Ch’uan told him what 
      had happened. Zhao-Chou then removed his sandals, placed them on his head 
      and went out. Nan-Ch’uan said: “If you had been there, the cat would have 
      been saved.”   
      
      ·       
      Sư thượng đường dạy chúng: “Phật Nhiên Đăng nói: ‘Nếu tâm 
      tướng khởi nghĩ sanh ra các pháp là hư giả chẳng thật.’ Vì cớ sao? Vì tâm 
      còn không có, lấy gì sanh ra các pháp, ví như bóng phân biệt hư không, như 
      người lấy tiếng để trong rương, cũng như thổi lưới mà muốn được đầy hơi. 
      Cho nên lão túc bảo: ‘Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật.’ 
      Nói thế là dạy các huynh đệ chỗ đi vững chắc. Nói: ‘Bồ Tát Thập Địa trụ 
      chánh định Thủ Lăng Nghiêm được pháp tạng bí mật của chư Phật, tự nhiên 
      được tất cả thiền định giải thoát thần thông diệu dụng, đến tất cả thế 
      giới khắp hiện sắc thân, hoặc thị hiện thành Phật chuyển bánh xe Đại Pháp, 
      vào Niết Bàn, khiến vô lượng vào một lỗ chơn lông, nói một câu trải vô 
      lượng kiếp cũng không hết nghĩa, giáo hóa vô lượng ngàn ức chúng sanh được 
      vô sanh pháp nhẫn, còn gọi là sở tri ngu vi tế. Sở tri ngu cùng đạo trái 
      nhau. Rất khó! Rất khó! Trân trọng.”—Zen Master Nan-Ch’uan-Pu-Yuan entered 
      the hall and addressed the monks, saying: “Dipamkara Buddha said: ‘The 
      arising in mind of a single thought gives birth to the myriad things.’ 
      ‘Why is it that phenomenal existence is empty? If there is nothing within 
      mind, then how does one explain how the myriad things arise? Isn’t it as 
      if shadowy forms differentiate emptiness? This question is like someone 
      grasping sound and placing it in a box, or blowing into a net to fill the 
      air. Therefore some old worthy said: ‘It’s not mind. It’s not Buddha. It’s 
      not a thing.’ Thus we just teach you brethren to go on a journey. It’s 
      said that Bodhisattvas who have passed through the ten stages of 
      development and attained the Surangama Samadhi and the profound Dharma 
      store-house of all Buddhas naturally realize the pervasive wondrous 
      liberation of Zen samadhi. Throughout all worlds the form-body is 
      revealed, and the highest awakening is manifested. The great Wheel of 
      Dharma is turned, nirvana is entered, and limitless space can be placed in 
      the hole on the point of a feather. ‘Although a single phrase of scripture 
      is recited for endless eons, its meaning is never exhausted. It’s teaching 
      transports countless billions of beings to the attainment of the unborn 
      and enduring Dharma. And that which is called knowledge or ignorance, even 
      in the very smallest amount, is completely contrary to the Way. So 
      difficult! So difficult!. Take care!"  
      
      ·       
      Một trong những công án gây ấn tượng mạnh nhất về Nam Tuyền 
      được ghi trong thí dụ 40 Bích Nham Lục. Đại sư Lục Hoàn nói với Nam Tuyền 
      trong cuộc trò chuyện. Lục Hoàn hỏi, “Triệu Pháp sư nói ‘Trời đất cùng ta 
      đồng gốc, vạn vật cùng ta một thể,’ thật là kỳ quái! Nam Tuyền chỉ một 
      bông hoa trong vườn rồi nói với Đại Sư, “Thời nhân thấy gốc hoa nầy giống 
      như cơn mộng.”—One of the most impressive koans with Nan-Ch’uan is example 
      40 of the Pi-Yen-Lu. Lu-Huan Tai-Fu said to Nan-Ch’uan in the course of 
      their conversation, “Chao the Dharma teacher said, ‘Heaven and Earth and I 
      have the same root; the ten thousand things and I are one body.’ 
      Absolutely wonderful! Nan-Ch’uan, pointing to a blossom in the garden 
      said, “The man of our times sees this blossoming bush like someone who is 
      dreaming.”
      
      ·       
      Nam Tuyền còn nổi tiếng về những châm ngôn sinh động và 
      những thuật ngữ trái nghịch được ông dùng để đào tạo đệ tử. Có lúc ông 
      tuyên bố có vẻ đi ngược lại với thầy Mã Tổ của mình như: “Ý thức không 
      phải là Phật; nhận thức không phải là đường đi (Vô Môn Quan 34)—Nan-Ch’uan 
      was famous for his vivid expressions and paradoxical pronouncements in the 
      course of Zen training, come a number of much-cited Zen sayings. Thus, in 
      apparent contradiction of his master Ma-Tsu, such as “Consciousness is not 
      Buddha, knowledge is not the way.” (Wu-Men-Kuan 34). 
      
      ·       
      Một thí dụ nổi tiếng khác trong Vô Môn Quan 27 cũng được 
      biết tới, “Con đường  không phải là tinh thần, không phải là Phật, cũng 
      không phải là sự vật.”—Another equally well known is example 27 of the 
      Wu-Men-Kuan: “The way is not mind, it is not Buddha, it is not things.” 
      
      
      ·       
      Nam Tuyền có 17 người kế vị Pháp, trong đó Triệu Châu Tùng 
      Thẩm và Trường Sa Cảnh Sầm là hai đệ tử lớn—Nan-Ch’uan had seventeen 
      dharma successors, among them Chao-Chou-Tsung-Shen and 
      Ch’ang-Sha-Ching-Tsen were two most prominent disciples. 
      
      ·       
      Nam Tuyền được nhắc tới trong các thí dụ 14, 19, 27 và 34 
      của Vô Môn Quan, cũng như trong các thí dụ 28, 31, 40, 63, 64 và 69 của 
      Bích Nham Lục—Nan-Ch’uan appears in examples 14, 19, 27, and 34 of the 
      Wu-Men-Kuan, and in examples 28, 31, 40, 63, 64 and 69 of the Pi-Yen-Lu. 
      
      
      ·       
      Những châm ngôn thuyết giảng của Nam Tuyền được thu thập vào 
      Trịnh Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư Quang Lục—Nan-Ch’uan’s comments 
      and instructions are recorded in the 
      Ch’ing-Chou-Nan-Ch’uan-Pu-Yuan-Ch’an-Shih Kuang-Lu or Great Collection of 
      the Words of the Ch'’n Master Nan-Chuan-Pu-Yuan from Ch’ing-Chou. 
      
      ·       
      Sư thị tịch năm 834—He died in 834.       
      Nan: Khó 
      khăn—Difficult—Hard.
      Nan Đà: Nanda 
      (skt). 
      
      1)     
      Hoan Hỷ: Happiness—Pleasure—Joy—Felicity.
      
      2)     
      Mục Ngưu Nan Đà là tên của một vị Tỳ Kheo, nhân hỏi Phật về 11 công 
      việc thả trâu mà biết hết thảy mọi trí tuệ của Phật: Name of a disciple, 
      Cowherd Nanda, who enlightened after asking the Buddha about the 11 
      methods of taking care of a cowherd. 
      
      3)     
      Thiện Hoan Hỷ Nan Đà là một vị A La Hán đệ tử của Phật, khác với 
      ngài A Nan Đà. Ông là một trong những đại đệ tử của Đức Phật, con vua Tịnh 
      Phạn và bà dì cũng là di mẫu của Phật là bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề. Khi sanh ra 
      ông có một dáng dấp vui vẻ nên được đặt tên là Thiện Hoan Hỷ. Lúc Đức Phật 
      xuất gia thì ông thế ngôi Thái Tử của Ngài để sau nầy nối ngôi vua Tịnh 
      Phạn. Ngay lúc ông sắp cưới nàng Sundari xinh đẹp và lên ngôi vua, thì Đức 
      Phật Thích Ca Mâu Ni trở về thành Ca Tỳ La Vệ lần đầu tiên kể từ ngày Ngài 
      đắc đạo. Nan Đà gặp Phật và xuất gia gia nhập giáo đoàn. Lúc đầu ông bị 
      vướng víu bởi những nghi nan vọng tưởng, nhưng dưới sự hướng dẫn của Phật 
      chẳng bao lâu sau ông đắc quả A La Hán. Ngài Nan Đà cũng có dáng dấp giống 
      y như Phật, chỉ thấp hơn Phật chừng ba tấc; ngài cũng có ba mươi hai tướng 
      hảo của Phật, dù không toàn hảo. Vì thế khi ngài mặc áo vàng, rất nhiều 
      khi người ta tưởng lầm ngài là Phật; cho nên Đức Phật bảo ngài nên mặc áo 
      đen cho mọi người phân biệt được với Phật: Sundarananda, an arhat, 
      different from Ananda. He was one of the Buddha’s great disciplies and 
      younger half brother, the son of Shuddhodana and Sakyamuni’s maternal aunt 
      Mahaprajapati. He had a graceful figure and was known as Sundarananda or 
      Beautiful Nanda. After Sakyamuni remounced the secular world, Nanda took 
      his place as heir to King Shuddhodana. Just as he was about to marry the 
      beautiful Sundari, Sakyamuni Buddha returned to Kapilavastu for the first 
      time following his Awakening, and Nanda was persuaded to join the Buddhist 
      Order. It is said that he was for some time tormented by doubts and second 
      thoughts, under Sakyamuni Buddha’s guidance, he was eventually  able to 
      fully dedicate himself to Buddhist practice and attained the state of 
      arhat. Nanda was only three inches shorter than Buddha and had all 
      thirty-two outstanding traits of the Buddha, though not as perfect. Thus, 
      when he wore his golden ropes, many times Buddhists mistakenly assumed he 
      was Buddha; therefore, the Buddha had him wear a black rope so everyone 
      could distinguish Buddha and Nanda.  
      
      4)     
      Một vị khác nữa cũng tên Nan Đà, người bán sữa, đã cúng dường sữa 
      lên Đức Phật: Another Nanda, a milkman, who gave Sakyamuni milk.
      
      5)     
      Một người đàn bà nghèo cũng tên Nan Đà, dùng hết gia tài một đồng 
      tiền mua dầu đốt đèn cúng Phật: A poor woman who used the only penny she 
      had (could only offer a cash)  to buy oil for a lamp to Buddha. 
      
      6)     
      Tên của một vị Long Vương: Name of a Naga King.  
      Nan Đà Bạt Nan Đà: 
      Tên của hai Long Vương Nan Đà và Bạt Nan Đà, đã bảo vệ xứ Ma Kiệt Đà—Name 
      of Nanda and Upananda, two naga brothers, who protected Magadha.   
      Nan Đề: Nandi 
      (skt). 
      
      1)     
      Người hạnh phúc—The happy one.
      
      2)     
      Tên của Thần Visnu: Name of Visnu.
      
      3)     
      Tên của Thần Siva: Name of Siva.
      
      4)     
      Tên của một vị Tăng người gốc vùng bắc Ấn: Name of a monk from 
      northern India.
      
      5)     
      Từ dùng để chỉ tháp mộ: A term for “stupa.” 
      Nan Đề Ca: Nandika 
      (skt)—Tên của một trong số các người em của Đề Bà Đạt Đa—Name of one of  
      Devadatta’s brothers. 
      Nan Đề Ca Vật Đa: 
      Nandikavarta or Nadyavarta (skt)—Xoay vòng kiết tường hay xoay quắn về bên 
      phải, như kiểu tóc xoắn của Đức Phật—Joyous or auspicious turning or 
      turning to the right, i.e. curling as a Buddha’s hair. 
      Nan Độ: Chúng sanh 
      cương cường rất khó tế độ—Hard to cross over, to save or to be saved. 
      ** For more information, 
      please see Nan Hóa, 
           and Nan Hóa Tam Cơ in 
      Vietnamese-
           English Section. 
      Nan Độ Hải: Biển 
      sanh tử luân hồi khó lòng mà vượt qua được—The ocean hard to cross, the 
      sea of life and death, or mortality. 
      Nan Hóa: Khó chuyển 
      hóa—Difficult of conversion, or transformation. 
      Nan Hóa Tam Cơ: Ba 
      loại căn cơ khó giáo hóa tế độ—Three kinds of capacities which are 
      difficult to transform.
      
      1)     
      Loại hủy báng Đại Thừa: Those who defame the Mahayana.
      
      2)     
      Loại phạm tội ngũ nghịch: Those who commit the five ultimate 
      betrayals or five grave sins.
      
      3)     
      Loại Xiển Đề: Those who abandon Buddha-truth—See Xiển Đề and Nhất 
      Xiển Đề in Vietnamese-English Section, and Icchantika in 
      Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.   
      Nan Hữu: Hy 
      Hữu—Hard to have—Rare. 
      Nan Nhập: Khó 
      vào—Difficult to enter or attain. 
      Nan Phục: Khó khắc 
      phục—Difficult to subdue—Unconquerable. 
      Nan Phục Địa: Phật 
      Địa (không có sức mạnh nào có thể hàng phục được Đức Phật)—Buddha Land.
      
