TỔ ĐÌNH MINH ĐĂNG QUANG
      
      PHẬT HỌC TỪ ĐIỂN
      
      
      BUDDHIST DICTIONARY
      
      
      VIETNAMESE-ENGLISH
      
      
      THIỆN PHÚC
       
      
      Đu
      Đủ: 
      Sufficient—Adequate—Enough. 
      Đủ Ăn: To be well 
      off—To have enough to eat. 
      Đủ Dùng: See Đủ.
      
      Đủ Khả Năng: To be 
      capable (efficient). 
      Đủ Mặt: Everybody 
      is present. 
      Đủ Sức: To be 
      competent (able). 
      Đủ tài: See Đủ 
      Sức. 
      Đủ Trí Khôn: 
      Sufficient intelligence.
      Đủ Tư Cách: To be 
      qualified to do something. 
      Đua Đòi: To 
      imitate. 
      Đua Tài: To compete 
      with someone in talent. 
      Đua Tranh: To 
      compete.
      Đùa Cợt: To jest—To 
      joke. 
      Đúc Chuông: To cast 
      a bell. 
      Đúc Tượng: To cast 
      a statue. 
      Đục Nước Béo Cò: To 
      fish in troubled waters. 
      Đúng: Right—Proper.
      Đúng Đắn: Decent.
      Đúng Lúc: Right 
      time—Right moment. 
      Đúng Người Đúng Chỗ: 
      The right man in the right place. 
      Đùng Đùng: 
      Violently. 
      Đụng Chạm Quyền Lợi: 
      Interests conflict. 
      Đuốc: Torch. 
      Đuổi: To drive 
      someone out—To dismiss—To discharge—To expel.
      Đút Lót: To bribe.
      
      Đụt Mưa: To take 
      shelter from the rain.
      Đưa Mắt Nhìn: To 
      gaze. 
      Đưa Tin: To bring 
      news. 
      Đưa Tận Tay: To 
      give something into someone’s hands. 
      Đưa Tới: Conductive 
      to—To evoke. 
      Đức: Guna 
      (skt)—Virtue—Moral—Moral power—Moral excellence. 
      Đức Bình: Còn gọi 
      là Hiền Bình, Thiện Bình, hay Cát Tường Bình (người có chiếc bình nầy sẽ 
      cầu gì được nấy)—The vase or talisman of power. 
      Đức Bổn: 
      
      1)     
      Căn bản đạo đức của cuộc sống: The root of the moral life, or of 
      religious power.
      
      2)     
      Danh hiệu của Đức Phật A Di Đà như là căn bản của mọi đức hạnh: 
      Name for Amitabha as rot of all virtue
      Đức Dị Mộng Sơn: 
      See Mộng Sơn Đức Dị. 
      Đức Dục: Moral 
      education. 
      Đức Điền: Ruộng 
      công đức, ám chỉ những bậc A La Hán, Bồ Tát, và Phật—Field of virtue, or 
      of religious power, i.e. the cult of arhats, bodhisattvas, and Buddhas.
      
      Đức Độ: Virtuous 
      and generous. 
      Đức Hải: Ảnh hưởng 
      của công đức sâu rộng như biển cả mênh mông—The ocean like character and 
      influence of virtue. 
      Đức Hạnh: Công đức 
      và công hạnh tu trì—Virtues—Virtuous—Morality—Good conduct—Moral conduct 
      and religious exercises, or discipline. 
      Những lời Phật dạy về “Đức 
      Hạnh” trong Kinh Pháp Cú—The Buddha’s teachings on “Virtues” in the 
      Dharmapada Sutra:
      
      1)     
      Mùi hương của các thứ hoa, dù là hoa chiên đàn, hoa đa già la, hay 
      hoa mạt ly đều không thể bay ngược gió, chỉ có mùi hương đức hạnh của 
      người chân chính, tuy ngược gió vẫn bay khắp cả muôn phương—The scent of 
      flowers does not blow  against the wind, nor does the fragrance of 
      sandalwood and jasmine, but the fragrance of the virtuous blows against 
      the wind; the virtuous man pervades every direction (Dharmapada 54).
      
      2)     
      Hương chiên đàn, hương đa già la, hương bạt tất kỳ, hương thanh 
      liên, trong tất cả thứ hương, chỉ thứ hương đức hạnh là hơn cả—Of little 
      account is the fragrance of sandal-wood, lotus, jasmine; above all these 
      kinds of fragrance, the fragrance of  virtue is by far the best 
      (Dharmapada 55). 
      
      3)     
      Hương chiên đàn, hương đa già la đều là thứ hương vi diệu, nhưng 
      không sánh bằng hương người đức hạnh, xông ngát tận chư thiên—Of little 
      account is the fragrance of sandal; the fragrance of the virtuous rises up 
      to the gods as the highest (Dharmapada 56).
      
      4)     
      Người nào thành tựu các giới hạnh, hằng ngày chẳng buông lung, an 
      trụ trong chính trí và giải thoát, thì ác ma không thể dòm ngó được—Mara 
      never finds the path of those who are virtuous, careful in living and 
      freed by right knowledge (Dharmapada 57).
      
