TỔ ĐÌNH MINH ĐĂNG QUANG
      
      PHẬT HỌC TỪ ĐIỂN
      
      
      BUDDHIST DICTIONARY
      
      
      VIETNAMESE-ENGLISH
      
      
      THIỆN PHÚC
       
      
      Pha
      
       
      
      Pha Lẫn: To mingle—To mix. 
      
      Pha Lê: 
      
      1)      Phả 
      Lê—Đá trong như pha lê, một trong bảy của báu: Sphatika (skt)—Rock 
      crystal, or a green indestructible gem, one of the seven precious 
      things—See Thất Bảo. 
      
      2)      Tên 
      một ngọn núi gần Varanasi: Name of a mountain near Varanasi. 
      
      Pha Trò: To jest—To joke—To 
      speak in jest. 
      
      Phá: 
      
      1)      Đả 
      phá: To disprove—To refute—To negate—To cause schism. 
      
      2)      Phá 
      đám: To break—To disrupt. 
      
      3)      Phá 
      hoại: Phá hủy—To destroy—To demolish. 
      
      Phá Ám Mãn Nguyện: Phá tan vô 
      minh tối ám và làm tròn lời nguyện, như Đức Phật A Di Đà—To destroy 
      darkness or ignorance and fulfil the Buddha’s vow, i.e. that of Amitabha.
      
      
      Phá Bồ Đề: Upasanti 
      (skt)—Calm—Tranquility. 
      
      Phá Chánh: Phá bỏ chân lý—To 
      deny the truth, e.g. heresy.
      
      Phá Chánh Hiển Tà: To deny the 
      truth and support the evil. 
      
      Phá Chánh Mệnh: Cuộc sống không 
      theo đúng theo chánh mệnh—An incorrect or wrong form of livelihood—See Bát 
      Chánh Đạo (5).
      
      Phá Chấp: 
      
      1)      Phá bỏ 
      hay phản bác những mê chấp tà kiến: To refute tenets. 
      
      2)      Phản 
      bác niềm tin nơi thực ngã hay thực pháp, nghĩa là sự có thật của một cái 
      ngã và chư pháp: To refute the belief in the reality of the ego and 
      things.
      
      Phá Chấp Nhị Biên: To sever 
      dualistic attachments. 
      
      Phá Địa Ngục: Phá vỡ cửa địa 
      ngục bằng cách tụng đọc kinh kệ giải thoát cho người quá vãng—To break 
      open the gates of hells by chants or incantations for the release of a 
      departed spirit.   
      
      Phá Gia: To ruin one’s family.
      
      
      Phá Giới: 
      
      1)      Người 
      đã thọ giới lại tự mình hay do sự xúi dục mà phá giới: Theo sách Thập 
      Luân, vị Tỳ Kheo phá giới, tuy đã chết nhưng dư lực của giới ấy vẫn còn 
      bảo đường cho nhân thiên, ví như hương của ngưu hoàng xạ. Phật do đó mà 
      thuyết bài kệ: “Thiệm bạc hoa tuy ny, thắng ư nhứt thiết hoa, phá giới chư 
      Tỳ Kheo, do thắng chư ngoại đạo,” nghĩa là hoa thiệm bạc tuy héo vẫn thơm 
      hơn các thứ hoa khác, các Tỳ Kheo tuy phá giới nhưng vẫn còn hơn hết thảy 
      ngoại đạo)—To violate (break) religious commandments. 
      
      2)      Trong 
      Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới 48 giới khinh điều thứ 36, Đức Phật dạy:  “Thà 
      rót nước đồng sôi vào miệng, nguyện không để miệng nầy phá giới khi hãy 
      còn thọ dụng của cúng dường của đàn na tín thí. Thà dùng lưới sắt quấn 
      thân nầy, nguyện không để thân phá giới nầy tiếp tục thọ nhận những y phục 
      của tín tâm đàn việt.”—The Buddha taught in the thirty-sixth of the 
      forty-eight secondary precepts in the Brahma-Net Sutra: "I vow that I 
      would rather pour boiling metal in my mouth than allow such a mouth ever 
      to break the precepts and still partake the food and drink offered by 
      followers. I would rather wrap my body in a red hot metal net than allow 
      such a body to break the precepts and still wear the clothing offered by 
      the followers.”    
      