      Nan Thắng: Khó hàng 
      phục, địa thứ năm trong mười Bồ Tát Địa, trong giai đoạn nầy mọi dục vọng 
      phiền não đều được điều phục và thông suốt chân lý của vạn hữu—Hard to 
      overcome, or be overcome, unconquerable, the fifth of the ten bodhisattva 
      stages when all passion and illusion is overcome and understanding of all 
      things attained. 
      ** For more information, 
      please see Thập Địa 
           Phật Thừa. 
      Nan Thắng Địa: See 
      Nan Thắng, and Thập Địa Phật Thừa in Vietnamese-English Section.  
      Nan Tư: Khó có thể 
      suy đoán được, từ dùng để tán thán Phật Pháp—A term used to praise 
      Buddha-truth, meaning hard to think of, or hard to realize—Incredible. 
      Nanh Vuốt: 
      Clutches. 
      Nanh Vuốt Tử Thần: 
      The clutches of death. 
      Nào: Which. 
      Nảo: Draft. 
      Não: 
      
      1)     
      Não phiền: Rage—Irritation—Annoyance—Vexation.
      
      2)     
      Óc: Brain. 
      Não Lòng: 
      Heart-rending. 
      Não Nề: 
      Agonizing—Thrilling. 
      Não Nùng: 
      Sorrowful—Sad.
      Não Nuột: Agonized 
      crying.
      Nạp: 
      
      1)     
      Bá nạp: Nạp những mảnh vải rách lại với nhau—To patch rags 
      together. 
      
      2)     
      Dâng nạp—To offer—To pay. 
      
      3)     
      Nạp Y: Áo của chư Tăng Ni được đùm vá bằng những mảnh vải rách: A 
      monk’s or nun’s garment, supposed to be made of rags. 
      
      4)     
      Thu nạp: To receive—To take. 
      Nạp Bá: Loại áo 
      trùm vai, được chư Tăng mặc khi thuyết pháp—A stole worn during teaching.
      
      Nạp Chúng: Các vị 
      Tăng chúng mặc y áo bá nạp—Monks who wear patched robes.
      Nạp Cốt: Thu lấy 
      xương cốt đem chôn—To bury bones, or a skeleton. 
      Nạp Cụ: Thọ nhận cụ 
      túc giới nơi thân mình—To accept all the commandments, or rules. 
      Nạp Già Lê: 
      Sanghati (skt)—Còn gọi là Nạp Già Lê, là loại áo Tăng Già Lê trong bộ Nạp 
      Y, từ 9 đến 25 mảnh vá lại với nhau—The sanghati or coat of patches 
      varying from 9 to 25 (patched of seven pieces and upwards). 
      Nạp Giới: Thụ giới 
      hay là thụ nhận giới thể nơi thân mình—To receive or accept the 
      commandments. 
      Nạp Mạo: Chiếc nón 
      được làm bằng những vật liệu vải do đàn na bố thí—A cap made of bits of 
      given material. 
      Nạp Mộ: Namah 
      (skt)—See Nam Mô. 
      Nạp Phược Ba: Nạp 
      Phược Ba, tên của một thành phố cổ mà người ta đã lấy tên ngài Huyền Trang 
      để đặt cho nó. Thành phố nầy nằm gần khu vực Y Tuần, đế đô của nhà Hán, 
      sau nầy được biết như là Nob hay Lop trong truyện ký của Marco Polo. Bây 
      giờ là thành phố Charkhlik—Na-Fu-Po, Hsuan-Tsang’s name for a city on the 
      ancient site of I-Hsun, capital of Shan-Shan in the Former Han dynasty, 
      afterwards known as Nob or Lop in Marco Polo. It corresponds to the modern 
      Charkhlik. 
      Nạp Phược Đề Bà Củ La: 
      Navadevakula (skt)—Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, Nạp Phược 
      Đề Bà Củ La, một thành phố cổ chỉ cách Kanyakubdja có vài dậm về phía đông 
      nam, bên bờ đông sông Hằng, bây giờ là thành phố Nobatgang—According to 
      Eitel in The Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, Navadevakula, 
      an ancient city, a few miles south-east of Kanyakubdja, on the eastern 
      bank of the Ganges. The present Nobatgang.  
      Nạp Phược Tăng Già Lam: 
      Navasangharama (skt)—Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, Nạp 
      Phược Tăng Già lam là ngôi tự viện cổ gần thành Baktra, nổi tiếng với ba 
      thứ xá lợi của Đức Phật, răng Phật, bồn nước nhỏ, và cây tích trượng của 
      Phật—According to Eitel in The Dictionary of Chinese-English Buddhist 
      Terms, Navasangharama, an ancient monastery near Baktra, famous for three 
      relics of Sakyamuni, a tooth, a basin, and a staff. 
      Nạp Tử: Còn gọi là 
      Nạp Tăng, tên gọi khác của Thiền Tăng (Thiền Tăng thường mặc áo nạp y đi 
      chu du đó đây; tuy nhiên, nạp tăng dùng chung cho tất cả Tỳ Kheo chứ không 
      riêng Thiền Tăng)—A monk, especially a peripatetic monk. 
      Nạp Xà Ư Đồng: Bỏ 
      rắn vào ống, ví với việc thiền định cột tâm—To put a snake into a tube, 
      i.e. meditation able to confine unruly thoughts. 
      Nạp Y: Phấn Tảo 
      Y—Nhặt lấy những mảnh vải rách mà người ta vứt đi để kết lại làm áo cho 
      Tăng Ni (bất kể vải rách ấy là của người hốt phân hay của hạng thủ đà 
      la)—A monk’s robe, garments made of castaway rags, the patch-robe of a 
      monk. 
      Này: Here. 
      Nảy: To bounce. 
      Nảy Chồi: To 
      shoot—To sprout  
      Nảy Đom Đóm: To see 
      stars. 
      Nảy Nở: To 
      increase—To grow. 
      Nãy: Hồi nãy—Just 
      now. 
      Nặc: Lời hứa hẹn—A 
      promise—To promise. 
      Nặc Cù Đà: 
      Nyagrodha (skt)—Cây vả (sung) Ấn Độ—The Indian fig-tree. 
      Nặc Cự La: Nakula 
      (skt)—Một trong 16 vị La Hán—One of the sixteen arhats. 
      Nặc Già Nặc: Nagna 
      (skt). 
      
      1)     
      Trần truồng—Naked.
      
      2)     
      Đạo sĩ lõa thể: A naked mendicant.
      
      3)     
      Tên của Thần Siva: A name of Siva.
      
      4)     
      Kim Cang vương: A Vajra-king.  
      Nặc Ngôn: See Nặc.
      
      Năm: 
      
      1)     
      Five.
      
      2)     
      Year.
      Năm Đại Suy Tướng Của 
      Chư Thiên Lúc Sắp Mạng Chung: Five major deterioration characteristics 
      of heavenly beings who are nearing death—See Ngũ Suy. 
      Năm Đại Tội: Five 
      grave offenses—Five deadly sins (killing one’s father or one’s mother or 
      an arahant, causing dissension within the Sangha, causing the Tathagata to 
      bleed)—See Ngũ Nghịch. 
      Năm Đạo Sĩ: The 
      five learned monks—See Năm Đệ Tử Đầu Tiên Của Đức Phật. 
      Năm Đặc Tính Của Công 
      Án: Thiền chẳng phải là tâm lý học hay triết học, mà là một kinh 
      nghiệm mang đầy ý nghĩa sâu xa và chứa đầy những nội dung sống động và 
      siêu thoát. Trong Thiền, kinh nghiệm là chung quyết, là quyền năng của 
      chính nó. Nó là chân lý cứu cánh, không do từ tri kiến thế gian mà ra; nó 
      thỏa mãn mọi khát vọng của con người. Mỗi người phải thực hiện ngay trong 
      chính mình, chứ không dựa vào những quyền năng từ bên ngoài. Ngay cả giáo 
      lý của Phật Thích Ca, hay thuyết của chư Tổ, dù có thâm sâu và chân chính 
      đi nữa, chẳng dính gì đến ai cả nếu như người ta không tiêu hóa chúng 
      thành sinh mệnh của chính mình; ấy là nói rằng chúng phải xuất phát ngay 
      từ những kinh nghiệm riêng tư của mình. Theo Thiền sư D.T. Suzuki trong 
      Thiền Luận, Tập II, sự thể hiện kinh nghiệm vừa kể trên gọi là ‘ngộ.’ Tất 
      cả mọi công án là những phát ngôn của ‘ngộ’ không qua trung gian trí thức. 
      Có năm đặc tính của việc thực tập công án—Zen is neither psychology nor 
      philosophy, but it is an experience charged with deep meaning and laden 
      with living, exalting contents. The experience is final and its own 
      authority. It is the ultimate truth, not born of relative knowledge, that 
      gives full satisfaction to all human wants. It must be realized directly 
      within oneself: no outside authorities are to be relied upon. Even the 
      Buddha’s teaching and the master’s discourses, however deep and true they 
      are, do not belong to one so long as they have not been assimilated into 
      his being, which means that they are to be made to grow directly out of 
      one’s own living experience.  According to Zen Master D.T. Suzuki in the 
      Essays of Zen Buddhism, Book II, the above mentioned realization of 
      experience is called ‘satori.’ All koans are the utterances od satori with 
      no intellectual meditations. There are five characteristics concerning the 
      koan exercise.
      
      1)     
      Công án được đề ra cho người học là để dẫn tới tâm trạng căng thẳng 
      cực độ: The koan is given to the student first of all to bring about a 
      highly wrought-up state of consciousness. 
      
      2)     
      Khả năng biện biệt được gác lại, tức là đình chỉ hoạt động phù 
      phiếm hơn của tâm trí hầu cho những phần chính yếu và sâu xa hơn, thường 
      thường vùi sâu, có thể được khai phát và thành tựu những bổn phận của 
      chúng: The reasoning faculty is kept in abeyance, that is, the more 
      superficial activity of the mind is set at rest so that its more central 
      and profounder parts which are found generally deeply buried can be 
      brought out and exercised to perform their native functions. 
      
      3)     
      Những trung tâm hành xử, vốn dĩ là những căn cơ của một cá tính, 
      được vận dụng đến mức tối đa để giải quyết công án. Đây là điều mà Thiền 
      sư nói đến khi ông nhắc đến tin lớn và nghi lớn như hai thế lực cốt yếu 
      nhất cần có để quy định phẩm tính của một môn đệ Thiền có khả năng. Còn 
      như việc tất cả người xưa quyết ý dâng hết thân tâm của mình cho sự thành 
      thục của Thiền, thì điều đó cho thấy cái vĩ đại của lòng tin tưởng của họ 
      nơi chân lý tối hậu, và cũng chứng tỏ sức mạnh của tinh thần tham sách của 
      họ, gọi là ‘khổ cần;’ cái tinh thần ấy không từng xao lãng hoạt động cho 
      đến lúc đạt được mục đích, nghĩa là cho đến lúc hiện chứng được Phật tính: 
      The effective and conative centres which are really the foundations of 
      one’s personal character are chargd to do their utmost solution of the 
      koan. This is what  the Zen master means when he refers to '‘reat 
      faith'’and '‘reat spirit of inquiry'’as the two most essential powers 
      needed in the qualification of a successful Zen devotee. The fact that all 
      great masters have been willing to give themselves up, body and soul, to 
      the mastery of Zen, proves the greatness of their faith in ultimate 
      reality, and also the strength of their spirit of inquiry known as 
      ‘seeking and contriving,’ which never suspends its activity until it 
      attains its end, that is, until it has come into the very presence of 
      Buddhata itself.   
      
      4)     
      Khi sự viên mãn của tinh thần tới tột độ như thế ở đây nổi bật là 
      một trạng thái trung tính của tâm thức mà các nhà tâm lý học khảo cứu về ý 
      thức tôn giáo gọi nhầm là ‘xuất thần.’ Trạng thái tâm thức thhiền nầy khác 
      hẳn xuất thần vì rằng xuất thần là đình chỉ những thế lực tâm lý trong khi 
      tinh thần thì đắm chìm torng việc chiêm ngưỡng một cách thụ động; trái 
      lại, trạng thái tâm thức của thiền là một trạng thái đã được thúc đẩy bởi 
      sự thực tập vô cùng tích cực của tất cả những khả năng cốt yếu tạo thành 
      một nhân cách. Ở đây chúng được tập trung  hẳn vào một sở tri độc nhất, 
      gọi là trạng thái ‘nhất tâm.’ Nó cũng được coi như là một trạng thái đại 
      nghi. Đây là lúc tâm thức thường nghiệm với tất cả nội dung vừa hữu thức 
      vừa vô thức, đang vượt qua ranh giới của nó, và bằng trí năng, bắt liên 
      lạc với cái bất khả tri, siêu việt, vô thức. Trong trạng thái xuất thần, 
      không có sự xé rào vượt qua như thế, bởi vì nó là một thứ cứu cánh tĩnh, 
      không cho phép tiến xa thêm nữa. Trong trạng thái xuất thần, chẳng có 
      tương đương nào với hành vi ‘nhảy xuống vực thẳm’ hay ‘buông tay’: When 
      the mental integration thus reaches its highest mark there obtains a 
      neutral state of consciousness which is erroneously designated as 
      ‘ecstasy’ by the psychological student of the religious consciousness. 
      This Zen state of consciousness essentially differs from ecstasy in this: 
      Ecstasy is the suspension of the mental powers while the mind is passively 
      engaged in contemplation; the Zen state of consciousness on the other 
      hand, is the one that has been brought about by the most intensely active 
      exercise of all the fundamental faculties constituting one's ’ersonality. 
      They are here positively concentrated on a single object of thought, which 
      is called a state of oneness (ekagra). It is also known as a state of 
      fixation.  This is the point where the empirical consciousness with all 
      its contents both conscious and unconscious is about to tip over its 
      border-line, and get noetically related to the Unknown, the Beyond, the 
      Unconscious. In ecstasy there is no such tipping or transition, for it is 
      a static finality not permitting further unfoldment. There is nothing in 
      ecstasy that corresponds to ‘throwing oneself down the precipice,’ or 
      ‘letting go the hold.’   
      