      5)     
      Già vẫn sống đức hạnh là vui, thành tựu chánh tín là vui, đầy đủ 
      trí tuệ là vui, không làm điều ác là vui—To be virtue until old age is 
      pleasant; to have steadfast faith is pleasant; to attain wisdom is 
      pleasant; not to do evil is pleasant (Dharmapada 333).
      Đức Hương: Hương 
      thơm đức hạnh—The fragrance of virtue. 
      Đức Mẫu: Mẹ của mọi 
      công đức, như niềm tin là căn bản của cuộc sống tôn giáo—The mother of 
      virtue, i.e. faith which is the root of the religious life. 
      Đức Môn: Virtuous 
      family. 
      Đức Niệm: Hòa 
      Thượng Thích Đức Niệm, một trong những danh Tăng Việt Nam thời cận đại. 
      Năm 1978, ngài nhận bằng Tiến Sĩ Phật Học tại Đài Loan. Cùng năm ấy, ngài 
      là chủ tịch hiệp hội cứu trợ người tỵ nạn. Vào năm 1981, ngài thành lập 
      Phật Học Viện Quốc Tế để đào tạo chư Tăng Ni, cũng như phiên dịch và in ấn 
      kinh luật luận Phật giáo. Vào năm 1992, ngài là Thượng Thủ của Giáo Hội 
      Việt Nam Thống Nhất tại Hoa Kỳ. Ngài cũng đã viết và in nhiều sách Phật 
      giáo trong đó có tập Đại Thừa Tịnh Độ Luận và Pháp Ngữ Lục, vân vân—Most 
      Venerable Thích Đức Niệm, one of the most outstanding Vietnamese monks in 
      the modern era. In 1978, he obtained his Ph.D. in Buddhist study at Taiwan 
      University. In the same year, he was also the President of the Refugee 
      Relief Association in Taiwan. In 1981, he founded the International 
      Buddhist Monastic Institute in the United States to train monks and nuns 
      as well as to translate and publish Buddhist sutras, vinaya, and 
      commentaries. In 1992, he was head of the Leadership Council 
      Vietnamese-American Unified Buddhist Congress, an umbrella organizarion 
      covering several Buddhist organizations in the United States. He also 
      wrote and published several Buddhist books including A Commentary On 
      Mahayana Pureland Thought, Thích Đức Niệm’s Dharma Talks, etc.    
      Đức Phật: See 
      Buddha in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section. 
      Đức Phật Thích Ca Mâu 
      Ni: Sakyamuni Buddha—See Buddha in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
      
      Đức Phong: Gió công 
      đức hay sức mạnh tôn giáo—The wind of virtue, or of religious power. 
      Đức Sĩ: Đức Sĩ là 
      một từ dùng để gọi vị Tăng dưới thời nhà Đường—Virtuous scholar, a term 
      for a monk during the T’ang dynasty. 
      Đức Sơn Tuyên Giám: 
      Thiền sư Đức Sơn Tuyên Giám—Zen master Te-Shan-Hsuan-Chien (780-865).
      
      ·       
      Ông sanh vào năm 780 sau Tây Lịch, là một trong những đại sư 
      đời nhà Đường. Ông là đề tài của nhiều công án. Một trong những công án 
      nầy kể lại chuyện ông giác ngộ khi thầy ông (Long Đàm) thổi tắt cây đuốc 
      hay “Cây Đuốc Long Đàm.” Ông tịch vào năm 865 sau Tây Lịch. Theo Thiền Sư 
      D.T. Suzuki trong Thiền Luận Tập II, Đức Sơn không chỉ giỏi về Kinh Kim 
      Cang mà còn giỏi cả về những ngành triết học Phật giáo khác như Câu Xá và 
      Du Già Luận. Nhưng ban đầu ngài chống đối Thiền một cách quyết liệt, và 
      chủ đích ra khỏi vùng đất Châu là để tiêu hủy Thiền. Dù sao, đây cũng là 
      động cơ  điều động bề mặt của tâm thức ngài; còn những gì trôi chảy bên 
      trong chiều sâu thì ngài hoàn toàn không ý thức đến. Định luật tâm lý về 
      sự tương phản chắc có thế lực và được tăng cường chống lại động lực bề mặt 
      khi ngài gặp một địch thủ hoàn toàn bất ngờ dưới hình thức một chủ quán 
      bán trà. Lần đầu tiên đối đáp với Sùng Tín về Đầm Rồng, lớp vỏ chắc cứng 
      của tâm trí Đức Sơn bị đập nát hoàn toàn, giải tỏa tất cả những thế lực ẩn 
      nấp sâu xa trong tâm thức của ngài. Rồi khi ngọn đuốc bỗng dưng bị thổi 
      tắt, tất cả những gì ngài đã từ chối trước khi có biến cố nầy bây giờ được 
      lấy lại vô điều kiện. Đó là một đại biến toàn diện của tâm trí. Cái đã 
      từng được trân trọng nầy chẳng đáng bằng một cọng rơm —He was born in 780 
      A.D., one of the great Zen master during the T’ang dysnasty. He is the 
      subject of several koans. One of which tells how he attained enlightenment 
      through his master blowing out of a candle. He died in 865 A.D. According 
      to Zen Master D.T. Suzuki in the Essays in Zen Buddhism, Te-Shan was 
      learned not only in the Vajracchedika, but in other departments of 
      Buddhist philosophy such as the Abhidharma-soka and the Yogacara. But in 
      the beginning he was decidedly against Zen, and the object of his coming 
      out of Chou district was to annihilate it. This at any rate was the 
      motive  that directed the surface current of his consciousness; as to what 
      was going on underneath he was altogether unaware of it. The psychological 
      law of contrariness was undoubtedly in force and was strengthened as 
      agianst his superficialmotive when he encountered a most unexpected 
      opponent in the form of a tea-house keeper. His first talk with 
      Ch’ung-Hsin concerning the Dragon’s Pool (Lung-T’an) completely crushed 
      the hard crust of te-Shan’s mentality, releasing all the forces deeply 
      hidden in his consciousness.  When the candle was suddenly blown out, all 
      that was negated prior  to this incident unconditionally reasserted 
      itself. A complete mental cataclysm took place. What had been regarded as 
      most precious was now not worth a straw. 
      