      3)      Những 
      lời Phật dạy về Phá Giới trong Kinh Pháp Cú—The Buddha’s teachings on 
      “Breaking Precepts” in the Dharmapada Sutra: 
      
      a)      Sự phá 
      giới làm hại mình như dây mang-la bao quanh cây Ta-la làm cho cây nầy khô 
      héo. Người phá giới chỉ là người làm điều mà kẻ thù muốn làm cho 
      mình—Breaking commandments is so harmful as a creeper is strangling a sala 
      tree. A man who breaks commandments does to himself what an enemy would 
      wish for him (Dharmapada 162).
      
      b)      Phá 
      giới chẳng tu hành, thà nuốt hườn sắt nóng hừng hực lửa đốt thân còn hơn 
      thọ lãnh của tín thí—It is better to swallow a red-hot iron ball than to 
      be an immoral and uncontrolled monk feeding on the alms offered by good 
      people (Dharmapada 308).
      
      c)      Buông 
      lung theo tà dục, sẽ chịu bốn việc bất an: mắc tội vô phước, ngủ không 
      yên, bị chê là vô luân, đọa địa ngục—Four misfortunes occur to a careless 
      man who commits adultery: acquisition of demerit, restlessness, moral 
      blame and downward path (Dharmapada 309). 
      
      d)      Vô 
      phước đọa ác thú bị khủng bố, ít vui, quốc vương kết trọng tội: đó là kết 
      quả của tà dâm. Vậy chớ nên phạm đến—There is acquisition of demerit as 
      well as evil destiny. No joy of the frightened man. The king imposes a 
      heavy punishment. Therefore, man should never commit adultery (Dharmapada 
      310).  
      
      e)      Cũng 
      như vụng nắm cỏ cô-sa (cỏ thơm) thì bị đứt tay, làm sa-môn mà theo tà hạnh 
      thì bị đọa địa ngục—Just as kusa grass cuts the hand of those who wrongly 
      grasped. Even so the monk who wrongly practised ascetism leads to a woeful 
      state (Dharmapada 311). 
      
      f)        
      Những người giải đãi, nhiễm ô và hoài nghi việc tu phạm hạnh, sẽ không làm 
      sao chứng thành quả lớn—An act  carelessly performed, a broken vow, and a 
      wavering obedience to religious discipline, no reward can come from such a 
      life (Dharmapada 312).
      
      g)      Việc 
      đáng làm hãy làm cho hết sức! Phóng đãng và rong chơi chỉ tăng thêm trần 
      dục mà thôi—Thing should be done, let’s strive to do it vigorously, or do 
      it with all your heart. A debauched ascetic only scatters the dust more 
      widely (Dharmapada 313). 
      
      h)      Không 
      tạo ác nghiệp là hơn, vì làm ác nhứt định thọ khổ; làm các thiện nghiệp là 
      hơn, vì làm lành nhứt định thọ vui—An evil deed is better not done, a 
      misdeed will bring future suffering. A good deed is better done now, for 
      after doing it one does not grieve (Dharmapada 314).  
      
      i)        Như 
      thành quách được phòng hộ thế nào, tự thân các ngươi cũng phải nên phòng 
      hộ như thế. Một giây lát cũng chớ buông lung. Hễ một giây lát buông lung 
      là một giây lát sa đọa địa ngục—Like a frontier fortress is well guarded, 
      so guard yourself, inside and outside. Do not let a second slip away, for 
      each wasted second makes the downward path (Dharmapada 315).
      
      Phá Hạ: Phá hoại an cư kiết hạ, 
      nghĩa là không tuân thủ theo những cấm túc của ba tháng an cư—To neglect 
      the summer retreat.
      
      Phá Hại: To ruin—To ravage. 
      
      Phá Hòa Hợp Tăng: 
      Sanghabheda—Phá vỡ sự hòa hợp trong cộng đồng Tăng Ni và gây ra xáo trộn 
      bởi những ý kiến tà vạy—To disrupt the harmony of the community of monks 
      to cause schism by heretical opinions.
      
      Phá Hoại: To sabotage—To 
      destroy.
      
      Phá Hoại Thiện: 
      
      1)      Hủy 
      hoại thiện nghiệp: To destroy good.
      
