TỔ ĐÌNH MINH ĐĂNG QUANG
      
      PHẬT HỌC TỪ ĐIỂN
      
      
      BUDDHIST DICTIONARY
      
      
      VIETNAMESE-ENGLISH
      
      
      THIỆN PHÚC
       
      
      Mo
       
      
      Mò: To grop—To feel about with 
      the hand as one does in the dark.
      
      Mò Ra: To grop out. 
      
      Mò Mẫm: See Mò. 
      
      Mõ: See Mộc Ngư. 
      
      Mỏi: Tired—Weary. 
      
      Mỏi Chân: To be tired of 
      walking. 
      
      Mỏi Miệng: To talk oneself 
      tired. 
      
      Mọi:
      
      1)      Slave.
      
      2)      Every.
      
      Mọi Người: Everybody. 
      
      Mọi Nơi: Everywhere.
      
      Mọi Vật: Everything. 
      
      Mọi Việc: See Mọi vât. 
      
      Món: Article—Thing—Item. 
      
      Mòn: To wear. 
      
      Mòn Chí: 
      Discouraged—Broken-spirited—Despondent. 
      
      Mòn Hơi: Out of breath. 
      
      Mòn Mắt: To be tired of 
      waiting. 
      
      Mòn Sức: To wear oneself out.
      
      
      Mọn: 
      
      1)      
      Little—Small.
      
      2)      
      Mean—Humble (hèn mọn).
      
      Mong: To expect and desire—To 
      hope. 
      
      Mong Chờ: To wait for. 
      
      Mong Đợi: See mong chờ.
      
      Mong Manh: Mỏng Mảnh—Không chắc 
      chắn: 
      1)  Small—Slender—With little hope.
      2)  Slim—Faint—Uncertain.
      
      
      Mong Mỏi: To desire eagerly—To 
      expect—To aspire. 
      
      Mong Ước: To wish—To hope. 
      
      Móng: 
      
      1)      
      Talon—Claw (móng vuốt). 
      
      2)      
      Foundation—Base (nền móng).
      
      3)      Nail 
      (móng tay chân).
      
      Mỏng: Slender—Thin—Slim. 
      
      Mỏng Mảnh: Fragile. 
      
      Mỏng Tanh: Very thin. 
      
      Mót: To glean—To gather what 
      has been left over. 
      
      Mọt: Wood-eater. 
      
      Mơ Hồ: Ambiguous—Vague. 
      
      Mơ Màng: To sleep slightly. 
      
      Mơ Mộng: Daydreaming
      
      Mơ Ngủ: To drop off to sleep.
      
      
      Mớ:
      
      1)      A 
      bundle (wood).
      
      2)      To 
      talk in one’s sleep. 
      
      Mờ: Dim—Blurred. 
      
      Mờ Mịt: Viparyasa 
      (skt)—Confusion—Obscure. 
      
      Mơû: To open. 
      
      Mở Hé: To half-open. 
      
      Mở Lòng: To open one’s heart.
      
      
      Mở Mang Tâm Trí: To develop 
      one’s mind.
      
      Mở Mắt: To open the eyes. 
      
      Mở Mắt Tâm: To open the mind’s 
      eye—Đây là một cách khác để diễn tả về kinh nghiệm giác ngộ hay sự tự nhận 
      ra tự tánh, từ đó thấy biết tất cả tự tánh của vạn hữu—This is another way 
      of speaking of the experience of enlightenment or self-realization. 
      Awakening to one’s true nature and hence of the nature of all existence.
      
      
      Mở Ra Một Con Đường: To offer  
      a way—To open a way—Buddha Dharma offers a safe way to the Deathless, to 
      Nirvana. 
      
      Mở Rộng: To widen—To expand—To 
      broaden—To enlarge. 
      
      Mở Trói: To untie. 
      
      Mới: New—Recent—Fresh. 
      
      Mới Đây: Recently—Lately. 
      
      Mời: To invite. 
      
      Mời Lơi: To invite for form’s 
      sake.  
      
      Mớm: To feed from mouth to 
      mouth. 
      
      Mơn Mởn: Tender—Young. 
      
      Mơn Trớn: To caress. 
      
      Mô: 
      
      1)      Lần mò 
      (như người mù mò đường): To feel, or to grope, e.g. as a blind man. 
      
      2)      Mô 
      đất: Mound.
      
      3)      Mưu 
      mô: Plans—Schems—Counterfeit—Forge.  
      
      Mô Hạ: See Moha in 
      Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.  
      
      Mô Phạm: Model—Pattern—Example.
      
      
      Mô Phỏng: To copy—To imitate.
      
      
      Mô Tả: Describe. 
      