      ·       
      Đức Sơn nổi tiếng về lối vung gậy, ông cũng là người học 
      Kinh Kim Cương trước khi qui đầu theo Thiền. Khác với tiền bối của mình 
      tức Lục Tổ Huệ Năng, Đức Sơn học giáo lý của kinh điển rất nhiều và đọc 
      rộng các kinh sớ; vậy kiến thức về kinh Bát Nhã của ngài có hệ thống hơn 
      của Huệ Năng. Ngài nghe nói phái Thiền nầy xuất hiện ở phương Nam, theo đó 
      một người có thể thành Phật nếu nắm ngay được bản tính uyên nguyên của 
      mình. Ngài nghĩ đây không thể là lời dạy của chính Đức Phật, mà là của Ma 
      vương, rồi quyết định đi xuống phương Nam. Về phương diện nầy, sứ mệnh của 
      ngài lại khác với Huệ Năng. Huệ Năng thì muốn thâm nhập tinh thần của kinh 
      Kim Cang dưới sự dẫn dắt của Ngũ Tổ, còn ý tưởng của Đức Sơn là muốn phá 
      hủy Thiền tông nếu có thể được. Cả hai đều học kinh Kim Cang, nhưng cảm 
      hứng của họ ngược chiều nhau. Chủ đích đầu tiên của Đức Sơn là đi tới Long 
      Đàm, nơi đây có một Thiền sư tên là Sùng Tín. Trên đường lên núi, ngài 
      dừng chân tại một quán trà và hỏi bà chủ quán có cái gì điểm tâm. “Điểm 
      tâm” trong tiếng Hán vừa có nghĩa là ăn sáng, mà cũng có nghĩa là “chấm 
      điểm tâm linh.” Thay vì mang cho du Tăng những đồ ăn điểm tâm theo lời yêu 
      cầu, bà lại hỏi: “Thầy mang cái gì trên lưng vậy?” Đức Sơn đáp: “Những bản 
      sớ giải của kinh Kim Cang.” Bà già nói: “Thì ra thế! Thầy cho tôi hỏi một 
      câu có được không? Nếu Thầy trả lời trúng ý tôi xin đãi thầy một bữa điểm 
      tâm; nếu thầy chịu thua, xin thầy hãy đi chỗ khác.” Đức Sơn đồng ý. Rồi bà 
      chủ quán trà hỏi: “Trong kinh Kim Cang tôi đọc thấy câu nầy ‘quá khứ tâm 
      bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc. Vậy thầy 
      muốn điểm cái tâm nào?” Câu hỏi bất ngờ từ một người đàn bà quê mùa có vẻ 
      tầm thường ấy đã hoàn toàn đảo lộn tài đa văn quảng kiến của Đức Sơn, vì 
      tất cả kiến thức của ngài về Kim Cang cùng những sớ giải của kinh chẳng 
      gợi hứng cho ngài chút nào cả. Nhà học giả đáng thương nầy phải ra đi mà 
      chẳng được bữa ăn. Không những chỉ có thế, ngài còn phải từ bỏ cái ý định 
      là khuất phục các Thiền sư, bởi nếu chẳng làm gì được với một bà già quê 
      mùa thì mong gì khuất phục nổi một Thiền sư thực thụ—Te-Shan, who is noted 
      for his swinging a staff, was also a student of the Vajracchedika Sutra 
      before he was converted to Zen. Different from his predecessor, Hui Neng, 
      he was very learned in the teaching of the sutra and was extensively read 
      in its commentaries, showing that his knowledge of the Prajnaparamita was 
      more sytematic than was Hui-Neng'’. He heard of this Zen teaching in the 
      south, according to which a man could be a Buddha by immediately taking 
      hold of his inmost nature. This he thought could not be the Buddha’s own 
      teaching, but the Evil One’s, and he decided to go down south. In this 
      respect his mission again differed from that of Hui-Neng. Hui Neng wished 
      to get into the spirit of the Vajracchedika under the guidance of the 
      Fifth Patriarch, while Te-Shan’s idea was to destroy Zen if possible. They 
      were both students of the Vajracchedika, but the sutra inspired them in a 
      way diametrically opposite. Te-Shan’s first objective was Lung-T’an where 
      resided a Zen master called Ch’ung-Hsin. On his way to the mountain he 
      stopped at a tea house where he asked the woman-keeper to give him some 
      refreshments. In Chinese, “refreshment” not only means “tien-hsin” 
      (breakfast), but literally, it means “to punctuate the mind.” Instead of 
      setting out the request refreshments for the tired monk-traveller, the 
      woman asked: "“What are you carrying on your back?” Te-Shan replied: “They 
      are commentaries on the Vajracchedika.” The woman said: “The are indeed! 
      May I ask you a question? If you can answer it to my satisfaction, you 
      will have your refreshments free; but if you fail, you will have to go 
      somewhere else.” To this Te-Shan agreed. The woman-keeper of the tea house 
      then proposed the following: “I read in the Vajracchedika that the mind is 
      obtainable neither in the past, nor in the present, nor in the future. If 
      so, which mind do you wish to punctuate?” This unexpected question from an 
      apparently insignificant country-woman completely upset knapsackful 
      scholarship of Te-Shan, for all his knowledge of the vajracchedika 
      together with its various commentaries gave him no inspiration whatever. 
      The poor scholar had to go without his breakfast. Not only this, he also 
      had to abandon his bold enterprise to defeat the teachers of Zen; for when 
      he was no match even for the keeper of a rodside tea house, how could he 
      expect to defeat a professional Zen master?   
      