      2)      Tên 
      của một loài ma vương: Name of a Mara. 
      
      Phá Hoại Thiện Ma Vương: Mara 
      who destroys of good.
      
      Phá Hủy: To destroy—To 
      demolish. 
      
      Phá Hư: To disable. 
      
      Phá Hữu: 
      
      1)      Phá bỏ 
      sự tin tưởng cho rằng vạn hữu là có thật: To refute the belief in the 
      reality of things.
      
      2)      Đức 
      Như Lai thị hiện để phá bỏ sự sinh tử trong ba cõi: To break the power of 
      transmigration as does the Buddha.
      
      Phá Kỷ Lục: To break (beat) the 
      record. 
      
      Phá Lập: Còn gọi là Già Chiếu, 
      nghĩa là phá bỏ cái lý đặc thù để hiển hiện cái lý phổ quát, hay ngược 
      lại. Phá vạn pháp để hiển hiện cái lý chân không gọi là phá; bàn về lẽ 
      duyên khởi của vạn pháp để hiển hiện cái nghĩa của diệu hữu gọi là lập 
      (Phá Lập là học thuyết của hai phái “Không Môn tông Tam Luận” và “Hữu Môn 
      tông Pháp Tướng.” Tông Tam Luận dựa vào Không Môn mà phá chư pháp, tông 
      Pháp Tướng dựa vào Hữu Môn mà lập chư pháp)—Refuting and establishing; by 
      refuting to prove, or to establish, i.e. in refuting the particular to 
      prove the universal, and vice versa. 
      
      Phá Ma: Phá diệt ác ma—To 
      overcome the maras or exorcise demons. 
      
      Phá Môn: Rời bỏ tông môn—To 
      leave a sect, to break the door.
      
      Phá Nát: To destroy completely.
      
      
      Phá Ngục: To break open a 
      prison. 
      
      Phá Nhan Vi Tiếu: Phá lên cười, 
      tướng giác ngộ của Ngài Ca Diếp, khi Đức Phật tuyên bố rằng pháp của Ngài 
      là tâm truyền tâm. Đây chính là chỉ giáo của Thiền Tông—To break into a 
      smile, the mark of Kasyapa’s enlightenment when Buddha announced on 
      Vulture Peak that he had a teaching which was propagated from mind to 
      mind, a speech taken as authoritative by the Intuitional School. 
      
      Phá Pháp: Hủy bỏ chánh pháp 
      bằng cách dùng tà kiến để phá bỏ chánh pháp của Như Lai (chẳng tu theo 
      kinh luật, chẳng nghe lời khuyên bảo của các bậc tôn túc, mà ngược lại đui 
      tu mù luyện theo thói của tà kiến ngoại đạo, để đi đến phạm giới và thích 
      theo thế tục)—To break the Buddha law, e.g. by the adoption of heresy.
      
      Phá Quấy: To disturb. 
      
      Phá Sản: To go bankrupt. 
      
      Phá Sập: To pull down. 
      
      Phá Tà Hiển Chánh: Phá bỏ tà 
      chấp tà kiến tức là làm rõ chánh đạo chánh kiến—To break or disprove the 
      false and make manifest the right—Theo Tam Luận Tông, học thuyết Tam Luận 
      Tông có ba khía cạnh chính, khía cạnh đầu tiên là ‘phá tà hiển chánh.’ Phá 
      tà là cần thiết để cứu độ chúng sanh đang đắm chìm trong biển chấp trước, 
      còn hiển chánh cũng là cần thiết vì để xiển dương Phật pháp—According to 
      the Madhyamika School, the doctrine of the school has three main aspects, 
      the first aspect is the “refutation itself of a wrong view, at the same 
      time, the elusidation of a right view.”  Refutation is necessary to save 
      all sentient beings who are drowned in the sea of attachment while 
      elucidation is also important in order to propagate the teaching of the 
      Buddha. 
      