      Mô Tượng: Kinh Niết Bàn nói đến 
      người mù diễn tả voi bằng cách rờ voi (hễ rờ ngà thì nói voi cứng như đá 
      và nhọn như mũi tên)—The Nirvana Sutra mentioned about the blind man who 
      tried to describe an elephant by feeling it. 
      
      Mồ: Tomb—Grave. 
      
      Mồ Côi: To be orphaned.
      
      Mồ Côi Cha: Fatherless.
      
      Mồ Côi Mẹ: Motherless. 
      
      Mồ Hôi Nước Mắt: Sweat and 
      tears.
      
      Mổ:
      
      1)      To 
      peck (birds).
      
      2)      To 
      operate (dissect).
      
      3)      To 
      kill an animal for food.
      
      Mộ: 
      
      1)      Ái mộ: 
      To love—To long for. 
      
      2)      Luyến 
      ái: To love—To hanker after.
      
      3)      See 
      Mồ. 
      
      Mộ Đạo: To devote oneself to 
      religion affairs—To be devout.
      
      Mộ Duyên: To collect 
      subscription (of Buddhist monk). 
      
      Mộ Hà: Moha (skt)—Ngu 
      si—Unenlightened—Stupid—See Moha in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section. 
      
      Mộ La: Mula 
      (skt)—Căn—Fundamental—Root—See Mula in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
      
      Mộ La Tát Bà Tất Để Bà Đà Ni Ca: 
      Mula-sarvastivadah-nikaya (skt)—Căn bản thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ—The 
      fundamental works, original texts of the Hinayana school of Sarvastivadah.
      
      
      Mộ Nại La: Mudra (skt)—Dấu ấn—A 
      seal—A sign—Token—hand or finger signs—See Mudra in 
      Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.  
      
      Mộc: 
      
      1)      Cây: 
      Wood—A tree. 
      
      2)      Kastha 
      (skt)—A piece of wood—Timber.
      
      3)      Tắm: 
      To bathe
      
      Mộc Diệu: Mộc tinh, một trong 
      cửu diệu, nằm về phía nam Kim Cang Viện, bên ngoài Thai tạng Mạn Đà 
      La—Jupiter, one of the nine luminaries, on the south of the Diamond hall, 
      outside the Garbhadhatu mandala.
      
      Mộc Đắc La: Mudra (skt)—A 
      seal—Mystic signs with the hands. 
      
      Mộc Đầu:
      
      1)      Người 
      đần độn: Block-head—A stupid person. 
      
      2)      Kẻ phá 
      giới: One who breaks the commandments. 
      
      Mộc Đề: Mukti (skt)—Mộc Để—Mục 
      Đế La—Deliverance (giải thoát)—Liberation—Emancipation—The getting rid of 
      evils one by one.
      
      Mộc Hoa Lâm: Papaya forest—See 
      Khổ Hạnh Lâm. 
      
      Mộc Hoạn Tử: Vô Hoạn Tử—Một 
      loại cây có khả năng tránh được tà quỷ. Hạt của nó có thể dùng làm tràng 
      hạt. Cây còn mang ý nghĩa bất hại hay an toàn. Nó còn là tên của một loại 
      trái dâu dùng làm xà bông—A tree whose wood can exorcise evil spirits, or 
      whose seeds are used as rosary beads. It is said to be the arista, which 
      means unharmed, secure; it is the name of the soap-berry and other shrubs.
      
      
      Mộc Hương: Kunduruka or Putchuk 
      (skt)—Căn Hương—Huân Lục Hương—Đa Già La—Một loại trầm hương—An 
      incense-yielding tree—The resin of the plant. 
      
      Mộc Loan Tử: Seeds used for 
      rosary beads.
      
      Mộc Luật Tăng: A rigid 
      formalist—A wooden pettifogging monk. 
      
      Mộc Mã: Con ngựa gỗ, một biểu 
      tượng của sự giải thoát—A wooden horse—A symbol of emancipation. 
      
      Mộc Ngư: Mõ cá bằng cây hay 
      khúc gỗ tròn, móc bọng ruột, làm theo hình cá, với một khe đục nằm ngang 
      để tạo âm hưởng, được dùng để gõ nhịp tụng kinh trong các tự viện. Khi 
      được gõ bằng cái dùi có đầu bọc vải, sẽ phát ra những âm thanh rõ ràng và 
      đặc biệt. Mõ được dùng đầu tiên bên Trung Quốc, nhưng lý nguyên thủy của 
      việc dùng mõ gỗ vẫn chưa được biết rõ. Mõ lớn có thể cao một thước hay mõ 
      nhỏ có thể để được trong lòng. Mõ thường được đánh bóng bằng sơn mài màu 
      đỏ sáng. Người ta nói rằng vì cá luôn mở mắt cả ngày lẫn đêm (không bao 
      giờ ngủ), nên đây là một thí dụ điển hình cho sự tỉnh thức và chăm chú 
      trong nhà Thiền. Có hai loại mõ—The wooden fish is a hollowed-out roundish 
      wooden block, fashioned after some sort of sea creature, with a long 
      horizontal slit for resonance, employed as an accompaniment to sutra 
      chanting in Buddhist temples. When struck by a padded stick it emits a 
      clear and distinctive sound. Wooden fish was first used in China, but the 
      origin of the use of a wooden fish is unknown. This wooden drum may be as 
      large as three feet in height or small enough to hold in the lap. Usually 
      it is lacquered bright red.  It is said that a fish always has its eyes 
      open day and night (never sleep), so it is a good example for alertness 
      and watchfulness in Zen. There are two kinds:
      