      ·       
      Ngay trước khi gặp gỡ Long Đàm Sùng Tín, chắc chắn ngài đã 
      phải xét lại sứ mệnh của mình. Đến khi gặp Long Đàm (cái đầm rồng) Sùng 
      Tín ngài nói: “Tôi nghe người ta nói nhiều về Long Đàm; bây giờ thấy ra 
      thì chẳng có rồng cũng chẳng có đầm gì ở đây hết.” Sùng Tín trả lời ôn 
      hòa: “Quả thực ông đang ở giữa Long Đàm. Cuối cùng Đức Sơn quyết định ở 
      lại Long Đàm và theo học Thiền với Thiền sư nầy—Even before he saw 
      Ch’ung-Hsin, master of Lung-T’an, he was certainly made to think more 
      about his self-imposed mission. When Te-Shan saw Ch'u’g-Hsin, he said: “I 
      have heard people talked so much of Lung-T’an (dragon’s pool), yet as I 
      see it, there is no dragon here, nor any pool."”Ch'’ng-Hsin quietly said: 
      "“ou are indeed in the midst of Lung-T’an.” Te-Shan finally decided to 
      stay at Lung-T’an and to study Zen under the guidance of its master.  
      
      ·       
      Một buổi chiều, ngài ngồi ở ngoài thất, lặng lẽ nhưng hăng 
      say tìm kiếm chân lý. Sùng Tín hỏi: “Sao không vào?” Đức Sơn đáp: “Trời 
      tối.” Tổ sư bèn thắp một ngọn đuốc trao cho Đức Sơn. Lúc Đức Sơn sắp sữa 
      đón lấy đuốc thì Sùng Tín bèn thổi tắt mất. Nhân đó tâm của Đức Sơn đột 
      nhiên mở rộng trước chân lý của đạo Thiền. Đức Sơn cung kính làm lễ, và Tổ 
      sư hỏi: “Thấy gì?” Đức Sơn đáp: “Từ nay trở đi chẳng còn chút nghi ngờ  
      những thoại đầu nào của lão Hòa Thượng nữa.” Sáng hôm sau, Đức Sơn mang 
      tất cả những sách sớ giải về Kinh Kim Cang mà ngài đã coi trọng và đi đâu 
      cũng mang theo, ném hết vào lửa và đốt thành tro, không chừa lại gì hết. 
      Ngài nói: “Đàm huyền luận diệu cho đến đâu cũng chẳng khác đặc một sợi 
      lông vào giữa hư không vô tận; còn cùng kiếp tận số tìm kiếm then chốt máy 
      huyền vi như đổ một giọt nước xuống vực sâu không đáy, chẳng thấm vào đâu. 
      Học với chẳng học, mình ta biết.” Sáng hôm sau, Hòa Thượng Long Đàm thượng 
      đường thuyết pháp. Ngài gọi Tăng chúng lại nói: “Trong đây có một lão Tăng 
      răng như rừng gươm, miệng tợ chậu máu, đánh một hèo chẳng ngoái cổ, lúc 
      khác lại lên chót núi chớn chở dựng đạo của ta ở đấy.”—One evening he was 
      sitting ouside the room quietly and yet earnestly in search of the truth. 
      Ch’ung-Hsin said: “Why do you not come in?” Te-Shan replied: “It is dark.” 
      Whereupon Ch’ung-Hsin lighted a candle and handed to Te-Shan. When Te-Shan 
      was about to take it, Ch’ung-Hsin blew it out. This suddenly opened his 
      mind to the truth of Zen teaching. Te-Shan bowed respectfully.” The master 
      asked: “What is the matter with you?” Te-Shan asserted: “After this, 
      whatever propositions the Zen masters may make about Zen, I shall never 
      again cherish a doubt about them.” The next morning Te-Shan took out all 
      his commentaries on the Vajracchedika, once so valued and considered so 
      indispensable that he had to carry them about with him wherever he went, 
      committed them to the flames and turned them all into ashes. He exclaimed: 
      “However deep your knowledge of abstrue philosohy, it is like a piece of 
      hair placed in the vastness of space; and however important your 
      experience in worldly things, it is like a drop of water thrown into an 
      unfathomable abyss.” The next morning, Zen master Lung-T’an entered the 
      hall to preach the assembly, said: "Among you monks, there is a old monk, 
      whose teeth are as sharp as swords, and mouth is as red as a basin of 
      blood, a blow on his head will not make him turn back; later he will 
      ascend the top of a sheer mountain to establish my sect.” 
      