      5)     
      Sau hết, cái thoạt tiên có vẻ như đình chỉ tạm thời tất cả mọi khả 
      năng của tâm thần nay bỗng được chất đầy những tinh lực mới mẻ chưa từng 
      mơ tưởng đến. Sự biến đổi đột nhiên nầy diễn ra thường thường là do tác 
      động của một âm thanh, một ảnh tượng hay một hình thức của hoạt động tính 
      điều động. Một cái nhìn thấu suốt được phát sinh từ những vùng sâu thẳm 
      ngay giữa lòng tâm thức, khi một nguồn suối của một đời sống mới đã tuôn 
      trào, và cùng lúc, công án vén mở những bí mật của nó: Finally, what at 
      first appears to be a temporary suspense of all psychic faculties suddenly 
      becomes charged with nre energies hitherto undreamed of. This abrupt 
      transformation has taken place quite frequently by the intrusion of a 
      sound, or a vision, or a form of motor activity. A penetrating insight is 
      born of the inner depths of consciousness, as the source of a new life has 
      been tapped, and with it the koan yields up its secrets.    
      Năm Đẳng Cấp Chúng Sanh: 
      Theo Kinh Lăng Già, về quan điểm tôn giáo, có năm đẳng cấp chúng 
      sanh—According to The Lankavatara Sutra, from the religious point of view, 
      there are five orders of beings.
      
      1)     
      Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn—Those who belong to the 
      Sravaka order: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe 
      được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu 
      tâm đến lý nhân quả; các ngài đã giải thoát đuợc sự trói buộc của các 
      phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự 
      thể chứng Niết Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã 
      chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống phạm hạnh, tất cả những gì cần 
      phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt 
      được tuệ kiến về sự phi hiện hữu của “ngã thể” trong một con người, nhưng 
      vẫn chưa thấy được sự phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo 
      triết học nào tin vào một đấng sáng tạo hay tin vào “linh hồn” cũng có thể 
      được xếp vào đẳng cấp nầy—Those belong to the Sravaka order who are 
      delighted at listening to such doctrines as concern the Skandhas, Dhatus, 
      or Ayatanas, but take no special interest in the theory of causation, who 
      have cut themselves loose from the bondage of evil passions but have not 
      yet destroyed their habit-energy. They have attained the realization of 
      Nirvana, abiding in which state they would declare that they have put an 
      end to existence, their life of morality is now attained, all that is to 
      be done is done, they would not be reborn. These have gained an insight 
      into the non-existence of an ego-substance in a person but not yet into 
      that in objects. These philosophical leaders who believe in a creator or 
      in the ego-soul may also be classified under this order. 
      
      2)     
      Những chúng sanh thuộc hàng Bích Chi Phật—Those of the 
      Partyekabuddha order: Đẳng cấp Bích Chi Phật bao gồm những vị hết sức lưu 
      tâm đến những gì dẫn họ đến sự thể chứng quả vị Bích Chi Phật. Họ lui vào 
      sống độc cư và không dính dáng gì đến các sự việc trên dời nầy. Khi họ 
      nghe nói rằng Đức Phật hiện thân ra thành nhiều hình tướng khác nhau, khi 
      thì nhiều thân, khi thì một thân, thi triển thần thông thì họ nghĩ rằng 
      đấy là dành cho đẳng cấp của chính họ nên họ vô cùng ưa thích những thứ ấy 
      mà đi theo và chấp nhận chúng—The Pratyekabuddha order comprises those who 
      are intensely interested in anything that leads them to the realization of 
      Pratyekabuddhahood. They would retire into solitude and have no attachment 
      to worldly things. When they hear that the Buddha manifests himself in a 
      variety of forms, sometimes in group, sometimes singly, exhibiting 
      miraculous powers, they think these are meant for their own order, and 
      immensely delighted in them they would follow and accept them.  
      
      3)     
      Những chúng sanh thuộc hàng Như Lai—Those of the Tathagata order: 
      Chư vị có thể nghe thuyết giảng về những chủ đề như những biểu hiện của 
      tâm hay cảnh giới siêu việt của A Lại Da mà từ đấy khởi sinh thế giới của 
      những đặc thù nầy, nhưng chư vị lại có thể không cảm thấy chút nào ngạc 
      nhiên hay sợ hãi. Những chúng sanh trong đẳng cấp Như Lai có thể được chia 
      làm ba loại—Those who may listen to discourse on such subjects as 
      manifestations of mind, or transcendental realm of the Alaya, from which 
      starts this world of particulars, and yet they may not at all feel 
      astonished or frightened. The Tathagata order may be again divided into 
      three.
      
      a)     
      Những vị đã đạt được tuệ kiến thấu suốt chân lý rằng không có một 
      thực thể đặc thù nào đằng sau những gì mà người ta nhận thức: Those who 
      gain an insight into the truth that there is no individual reality behind 
      one perceives.
      
      b)     
      Những vị biết rằng có một nhận thức tức thời về chân lý trong tâm 
      thức sâu kín nhất của con người: Those who know that there is an immediate 
      perception of the truth in one’s inmost consciousness.
      
      c)     
      Những vị nhận thức rằng ngoài thế giới này còn có vô số Phật độ 
      rộng lớn bao la: Those who perceive that besides this world there are a 
      great number of Buddha-lands wide and far-extending.    
      
      4)     
      Những chúng sanh không thuộc đẳng cấp rõ ràng nào—Those who belong 
      to no definite order: Những chúng sanh  có bản chất bất định, vì những 
      chúng sanh nào thuộc đẳng cấp nầy có thể nhập vào một trong ba đẳng cấp 
      vừa kể trên tùy theo hoàn cảnh của mình—Those who are of the indeterminate 
      nature. For those who belong to it may take to either one of the above 
      three orders according to their opportunities. 
      
      5)     
      Những chúng sanh vượt ra ngoài các đẳng cấp trên—Those who are 
      altogether outside these order: Hãy còn một đẳng cấp khác nữa của những 
      chúng sanh không thể được bao gồm trong bất cứ đẳng cấp nào trong bốn đẳng 
      cấp vừa kể trên; vì họ không hề mong muốn cái gì để giải thoát, và vì 
      không có mong muốn ấy nên không có giáo lý nào có thể nhập vào lòng họ 
      được. Tuy nhiên, có hai nhóm phụ thuộc nhóm nầy và cả hai nhóm nầy đều 
      được gọi là Nhất Xiển Đề (see Nhất Xiển Đề and Vô Chủng Xiển Đề)—There is 
      still another class of beings which cannot be comprised under any of the 
      four already mentiond; for they have no desire whatever for emancipation, 
      and without this desire no religious teaching can enter into any heart. 
      They belong to the Icchantika order. Two sub-classes, however, may be 
      distinguished here.
      
      a)     
      Những người đã từ bỏ tất cả các thiện căn  Those who have forsaken 
      all roots of merit: Những người phỉ báng các học thuyết dành cho chư Bồ 
      Tát mà bảo rằng các học thuyết ấy không phù hợp  với kinh luật cũng như 
      học thuyết giải thoát. Vì sự phỉ báng nầy, họ tự cắt đứt mọi thiện căn và 
      không thể nào vào được Niết Bàn—Those who vilify the doctrines meant for 
      the Bodhisattvas, saying that they are not in accordance with the sacred 
      texts, rules of morality, and the doctrine of emancipation. Because of 
      this vilification they forsake all the roots of merit and do not enter 
      into Nirvana.  
      
      b)     
      Những người lúc đã nguyện độ tận chúng sanh ngay từ lúc mới khởi 
      đầu cuộc tu hành của họ—Those who have vowed at the beginning to save all 
      beings: Họ gồm những vị Bồ Tát mong muốn đưa tất cả chúng sanh đến Niết 
      Bàn mà tự mình thì từ chối cái hạnh phúc ấy. Từ lúc khởi sự đạo nghiệp của 
      mình, các ngài đã nguyện rằng cho đến khi mọi đồng chúng sanh của họ được 
      đưa đến an hưởng hạnh phúc vĩnh cửu của Niết Bàn, họ sẽ không rời cuộc đời 
      khổ đau nầy, mà phải hành động một cách kiên trì với mọi phương tiện có 
      thể được để hoàn tất sứ mạng của mình. Nhưng vì vũ trụ còn tiếp tục hiện 
      hữu thì sẽ không có sự chấm dứt cuộc sống, cho nên các vị nầy có thể không 
      bao giờ có cơ hội để hoàn tất công việc mà tịnh trú trong Niết Bàn tĩnh 
      lặng. Cơ may cũng đến cho cả những người phỉ báng Bồ tát thừa khi nhờ lực 
      trí gia hộ của chư Phật, mà cuối cùng họ theo Đại thừa và do tích tập 
      thiện nghiệp mà nhập Niết Bàn, vì chư Phật luôn luôn hành động vì lợi ích 
      của tất cả mọi chúng sanh dù chúng sanh có thế nào đi nữa. Nhưng đối với 
      các vị Bồ Tát, không bao giờ nhập Niết Bàn vì các ngài có tuệ giác sâu xa, 
      nhìn suốt bản chất của các sự vật là những thứ dù đang như thế,  vốn vẫn ở 
      ngay trong Niết Bàn. Như vậy chúng ta biết đâu là vị trí của chư vị Bồ tát 
      trong công việc vô tận của các ngài là dẫn dắt hết thảy chúng sanh đến trú 
      xứ tối hậu—They are Bodhisattvas who wish to lead all beings to Nirvana. 
      Deny themselves of this bliss. They vowed in the beginning of their 
      religious career that until everyone of their fellow-beings is led to 
      enjoy the eternal happiness of Nirvana, they themselves would not leave 
      this world of pain and suffering, but must strenuously and with every 
      possible means work toward the completion of their mission. But as there 
      will be no termination of life as long as the universe continues to exist, 
      Bodhisattvas may have no chance for ever to rest themselves quietly with 
      their work finished in the serenity of Nirvana. The time will come even to 
      those who speak evil of the Bodhisattvayana when through the power of the 
      Buddhas they finally embrace the Mahayana and by amassing stock of merit 
      enter into Nirvana, for the Buddhas are always working for the benefit of 
      all beings no matter what they are. But as for Bodhisattvas they never 
      enter into Nirvana as they have a deep insight into the nature of things 
      which are already in Nirvana even as they are. Thus, we know where 
      Bodhisattvas stand in their never-ending task of leading all beings into 
      the final abode of rest.   
      Năm Đề Nghị Của Đức 
      Phật Ích Lợi Thực Tiễn Cho Hành Giả: Five practical suggestions given 
      by the Buddha will be beneficial to all.
      
      1)     
      Cố tạo những tư tưởng tốt , trái nghịch với loại tư tưởng trở ngại, 
      như khi bị lòng sân hận làm trở ngại thì nên tạo tâm từ: Harbouring a good 
      thought opposite to the encroaching one, e.g., loving-kindness in the case 
      of hatred. 
      
      2)     
      Suy niệm về những hậu quả xấu có thể xảy ra, như nghĩ rằng sân hận 
      có thể đưa đến tội lỗi, sát nhân, vân vân…: Reflecting upon possible evil 
      consequences, e.g., anger sometimes results in murder. 
      
      3)     
      Không để ý, cố quên lãng những tư tưởng xấu xa ấy: Simple neglect 
      or becoming wholly inattentive to them. 
      
      4)     
      Đi ngược dòng tư tưởng, phăng lần lên, tìm hiểu do đâu tư tưởng ô 
      nhiễm ấy phát sanh, và như vậy, trong tiến trình ngược chiều ấy, hành giả 
      quên dần điều xấu: Tracing the cause which led to the arising of the 
      unwholesome thoughts and thus forgetting them in the retrospective 
      process.  
      