      1)      Hình 
      tròn như vãy cá dùng để gõ khi tụng đọc: A round one for use to keep time 
      in chanting.
      
      2)      Một 
      loại giống như hình cá dựng đứng thường treo ở nhà trù, đánh lên khi tới 
      giờ cơm: A long one hanged in front of the mess hall for calling to meals.
      
      
      Mộc Phách Thái Tử: Một trong 
      những tiền thân của Đức Phật Thích Ca—One of the former incarnations of 
      Sakyamuni. 
      
      Mộc Phật: Tượng Phật bằng gỗ—A 
      Buddha of wood—An image of wood. 
      
      Mộc Thực: Living on wild fruits 
      and nuts. 
      
      Mộc Thượng Tòa: 
      
      1)      Cây 
      già: The elder with the tree.
      
      2)      Người 
      thâm niên (trưởng lão): The elder’s staff.
      
      Mộc Tinh: Brhaspati (skt).
      
      1)      Lord 
      of increase.
      
      2)      The 
      planet Jupiter.
      
      Mộc Xoa: Moksa (skt)—Giải 
      thoát—Deliverance—Emancipation. 
      ** For more information, 
      please see 
           Pratimoksa. 
      
      Mộc Xoa Cúc Đa: Moksagupta 
      (skt)—A monk of Karashahr, protagonist of the Madhyamayana school whose 
      ignorance Hsuan-Tsang publicly exposed. 
      
      Mộc Xoa Đề Bà: Moksadeva 
      (skt)—Môn đồ Tiểu Thừa ở Tây Trúc tôn kính ngài Huyền Trang nên gọi ngài 
      là Mộc Xoa Đề Bà hay là Giải Thoát Thiên—A title given by Hinayanists in 
      India to Mahayanadeva, such as Hsuan-Tsang.
      
      Môi Giới: To go 
      between—Intermediary. 
      
      Mối: 
      
      1)      Con 
      mối: Termite.
      
      2)      Đầu 
      mối: Cause.
      
      Mối Họa: Cause of misfortune.
      
      Mối Lợi: Advantage. 
      
      Mối Nguy Hại: A nuisance. 
      
      Mối Thù: A feud. 
      
      Mồi: Bait—Lure. 
      
      Mỗi: Each—Every. 
      
      Mỗi Đát Lý: Maitreya (skt)—Di 
      Lặc.
      
      Mỗi Đát Lý Mạt Na: Maitrimanas 
      (skt)—Kindly mind—Merciful. 
      
      Môn: 
      
      1)      Cửa: 
      Cửa ra vào của mọi nhà—Gate—Door—Entrance. 
      
      2)      Tông 
      Phái: Sect—School.
      
      3)      Giáo 
      Thuyết: Đặc biệt là giáo thuyết dẫn đến cứu độ hay Niết Bàn—Teaching, 
      especially one leading to salvation or nirvana. 
      
      4)      
      Subject (study). 
      
      5)      Event 
      (sport).
      
      Môn Bài: License. 
      
      Môn Chủ: Vị kiểm soát cửa hay 
      coi tổng quát một tông phái—The controller of a gate, or sect.  
      
      Môn Đăng Hộ Đối: Marriage of 
      the same (equal) class or property. 
      
      Môn Đệ: Follower—Disciple. 
      
      Môn Đồ: See Môn đệ. 
      
      Môn Kinh: Bài Kinh về tang lễ 
      và đọc ngay tại cửa trước nhà—The funeral service and read at the 
      house-door. 
      
      Môn Lữ: Bạn cùng học hay cùng 
      tu—Disciple—Fellow-student.
      
      Môn Lưu: See Môn Phái, and Môn 
      Tích. 
      
      Môn Phái: Sect—School
      
      Môn Sinh: See Môn đệ. 
      
      Môn Sư: Vị sư được công nhận 
      như vị Thầy của gia đình—Preceptor—The monk who is recognized as teacher 
      by any family. 
      
      Môn Thần: Vị Thần giữ cửa—The 
      gate-gods or guardians.
      
      Môn Thủ: See Môn Chủ. 
      