      ·       
      Về sau khi Đức Sơn đã trở thành một bậc thầy, ngài thường 
      nói với kẻ hỏi đạo: “Dù nói được hay nói không được, nhà ngươi cũng lãnh 
      ba chục hèo.” Một vị Tăng hỏi: “Phật là ai?” Đức Sơn bảo: “Phật là một lão 
      Tỳ Kheo bên trời Tây.” Vị Tăng lại hỏi: “Giác là thế nào?” Đức Sơn bèn đập 
      cho người hỏi một gậy và bảo: “Đi ra khỏi đây; đừng có tung bụi quanh ta.” 
      Một thầy Tăng khác muốn biết đôi điều về Thiền, nhưng Đức Sơn nạt nộ: “Ta 
      chẳng có gì mà cho, hãy xéo đi.”—Afterwards, when Te-Shan himself became a 
      master, he used to say to an inquirer: “Whether you say ‘yes,’ you get 
      thirty blows; whether you say ‘no,’ you get thirty blows just the same.” A 
      monk asked him: “Who is the Buddha?” Te-Shan relpied: He is an old monk of 
      the Western country.” The monk continued to ask: “What is enlightenment?” 
      Te-Shan gave the questioner a blow, saying: “You get out of here; do not 
      scatter dirt around us!” Another monk wished to know something about Zen, 
      but Te-Shan roared: “I have nothing to give, begone!”  
      Đức Thiều Thiền Sư: 
      Zen master Te-Shao—Thiền sư Đức Thiều sanh năm 881, là đệ tử và pháp tử 
      của Thiền sư Vân Ích Pháp Nhãn—Zen master Te-Shao was born in 881, was a 
      disciplie and Dharma heir of Fa-Yan-Wen-Yi.
      
      ·       
      Sư tham vấn Hòa Thượng Tuần ở Long Nha. Sư hỏi: “Bậc tôn 
      hùng vì sao gần chẳng được?” Long Nha đáp: “Như lửa với lửa.” Sư hỏi: 
      “Chợt gặp nước đến thì sao?” Long Nha bảo: “Ngươi chẳng biết.” Sư lại hỏi: 
      “Trời chẳng che đất chẳng chở, lý nầy thế nào?” Long Nha đáp: “Nên như 
      thế.” Sư không lãnh hội được, liền cầu xin chỉ dạy. Long Nha bảo: “Đạo 
      giả! Ngươi về sau tự biết.”—Upon meeting Long-Ya, Te-Shao asked: “Why 
      can’t the people of today reach the level of the ancient worthies?” 
      Long-Ya said: “It’s like fire and fire.” Te-Shao said: “If suddenly 
      there’s water, then what?” Long-Ya said: “Go! You don’t understand what 
      I’m saying.” Te-Shao also asked Long-Ya: “What is the meaning of the ‘sky 
      can’t cover it, the earth can’t contain it’?” Long-Ya said: “It’s just 
      like that.” Te-Shao asked the same question repeatedly, but each 
      timeLong-Ya gave the same answer. Finally, when he asked again, Long-Ya 
      said: “I’ve already spoken, now you go find out on your own.”  
      