      1)      Phá 
      Tà—Refutation of all wrong views: Phá tà là phủ nhận tất cả những quan 
      điểm y cứ trên sự chấp trước. Như thế những quan điểm như thuyết về ‘Ngã’ 
      của các triết gia Bà La Môn, thuyết ‘Đa Nguyên Luận’ của các luận sư A Tỳ 
      Đàm và Câu Xá, cũng như những nguyên tắc độc đoán của các luận sư Đại 
      Thừa, không bao giờ được thông qua mà không bị bài bác chi ly. ‘Hữu’ hay 
      tất cả đều có, cũng như ‘không’ hay tất cả đều không đều bị chỉ 
      trích—Refutation means to refute all views based on attachment. Also views 
      such as the ‘self’ or atman, the theory of Brahmanic philosophers. The 
      pluralistic doctrines of the Buddhist Abhidharma schools (Vaibhasika, 
      Kosa, etc) and the dogmatic principles of Mahayana teachers are never 
      passed without a detailed refutation. The Realistic or all exists, and the 
      Nihilistic or nothing exists are equally condemned. 
      
      2)      Hiển 
      Chánh—Elucidation of a right view—Theo Giáo Sư Takakusu trong Cương Yếu 
      Triết Học Phật Giáo, Tam Luận Tông luận rằng chân lý chỉ có thể đạt được 
      bằng cách phủ định hay bài bác các tà kiến bên trong và bên ngoài Phật 
      giáo, cũng như những sai lầm của Đại thừa và Tiểu thừa. Khi ôm giữ tà kiến 
      sai lầm, con người sẽ mù quáng trong phán đoán. Làm sao mà một người mù  
      có thể có được cái thấy đúng, và nếu không có nó thì không bao giờ tránh 
      được hai cực đoan. Cứu cánh vọng ngôn tuyệt lự là buổi bình minh của trung 
      đạo. Phá tà và chỉ  có phá tà mới dẫn đến cứu cánh chân lý. Con đường giữa 
      hay con đường xa lìa danh và tướng là con đường hiển chánh—According to 
      Prof. Takakusu in The Essentials of Buddhist Philosophy, the Madhyamika 
      School strongly believed that the truth can be attained only by negation 
      or refutation of wrong views within and without Buddhism, and of errors of 
      both the Great and Small Vehicles. When retaining wrong views or error, 
      one will be blind to reason. How can a blind man get a right view without 
      which the two extremes can never be avoided? The end of verbal refutation 
      is the dawn of the Middle Path. Refutation and refutation only, can lead 
      to the ultimate truth.  The Middel Path, which is devoid of name and 
      character is really the way of elucidation of a right view.      
      
      Phá Tà Tức Hiển Chánh: See Phá 
      Tà Hiển Chánh. 
      
      Phá Quỷ: To overcome all the 
      maras.
      
      Phá Táo Đọa: Theo Thiền Luận, 
      Tập II của Thiền sư D.T. Suzuki, Phá Táo Đọa là cái tên mà Thiền sư Huệ An 
      đặt cho một đệ tử của mình ở Tung Nhạc. Nghĩa đen là bếp hư đổ, chỉ  cho 
      biến cố trong đời sống của một Thiền sư không tên tuổi, nhờ đấy mà được 
      chú ý—The P’o-Tsao-To is the name given by Zen master Hui-An to one of his 
      disciples at Tsung-Yueh. It literally means, ‘a broken range falen to 
      pieces,’ which illustrates an incident in the life of a nameless Zen 
      master, whereby he became famous.  
      
      ·       
      Tại một làng vùng núi Tung Nhạc, có một cái miếu  bên trong 
      điện có để một bếp lửa. Dân ở gần xa đến tế tự bếp lửa nầy không ngớt, họ 
      luộc rất nhiều thú vật để cúng. Một hôm có nhà sư vô danh dẫn các Tăng hầu 
      vào miếu. Sư lấy gậy gõ vào bếp ba lần, và bảo: “Chặc! Bếp ơi là bếp! Mi 
      há không phải chỉ là bùn gạch hiệp thành sao? Thánh linh đâu nơi mi vậy? 
      Sao mi đòi luộc nhiều mạng thú vật để cúng như thế?” Nói xong, ông lại gõ 
      vào bếp ba lần nữa. Bếp liền nghiêng đổ xuống đất vỡ ra từng mảnh—There 
      was a shrine in one of the Tsung-Yueh villages where a lonely range was 
      kept. This was the object of worship for the country people far and near, 
      who here roasted alive many animals for sacrifice. One day a nameless monk 
      appeared in the shrine accompanied by his attendants. He struck the range 
      three times  with his staff, and said: “Tut! O you an old range, are you 
      not a mere composite of brick and clay? Whence your holiness? Whence your 
      spirituality? And yet you demand so many animals roasted alive for 
      sacrifice!” So saying, the master struck the range for another three 
      times. The range then tipped by itself, and falling on the ground broke in 
      pieces. 
      