      Môn Tích: Môn đồ hay sự phát 
      triển của môn phái—The followers, or development of any sect. 
      
      Môn Trạng: Tham Bảng—Tham 
      Trạng—Danh Thiếp—A name paper, card, or visiting card. 
      
      Mông: 
      
      1)      Bao 
      trùm: To cover.
      
      2)      Mông 
      muội: Stupid—Ignorant.  
      
      Mông Cổ: Nước Mông 
      Cổ—Mongolia—Mongol. 
      
      Mông Hoặc: Stupid and deluded.
      
      
      Mông Mênh: Immense—Vast. 
      
      Mông Quạnh: Desert. 
      
      Mống: Rainbow. 
      
      Mộng: 
      
      1)      Giấc 
      mộng: Những cái hiện ra trong mộng là không có thực—A dream.
      
      2)      Sự 
      huyễn giả của chư pháp: Chư pháp thế gian không có thực tính—A simile of 
      the things of the world. 
      
      Mộng Ảo: Illusion—Visionary.
      
      
      Mộng Du: Sleep-walking. 
      
      Mộng Huyễn: Tính chất của mọi 
      hiện tượng là không thực như mộng như huyễn—Dream and illusion, the 
      characteristics of all phenomena. 
      
      Mộng Kiến: Tưởng tượng cái mình 
      thấy hay đã thấy trong mộng, hay những cái thấy không có thực—To see in a 
      dream—To imagine one sees, or has seen. 
      
      Mộng Sơn Đức Dị: (?-1104)—Ông 
      thuộc đời thứ tám của dòng Thiền Ngũ Tổ Pháp Diễn. Mộng Sơn đã kể lại 
      những kinh nghiệm Thiền của mình như sau—Mung-Shan-Te-I, who was the 
      eighth descendant of Fa-Yen of Wu-Tsu. Mung-Shan told the following 
      stories of his experience in Zen:
      
      ·       
      Năm 20 tuổi tôi mới quen biết với Thiền, cho đến năm 32 
      tuổi, tôi đã thăm viếng 17 hay 18 Thiền sư, hỏi họ về cách thực hành pháp 
      môn Thiền, nhưng không ai chỉ ra manh mối. Sau nầy khi đến tìm trưởng lão 
      Hoàn Sơn, ngài dạy tôi hãy nhìn vào  ý nghĩa của ‘Vô,’ và nói thêm ‘hãy 
      chăm chú vào chữ Vô suốt cả ngày đêm không ngừng nghỉ, như con chuột đang 
      rình mèo, như gà mái ấp trứng. Khi chưa thấy rõ, hãy như con chuột gặm 
      nhắm cái rương gỗ và đừng bao giờ xao lãng công phu. Thực hành công phu 
      như vậy, chắc chắn thời cơ bừng sáng của tâm ngươi sẽ đến—When I was 
      twenty years old, I became acquainted  with Zen, and before I was 
      thirty-two I had visited seventeen or eighteen Zen masters asking them as 
      to their method of discipline, but none were able to enlighten me on the 
      most important point. When later I came to the master Huan-Shan, he told 
      me see into the meaning of ‘Wu,’ and added, ‘Be vigilant over your WU 
      through all the periods of the day, as constantly vigilant as a cat is 
      when she tries to catch a rat, or as a hen  is while sitting on the eggs. 
      As long as you have as yet no insight, be like a rat gnawing at the 
      coffin-wood and never vacillate in your exertion. As you go on with your 
      task like that, the time will surely come when your mind will become 
      enlightened.”
      