      ·       
      Một hôm, Pháp Nhãn thượng đường, có vị Tăng hỏi: “Thế nào là 
      một giọt nước ở nguồn Tào?” Pháp Nhãn đáp: “Là giọt nước ở nguồn Tào.” Vị 
      Tăng ấy mờ mịt thối lui. Sư ngồi bên cạnh hoát nhiên khai ngộ, bình sanh 
      những mối nghi ngờ dường như băng tiêu, cảm động đến rơi nước mắt ướt áo. 
      Sư trình chỗ sở ngộ cho Pháp Nhãn. Pháp Nhãn bảo: “Ngươi về sau sẽ làm 
      thầy Quốc Vương, khiến ánh đạo vàng của Tổ Sư càng rộng lớn, ta không sánh 
      bằng.” Trên đây cho chúng ta thấy, Thiền không thể cầu được trong ngôn ngữ 
      văn tự, dầu Thiền vẫn dùng ngôn ngữ văn tự để truyền đạt. Người tu Thiền 
      nắm lấy diệu lý Thiền qua ngôn ngữ, chứ không phải trong ngôn ngữ—One day, 
      as Fa-Yan resided in the hall, a monk asked him: “What is a single drop of 
      the Cao source?” Fa-Yan said: “A single drop of Cao source.” The monk 
      dejectedly retreated. Later, as Te-Shao reflected on this exchange while 
      meditating, he suddenly experienced enlightenment, with the obstructions 
      of everyday life flowing away like melting ice. Te-Shao went to Fa-Yan 
      with news of this event. Fa-Yan is reported to have said: “Later you will 
      be the teacher of kings. I won’t compare with the brilliance of your 
      attainment on the ancestral way.” This shows that Zen is not to be sought 
      in ideas or words, but at the same time it also shows that without ideas 
      or words Zen cannot convey itself to others. To grasp the exquisite 
      meaning of Zen as expressing itself in words and yet not in them.   
      
      ·       
      Một hôm sư thượng đường thuyết pháp. Có một vị Tăng hỏi: 
      “Người xưa nói thấy Bát Nhã tức bị Bát Nhã ràng buộc, chẳng thấy Bát Nhã 
      cũng bị Bát Nhã ràng buộc. Sao đã thấy Bát Nhã mà còn bị Bát Nhã ràng buộc 
      là gì?” Sư hỏi: “Ông nói Bát Nhã thấy cái gì?” Vị Tăng hỏi: “Chẳng thấy 
      Bát Nhã thì bị ràng buộc như thế nào?” Sư đáp: “Ông nói Bát Nhã chẳng thấy 
      cái gì?” Rồi sư tiếp: “Nếu thấy Bát Nhã, đó chẳng phải là Bát Nhã; chẳng 
      thấy Bát Nhã, đó cũng chẳng phải là Bát Nhã. Bát Nhã là cái gì mà nói là 
      thấy, và chẳng thấy?” Sư lại tiếp: “Nên người xưa nói: ‘Nếu thiếu một 
      pháp, chẳng thành pháp thân; nếu thừa một pháp, chẳng thành pháp thân; nếu 
      có một pháp để thành chẳng thành pháp thân; nếu không một pháp nào để 
      thành, cũng chẳng thành pháp thân.’ Chư Thượng Tọa, đó là chân tông Bát 
      Nhã.”—One day he entered the hall to preach. A monk asked: “I understand 
      this was an ancient wise man’s saying ‘When a man sees Prajna he is tied 
      to it; when he sees it not he is also tied to it.’ Noe I wish to know how 
      it is that man seeing Prajna could be tied to it.” The master said: “You 
      tell me what it is that is seen by Prajna.” The monk asked: “When a man 
      sees not Prajna, how could he be tied to it?” The master said: “You tell 
      me if there is anything that is not seen by Prajna.” The master then went 
      on: “Prajna seen is no Prajna, nor is Prajna unseen Prajna; how could one 
      apply the predicate,  seen or unseen, to Prajna? Therefore, it is said of 
      old that ‘When one thing is missing, the Dharmakaya is not complete; when 
      one thing is superfluous, the Dharmakaya is not complete; and again when 
      there is one thing to be asserted the Dharmakaya is not complete; when 
      there is nothing to be asserted, the Dharmakaya is not complete.’ This 
      indeed the essence of Prajna.”        
      
      ·       
      Một hôm khác, sư thượng đường bảo: “Tối nay không ai được 
      hỏi, ai hỏi sẽ  lãnh ba mươi hèo.” Bấy giờ có một nhà sư vừa bước ra làm 
      lễ, ngài bèn đánh. Nhà sư nói: “Chưa hỏi câu nào, sao Hòa Thượng lại 
      đánh?” Sư hỏi: “Ông người xứ nào?” Nhà sư đáp: “Ở Tân La (Cao Li).” Sư 
      nói: “Đáng lãnh ba chục hèo trước khi lên thuyền.”—Another day he entered 
      the hall and declared: “I shall not allow any questioning tonight; 
      questioners will get thirty blows.” A monk came forward, and when he was 
      about to make bows, Te-Shan gave him a blow. The monk said: “When I am not 
      even proposing a question, why should you strike me so?” He asked: “Where 
      is your native place?” The monk said: “I come from Hsin-Lo (Korea).” 
      Te-Shan said: “You deserve thirty blows even before you got into the 
      boat.”  
      