      5)     
      Gián tiếp vận dụng năng lực vật chất: Direct physical force.    
      Năm Đệ Tử Đầu Tiên Của 
      Đức Phật: Theo Đức Phật và Phật Pháp của Hòa Thượng Narada, năm vị đệ 
      tử đầu tiên của Đức Phật là những vị Kiều Trần Như, Bạt Đề (Bhaddiya), 
      Thập Lực Ca Diếp (Dasabala-Kasyapa), Ma Nam Câu Lợi (Mahanama), và Át Bệ 
      (Assaji). Kiều Trần Như là vị trẻ tuổi nhất trong tám vị Bà La Môn được 
      vua Tịnh Phạn thỉnh đến dự lễ quán đảnh Thái Tử sơ sanh. Bốn người kia là 
      con của bốn trong bảy vị Bà La Môn lớn tuổi kia. Tất cả năm anh em đều 
      cùng nhau vào rừng tu học. Ngay khi hay tin Thái Tử Tất Đạt Đa rời bỏ cung 
      điện, cả năm anh em cùng đi tìm đạo sĩ Cồ Đàm để phục vụ Ngài. Nhưng đến 
      khi Thái Tử chấm dứt cuộc tu khổ hạnh ép xác, các vị ấy thất vọng, bỏ Ngài 
      đi Isipatana. Chẳng bao lâu sau khi các vị nầy rời bỏ Thái tử thì Ngài đắc 
      quả thành Phật. Ngay sau khi Đức Phật thành đạo, Ngài cất bước đi về hướng 
      vườn Lộc Uyển của xứ Ba La Nại. Thấy Phật từ xa đến, năm vị đạo sĩ (anh em 
      Kiều Trần Như) bàn tính quyết định không đảnh lễ Ngài với lòng tôn kính 
      như xưa. Các vị ấy hiểu lầm thái độ của Ngài trong cuộc chiến đấu để thành 
      đạo quả, vì Ngài đã từ bỏ lối tu khổ hạnh cứng nhắc và chứng tỏ là tuyệt 
      đối vô ích đó. Năm vị đạo sĩ nầy nói chuyện với nhau: “Nầy các đạo hữu, 
      đạo sĩ Cồ Đàm đang đi đến ta. Đạo sĩ ấy xa hoa, không bền chí cố gắng và 
      đã trở lại với đời sống lợi dưỡng. Đạo sĩ ấy không đáng cho ta niềm nở 
      tiếp đón và cung kính phục vụ. Ta không nên rước y bát cho đạo sĩ ấy. 
      Nhưng dầu sao chúng ta cũng nên dọn sẵn một chỗ ngồi. Nếu đạo sĩ Cồ Đàm 
      muốn ngồi với chúng ta thì cứ ngồi.” Tuy nhiên, trong khi Đức Phật bước 
      gần đến, với cung cách oai nghi, Ngài đã cảm hóa được năm vị đạo sĩ, và 
      không ai bảo ai, năm người cùng đến đảnh lễ Ngài, sau đó người thì rước y 
      bát, người dọn chỗ ngồi, người đi lấy nước cho Ngài rửa chân, vân vân. Mặc 
      dầu vậy, họ vẫn gọi Ngài bằng danh hiệu “đạo hữu,” một hình thức xưng hô 
      của những người ngang nhau, hoặc để người trên xưng hô với kẻ dưới. Khi đó 
      Đức Phật mới nói: “Nầy các đạo sĩ, không nên gọi Như Lai bằng tên hay bằng 
      danh từ “đạo hữu.” Như Lai là Đức Thế Tôn, là Đấng Toàn Giác. Nghe đây, 
      các đạo sĩ, Như Lai thành đạt đạo quả Vô Sanh Bất Diệt và sẽ giảng dạy 
      giáo pháp. Nếu hành đúng theo lời giáo huấn của Như Lai, các thầy cũng sẽ 
      sớm chứng ngộ, do nhờ trí tuệ trực giác, và trong kiếp sống nầy, các thầy 
      sẽ hưởng một đời sống cùng tột thiêng liêng trong sạch. Cũng vì muốn đi 
      tìm đời sống cao thượng ấy nhiều người con trong các gia tộc quý phái đã 
      rời bỏ gia đình, sự nghiệp, để trở thành người không nhà không cửa.”  Năm 
      vị đạo sĩ bèn trả lời: “Nầy đạo sĩ Cồ Đàm, trước kia, với bao nhiêu cố 
      gắng để nghiêm trì  kỷ luật mà đạo hữu không thành đạt trí tuệ siêu phàm, 
      cũng không chứng ngộ được gì xứng đáng với chư Phật. Bây giờ đạo hữu sống 
      xa hoa và từ bỏ mọi cố gắng, đạo hữu đã trở lại đời sống lợi dưỡng thì làm 
      sao mà có thể thành đạt được trí huệ siêu phàm và chứng ngộ đạo quả ngang 
      hàng với chư Phật?” Sau đó Đức Phật giải thích thêm: “Này các đạo sĩ, Như 
      Lai không xa hoa, không hề ngừng cố gắng, và không trở về đời sống lợi 
      dưỡng. Như Lai là Đức Thế Tôn, là Đấng Toàn Giác. Nghe nầy các đạo sĩ! Như 
      Lai đã thành đạt đạo quả Vô Sanh Bất Diệt và sẽ giảng dạy Giáo Pháp. Nếu 
      hành đúng theo lời giáo huấn của Như Lai, các thầy cũng sẽ sớm chứng ngộ, 
      do nhờ trí tuệ trực giác, và trong kiếp sống nầy các thầy sẽ hưởng một đời 
      sống cùng tột thiêng liêng trong sạch. Cũng vì muốn đi tìm đời sống cao 
      thượng ấy mà nhiều người con trong các gia tộc quý phái sẽ rời bỏ gia đình 
      sự nghiệp, để trở thành người không nhà cửa.” Lần thứ nhì năm đạo sĩ vẫn 
      giữ nguyên thành kiến và tỏ ý thất vọng. Đến lần thứ ba, sau khi được Đức 
      Phật lập lại lời xác nhận, năm đạo sĩ vẫn giữ vững lập trường, tỏ ý hoài 
      nghi. Đức Phật hỏi lại: “Nầy các đạo sĩ! Các thầy có biết một lần nào 
      trước đây Như Lai đã nói với các thầy như thế không?” Quả thật không. Đức 
      Phật lập lại lần thứ ba rằng Ngài đã là Đấng Toàn Giác và chính năm đạo sĩ 
      cũng có thể chứng ngộ nếu chịu hành động đúng lời giáo huấn. Đó là những 
      lời nói chân thật do chính Đức Phật thốt ra. Năm vị đạo sĩ là bậc thiện 
      trí, mặc dầu đã có thành kiến không tốt, nhưng khi nghe như vậy đã nhận 
      định chắc chắn rằng Đức Phật đã thành tựu đạo quả vô thượng và có đầy đủ 
      khả năng để hướng dẫn mình. Năm thầy bấy giờ mới tin lời Đức Phật và ngồi 
      xuống yên lặng nghe Giáo Pháp Cao Quý. Trong khi Đức Phật thuyết pháp cho 
      ba vị nghe thì hai vị kia đi khất thực, và sáu vị cùng độ với những thực 
      vật mà hai vị đem về. Qua hôm sau hai vị nầy nghe pháp thì ba vị kia đi 
      khất thực. Sau khi được Đức Phật giảng dạy, tất cả năm vị đều nhận định 
      thực tướng của đời sống. Vốn là chúng sanh, còn phải chịu sanh, lão, bệnh, 
      tử, và ái dục, các vị tìm thoát ra vòng đau khổ ấy để đến chỗ không sanh, 
      không lão, không, bệnh, không tử, không phiền não, không ái dục, cảnh vắng 
      lặng tột bực vô song, niết bàn, cảnh chân toàn tuyệt đối, nơi không còn 
      sanh lão bệnh tử, phiền não và ái dục. Trí huệ phát sanh, năm vị thấu hiểu 
      rằng sự giải thoát của các vị rất là vững chắc, không thể lay chuyển, và 
      đây là lần sanh cuối cùng. Các vị không bao giờ còn tái sanh nữa. Đức Phật 
      đã giảng Kinh Chuyển Pháp Luân, đề cập đến Tứ Diệu Đế, là bài pháp đầu 
      tiên mà Đức Phật giảng cho năm vị. Khi nghe xong, Kiều Trần Như, niên 
      trưởng trong năm vị, đắc quả Tu Đà Hườn, tầng đầu tiên trong bốn tầng 
      Thánh. Về sau bốn vị kia cũng đạt được quả vị nầy. Đến khi nghe Đức Phật 
      giảng kinh Anattalakkhana Sutta, đề cập đến pháp vô ngã thì tất cả năm vị 
      đều đắc quả A La Hán—According to The Buddha and His Teaching, written by 
      Most Venerable Narada, the first five disciples of the Buddha were 
      Kondanna, Bhaddiya, Dasabala-Kasyapa, Mahanama, and Assaji. They were of 
      the Brahmin clan. Kondanna was the youngest and cleverest of the eight 
      brahmins who were summoned by King Suddhodana to name the infant prince. 
      The other four were the sons of those older brahmins. All these five 
      retired to the forest as ascetics in anticipation of the Bodhisattva while 
      he was endeavouring to attain Buddhahood. When he gave up his useless 
      penances and severe austerities and began to nourish the body sparingly to 
      regain his lost strength, these favourite followers, disappointed at his 
      change of method, deserted him and went to Isipatana. Soon after their 
      departure the Bodhisattva attained Buddhahood. Right after his 
      enlightenment, the Buddha started out to the Deer Park in Benares. The 
      five ascetics saw him coming from afar decided not to pay him due respect 
      as they miscontrued his discontinuance of rigid ascetic practices which 
      proved absolutely futile during his struggle for enlightenment. They 
      convinced one another as follow: “Friends, this ascetic Gotama is coming. 
      He is luxurious. He has given up striving and has turned into a life of 
      abundance. He should not be greeted and waited upon. His bowl and robe 
      should not be taken. Nevertheless a seat should be prepared in case he 
      wished to sit down with us.” However, when the Buddha continued to draw 
      near, his august personality was such solemnly that they were compelled to 
      receive him with due honour. One came forward and took his bowl and robe, 
      another prepared a seat, and yet another prepared water for his washing of 
      feet. Nevertheless, they addressed him by name and called him friend 
      (avuso), a form of address applied generally to juniors and equals. At 
      this time, the Buddha addressed them thus: “Do not, Bhikkhus, addressed 
      the Tathagata by name, or by title “friend.” An Exalted One, O Bhikkhus, 
      is the Tathagata. A fully enlightened one is he. Give ear, O Bhikkhus! 
      Deathlessness has been attained. I shall instruct and teach the Dharma. If 
      you act according to my instructions, you will before long realize, by 
      your own intuitive wisdom, and live, attaining in this life itself, that 
      supreme consummation of the holy life, for the sake of which sons of noble 
      families rightly leave the household for homelessness.” Thereupon the five 
      ascetics replied: “By that demeaner of yours, avuso Gotama, by that 
      discipline, by those painful austerities, you did not attain to any 
      superhuman specific knowledge and insight worthy of an Ariya. How will 
      you, when you have become luxurious, have given up striving, and have 
      turned into a life of abundance, gain nay such superhuman specific 
      knowledge and insight worthy of an Ariya?” In further explanation, the 
      Buddha said: “The Tathagata, O Bhikkhus, is not not luxurious, has not 
      given up striving, and has not turned into a life of abundance. An exalted 
      one is the Tathagata. A fully enlightened one is he. Give ear, O Bhikkhus! 
      Deathlessness has been attained. I shall instruct and teach the Dharma. If 
      you act according to my instructions, you will before long realize, by 
      your own intuitive wisdom, and live, attaining in this life itself, that 
      supreme consummation of the holy life, for the sake of which sons of noble 
      families rightly leave the household for homelessness." For the second 
      time the prejudiced ascetics expressed their disappointment in the same 
      manner. For the second time the Buddha reassured theom of his attainment 
      to enlightenment. When the adamant ascetics refusing to believe him, 
      expressed their view for the third time, the Buddha questioned them thus: 
      “Do you know, O Bhikkhus, of an occasion when I ever spoke to you thus 
      before?” The five ascetics replied: “Nay, indeed Lord!” The Buddha then 
      repeated for the third time that he had gained enlightenment and that they 
      also could realize the truth if they would act according to his 
      instructions. It was indeeda frank utterance, issuing from the sacred lips 
      of the Buddha. The cultured ascetics, though adamant in their views, were 
      then fully convinced of the great achievements of the Buddha and of his 
      competence to act as their moral guide and teacher. They believed his 
      words and sat in silence to listen to his noble teaching. Three of the 
      ascetics  the Buddha instructed, while three went out for alms. With what 
      the two ascetics brought from their almsround the six maintained 
      themselves. The next day, two of the ascetics he instructed, while the 
      other three ascetics went out for alms. With what the three brought back, 
      six sustained themselves. And those five ascetics thus admonished and 
      instructed by the Buddha, being themselves subject to birth, decay, death, 
      sorrow, and passions, realized the real nature of life and, seeking out 
      the birthless, decayless, diseaseless, deathless, sorrowless, passionless, 
      incomparable supreme peace, Nirvana, attained the incomparable security, 
      Nirvana, which is free from birth, decay, disease, death, sorrow, and 
      passions. The knowledge arose in them that their deliverance was 
      unshakable, that it was their last birth and that there would be no more 
      of this state again. The Dhammacakkappavattana Sutta, which deals with the 
      Four Noble Truths, was the first discourses delivered by the Buddha to 
      them. heAring it, Kondanna, the eldest, attained the first stage of 
      sainthood. After receiving further instructions, the other four attained 
      Sotapatti later. On hearing the Anattalakkhana Sutta, which deals with 
      soullessness, all the five attained Arahantship, the final stage of 
      sainthood. 
      Năm Điểm Phải Biết Tự 
      Xét Lấy Mình Của Người Tu Tịnh Độ: Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm 
      trong Liên Tông Thập Tam Tổ, để tránh bị ma chướng trên đường tu, có năm 
      điểm mà người tu Tịnh Độ phải tự xét lấy mình—According to Most Venerable 
      Thích Thiền Tâm in The Thirteen Patriarchs of Pureland Buddhism, to 
      prevent demonic obstructions on the cultivating path, there are five 
      points any Pureland practitioner should know how to reflect on one's self.
      
      
      1)     
      Muốn sanh về Tây Phương Cực Lạc, không phải chỉ dùng chút ít phước 
      lành hay đôi chút công hạnh lơ là mà được: If wishing to gain rebirth in 
      the Western Pureland of Ultimate Bliss, it takes much more than a few good 
      meritorious and virtuous deeds.
      