      ·       
      Y theo lời dạy nầy, tôi chăm chỉ thực hành, ngày đêm không 
      nghỉ. Rồi trải qua 18 ngày. Bỗng nhiên khi đang uống trà tôi chợt hiểu cái 
      cười nụ của Ca Diếp khi Đức Phật đưa lên một cành hoa trước đại chúng. Tôi 
      mừng rỡ khôn xiết; đi cầu một vài vị trưởng lão của Thiền, nhưng các ngài 
      không trả lời rõ rệt, có vị bảo tôi hãy dùng bảo ấn tam muội mà ấn chứng 
      mười phương thế giới, chứ đừng bận lòng đến thứ gì khác. Tôi tin lời nầy, 
      trải qua hai năm, năm hiệu Cảnh Định thứ năm (1265), tôi đang lở tại tỉnh 
      Tứ Xuyên, phủ Trùng Khánh, đang nguy kịch vì bị bệnh kiết nặng. Không còn 
      chút lực nào, cả đến hải ấn tam muội cũng không giúp gì trong lúc nầy. Kể 
      cả cái hiểu về Thiền đã từng có cũng chẳng giúp tôi được. Lưỡi không chịu 
      nói, thân thể không chịu cử động; chỉ còn chờ chết là hết. Quá khứ diễn ra 
      trước mắt: những điều đã làm, những cảnh ngộ đã từng trải; thế là tôi ở 
      trong một trạng thái tuyệt vọng ghê gớm và hết còn biết cách nào thoát 
      khỏi cái dày vò của nó. Sau cùng cố gắng tự chủ, tôi phân phó ý muốn của 
      mình, rồi lặng lẽ đứng dậy, thắp một ít nhang, dọn lại cái bồ đoàn cũ kỹ; 
      làm lễ Tam Bảo, Thiên Long và thầm sám hối những tội chướng tiền khiên. 
      Tôi khấn nguyện rằng nếu tôi hết kiếp nầy thì mong nhờ năng lực của Bát 
      Nhã mà tái sinh trong một gia đình tốt đẹp và được xuất gia từ khi hãy còn 
      bé bỏng. Nhưng nếu tôi được lành bệnh, tôi muốn được xuất gia ngay và hiến 
      cả cuộc đời còn lại để học Thiền. Nếu được giác ngộ, tôi sẽ cứu giúp mọi 
      người cũng được giác ngộ như mình. Sau lời khấn nguyện này, tôi đề khởi 
      chữ Vô trong lòng vá quay ánh sáng soi vào trong mình. Không lâu, tôi nghe 
      trong tạng phủ máy động đôi ba lần, nhưng không để tâm đến; một lúc sau 
      lông mày tôi nghe cứng không chịu chớp, và lát nữa tôi hết biết đến thân 
      thể của mình; chỉ có chữ Vô còn lại trong lòng thôi. Đến chiều tôi rời chỗ 
      ngồi và thấy bệnh mình bớt được một nửa; tôi ngồi xuống trở lại cho đến 
      khi gần sáng. Bấy giờ bệnh hoàn toàn biến mất. Giờ đã bình phục, thân tâm 
      như thơ thới—Following this instruction, I steadily applied myself to the 
      work, day and night. Eighteen days thus elapsed. Suddenly, when I was 
      taking tea, I cam upon the meaning of Kasyapa’s smile, which was elicited 
      when the Buddha produced a flower before a congregation of his disciples. 
      I was overjoyced; I wished to find out whether my understanding was 
      correct and called upon a few masters of Zen. They, however, gave me no 
      definite answer; some told me to stamp the whole universe with the stamp 
      of Sagara-mudra-samadhi, and not to pay attention to anything else. 
      Believing this, I passed two years. In the sixth month of the fifth year 
      of Ching-Ting (1265), I was in Ch’ing-Ch’ing, Szu-Ch’uan, and suffering a 
      great deal from dysentary, was in a most critical condition. No energy was 
      left in me, nor was the Sagaramudra of any avail at this hour. Whatever 
      understanding of Zen I had all failed to support me. The tongue refused to 
      speak, the body to move; all that remained was to greet death. The past 
      unrolled itself before me, the things I had done, as well as the 
      situations I had been in; I was thus in a ghastly state of despondency and 
      completely at a loss as to how to escape from its torture. At last, 
      determining to be master of myself, I managed to make my will. I then got 
      up quietly, lit some incense, arranged the invalid cushions; I made bows 
      to the Triple Treasure and also to the Naga gods, and silently confessed 
      my previous sins before them. I prayed that if I were to pass away at this 
      time I might be reborn through the power of Prajna in a good family and 
      become a monk in my early years. But if I should be cured of this disease 
      I wanted to become a monk at once and devote the rest of my life entirely 
      to the study of Zen. If an illumination should come I would help others 
      even as myself to get enlightened. After making this prayer, I set up “WU” 
      before my mind and turned the light within myself. Before long I felt my 
      viscera twist for a few times, but I paid no attention; it was after some 
      time that my eyelids became rigid and refused to blink, and later on I 
      became unconscious of my own body; the “WU” alone occupied my 
      consciousness. In the evening I  arose from my seat and found that I was 
      half cured of the disease; I sat down again until the small hours of the 
      morning when the physical disorder completely disappeared. I was myself 
      again, well and in good spirits.   
      