      ·       
      Chốc lát, có một người đến gần sư cúi đầu lạy. Sư hỏi ông là 
      ai. Y đáp: “Tôi là Táo thần của miếu nầy. Tôi ở đây rất lâu do nghiệp báo 
      đời trước của mình. Nay nhờ nghe ‘pháp vô sinh’ của thầy mà thoát khỏi 
      ràng buộc và được thác sinh lên trời. Nay tôi đến đây để bái tạ Thầy.” Sư 
      bảo: “Vô sinh là bản tánh của ngươi, chẳng phải nhờ ta thuyết pháp.” Thần 
      bếp lạy và biến mất—After a while there suddenly appeared a man, and 
      approaching the master bowed reverentially to him. The master asked wo he 
      was, and he answered: “I am the spirit of the range enshrined here. I have 
      been here for a long time owing to my previous karma. But listening to 
      your sermon on the doctrine of no-birth, I am now released from the 
      bondage and born in the heavens. To offer my special thanks to you I have 
      come.” Said the master: “No-birth is the original nature of your being. No 
      sermonizing of mine was needed.” The heavenly being bowed again and 
      vanished.  
      
      ·       
      Sau đó, các Tăng hầu và các người khác hỏi sư: “Chúng con 
      theo hầu thầy rất lâu, nhưng chưa hề được nghe chính ngài giảng pháp. Táo 
      thần được ngài dạy cho pháp gì mà có thể thác sinh ngay trên trời?”—Later 
      on the attendant-monks and others asked the master: “We have been with you 
      for ever so ong, but we have never been permitted to listen to your 
      personal discourses on the Dharma. What effective teaching did the 
      range-spirit get from you which enabled him to be born immediately in the 
      heavens?” 
      
      ·       
      Sư nói: “Ta chỉ bảo nó là nó, do bùn gạch hiệp thành, chứ 
      chẳng có đạo lý gì khác dạy riêng cho nó.”—The master said: “What I told 
      him was simply that he was a composite of brick and clay; I had no further 
      teaching specially meant for him.”
      
      ·       
      Các tăng hầu và những người khác đứng im không nói. Sư lên 
      tiếng: “Hiểu không?”—The attendant-monks and others stood quietly without 
      a saying a word. The master remarked, “Do you understand?”
      
      ·       
      Vị chủ sự thưa: “Bẩm, chúng con không hiểu.”—The chief 
      secretary of the monastery said: “No, we do not.”
      
      ·       
      Sư tiếp lời: “Tánh bản hữu của hết thảy các pháp. Tại sao 
      các ông không hiểu?”—The master continued: “The original nature of all 
      beings, why do you not understand it?” 
      
      ·       
      Các thầy Tăng bèn lạy, sư liền bảo: “Đổ rồi! Đổ rồi! Vỡ rồi! 
      Vỡ rồi!”—The monks all made bows to the master, whereupon exclaimed the 
      master: “It’s fallen, it’s fallen. It’s broken to pieces, it’s broken to 
      pieces!” 
      Năm và nơi sư thị tịch 
      không ai rõ—His whereabout and when he passed away were unknown. 
      
      Phá Tăng: 
      
      1)      Phá 
      Pháp Luân Tăng: Phá rối sự thiền định của vị Tăng, hay đưa ra một pháp để 
      đối lập với Phật pháp (như trường hợp Đề Bà Đạt Đa)—To break, destroy or 
      disrupt a monk’s meditation or preaching, as in the case of Devadatta.
      
      2)      Phá 
      Yết Ma Tăng: Sanghabheda (skt)—Phá hòa hợp Tăng, cùng trong một giới mà 
      đưa ra ý kiến ngoại đạo hay lập ra loại yết ma khác để phá vở sự hòa hợp 
      của yết ma Tăng—Disrupt the harmony of the community of monks, to cause 
      schism, e.g. by heretical opinions. 
      