      2)     
      Muốn thoát được sự thống khổ luân hồi trong vạn kiếp, không phải 
      chỉ dùng tâm dần dà, chờ hẹn hay biếng trễ mà được: If wishing to find 
      liberation from the eternal suffering in tens and thousands of 
      reincarnations of the cycle of rebirths, it cannot be accomplished by 
      procastinating  and being lazy.
      
      3)     
      Phải nghĩ rằng cơn vô thường mau chóng, mới sáng sớm đó đã lại đến 
      xế chiều. Đâu nên không siêng năng, lo dự bị trước hay sao?: It is 
      necessary to think that the impermanence of life is sudden, time truly 
      flies, the morning had just come but night has arrived. Why not be 
      diligent and prepare in anticipation.
      
      4)     
      Nên nhớ rằng sức chí nguyện không thắng nổi sức tình ái được: 
      Remember the “wheel power” is unable to overcome the “powerful forces of 
      love, lust and desires.” 
      
      5)     
      Lại cũng nên nhớ rằng tâm niệm Phật không hơn nổi tâm dục trần 
      được: Also remember that the Buddha Recitation Mind is not stronger than 
      the the mind of worldly desires.  
      Năm Điều Kiện Cần Thiết 
      Để Tạo Nên Nghiệp Sát Sanh: Five necessary conditions to complete the 
      evil of killing—See Sát Sinh (B).  
      Năm Điều Kiện Cần Thiết 
      Để Thành Công Của Người Tu Thiền: Five conditions to be successful for 
      a Pure Land practitioner—Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong Niệm Phật 
      Thập Yếu, nếu luận xét trên đường hành đạo, khi chưa được sanh về Cực Lạc, 
      thì tu Tịnh Độ cũng có thể bị ma chướng. Song phần nhiều là do hành giả 
      không hiểu giáo lý, chẳng khéo trị tâm, để nội ma phát khởi khiến chiêu 
      cảm ngoại ma đến phá hoại. Nếu giữ được tâm bình tĩnh, thì với oai lực 
      công đức của câu hồng danh, ngoại ma không làm chi được, và phiền não cũng 
      lần lần bị tiêu trừ. Vì thế người tu Tịnh Độ, ma cảnh nếu có cũng là phần 
      ít. Trái lại người tu Thiền, ma cảnh hiện nhiều, bởi chỉ nương vào tự lực. 
      Bậc Thiền sĩ phải đủ năm điều kiện sau đây. Nếu vị tu thiền nào không hội 
      đủ năm điều kiện trên rất dễ bị ma chướng làm tổn hại—While treading the 
      Way but not yet reborn in the Pure Land, the practitioner of Buddha 
      Recitation may also encounter demonic obstacles. However, in most cases, 
      this is because he does not understand the Dharma and is not skillful at 
      reining in his mind, letting internal demons or afflictions spring up, 
      which, in turn, attract external demons. If he can keep his mind empty and 
      still and recite the Buddha’s name, external demons will be powerless and 
      afflictions will gradually disappear. Thus, for the Pure Land 
      practitioner, even if demonic obstacles do appear, they are few in number. 
      Advanced Zen practitioners, on the other hand, face many demonic 
      occurrences because they rely only on their own strength and self-power. A 
      Zen follower should fulfill the following five conditions to be 
      successful. If a Zen practitioner does not meet these five conditions, he 
      is very easily subject to get harm from demons:
      
      1)     
      Giới hạnh tinh nghiêm: He should keep the precepts strictly.
      
      2)     
      Căn tánh lẹ làng sáng suốt: His nature and roots should be quick 
      and enlightened.
      
      3)     
      Phải hiểu rõ đạo lý, khéo phân biệt tướng chánh tà, chân, vọng: He 
      should have a clear understanding of the Dharma, skillfully distinguishing 
      the correct from the deviant, the true from the false.
      
      4)     
      Ý chí mạnh mẽ vững bền: He should be firm and stable in his 
      determination.
      
      5)     
      Phải nương nơi bậc thiện tri thức thông kinh điển, , đã có kinh 
      nghiệm tu thiền nhiều năm để nhờ sự hướng dẫn: He should be guided by a 
      good advisor, who has a thorough understanding of the sutras and many 
      years experience in meditation.  
      Năm Điều Lợi Ích Của 
      Người Giữ Đủ Giới: Theo Kinh Đại Bát Niết Bàn và Kinh Phúng Tụng trong 
      Trường Bộ Kinh, có năm điều lợi ích cho người đủ giới—According to the 
      Mahaparinibbana Sutta and the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the 
      Buddha, there are five advantages to one of good morality and of success 
      in morality:
      
      1)     
      Người giữ giới nhờ không phóng túng nên được tài sản sung túc: 
      Through careful attention to his affairs, he gains much wealth.
      
      2)     
      Người giữ giới tiếng tốt đồn khắp: He gets a good reputation for 
      morality and good conduct.
      
      3)     
      Người giữ giới, khi vào hội chúng nào, Sát Đế Lợi, Bà La Môn, Sa 
      Môn hay cư sĩ, vị ấy vào một cách đường hoàng, không dao động: Whatever 
      assembly he approaches, whether of Khattiyas, Brahmins, Ascetics, or 
      Householders, he does so with confidence and assurance.
      
      4)     
      Người giữ giới khi mệnh chung sẽ chết một cách không sợ sệt, không 
      dao động: At the end of his life, he dies unconfused.
      
      5)     
      Người giữ giới, sau khi thân hoại mệnh chung được sanh lên thiện 
      thú hay Thiên giới: After death, at breaking up of the body, he arises  in 
      a good place, a heavenly world.
      Năm Điều Nguy Hiểm Của 
      Người Ác Phá Giới: Sampada—Five dangers to the immoral through lapsing 
      from morality—Theo Kinh Đại Bát Niết Bàn và Kinh Phúng Tụng trong Trường 
      Bộ Kinh, có năm điều nguy hiểm của người ác giới—According to the 
      Mahaparinibbana Sutta and the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the 
      Buddha, there are five dangers to the immoral through lapsing from 
      morality (bad morality or failure in morality):
      
      1)     
      Người ác giới vì phạm giới luật do phóng dật thiệt hại nhiều tài 
      sản:  He suffers great loss of property through neglecting his affairs.
      
      2)     
      Người ác giới, tiếng xấu đồn khắp: He gets bad reputation for 
      immorality and misconduct.
      
      3)     
      Người ác giới, khi vào hội chúng sát Đế Lợi, Bà La Môn, Sa Môn hay 
      cư sĩ, đều vào một cách sợ sệt và dao động: Whatever assembly he 
      approaches, whether of Khattiyas, Bramins, Ascetics, or Householders, he 
      does so differently and shyly.
      
      4)     
      Người ác giới, chết một cách mê loạn khi mệnh chung: At the end of 
      his life, he dies confused.
      
      5)     
      Người ác giới, khi thân hoại mạng chung sẽ sanh vào khổ giới, ác 
      thú, đọa xứ, địa ngục: After death, at the breaking up of the body, he 
      arises in an evil state, a bad fate, in suffering and hell.
      **   For more information, 
      please see Năm 
             Điều Lợi Ích Của 
      Người Đủ Giới.
      Năm Đức Tính Căn Bản 
      Của Người Tu Thiền: Five basic characteristics of any Zen cultivators:
      
      1)     
      Giới hạnh tinh nghiêm: Strictly keep the precepts.
      
      2)     
      Căn tánh nhanh nhẹn sáng suốt: Nature and roots should be active 
      (swift) and enlightened.
      
      3)     
      Thấu triệt chân lý và khéo phân biệt chánh tà chân ngụy: Understand 
      clearly the Buddha teachings and skillfully distinguish right from wrong, 
      as well as true from false. 
      
      4)     
      Ý chí kiên định: Firm and stable determination.
      
      5)     
      Luôn nương theo chư thiện hữu tri thức, những người làu thông kinh 
      điển, tinh chuyên tu hành để được hướng dẫn đúng đắn: Should always 
      cultivate with  good advisors, who have a thourough knowledge of the 
      sutras and who zealously practise meditation to obtain the right 
      guidance.    
      Năm Huyền Nghĩa: 
      Five wonderful meanings or terms—See Ngũ Huyền Nghĩa Tam Luận Tông.  
      Năm Khi Mười Họa: 
      Rarely
      Năm Loại Ngôn Ngữ: 
      Five courses of speech—Theo Kinh Ví Dụ Cái Cưa trong Trung Bộ, Đức Phật 
      dạy: “Chư Tỳ Kheo, có năm loại ngôn ngữ mà các người có thể dùng khi nói 
      với các người khác.” Đó là—According to the Kakacupama Sutta in the Middle 
      Length Discourses of the Buddha, the Buddha taught: “Bhikkhus! There are 
      five courses of speech that others may use when they address you.” They 
      are:
      
      1)     
      Đúng thời hay phi thời: Their speech may be timely or untimely.
      
      2)     
      Chân thật hay không chân thật: True or untrue.
      
      3)     
      Như nhuyễn hay thô bạo: Gentle or harsh. 
      
      4)     
      Có lợi ích hay không lợi ích: Connected with good or with harm.
      
      5)     
      Với từ tâm hay với sân tâm: Spoken with a mind of loving-kindness 
      or with inner hate.  
      Năm Món Ngăn Che: 
      Five hindrances or covers—See Ngũ Ác, Ngũ Cái, and Ngũ Triền Cái. 
      Năm Mươi Hai Tâm Sở: 
      Theo Luận Vi Diệu Pháp (A Tỳ Đạt Ma), có 52 tâm sở—According to the 
      Abhidharma, there are fifty-two mental states:
      
      (A) 
      Tâm Sở Phổ Thông—Universal Mental Factors:
      
      1)     
      Xúc: Phasso (p)—Contact.
      
      2)     
      Thọ: Vedana (p)—Feeling.
      
      3)     
      Tưởng: Sanna (p)—Perception.
      
      4)     
      Tác Ý (Hành): Cetana (p)—Volition.
      
      5)     
      Nhất Điểm: Ekagagta (p)—One-pointedness.
      
      6)     
      Mạng Căn: Jivitindriyam (p)—Life faculty.
      
      7)     
      Chú Ý: Manasikaro (p)—Attention. 
      
      (B)  
      Tâm Sở Riêng Biệt—Occasional Mental Factors:
      
      8)     
      Tầm: Vitakko (p)—Initial application.
      
      9)     
      Sát: Vicaro (p)—Sustained application.
      
      10) 
      Xác Định: Adhimokkho (p)—Decision.
      
      11) 
      Tinh Tấn: Viriyam (p)—Energy.
      
      12) 
      Phỉ: Piti (p)—Zest.
      
      13) 
      Dục: Chando (p)—Desire. 
      
      (C) 
      Tâm Sở Bất Thiện—Unwholesome Mental Factors:
      
      a)     
      Tâm Sở Bất Thiện Phổ Thông—Unwholesome Universal Mental Factors:
      
      14) 
      Si: Moho (p)—Delusion.
      
      15) 
      Vô Tàm: Ahirikam (p)—Shamelessness.
      
      16) 
      Vô Quý: Anottappam (p)—Fearlessness of wrong-doing.
      
      17) 
      Phóng Dật: Uddhaccam (p)—Restlessness.
      
      b)     
      Tâm Sở Bất Thiện Riêng Biệt—Unwholesome Occasional Mental Factors:
      
      18) 
      Tham: Lobho (p)—Greed.
      
      19) 
      Tà Kiến: Ditthi (p)—Wrong views.
      
      20) 
      Ngã Mạn: Mano (p)—Conceit.
      
      21) 
      Sân: Doso (p)—Hatred.
      
      22) 
      Ganh Tỵ: Issa (p)—Envy.
      
      23) 
      Xan Tham: Macchariyam (p)—Avarice.
      
      24) 
      Lo Âu: Kukkuc-cam (p)—Worry.
      
      25) 
      Hôn Trầm: Thinam (p)—Sloth.
      
      26) 
      Thụy Miên: Middham (p)—Torpor.
      
      27) 
      Hoài Nghi: Vicikiccha (p)—Doubt.
      **   For more information, 
      please see Mười 
             Bốn Tâm Sở Bất 
      Thiện.
      
      (D) 
      Tâm Sở Đẹp—Beautiful Mental Factors:
      
      28) 
      Tín: Saddha (p)—Faith.
      
      29) 
      Niệm: Sati (p)—Mindfulness.
      
      30) 
      Tàm: Hiri (p)—Shame.
      
      31) 
      Quý: Ottappam (p)—Fear of wrong-doing. 
      
      32) 
      Không Tham: Alobho (p)—Non-greed.
      
      33) 
      Không Sân: Adoso (p)—Non-hatred.
      
      34) 
      Xả: Tatramjjhattata (p)—Neutrality of mind.
      
      35) 
      Tâm Sở Vắng Lặng: Kayapassadhi (p)—Tranquility of mental body.
      
      36) 
      Tâm Vắng Lặng: Cittapassadhi (p)—Tranquility of consciousness.
      
      37) 
      Tâm Sở Khinh An: Kayalahuta (p)—Lightness of mental body.
      
      38) 
      Tâm Khinh An: Cittalahuta (p)—Lightness of consciousness.
      
      39) 
      Tâm Sở Nhu Thuận: Kayamuduta (p)—Malleability of mental body.
      
      40) 
      Tâm Nhu Thuận: Cittamuduta (p)—Malleability of consciousness.
      