      ·       
      Tháng tám năm ấy, tôi đến Giang Lăng thí phát làm sư. Gần 
      hết một năm tôi đi hành cước, và lúc đang thổi cơm thì thấy ra rằng việc 
      tu tập công án phải giữ không gián đoạn và với công phu liên tục. Rồi tôi 
      đến trú ngụ tại Hoàng Long. Lần thứ nhất buồn ngủ, tôi vận dụng ý chí 
      chống lại và vẫn ngồi như cũ, cơn buồn ngủ bị chinh phục dễ dàng. Lần thứ 
      hai buồn ngủ, tôi tống khứ nó y như lần trước. Lần thứ ba cơn buồn ngủ xâm 
      chiếm nặng nề, tôi bước xuống khỏi chỗ ngồi và đi lễ Phật, nhờ vậy mà thấy 
      tỉnh táo lại. Trở lại chỗ ngồi và tiếp tục tiến tới. Nhưng sau hết lúc 
      phải đi ngủ tôi dùng gối kê đầu và ngủ được một chút; sau đó, lấy cánh tay 
      làm gối, và cuối cùng hoàn toàn khỏi phải nằm dài xuống. Qua hai đêm như 
      thế, đến đêm thứ ba, tôi mệt nhọc đến độ như thấy chân không chấm đất. 
      Bỗng đâu đám mây mù như che mắt nay được quét sạch, tôi thấy như vừa tắm 
      xong, hoàn toàn mát mẻ—In the eighth month of the same year I went to 
      Chiang-Ling and had my head shaved to become a monk. Before the year was 
      over, I went on a pilgrimate, and while cooking rice I found out that the 
      koan exercise must be carried on uninterruptedly and with continuous 
      effort. I then settled myself at Huang-Lung. When I felt sleepy for the 
      first time I exercised my will to resist it and kept on sitting, when the 
      sleepiness was early vanquished. When I became sleepy a second time, I 
      drove it away in a similar manner. A third attack was too strong; I got 
      down from my seat and made bows to the Buddha, which revived me. I resumed 
      my seat and the process had to be repeated. But when at last I had to 
      sleep I used a pillow and slept a little; later my elbow was substituted 
      for the pillow, and finally I altogether avoided lying down. Two nights 
      were thus passed; on the third night I was so fatigued that I felt as if 
      my feet did not touch the ground. Suddenly the dark cloud that seemed to 
      obstruct my vision cleared away, and I felt as if I had just come from a 
      bath and was thoroughly rejuvenated. 
      
      ·       
      Còn về công án thì nghi tình là nặng nhất và công án sừng 
      sững ra đấy mà không  cần dụng công. Tất cả những cảm giác ngoại thân, 
      những ngũ dục và bát phong không còn quấy phá nữa; tự mình trong suốt như 
      một chén pha lê đầy tuyết, như trời thu quang đãng không mây. Công phu  cứ 
      diễn tiến rất tốt đẹp như thế, nhưng chưa có chút dứt khoát nào. Sau đó 
      tôi giã từ chùa du hành sang Chiết Giang. Dọc đường vì quá nhiều mệt nhọc 
      nên công phu Thiền cũng suy giảm. Tôi đến chùa Thừa Thiên, nơi đây Cô 
      Thiềm Hòa Thượng đang trụ trì, và tạm thời dừng chân ở đó. Tôi tự thệ sẽ 
      không rời khỏi nơi nầy cho đến khi nào lãnh hội được đạo Thiền. Hơn một 
      tháng sau, tôi lấy lại công phu đã mất. Bấy giờ khắp mình ghẻ lỡ; nhưng 
      vẫn quyết tâm giữ vững công phu dù có đánh đổi cả cuộc đời. Nhờ đó mà tâm 
      lực được mạnh mẽ thêm nhiều, và biết giữ vững công phu của mình ngay cả 
      lúc bệnh hoạn—As to the koan, a state of mental fixation prevailed, and 
      the koan occupied the centre of attention without any conscious striving 
      on my part for it. All external sensations, the five passions, and the 
      eight disturbances, no longer annoyed me; I was as pure and transparent as 
      a snow-filled silver bowl or as the autumnal sky cleared of all darkening 
      clouds. The exercise thus went on quite successfully but as yet with no 
      turning point. Later I left this monastery and travelled to Chê-Chiang. On 
      the way I experienced many hardships and my Zen exercise suffered 
      accordingly. I came to the Ch’eng-T’ien monastery which I was presided 
      over by the Master Ku-Ch’an, and there took up my temporal habitation. I 
      vowed to myself that I would not leave this place until I realized the 
      truth of Zen. In a little over a month I regained what I had lost in the 
      exercise. It was then that my whole body was covered with boils; but I was 
      determined to keep the discipline even at the cost of my life. This helped 
      a great deal to strengthen my spiritual powers, and I knew how to keep up 
      my seeking and striving even in illness. 
      
      ·       
      Một hôm được mời đi thọ trai, suốt trên đường đến nhà trai 
      chủ, vừa đi vừa đeo đuổi công án, mãi miết trong công phu tu tập cho tới 
      ngang qua nhà mà vẫn không hay mình đang ở đâu. Nhờ vậy mà tôi hiểu ra thế 
      nào gọi là thực hành công phu ngay trong mọi động dụng. Đến đây thì tâm cơ 
      của tôi như mặt trăng phản chiếu từ lòng sâu của dòng nước đang chảy; mặt 
      nước tuy chảy xiết, nhưng mặt trăng vẫn y nhiên bất động—One day, being 
      invited out to dinner I walked on with my koan all the way to the 
      devotee’s house, but I was so absorbed in my exercise that I passed by the 
      house without even recognizing where I was. This made me realized what was 
      menat by carrying on the exercise even while engaged in active work. My 
      mental condition then was like the reflection of the moon penetrating the 
      depths of a running stream the surface of which was in rapid motion, while 
      the moon itself retained its perfect shape and serenity in spite of the 
      commotion of the water. 
      