      Phá Thai: Abortion—Terminating 
      life of a fetus—According to Buddhist scriptures, abortion is a grave 
      offence. 
      
      Phá Trai: Ngã mặn—Phá luật trai 
      giới của tịnh xá, hoặc ăn sái giờ, hình phạt cho sự phá giới nầy là địa 
      ngục hoặc trở thành ngạ quỷ, những con ngạ quỷ cổ nhỏ như cây kim, bụng 
      ỏng như cái trống chầu, hoặc có thể tái sanh làm súc sanh (Phật tử tại gia 
      không bắt buộc trường chay; tuy nhiên, khi đã thọ bát quan trai giới trong 
      một ngày một đêm thì phải trì giữ cho tròn. Nếu đã thọ mà phạm thì phải 
      tội cũng như trên)—To break the monastic rule of the regulation food, or 
      time for meals, for which the punishment is hell, or to become a hungry 
      ghost like with throats small as needles and distended bellies, or become 
      an animal. 
      
      Phá Tướng Tông: Tông phái phá 
      bỏ sự chấp tướng—The sect held the unreality of all things. 
      
      1)      Tông 
      phái Phá Tướng đầu tiên sáng lập bởi ngài Vĩnh Minh, phá bỏ sự chấp tướng: 
      The first sect founded by Yung Ming (Vĩnh Minh) which held the unreality 
      of all things.
      
      2)      Tông 
      Phá Tướng thứ hai do ngài Tịnh Ảnh sáng lập: The second sect founded by 
      Ching-Ying.
      
      3)      Tông 
      Phá Tướng thứ ba do ngài Huệ Viễn sáng lập: The third sect founded by 
      Hui-Yuan. 
      
      Phà:
      
      1)      Chiếc 
      phà: Ferry-boat. 
      
      2)      Phà 
      khói: To puff out (exhale) smoke. 
      
      Phả: Kha 
      khá—Quite—Very—Somewhat—Partial. 
      
      Phả La: Phala 
      (skt)—Quả—Fruit—Produce—Progeny—Profit. 
       
      
      Phả La Đọa: Bharadvaja (skt).
      
      1)      Còn 
      gọi là Phả La Trá, dòng dõi của một trong sáu họ Bà La Môn: Descendant of 
      the ancient sage Bharadvaja, interpreted as one of the six Brahmin  
      surnames.
      
      2)      Lợi 
      căn hay thông minh: Also has the meaning of keen mind, or clever. 
      
      Phả Lê: Rock crystal—See Pha 
      Lê. 
      
      Phả Ni Đa: Phanita (skt)—Đường 
      mía—The inspissated juice of the sugar can, or raw sugar. 
      
      Phác Họa: To outline—To sketch.
      
      
      Phách: 
      
      1)      Rọc ra 
      hay tách ra: To split—To tear—To rend. 
      
      2)      Vuông 
      khăn—Kerchief—Veil. 
      
      3)      Vỗ: To 
      clap (hands). 
      
      Phách Chưởng: Phách Thủ, lệ vỗ 
      tay lúc bắt đầu và lúc chấm dứt cuộc lễ của phái Chân Ngôn—Clapping of 
      hands at the beginning and end of worship, a Shingon custom. 
      
      Phách Lối: To be haughty 
      
      Phách Tiễn Cấp: Nhanh như tên 
      lướt gió hay chẻ gió—Rapid as an arrow cleaving the air.
      
      Phai Mờ: To fade.
      
      Phái: 
      
      1)      Đề cử: 
      To delegate—To detach. 
      
      2)      Môn 
      phái: School—Sect (môn phái). 
      
      Phái Đoàn: Delegation—Mission.
      
      
      Phải: 
      
      1)      Bên 
      phải: Right. 
      
      2)      Cần 
      phải: To have to—Must—Should—Ought to. 
      
      3)      Đúng: 
      Right. 
      
      Phải Chăng: Reasonable. 
      
      Phải Quấy: Right or wrong. 
      
      Phải Trái: Right or left—Right 
      or wrong. 
      
      Phàm: 
      Common—Ordinary—Everybody. 
      
      Phàm Chủng: Common 
      seed—Ordinary people.
      