      41) 
      Tâm Sở Thích Ứng: Kayakammannata (p)—Wieldiness of mental body.
      
      42) 
      Tâm Thích Ứng: Citta-kammannata (p)—Wieldiness of consciousness.
      
      43) 
      Tâm Sở Tinh Luyện: Kayapagunnata (p)—Proficiency of mental body.
      
      44) 
      Tâm Tinh Luyện: Citta-pagunnata (p)—Proficiency of consciousness.
      
      45) 
      Tâm Sở Chánh Trực: Kayujjukata (p)—Rectitude of mental body.
      
      46) 
      Tâm Chánh Trực: Cittujjukata (p)—Rectitude of consciousness.
      
      (E)  
      Tâm Sở Tiết Chế—Abstinences:
      
      47) 
      Chánh Ngữ: Sammavaca (p)—Right speech.
      
      48) 
      Chánh Nghiệp: Sammakammanto (p)—Right action.
      
      49) 
      Chánh Mạng: Samma-ajivo (p)—Right livelihood.
      
      (F)  
      Tâm Sở Vô Lượng—Illimitables:
      
      50) 
      Bi: Karuna (p)—Compassion.
      
      51) 
      Hỷ: Mudita pana (p)—Appreciative joy.
      
      (G) 
      Tâm Sở Tuệ Căn—Non-Delusion:
      
      52) 
      Tuệ Căn: Pannindriya (p)—Wisdom faculty.
      ** For more information, 
      please see Năm 
           Mươi Mốt Tâm Sở. 
      Năm Mươi Mốt Tâm Sở: 
      Theo Đại Thừa, có 51 tâm sở—According to the Mahayana, there are fifty-one 
      Dharmas interactive with the Mind:
      
      (A) 
      Năm tâm sở biến hành: Sarvatraga  
              (skt)—Five 
      universally interactive.
      
      1)     
      Tác ý: Manaskara (skt)—Chú tâm vào việc gì—Attention—Pay attention 
      on something.
      
      2)     
      Xúc: Sparsha (skt)—Sau khi chú tâm vào việc gì, người ta có khuynh 
      hướng tiếp xúc với nó—Contact—After paying attention on something, one has 
      a tendency to want to come in contact with it.
      
      3)     
      Thọ: Vedana (skt)—Một khi “tiếp xúc” đã thành lập, thọ liền khởi 
      lên—Feeling—Once contact is established, feeling arises. 
      
      4)     
      Tưởng: Samjna (skt)—Khi “thọ” đã khởi lên thì tưởng liền xảy 
      ra—Conceptualization—Once feeling arises, conceptualization occurs.
      
      5)     
      Tư: Cetana (skt)—Một khi đã có “tưởng” là “Tư” hay sự suy nghĩ liền 
      theo sau—Deliberation—Once there is “conceptualization,” then 
      “deliberation” sets in.  
      
      (B) 
      Năm tâm sở biệt cảnh: Viniyata (skt)  
              Five particular 
      states. 
      
      6)     
      Dục: Chanda (skt)—Dục là mong muốn cái gì đó—Desire—Desire means to 
      want for something.
      
      7)     
      Thắng giải: Adhimoksha (skt)—Hiểu biết rõ ràng, không còn nghi ngờ 
      gì cả—Resolution—Supreme understanding. There is no doubt at all. 
      
      8)     
      Niệm: Smriti (skt)—Nhớ rõ ràng—Recollection—Remembering clearly.
      
      
      9)     
      Định: Samadhi (skt)—Chuyên chú tâm tập trung tư tưởng vào một cái 
      gì đó—Concentration—Exclusively pay attention to something. 
      
      10) 
      Tuệ (Hue)ä: Prajna (skt)—Khả năng phán đoán mà một người bình 
      thường cũng có—Judgment—Ability to judge which average person possesses.
      
      
      (C) 
      Mười một thiện tâm: Eleven wholesome: Kushala (skt)—Eleven 
      Wholesome. 
      
      11) 
      Tín: Shraddha (skt)—Tin tưởng—Có niềm tin hay có thái độ 
      tin—Faith—To have a sense of belief or an attitude of faith.
      
      12) 
      Tấn: Virya (skt)—Một khi đã có niềm tin, chúng ta phải biến niềm 
      tin thành hành động với sự tinh cần—Vigor—Once one has faith, one should 
      put it into action with vigor. 
      
      13) 
      Tàm: Hri (skt)—Còn có nghĩa là “tự xấu hổ hối hận”—Shame—Also means 
      “Repentance.”
      
      14) 
      Quí: Apatraya (skt)—Cảm thấy thẹn với người—Remorse—Embarrassment.
      
      
      15) 
      Vô tham (không tham): Alobha (skt)—Absence of greed. 
      
      16) 
      Vô sân (không sân): Advesha (skt)—Absence of anger.
      
      17) 
      Vô si (không si): Amoha (skt)—Absence of ignorance.
      
      18) 
      Khinh an: Prashraddhi (skt)—Nhẹ nhàng thơ thới—Người tu thiền 
      thường trải qua giai đoạn “khinh an” trước khi tiến vào “định”—Light ease, 
      an initial expedient in 
      the 
      cultivation of Zen. Before 
      samadhi 
      is actually achieved, one 
      
      experiences “light-ease.”
      
      19) 
      Bất phóng dật: Apramada (skt)—Không buông lung mà theo đúng luật 
      lệ—Non-laxness—To follow the rules.
      
      20) 
      Hành xả: Upeksha (skt)—Làm rồi không chấp trước mà ngược lại xả bỏ 
      tất cả những hoạt động ngũ uẩn—Renunciation—Not to grasp on the past, but 
      to renounce everything within the activity skhandha which is not in accord 
      with the rules. 
      
      21) 
      Bất hại: Ahimsa (skt)—Không làm tổn hại sinh vật—Non-harming—Not 
      harming any living beings.
      
      (D) 
      Sáu phiền não căn bản: Klesha (skt)—Six fundamental afflictions.
      
      22) 
      Tham: Raga (skt)—Tham tài, sắc, danh, thực, thùy hay sắc, thinh, 
      hương, vị, xúc—Greed—Greed for wealth, sex, fame, food, sleep or greed for 
      forms, sounds, smells, tastes, and objects of touch.
      
      23) 
      Sân: Pratigha (skt)—Không đạt được cái mình ham muốn sẽ đưa đến sân 
      hận—Anger—Not obtaining what one is greedy for leads to anger. 
      
      24) 
      Si: Moha (skt)—Khi giận dữ đã khởi lên thì con người sẽ không còn 
      gì ngoài “si mê”—Ignorance—Once anger arises, one has nothing but 
      “ignorance.”
      
      25) 
      Mạn: Mana (skt)—Ngã mạn Tự cao tự phụ làm cho chúng ta khinh thường 
      người khác—Arrogance—Arrogance means pride and conceit which causes one to 
      look down on others.
      
      26) 
      Nghi: vicikitsa (skt)—Không tin hay không quyết định 
      được—Doubt—Cannot believe or make up one’s mind on something.
      
      27) 
      Ác kiến: Drishti (skt)—Improper views—See Ngũ kiến và Tà kiến. 
      
      (E)  
      Hai mươi tùy phiền não: Upaklesha (skt)—Twenty derivative 
      afflictions.
      
      a)     
      Mười Tiểu Tùy phiền não—Ten Minor Grade Afflictions: 
      
      28) 
      Phẫn: Krodha (skt)—Phẫn tới bất thình lình và là sự phối hợp của 
      giận hờn—Wrath which comes sudenly and is a combination of anger and 
      hatred.  
      
      29) 
      Hận: Upanaha (skt)—Hận xãy ra khi chúng ta đè nén sự cảm xúc giận 
      vào sâu bên trong—Hatred—Hatred happens when one represses the emotional 
      feelings deep inside.
      
      30) 
      Não: Pradasa (skt)—Não là phản ứng tình cảm nặng nề hơn “hận”—Rage, 
      of which the emotional reaction is much more severe than hatred. 
      
      31) 
      Phú: Mraksha (skt)—Che dấu—Covering or hiding something inside.
      
      32) 
      Cuống: Maya (skt)—Sự dối gạt—Deceit—False kindness or phone 
      intention.   
      
      33) 
      Siểm: Shathya (skt)—Nịnh bợ—Flattery. 
      
      34) 
      Kiêu: Mada (skt)—Conceit—Think high of self and low of others.
      
      35) 
      Hại: Vihimsa (skt)—Muốn làm tổn hại ai—Harming—To want to harm 
      other people.
      
      36) 
      Tật (Đố kỵ ganh ghét): Irshya (skt)—Bằng cách nầy hay cách khác, 
      ganh ghét đố kỵ với người hơn mình—Jealousy—To become envious of the who 
      surpass us in one way or other.
      
      37) 
      Xan (Bỏn xẻn): Matsarya (skt)—Người bỏn xẻn tự gói chặt tài sản, 
      chứ không muốn chia xẻ với ai—Stinginess—One is tight about one’s wealth, 
      not wishing to share it with others.
      
      b)     
      Hai Trung Tùy Phiền Não—Two Intermediate Grade Afflictions:
      
      38) 
      Vô tàm: Ahrikya (skt)—Làm sai mà tưởng mình đúng nên không biết xấu 
      hổ—Lack of shame—To do wrong, but always feel self-righteous.
      
      39) 
      Vô quí: Anapatrapya (skt)—Vô quí có nghĩa là không biết thẹn, không 
      tự xét coi mình có theo đúng tiêu chuẩn với người hay không—Lack of 
      remorse—Never examine to see if one is up to the standards of others.
      
      c)     
      Tám Đại Tùy Phiền Não—Eight Major Grade Afflictions:
      
      40) 
      Bất tín: Ashraddhya (skt)—Không tín nhiệm hay tin tưởng ai, không 
      tin chánh pháp—Lack of faith—Not trust or believe in anyone, not to 
      believe in the truth. 
      
      41) 
      Giải đãi (Biếng nhác trễ nải):  Kausidya (skt)—Không lo đoạn ác 
      tích thiện—Laziness—Not to try to eliminate unwholesome deeds and to 
      perform good deeds.
      
      42) 
      Phóng dật: Pramada (skt)—Làm bất cứ cái gì mình thích chứ không 
      thúc liễm thân tâm theo nguyên tắc—Laxiness—Not to let the body and mind 
      to follow the rules but does whatever one pleases.  
      
      43) 
      Hôn trầm: Styana (skt)—Mờ tối hay ngủ gục trong tiến trình tu 
      tập—Torpor—To feel obscure in mind or to fall asleep in the process.
      
      44) 
      Trạo cử: Auddhatya (skt)—Người luôn nhúc nhích không 
      yên—Restlessness—One is agitated and cannot keep still.       
      
      45) 
      Thất niệm: Mushitasmriti (skt)—Không giữ được chánh 
      niệm—Distraction—To lose proper mindfulness.
      
      46) 
      Bất chánh tri: Asamprajanya (skt)—Biết không chơn chánh, tâm tánh 
      bị uế nhiễm ám ảnh—Improper knowledge—One become obssesses with 
      defilement.
      
      47) 
      Bất Định (Tán loạn): Wikshepa (skt)—Tâm rối loạn—Scatteredness. 
      
      (F)  
      Bốn bất định: Aniyata (skt)—Four unfixed.
      
      48) 
      Thụy miên: Middha (skt)—Buồn ngũ làm mờ mịt tâm trí—To fall asleep 
      to obscure the mind.
      
      49) 
      Hối: Kaudritya (skt)—Ăn năn việc làm ác trong quá khứ—Regret or 
      repent for wrong doings in the past. 
      
      50) 
      Tầm: Vitarka (skt)—Tìm cầu sự việc làm cho tâm tánh bất 
      ổn—Investigation (to cause the mind unstable). 
      
      51) 
      Tư: Vicara (skt)—Cứu xét chính chắn làm cho tâm tánh yên ổn—Correct 
      Examination (to pacify the mind).  
      Năm Nhân Duyên Khiến 
      Cho Người Vãng Sanh Tịnh Độ Không Thối Chuyển: Five reasons why those 
      who are reborn in the Pure Land achieve non-retrogression—Kinh Vô Lượng 
      Thọ dạy rằng những kẻ vãng sanh Tịnh Độ đều trụ nơi chánh định, và đều là 
      các bậc A Bệ Bạt Trí, tức là bậc Bất Thối Chuyển. Cổ Đức đã dạy: “Không 
      nguyện vãng sanh Tịnh Độ thì khó lòng vãng sanh; tuy nhiên, một khi đã 
      thực nguyện thì tất cả đều được vãng sanh. Không sanh Tịnh Độ thì khó 
      thành tựu Bất Thối Chuyển; tuy nhiên, khi đã vãng sanh Tịnh Độ thì tất cả 
      đều được bất thối chuyển.” Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong Tịnh Độ 
      Thập Nghi Hoặc Vấn Luận, có năm nhân duyên khiến cho người vãng sanh Tịnh 
      Độ không còn bị thối chuyển nữa—The Infinite Sutra confirms that those who 
      achieve rebirth in the Pure Land always dwell in correct samadhi, and are 
      all at the stage of “Avaivartika” or non-retrogression. The ancients have 
      said: “Without a vow to be reborn, rebirth cannot be achieved; however, 
      with a sincere vow, all achieve rebirth. Without rebirth in the Pure Land, 
      the stage of non-retrogression cannot easily be reached; however, with 
      rebirth, all achieve non-retrogression. According to Most Venerable Thích 
      Thiền Tâm in the Treatise on The Ten Doubts, question number 19, there are 
      five reasons why those who are reborn in the Pure Land achieve 
      non-retrogression:
      
      1)     
      Do nguyện lực đại bi của Phật nhiếp trì: The power of the Buddha’s 
      great, compassionate vow embraces and protects them.
      