      ·       
      Ngày mồng sáu tháng ba, tôi đang ngồi trên bồ đoàn, tâm niệm 
      chữ Vô như thường lệ thì vị Tăng thủ tòa bước vào Thiền đường. Tình cờ 
      thầy làm rơi hộp nhang trên nền nhà, khua lên một tiếng. Tiếng động chợt 
      khơi tỏ tâm mình thấy một viễn tượng tâm linh mới mẻ, và cùng với tiếng 
      kêu tôi thấu triệt tự thể của mình, chộp được ông già Triệu Châu (tác giả 
      chữ Vô). Tôi buộc miệng đọc ngay một bài tụng:
      “Một hứng lộ đầu cùng
            
      Đạp phiên ba thị thủy
            
      Triệu Châu lão siêu quần
            
      Diện mục chỉ như thị
            
      (Đường đi chợt hết bước
            
      Dẫm ngược, sóng là nước
            
      Già Triệu Châu quá chừng
            
      Mặt mày chẳng chi khác).         
      On the 
      sixth of the third month I was holding “WU” in my mind as usual while 
      sitting on the cushion, when the head-monk came into the meditation hall. 
      Accidentally he dropped the incense-box on the floor, making a noise. This 
      at once opened my mind to a new spiritual vista, and with a cry I obtained 
      a glimpse into my inner being, capturing the old man Chao-Chou (the author 
      of WU). I gave voice to the following stanza:               
           “Unexpectedly the 
      path comes to an end    
             When stamped 
      through, the waves are the 
             water itself.
             They say, old 
      Chao-Chou stands 
             supremely above the 
      rest,
             But nothing 
      extraordinary I find in his 
             
      features.”               
      
      ·       
      Suốt mùa thu, tôi tham vấn các đại danh Tăng như Tuyết Nham, 
      Thối Canh, Thạch Khanh và Hư Chu. Hư Chu khuyên tôi đến kiếm Hoàn Sơn. Khi 
      tôi đến gặp Hoàn Sơn, ngài hỏi: “Quang minh tịch chiếu khắp cả hà sa thế 
      giới, đây há không phải là lời của tú Tài Trương Chuyết?” Tôi sắp mở miệng 
      thì Hoàn Sơn hét một tiếng và đuổi tôi đi chẳng chút lễ độ. Nhờ đấy mà tôi 
      đổi ngược hẳn, và từ đây, tâm tôi chuyên chú vào thái độ này của ngài. Khi 
      đi hay ngồi, ăn hay uống, tâm tôi phó thác vào đó—During the autumn I 
      interviewed masters of high reputation such as Hsueh-Yen, T’ui-Kêng, 
      Shih-Fan, and Hsu-Chou. The last-mentioned advised me to to go to 
      Huan-Shan. When I saw Huan-Shan, he asked: “The light, serenely 
      illuminating, fills all the universe to its furthest limits, are these not 
      the words of the literari Chang-Chuo?” I was about to open my mouth when 
      Huan-Shan gave a “Kwatz!” and dismissed me unceremoniously. This upset me, 
      and since then my thoughts were concentrated on this attitude of the 
      master. Walking or sitting, eating or drinking, my mind was occupied with 
      it. 
      
      ·       
      Sáu tháng trôi qua, vào một ngày mùa xuân năm sau, khi đi 
      dạo từ ngoài thành trở về, vừa bước lên bực thang đá, thì giá lạng đóng 
      băng trong óc não từ lâu chợt tan chảy, tôi quên mình đang đi trên đường. 
      Tôi đi thẳng đến Hòa Thượng, và ngay khi lập lại câu hỏi của tôi trước 
      kia, tôi bèn lật ngược Thiền sàng của ngài. Bây giờ tôi đã hiểu rõ trọn 
      vẹn công án mà những nút thắt thật là khó nối kết—Six months passed when, 
      one day in the spring of the following year, I was returning from an 
      out-of-town trip and was about to climb a flight of stone steps, when the 
      solid ice that had been clogging my brain for so long unexpectedly melted 
      away, and I forgot that I was walking on the roadway. I immediately went 
      to the master, and when he repeated the question I overturned his seat. I 
      now thoroughly understood the koan, whose knots had been so hard to unite.
      