      ·       
      Sư dạo núi Thiên Thai xem những di tích của Hòa Thượng Thiền 
      Sư Trí Khải, dường như chỗ mình ở cũ. Sư lại đồng họ với Trí Khải. Người 
      đương thời gọi sư là Hậu Thân Trí Khải. Ban đầu sư trụ tại Bạch Sa. Lúc 
      đó, Thái Tử Trung Hiến Vương trấn ở Thai Châu, nghe danh sư thỉnh đến hỏi 
      đạo. Sư bảo: “Ngày sau làm chủ thiên hạ nên nhớ ơn Phật pháp.”—Te-Shao 
      traveled to reside at the home of T’ien-T’ai Buddhism, a temple named 
      Bai-Sa (White Sands) on Mount T’ien-T’ai. There he found that the records 
      of  the T’ien-T’ai school were largely lost or in a state of disrepair 
      because of the social upheaval accompanying the end of the T’ang dynasty. 
      Te-Shao assisted with the retrieval of lost T’ien-T’ai doctrinal text from 
      Korea, thus restoring that school in China. The king of the kingdom of 
      Wu-Yue invited Te-Shao to reside and teach at the famous lake city of 
      Hang-Chou and honoured him with the title “National Teacher.” 
      
      ·       
      Sư thị tịch năm 972—he passed away in 972.   
      Đức Tin: Faith. 
      Đức Tính Cần Thiết: 
      Essential qualities. 
      Đức Tự: See 
      Swastika in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section. 
      Đức Xoa Ca: Taksaka 
      (skt)—Một trong tứ long vương—One of the four dragon-kings. 
      Đứng Dậy: To stand 
      up—To get up—To rise to. 
      Đứng Đắn: 
      Decent—Đúng đắn.
      Đứng Đầu: To 
      head—To be chief of. 
      Đứng Đờ Ra: To be 
      stupified. 
      Đứng Mũi: To assume 
      all the responsibility. 
      Đứng Nghiêm: To 
      stand at attention. 
      Đứng Sửng: To 
      remain motionless.  
      Đứng Trơ Trơ: To 
      stand motionless.
      Đứng Tuổi: To be 
      middle-aged. 
      Đứng Yên: To stand 
      (keep—remain) still.
      Đừng Làm Việc Gì Mình 
      Không Muốn Người Khác Làm Cho Mình: Do as you would be done by.
      Đừng Lãng Phí Thời Gian: 
      Don’t waste any moment of time (time). 
      Đừng Sợ: Don’t be 
      afraid.
      Đừng Tin Vào: Not 
      to believe in. 
      Đừng Xem Lỗi Người, Hãy 
      Xem Lỗi Mình: Let’s not seek others’  faults, but one’s own deeds.
      Đừng Xét Người Qua Bề 
      Ngoài: Don’t judge a man from his outside—Don’t judge people by their 
      appearance. 
      Được: To gain
      Được Giải Thoát: To 
      be free
      Được Xoa Dịu: To be 
      placated
      Được Xử Dụng: To be 
      used
      Đương: 
      
      1)     
      Đảm đương: To undertake. 
      
      2)     
      Thích hợp: Suitable—Proper.
      
      3)     
      Tương đương: Be equal to. 
      
      4)     
      Tương lai: In the future. 
      Đương Cơ: Đức Phật 
      thuyết pháp hợp với căn cơ của chúng sanh khiến họ được an lạc—To suit the 
      capacity or ability, i.e. of hearers, as did the Buddha; to avail oneself 
      of an opportunity. 
      Đương Cơ Chúng: Một 
      trong tứ chúng, đương cơ chúng là các vị nghe, thọ nhận và hành trì tinh 
      chuyên những gì Phật dạy trong Kinh Pháp Hoa—One of the four kinds of 
      disciples, those hearers of the Lotus who were adaptable to its teaching, 
      and receive it—See Tứ Chúng (B) (2).  
      Đương Dương: Dưới 
      ánh mặt trời—In the sun, in the light. 
      Đương Hữu: The 
      future ditto (existence).   
      Đương Lai: 
      
      1)     
      Đời vị lai hay cuộc đời sẽ đến sau nầy: The future life. 
      
      2)     
      Việc sẽ đến: That which is to come, the future.
      Đương Lai Hạ Sanh Di 
      Lặc Tôn Phật: The Soon-To-Come Honoured Buddha Maitreiya.
      Đương Phận: Tùy 
      theo điều kiện, địa vị và nhiệm vụ của mình (các nhà Thiên Thai lập ra từ 
      “Đương Phận” nói về tứ giáo “Tạng Thông Biệt Viên” mỗi giáo đều có giáo 
      Đương Phận của mình)—According to condition, position, duty, etc. 
      Đương Thể: Bản 
      thể—The present body or person; in body or person. 
      Đương Thể Tức Không: 
      See Thể Không. 
      Đương Vị Tức Diệu: 
      Việc gì mà ở đúng chỗ của nó cũng đều vi diệu cả, như độc dược cũng có 
      công dụng của độc dược, lương dược cũng có công dụng của lương 
      dược—According to its place, or application, wonderful or effective; e.g. 
      poison as poison, medicine as medicine. 
      Đường:
      
      1)     
      Đường thẳng: A line.
      