      Phàm Dân: Common people.
      
      Phàm Lệ: Foreword. 
      
      Phàm Lự: The anxieties of 
      common or unconverted men.
      
      Phàm Ngu: Common, ignorant, or 
      unconverted men.
      
      Phàm Phu: 
      
      (I)     Nghĩa 
      của Phàm Phu—The meanings of ordinary people:
      
      1)      Người 
      phàm hay người thường: Sinner—A sane man—Ordinary man—Worldly man—The 
      sinner—Secular people—Common people—The unenlightened—A common fellow. 
      
      2)      Đệ tử 
      Phàm phu: Đệ tử chưa chứng ngộ—Unenlightened disciples—There are two kinds 
      of ordinary disciples:
      
      a)      Nội 
      Phàm: Đang trên đường giải thoát—The inner or higher ranks of ordinary 
      disciples who are on the road of liberation.  
      
      b)      Ngoại 
      Phàm: Chưa được tự tại—Lower grades who are not on the road of liberation 
      yet. 
      
      (II)  Những 
      lời Phật dạy về Phàm Phu trong Kinh Pháp Cú—The Buddha’s teachings on 
      ordinary people in the Dharmapada Sutra:
      
      1)      Đêm 
      rất dài với những kẻ mất ngủ, đường rất xa với kẻ lữ hành mỏi mệt. Cũng 
      thế, vòng luân hồi sẽ tiếp nối vô tận với kẻ ngu si không minh đạt chánh 
      pháp—Long is the night to the wakeful; long is the road to him who is 
      tired; long is samsara to the foolish who do not know true Law (Dharmapada 
      60).
      
      2)      Không 
      được kết bạn với kẻ hơn mình, không được kết bạn với kẻ ngang mình, thà 
      quyết chí ở một mình tốt hơn kết bạn với người ngu muội—If a traveler does 
      not meet a companion who is better or at least equal, let him firmly 
      pursue his solitary career, rather than being in fellowship with the 
      foolish (Dharmapada 61). 
      
      3)      “Đây 
      là con ta, đây là tài sản ta,” kẻ phàm phu thường lo nghĩ như thế, nhưng 
      chẳng biết chính ta còn không thiệt có, huống là con ta hay tài sản 
      ta?—These are my sons; this is my wealth; with such thought a fool is 
      tormented. Verily, he is not even the owner of himself. Whence sons? 
      Whence wealth?  (Dharmapada 62). 
      
      4)      Ngu mà 
      tự biết ngu, tức là trí, ngu mà tự xưng rằng trí, chính đó mới thật là 
      ngu—A foolish man who knows that he is a fool, for that very reason a wise 
      man; the fool who think himself   wise, he is indeed a real fool 
      (Dharmapada 63).
      
      5)      Người 
      ngu suốt đời gần gũi người trí vẫn chẳng hiểu gì Chánh pháp, ví như cái 
      muỗng múc canh luôn mà chẳng bao giờ biết được mùi vị của canh—If a fool 
      associates with a wise man even all his life, he will understand the 
      Dharma as litle as  a spoon tastes the flavour of soup (Dharmapada 64).
      
      
      6)      Người 
      trí dù chỉ gần gủi người trí trong khoảnh khắc cũng hiểu ngay được Chánh 
      pháp, chẳng khác gì cái lưỡi dù mới tiếp xúc với canh  trong khoảnh khắc, 
      đã biết ngay được mùi vị của canh—An intelligent person associates with a 
      wise man, even for a moment, he will quickly understand the Dharma, as the 
      tongue tastes the flavour of soup (Dharmapada 65). 
      
      7)      Kẻ 
      phàm phu không giác ngộ nên đi chung với cừu địch một đường. Cũng thế, 
      những người tạo ác nghiệp nhất định phải cùng ác nghiệp đi đến khổ báo—A 
      fool with little wit, goes through life with the very self as his own 
      greatest enemy. In the same manner, evil doers do evil deeds,  the fruit 
      of which is bitter (Dharmapada 66).  
      
      8)      Những 
      người gây điều bất thiện, làm xong ăn năn khóc lóc, nhỏ lệ dầm dề, vì biết 
      mình sẽ phải thọ lấy quả báo tương lai—The deed is not well done of which 
      a man must repent, and the reward of which he receives, weeping, with 
      tearful face; one reaps the fruit thereof (Dharmapada 67).
      