      
      ·       
      Này các nhân giả: Hãy đi cho trọn lối tham Thiền. Giả sử tôi 
      không bị bệnh ở Trùng Khánh, cuộc đời của tôi lẽ ra đã trôi xuôi. Cần 
      thiết phải gặp một vị thầy thật sáng suốt. Hãy xem cổ nhân đã dốc lòng 
      hăng hái và bền bĩ cả ngày đêm tham thiền hầu dễ thấu đáo đạo lý cứu cánh 
      của Thiền—Oh Brother! Be thorough going in your Zen exercise. If I had 
      been taken ill when at Chung-Ch’ing my life might have been almost wasted 
      . The main thing is to be introduced to a master with really spiritual 
      insight. Consider how earnestly and steadily the ancient master devoted 
      themselves both day and night to the study of Zen in order to grasp the 
      ultimate truth of it.   
      
      Mộng Tưởng: Nghĩ đến những điều 
      trong mộng, tưởng tượng hay nghĩ đến những chuyện không có thật—To dream a 
      thing—To think of a dream—To imagine. 
      
      Mộng Yểm: Ác mộng—Nightmare.
      
      
      Mốt: 
      
      1)      The 
      day after tomorrow. 
      
      2)      
      Fashion. 
      
      Một: 
      
      1)      Số 
      một: One.
      
      2)      Chìm 
      mất: Sunk.
      
      3)      Qua 
      đời: Gone. 
      
      Một Ba Tỵ: Không có chóp mũi, 
      không thể nắm được, không có yếu lĩnh—No nose to lay hold of, no lead, no 
      bases. 
      
      Một Cách Có Văn Hóa: In a 
      cultural manner 
      
      Một Cách Cụ Thể: A concrete 
      way.
      
      Một Duệ Đạt Lợi Sắt Chí: 
      Mayadrsti (skt)—Ngã kiến, mê chấp có cái ta—Illusion-views, interpreted by 
      egoism, the false doctrine that there is a real ego. 
      
      Một Đặc Già La Tử: 
      Maudgalaputra or Maudgalyayana (skt)—See Ma Ha Mục Kiền Liên. 
      
      Một Đề Mục Phân Tách: Phân tách 
      về tứ đại—One analysis or the analysis of the four elements—See Tứ Đại.
      
      
      Một Đề Mục Quán Tưởng: See Nhất 
      Quán (2). 
      
      Một Đời: A lifetime. 
      
      Một Độ: Phật—Buddha. 
      
      Một Giao Thiệp: Không liên 
      quan, không ăn nhập với nhau—No inter-relation.
      
      Một Hai Khi: Sometimes. 
      
      Một Lần: One time. 
      
      Một Lứa: Of the same rank 
      (class). 
      
      Một Mạch: At one stretch. 
      
      Một Mình: Alone. 
      
      Một Nắm: A handful. 
      
      Một Thế: See Một đời.
      
      Một Thể: At the same time. 
      
      Một Tư Vị: Vô vị, vô giá, vô 
      dụng, tỷ như những người mù mà bàn luận về màu của sữa—Tasteless, 
      valueless, useless, e.g. discussion of the colour of milk by blind 
      people. 
       
      
      ---o0o---
      
       
      
            
            Mục Lục Tự điển Phật Học 
      Việt-Anh
      
            
      |
            A
            |
            Ba |
            Be | 
            Bi | 
            Bo | 
            Bu
            | Ca 
            
            | Ch
            
            
            | Co | 
            Cu
            | 
            D 
            
            | 
            
            Đa 
            
            | Đe | 
            Đi | 
            Đo | 
            Đu
            |
      
            
            | E 
            
            | 
            G
            |
            Ha | 
            He | 
            Hi | 
            Ho | 
            Hy
            | 
            I 
            
            | K
            | La | 
            Le | 
            Li | 
            Lo | 
            Lu | 
            Ly
            | 
      
            
            | 
            Ma 
            
            | Me | 
            Mi | 
            Mo | 
            Mu, My
            |Na 
            
            | Ne | 
      Ng | 
      Nh
      
            
            
            | Ni
            | No
            
            
            | Nu
            |
      
            
             | O
            | Pha |
      Phe
      | Phi |
      Pho |
      Phu
            | Q
            | R
            | S
            | Ta |
      Te |Tha 
      | Thă, Thâ | 
      
            
            | The |
      Thi |
      Tho |
      Thu |
      Ti |
      To |
      Tr |
      Tu |
      Ty
            |  U
            | V
            | X
            | Y|
            
             
      
      ---o0o---
      
      
      Mục Lục | 
      Việt-Anh | Anh -Việt |
      Phạn/Pali-Việt
      | Phụ Lục
      
      ---o0o---
      
Trình bày: Nhị 
Tường
Cập nhật: 1-4-2006