      2)     
      Hoang đường: Wild—Untrue. 
      
      3)     
      Nhà Đường bên Trung Quốc, khoản từ năm 618 đến 907 sau Tây Lịch: 
      The T’ang dynasty, around 618-907 A.D. in China.  
      
      4)     
      Sảnh đường: Prasada (skt)—Hall—Temple—Court.
      Đường Chính: The 
      right way. 
      Đường Chủ: Vị chủ 
      Diên Thọ Đường, làm chủ tế các buổi lễ—The head of a hall on a special 
      occasion—The leader of the Hall.
      Đường Công Danh: 
      Path of glory.
      Đường Danh Lợi: 
      Path of wealth and fame. 
      Đường Đầu: See 
      Phương Trượng in Vietnamese-Englich Section. 
      Đường Đường: 
      Majestic—Stately. 
      Đường Hoàng: 
      Openly—In the open. 
      Đường Quyên: Bỏ đi 
      vì không có giá trị—To cast away as valueless. 
      Đường Sanh Mạng: 
      Life line on the palm of the hand. 
      Đường Sanh Tử Luân Hồi: 
      The way of the transmigration. 
      Đường Tam Tạng: Tức 
      ngài Tam Tạng Huyền Trang, vì ngài tinh thông tam tạng kinh điển sau khi 
      đi Thiên Trúc thỉnh kinh về nên gọi là Tam Tam Pháp Sư, ngài sống vào thời 
      nhà Đường nên có biệt hiệu là Đường Tam Tạng—The T’ang Tripitaka, a name 
      for Hsuan-Tsang—See Huyền Trang.  
      Đường Tăng: T’ang 
      monk, especially Hsuan-Tsang as the T’ang monk—See Huyền Trang. 
      Đường Tắt: A short 
      cut—Shortest way.
      Đường Tháp: Điện 
      đường và tháp miếu—Temples and monasteries in general. 
      Đường Thượng: Tên 
      gọi khác của vị Phương Trượng trong tự viện, hay các vị sư trụ trì (Đường 
      Đầu Hòa Thượng)—The head of the hall or monastery—An abbot.
      Đường Ti: See Đường 
      Tư. 
      Đường Tu Khổ Hạnh: 
      Con đường khó thực hành, phải dùng nhiều công phu khổ hạnh và phải thực 
      tập trong vô lượng kiếp để đạt được đại giác—Difficult path of 
      practice—The exertion of strenuous effort in austere practice for 
      countless aeons in order to attain enlightenment.
      Đường Tư: Biệt hiệu 
      của vị Duy Na trong tự viện, chịu trách nhiệm các công việc ở Tăng 
      đường—Hall Chief—The controller of the business in a monastery. 
       
       
      
      Châm Ngôn Tục Ngữ—Precepts 
      and Proverbs: 
      
      Đời là êm dịu và hoan hỷ với những ai có tâm hồn thuần khiết: Life is a 
      sweet and joyful thing for one who has a pure conscience.   
      
      Cỏ dại không cần phải gieo trồng: Weeds want no sowing.  
      
      Có công mài sắt có ngày nên kim: By hard labor one will succeed.  
      
      Chó sủa mặc chó, lữ hành cứ đi: The dogs bark, but the caravan goes on.  
      
      Chọn bạn mà chơi: Better be alone than in ill company.  
      Ở 
      đời không có gì là vĩnh cửu: The morning sun never lasts a day. 
      
       
      
      ---o0o---
      
       
      
            
            Mục Lục Tự điển Phật Học 
      Việt-Anh
      
            
      |
            A
            |
            Ba |
            Be | 
            Bi | 
            Bo | 
            Bu
            | Ca 
            
            | Ch
            
            
            | Co | 
            Cu
            | 
            D 
            
            | 
            
            Đa 
            
            | Đe | 
            Đi | 
            Đo | 
            Đu
            |
      
            
            | E 
            
            | 
            G
            |
            Ha | 
            He | 
            Hi | 
            Ho | 
            Hy
            | 
            I 
            
            | K
            | La | 
            Le | 
            Li | 
            Lo | 
            Lu | 
            Ly
            | 
      
            
            | 
            Ma 
            
            | Me | 
            Mi | 
            Mo | 
            Mu, My
            |Na 
            
            | Ne | 
      Ng | 
      Nh
      
            
            
            | Ni
            | No
            
            
            | Nu
            |
      
            
             | O
            | Pha |
      Phe
      | Phi |
      Pho |
      Phu
            | Q
            | R
            | S
            | Ta |
      Te |Tha 
      | Thă, Thâ | 
      
            
            | The |
      Thi |
      Tho |
      Thu |
      Ti |
      To |
      Tr |
      Tu |
      Ty
            |  U
            | V
            | X
            | Y|
            
             
      
      ---o0o---
      
      
      Mục Lục | 
      Việt-Anh | Anh -Việt |
      Phạn/Pali-Việt
      | Phụ Lục
      
      ---o0o---
      
Trình bày: Nhị 
Tường
Cập nhật: 1-4-2006