      2)     
      Ánh sáng hay trí huệ Phật thường soi đến thân, nên lòng Bồ Đề của 
      chư thiện nhân luôn luôn tăng tiến: The Buddha’s light or wisdom always 
      shines upon them, and, therefore, the Bodhi Mind of these superior people 
      will always progress.
      
      3)     
      Nơi cõi Tây Phương Tịnh Độ, chim, nước, rừng cây, gió, âm nhạc 
      thường phát ra tiếng pháp ‘khổ, không, vô thường và vô ngã;’ hành giả nghe 
      rồi sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng: In the Western Pure Land, 
      the birds, water, forests, trees, wind and music all preach the Dharma of 
      ‘suffering, emptiness, impermanence and no-self.’ Upon hearing this, 
      practitioners begin to focus on the Buddha, the Dharma and the Sangha.
      
      4)     
      Chúng sanh được sanh về Cực Lạc, thì bạn lành toàn là các bậc Bồ 
      Tát thượng thiện, tuyệt tất cả các chướng nạn, ác duyên, lại không có 
      ngoại đạo tà ma, nên tâm thường an tịnh: Those who are reborn in the Pure 
      Land have the highest level Bodhisattvas as their companions and are free 
      from all obstacles, calamities and evil conditions. Moreover there are no 
      externalists or evil demons , so their Minds are always calm and still.
      
      5)     
      Đã được sanh về Tịnh Độ thì thọ lượng vô cùng, đồng với chư Phật và 
      chư Bồ Tát, an nhiên tu tập trải qua vô biên a tăng kỳ kiếp: Once they are 
      reborn in the Pure Land, their life span is inexhaustible, equal to that 
      of the Buddhas and Bodhisattvas. Thus they can peacefully cultivate the 
      Dharma for countless eons.   
      Năm Nhuần: Leap 
      year. 
      Năm Pháp Nội Tâm Một Vị 
      Tỳ Kheo Cần Phải Có Nếu Muốn Chỉ Trích Một Vị Khác: Theo Kinh Phúng 
      Tụng trong Trường Bộ Kinh, có năm pháp nội tâm một vị Tỳ Kheo cần phải có 
      nếu muốn chỉ trích một vị khác—According to the Sangiti Sutta in the Long 
      Discourses of the Buddha, there are five points to be borne in mind by a 
      monk wishing to rebuke another:
      
      1)     
      Tôi nói đúng thời, không phải phi thời: I will speak at the right 
      time, not at the wrong time.
      
      2)     
      Tôi nói đúng sự thật, không sai sự thật: I will speak (state) the 
      truth, not what is false.
      
      3)     
      Tôi nói một cách từ tốn, không nói lời ác khẩu: I will speak 
      gently, not roughly.
      
      4)     
      Tôi nói lời có lợi ích, không nói lời không lợi ích: I will speak 
      for his good, not for his harm.
      
      5)     
      Tôi nói lời có lòng từ, không phải lời sân hận: I will speak with 
      love in my heart, not with enmity.    
      Năm Phép Cung Kính Của 
      Chồng Đối Với Vợ: Theo Kinh Toát Yếu Đạo Lý Cho Người Cư Sĩ, Đức Phật 
      đã ban hành năm phép cung kính của người chồng đối với người vợ như sau—In 
      the Sigalovada Sutta, the Buddha laid down the five ways for a husband to 
      show compassion and respect for his wife as follows:
      
      1)     
      Luôn lễ độ và thanh tao nhã nhặn với vợ: He should always minister 
      to her by courtesy.
      
      2)     
      Không tỏ ý khinh thường vợ: Not to  despise her.
      
      3)     
      Trung thành với vợ: To be faithful to her.
      
      4)     
      Trao quyền hành quản lý trong nhà cho vợ: To delegate authority in 
      the household to her.
      
      5)     
      Mua sắm nữ trang cho vợ: To provide her with ornaments. 
      Năm Phép Cung Kính Của 
      Vợ Đối Với Chồng: Theo Kinh Toát Yếu Đạo Lý Cho Người Cư Sĩ, Đức Phật 
      đã ban hành năm phép cung kính yêu thương của người vợ đối với chồng như 
      sau—In the Sigalovada Sutta, the Buddha laid down the guidelines of five 
      ways for a wife to show compassion and respect to her husband as follows:
      
      1)     
      Làm tròn bổn phận của mình: To perform her duties well.
      
      2)     
      Ân cần tiếp đón thân bằng quyến thuộc bên chồng: To be hospitable 
      to her husband’s relatives and friends.
      
      3)     
      Trung thành với chồng: To be faithful to her husband.
      
      4)     
      Cẩn thận giữ gìn tiền bạc của cải mà chồng kiếm được: To protect 
      what he brings home.
      
      5)     
      Luôn khéo léo, siêng năng cần mẫn trong công việc:  Be always 
      skilled and industrious in discharging her duties.  
      Năm Phiền Trược Chưa 
      Được Đoạn Tận: Đức Phật dạy trong Trung Bộ Kinh, kinh Tâm Hoang Vu, có 
      năm phiền trược chưa được đoạn tận—In the Middle Length Discourses of the 
      Buddha, the Wilderness in the Heart Sutra, the Buddha confirmed: “There 
      are five shackles in the heart.”
      
      1)     
      Phiền trược thứ nhất chưa được đoạn tận—The first shackle in the 
      heart that he has not severed: Ở đây vị Tỳ Kheo đối với những dục, không 
      phải không tham ái, không phải không dục cầu, không phải không ái luyến, 
      không phải không khao khát, không phải không nhiệt tình, không phải không 
      khát ái, thì tâm của vị Tỳ Kheo đó không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên 
      trì, tinh tấn—Here a bhikkhu is not free from lust, desire, affection, 
      thirst, fever, and craving for sensual pleasures, and thus his mind does 
      not incline to ardour, devotion, perseverance, and striving. As his mind 
      does not incline to ardour, devotion, perserverance, and striving.  
      
      2)     
      Phiền trược thứ hai chưa được đoạn tận—The second shackle in the 
      heart that he has not severed: Vị Tỳ Kheo nào đối với tự thân không phải 
      không tham ái, không phải không dục cầu, không phải không ái luyến, không 
      phải không khao khát, không phải không nhiệt tình, không phải không khát 
      ái, thì tâm của vị Tỳ Kheo đó không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, 
      tinh tấn—A bhikkhu is not free from lust, desire, affection, thirst, 
      fever, and craving for the body (the rest remains the same as in the last 
      part of 1).
      
      3)     
      Phiền trược thứ ba chưa được đoạn tận—The third shackle in the 
      heart that he has not severed: Vị Tỳ Kheo nào đối với các sắc pháp không 
      phải không tham ái, không phải không dục cầu, không phải không ái luyến, 
      không phải không nhiệt tình, không phải không khát ái, thì tâm của vị Tỳ 
      Kheo đó không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn—A bhikkhu is 
      not free from lust, desire, affection, thirst, fever, and craving for form 
      (the rest remains the same as the last part of 1).
      
      4)     
      Phiền trược thứ tư chưa được đoạn tận—The fourth shackle in the 
      heart that that he has not severed: Vị Tỳ Kheo nào ăn cho đến thỏa thê, 
      cho đến bụng chứa đầy, sống thiên nặng về khoái lạc, về sàng tọa, khoái 
      lạc về ngủ nghỉ, khoái lạc về thụy miên—A bhikkhu eats as much as he likes 
      until his belly is full and indulges in the pleasures of sleeping, 
      lolling, and drowsing… As his mind does not inclined to ardour, devotion, 
      perserverance, and striving.
      
      5)     
      Phiền trược thứ năm chưa được đoạn tận: Tỳ Kheo nào sống phạm hạnh 
      với mong cầu được sanh thiên giới với ý nghĩ: “Ta với giới nầy, với hạnh 
      nầy, với khổ hạnh nầy hay với phạm hạnh nầy sẽ được sanh làm chư Thiên này 
      hay chư Thiên khác.”—A bhikkhu lives a holy life aspiring to some order of 
      gods thus: “By this virtue or observance or asceticism or holy life, I 
      shall become a great god or some lesser god,” and thus his mind does not 
      inclined to ardour, devotion, perserverance, and striving.     
      Năm Phiền Trược Đã Được 
      (Một Vị Tỳ Kheo) Đoạn Tận: Five shackles in the heart that he has 
      severed—See Năm Phiền Trược Chưa Được Đoạn Tận (opposite meaning).  
      Năm Suy Tướng: Five 
      signs of decay—See Ngũ Suy.
      
      1)     
       
      Năm Tâm Hành Sắc Giới: 
      Five kinds of Fine-Material-Sphere Functional Consciousness—See Tâm Sắc 
      Giới (II) (C). 
      Năm Tâm Hoang Vu: 
      Ceto-khila (p)—Five mental blockages—Theo Kinh Phúng Tụng trong trường Bộ 
      Kinh, có năm tâm hoang vu—According to the Sangiti Sutta in the Long 
      Discourses of the Buddha, there are five mental blockages:
      
      1)     
      Ở đây vị Tỳ Kheo nghi ngờ, do dự, không quyết đoán, không có thỏa 
      mãn đối với vị Đạo Sư. Thế nên vị ấy không nỗ lực đúng hướng, không hăng 
      hái, không kiên trì và tinh tấn: Here a monk who has doubts and 
      hesitations about the teacher, is dissatisfied and cannot settle his mind. 
      Thus his mind is not inclined towards ardour, devotion, persistence and 
      effort.
      
      2)     
      Ở đây vị Tỳ Kheo nghi ngờ đối với Pháp, do dự, không quyết đoán, 
      không có thỏa mãn đối với Pháp. Thế nên vị ấy không nỗ lực đúng hướng, 
      không hăng hái, không kiên trì và tinh tấn: Here a monk who has doubts and 
      hesitations about the Dhamma, is dissatisfied and cannot settle his mind. 
      Thus his mind is not inclined towards ardour, devotion, persistence and 
      effort.
      
      3)     
      Ở đây vị Tỳ Kheo nghi ngờ đối với Tăng, do dự, không quyết đoán, 
      không có thỏa mãn đối với Tăng. Thế nên vị ấy không nỗ lực đúng hướng, 
      không hăng hái, không kiên trì và tinh tấn: Here a monk who has doubts and 
      hesitations about the Sangha, is dissatisfied and cannot settle his mind. 
      Thus his mind is not inclined towards ardour, devotion, persistence and 
      effort.
      
      4)     
      Ở đây vị Tỳ Kheo nghi ngờ đối với Học Pháp, do dự, không quyết 
      đoán, không có thỏa mãn đối với Học Pháp. Thế nên vị ấy không nỗ lực đúng 
      hướng, không hăng hái, không kiên trì và tinh tấn: Here a monk who has 
      doubts and hesitations about  the training, is dissatisfied and cannot 
      settle his mind. Thus his mind is not inclined towards ardour, devotion, 
      persistence and effort.
      
      5)     
      Ở đây vị Tỳ Kheo tức giận đối với các vị đồng phạm hạnh, không hoan 
      hỷ, tâm dao động, trở thành hoang vu. Vì thế vị ấy không nỗ lực đúng 
      hướng, không hăng hái, không kiên trì và tinh tấn: Here a monk who is 
      angry and displeased with his fellows in the holy life, he feels depressed 
      and negative towards them. Thus his mind is not inclined towards ardour, 
      devotion, persistence and effort.       
      Năm Tâm Hoang Vu Đã 
      Được Đoạn Tận: Five Wilderness in the heart have been completely 
      abandoned (please see Năm Tâm Hoang Vu, just reversing the meaning, or 
      place a “no” in front of each rule).
      Năm Tâm Quả Sắc Giới: 
      Five kinds of Fine-Material-Sphere Resultant Consciousness—See Tâm Sắc 
      Giới (II) (B).   
      Năm Tâm Thiện Sắc Giới: 
      Five kinds of Fine-Sphere-Material-Wholesome-Consciousness—See Tâm Sắc 
      Giới (II) (A).
      Năm Thiện Nghiệp Tạo 
      Quả Được Hưởng Trong Sắc Giới: Five kinds of kusala kamma which may 
      ripen in the realms of form—See Mười Lăm Tâm Thiện Thuộc Sắc Giới (A). 
      Năm Thiện Nghiệp Tạo 
      Quả Được Hưởng Trong Vô Sắc Giới: Five kinds of kusala kamma which may 
      ripen in the formless realms—See Tứ Không Xứ (B). 
      Năm Thời Kỳ Phát Triển 
      Của Thai Nhi: The five evolutions of the embryo in the womb:
      
      1)     
      Thai tụ: Kalalam (skt)—Embryo-initiation.
      
      2)     
      Sau 27 ngày: Arbudam (skt)—After 27 days.
      
      3)     
      Sau 37 ngày: Pesi (skt)—After 37 days.
      
      4)     
      Sau 47 ngày: Ghana (skt)—After 47 days.
      
      5)     
      Sau 57 ngày khi tất cả các căn hình thành đầy đủ: Prasakha 
      (skt)—After 57 days when all form and organs all complete.  
      Năm Thứ Chi Tiêu: 
      Trong Kinh Pattakamma, Đức Phật nhắc nhở một người nên chi tiêu của cải 
      của mình theo năm chỗ sau đây—In the Pattakamma Sutta, the Buddha reminded 
      a person should spend his wealth in five areas:
      
      1)     
      Chi tiêu về thực phẩm, quần áo và các nhu cầu khác: Expenditure on 
      food and clothing and other needs.
      
      2)     
      Nuôi cha mẹ, vợ con và người làm: Maintain of parents, wife and 
      children and servants.
      
      3)     
      Chi tiêu về thuốc thang và những trường hợp khẩn cấp khác: For 
      illness and other emergencies.
      
      4)     
      Chi tiêu về mục đích từ thiện: For charitable purposes.
      
      5)     
      Chi tiêu vào những việc sau đây—Expenditures on the followings:
      
      ·       
      Đối xử với thân quyến—Treating one’s relatives.
      
      ·       
      Đối xử với khách—Treating one’s visitors.
      
      ·       
      Cúng dường để tưởng nhớ đến những người đã khuất—Offering 
      alms in memory of the departed.
      
      ·       
      Dâng lễ cúng dường chư Thiên—Offering merit to the deities.
      
      ·       
      Dâng lễ cúng dường chư Tăng Ni—Offerings to monks and nuns.
      
      ·       
      Trả thuế và lệ phí nhà nước đúng kỳ hạn—Payment of state 
      taxes and dues in time.  
      Năm Tiểu Suy Tướng Của 
      Chư Thiên Khi Sắp Mạng Chung: Theo Kinh Đại Bát Niết Bàn, chư Thiên 
      nào khi sắp mạng chung có năm tướng suy hiện ra. Năm suy tướng nầy gọi là 
      năm tướng “tiểu suy”—According to the Parinirvana Sutra, heavenly beings 
      who are nearing death will have the following five deterioration signs and 
      characteristics. These characteristics are known as the five “minor 
      deterioration” characteristics:
      1)  Y phục và các đồ trang nghiêm nơi thân 
      như vòng xuyến và chuỗi anh lạc kêu vang ra những tiếng không được thanh 
      tao êm dịu như lúc bình thường: Clothing and other adorning items on the 
      body such as arm gem bracelets and jewel necklaces will no longer  produce 
      soothing and enchanting sounds as they usually did. 
      
      2)     
      Ánh quang minh nơi thân bỗng nhiên mờ yếu: The auras around their 
      bodies will become dim. 
      
      3)     
      Sau khi tắm gội xong các giọt nước dính đọng nơi mình chớ không khô 
      đi như lúc trước: After bathing the water droplets will remain on their 
      bodies and will not dry spontaneously as they usually did. 
      
      4)     
      Tánh tình bình thường thong dong, phóng khoáng nay bị trì trệ lại 
      một chỗ: Their personality ordinarily delightful and cheerful, today they 
      seem uneasy and uncomfortable. 
      
      5)     
      Mắt luôn máy động không được trong lặng như mọi khi: The eyes will 
      twitch constantly and will not be as clear as they used to be. 
      Năm Trường Hợp Để Phân 
      Biệt Cảnh Ma Hay Cảnh Thật: See Five circumstances (criteria) that can 
      help us to determine which events are real and which belong to the demonic 
      realms in English-Vietnamese Section. 
      Năm Trường Hợp Đi Chùa 
      Bất Đắc Dĩ: Five reluctant situations the majority of people go to 
      temple—Theo Thượng Tọa Thích Hải Quang trong Thư Gửi Người Học Phật, ít 
      thấy có người vì thực tình muốn thoát nẻo luân hồi, xa lìa sanh tử, cầu 
      vãng sanh Tịnh Độ mà đến chùa tu hành. Có năm trường hợp đi chùa bất đắc 
      dĩ. Dù thế nào đi nữa, việc tu hành như thế cũng gieo được nhân lành và 
      phước đức về sau, còn tốt hơn là không tu hành hay không có tín tâm gì 
      cả—According to Venerable Thích Hải Quang in the Letters to Buddhist 
      Followers, there are very few people who honestly wish to escape the cycle 
      of rebirths, be liberated from birth and death, to seek  rebirth to the 
      Pureland to come to temple to cultivate. There are five reasons that 
      Buddhists reluctantly go to temple. No matter what reasons, such 
      cultivation is still producing some wholesome deeds, is still better than 
      no cultivation or having no faith.   
      
      1)     
      Có người vì bệnh nặng mà đi chùa vái van cho mau qua chóng khỏi: 
      Some people go to the temple to pray to quickly overcome their sickness or 
      ailment. 
      
      2)     
      Vì muốn cầu siêu trả hiếu cho cha mẹ mà đi chùa tụng kinh niệm 
      Phật: Some people go to the temple to chant sutras and practice Buddha 
      Recitation with the purpose to pray for their deceased parents as a way to 
      repay their parents’ kindness. 
      
      3)     
      Vì cầu cho nhà cửa, sự nghiệp vững bền mà đến chùa lạy Phật, cúng 
      dường: Some people come to the temple to prostrate to Buddha and make 
      offerings with the purpose to pray for their homes and daily subsistence 
      to remain prosperous. 
      
      4)     
      Vì sợ tai nạn mà đến chùa vái nguyện ăn chay niệm Phật: Some people 
      are afraid of calamities and disasters so they come to the temple to vow 
      to become vegetarians. 
      
      5)     
      Vì muốn trả cho rồi các lời vái van đã lỡ phát nguyện khi trước:  
      Some people come to the temple because they wish to repay something they 
      vowed before when they experienced hardships. 
      Năm Xuất Ly Giới: 
      Nissaraniya-dhatuyo (p)—The five elements making for deliverance—See Ngũ 
      Xuất Ly Giới.  
      Nắm: To grasp—To 
      embrace.
      Nắm Chặt: To hold 
      tightly. 
      Nắm Cơ Hội: To 
      embrace an opportunity. 
      Nằm: To lie down.
      
      Nằm Đất: To lie on 
      the ground. 
      Nằm Mộng: To dream.
      Nằm Nghiêng: To lie 
      on one’s side 
      Nằm Ngủ: To lie 
      dormant. 
      Nằm Ngửa: To lie on 
      one’s back.  
      Năn Nỉ: To insist.
      
      Nắn Nót: To write 
      carefully. 
      Nặn Óc: To puzzle 
      one’s brain. 
      Năng: 
      
      1)     
      Khả năng: Sak (skt)—Able—Can—Capability—Power.
      
      2)     
      Thường xuyên: Năng lui tới—Frequent—Often.
      Năng Duyên: Năng 
      duyên đối lại với sở duyên, như tâm thức của nhãn nhĩ là năng duyên vì 
      chúng phải nương vào ngoại cảnh sắc thanh (sở duyên)—The conditioning 
      power in contrast with the conditioned, e.g. the power of seeing and 
      hearing in contrast with that which is seen and heard.  
      Năng Đại Sư: Còn 
      gọi là Năng Hành Giả, hay Lục Tổ Huệ Năng của Thiền Tông Trung Hoa—The 
      sixth patriarch, Hui-Neng of the Chinese Ch’an School—See Huệ Năng in 
      Vietnamese-English Section, and Hui-Neng in Sanskrit/Pali-Vietnamese 
      Section.  
      Năng Đoạn Kim Cang Kinh: 
      Vajracchedika-sutra (skt)—Kinh Kim Cang, tóm lược của Kinh Bát Nhã Ba La 
      Mật Đa Kinh, được ngài Huyền Trang dịch sang Hoa ngữ—The Diamond Sutra, 
      translated by Hsuan-Tsang, an extract from the Prajnaparamita-sutra. 
      Năng Động: To be 
      dynamic. 
      Năng Lập: Phương 
      pháp của nhân minh luận, có đầy đủ chính nhân và chính dụ để thành lập tôn 
      pháp gọi là năng lập—A proposition in logic that can be established, or 
      postulated. 
      Năng Lực: Power.
      
      Năng Lực Trí Năng: 
      Jnasaki (skt)—Intellectual faculty. 
      Năng Lượng: 
      Energy.  
      Năng Nhân: 
      
      1)     
      Có lòng nhân: Mighty in loving-kindness—Able in generosity, 
      indicating Sakyamuni’s character.
      
      2)     
      Người có khả năng: An able man.
      
      3)     
      Phật Thích Ca: Sakyamuni Buddha.
      
      4)     
      Một vị vua thời cổ, có lẽ do tưởng tượng, trị vì 16 xứ ở Ấn Độ, 
      người mà Đức Phật đã đọc lại cho nghe Kinh Nhân Vương—An ancient king, 
      probably imaginary, of the “sixteen countries” of India, for whom the 
      Buddha is said to have dictated the Mighty in Loving-kindness Sutra. 
      Năng Sở: Pháp tự 
      động là năng, pháp bị động là sở, như khả năng chuyển hóa là “năng hóa,” 
      và vật được chuyển hóa là “sở hóa” (năng duyên, sở duyên; năng kiến, sở 
      kiến; lục thức và lục căn có khả năng phát khởi mối cảm gọi là năng, lục 
      trần có sức thu lấy mối cảm gọi là sở)—Active and passive ideas , e.g. 
      ability to transform or transformable and the object that is transformed.
      
      Năng Thí Thái Tử: 
      The great princely almsgiver—See Đại Thí Thái Tử and Đại Ý.
      Năng Thiên Chủ: 
      Able to be lord. 
      Năng Thủ: Grahaka 
      or Grahana (skt). 
      
      ·       
      Sự nắm lấy hay sự nhận thức: Seizing or perceiving. 
      
      ·       
      Người nắm chấp hay nhận thức: One who seizes or perceives.
      
      Năng Thuyết: Able 
      speak. 
      Năng Tín: Năng tín 
      là có thể tin được, đối lại với sở tín hay cái được tin—Can believe, or 
      can be believed, contrasted with that which is believed. 
      Năng Trì: Có khả 
      năng trì giữ giới luật (theo pháp thọ giới trong Kinh Phạm Võng, Giới Hòa 
      Thượng hướng về người thọ giới mà nói rõ từng giới tướng trong thập giới 
      trọng cấm rồi hỏi: “Ông có thể giữ được giới đó không?” Người thọ giới trả 
      lời: “Năng Trì hay có thể giữ được.” Sau lời đáp “năng trì” là coi như đã 
      thọ giới đó)—Ability to keep or maintain the commandments. 
      Năng Y: Tùy thuộc 
      vào, từ dùng để đối lại với sở y, như cây cỏ trên đất đai; cây cỏ là “năng 
      y” và đất đai là “sở y.”—Dependent on, that which relies on something 
      else, e.g. vegetation on land; land is that which vegetation relies on—See 
      Sở Y. 
      Nắng Chang Chang: 
      Burning sun. 
      Nắng gắt: See Nắng 
      Chang Chang. 
      Nằng Nằng: To 
      insist stubbornly 
      Nặng: Heavy.
      Nặng Đầu: To have a 
      bad headache. 
      Nặng Gánh: Heavy 
      load. 
      Nặng Nghiệp: Heavy 
      karma. 
      Nặng Nhọc: Hard 
      work. 
      Nặng Tai: To be 
      hard of hearing. 
      Nặng Trĩu: 
      Overloaded—Overburdened. 
      Nặng Trịch: Very 
      heavy. 
      Nâng Cao: To raise.
      
      Nâng Đỡ: To 
      support—To help. 
      Nấp: 
      
      1)     
      To hide.
      
      2)     
      Lid—Cover. 
      Nấp Bóng: To be 
      under someone’s protection 
      Nâu Sồng: Monk’s 
      clothes—Clothes which have been dyed in brown. 
      Nấu Cát Làm Cơm:
      
      
      1)     
      Cooking sands for food. 
      
      2)     
      Something  which is impossible to achieve. 
      Nẩy Lên: To bounce.
      
       
      
      ---o0o---
      
       
      
            
            Mục Lục Tự điển Phật Học 
      Việt-Anh
      
            
      |
            A
            |
            Ba |
            Be | 
            Bi | 
            Bo | 
            Bu
            | Ca 
            
            | Ch
            
            
            | Co | 
            Cu
            | 
            D 
            
            | 
            
            Đa 
            
            | Đe | 
            Đi | 
            Đo | 
            Đu
            |
      
            
            | E 
            
            | 
            G
            |
            Ha | 
            He | 
            Hi | 
            Ho | 
            Hy
            | 
            I 
            
            | K
            | La | 
            Le | 
            Li | 
            Lo | 
            Lu | 
            Ly
            | 
      
            
            | 
            Ma 
            
            | Me | 
            Mi | 
            Mo | 
            Mu, My
            |Na 
            
            | Ne | 
      Ng | 
      Nh
      
            
            
            | Ni
            | No
            
            
            | Nu
            |
      
            
             | O
            | Pha |
      Phe
      | Phi |
      Pho |
      Phu
            | Q
            | R
            | S
            | Ta |
      Te |Tha 
      | Thă, Thâ | 
      
            
            | The |
      Thi |
      Tho |
      Thu |
      Ti |
      To |
      Tr |
      Tu |
      Ty
            |  U
            | V
            | X
            | Y|
            
             
      
      ---o0o---
      
      
      Mục Lục | 
      Việt-Anh | Anh -Việt |
      Phạn/Pali-Việt
      | Phụ Lục
      
      ---o0o---
      
Trình bày: Nhị 
Tường
Cập nhật: 1-4-2006