      9)      Những 
      người tạo các thiện nghiệp, làm xong chẳng chút ăn năn, còn vui mừng hớn 
      hở, vì biết mình sẽ thọ lấy quả báo tương lai—The deed is well done when, 
      after having done it, one repents not, and when, with joy and pleasure, 
      one reaps the fruit thereof (Dharmapada 68).
      
      10)  Khi ác 
      nghiệp chưa thành thục, người ngu tưởng như đường mật, nhưng khi ác nghiệp 
      đã thành thục, họ nhứt định phải chịu khổ đắng cay—As long as the evil 
      deed done does not bear fruit, the fool thinks it is as sweet as honey;  
      but when it ripens, then he comes to grief (Dharmapada 69).
      
      11)  Từ tháng 
      này qua tháng khác, với món ăn bằng đầu ngọn cỏ Cô-sa (cỏ thơm), người ngu 
      có thể lấy để nuôi sống, nhưng việc làm ấy không có giá trị bằng một phần 
      mười sáu của người tư duy Chánh pháp—Let a fool, month after month, eats 
      only as much food as can be picked up on the tip of a kusa blade; but he 
      is not worth a sixteenth part of them who have comprehended the truth 
      (Dharmapada 70). 
      
      12)  Người cất 
      sửa bò, không phải chỉ  sáng chiều đã thành ra vị đề hồ được. Cũng thế, kẻ 
      phàm phu tạo ác nghiệp tuy chẳng cảm thụ quả ác liền, nhưng nghiệp lực vẫn 
      âm thầm theo họ như lửa ngún giữa tro than—An evil deed committed may not 
      immediately bear fruit, just as newl drawn milk does not turn sour at 
      once. In the same manner,  smouldering, it follows the fool like fire 
      covered with ashes (Dharmapada 71).
      
      13)  Kẻ phàm 
      phu, lòng thì muốn cầu được trí thức mà hành động lại dẫn tới diệt vong, 
      nên hạnh phúc bị tổn hại mà trí tuệ cũng tiêu tan—The knowledge and fame 
      that the fool gains , so far from benefiting; they destroy his bright lot 
      and cleave his head (Dharmapada 72). 
      
      14)  Kẻ ngu 
      xuẫn thường hay muốn danh tiếng mà mình không xứng: chỗ ngồi cao trong 
      Tăng chúng, oai quyền trong Tăng lữ, danh vọng giữa các gia tộc khác—The 
      fool always desire for an undue reputation or undeserved honour, 
      precedence among the monks, authority in the monasteries, honour among 
      other families (Dharmapada 73).  
      
      15)  Hãy để 
      cho người Tăng kẻ tục nghĩ rằng “sự nầy do ta làm, trong mọi việc lớn hay 
      nhỏ đều do nơi ta cả.” Kẻ phàm phu cứ tưởng lầm như thế, nên lòng tham lam 
      ngạo mạn tăng hoài—Let both monks and laymen think, “by myself was this 
      done; in every work, great or small, let them refer to me.” Such is the 
      ambition of the fool; his desires and pride increase (Dharmapada 74). 
      
      16)  
      Một đàng đưa tới thế gian, một đàng đưa tới Niết bàn, hàng 
      Tỳ kheo đệ tửø Phật, hãy biết rõ như thế, chớ nên tham đắm lợi lạc thế 
      gian để chuyên chú vào đạo giải thoát—One is the path that leads to 
      worldly gain, and another is the path leads to nirvana. Once understand 
      this, the monks and the lay disciples of the Buddha, should not rejoice in 
      the praise and worldly favours, but cultivate detachment (Dharmapada 75).
      
      
      Phàm Phu Kiêu Ngạo: Boastful 
      secular people.
      
      Phàm Phu Tánh: The common 
      underlying nature of all men.
      
      Phàm Phúc: Phước báo nhơn 
      thiên—The ordinary blessedness of devas and men as compared with that of 
      the converted. 
      
      Phàm Sở Hữu Tướng, Giai Thị Hư Vọng. Nhược 
      Kiến Chư Tướng Phi Tướng, Tức Kiến Như Lai: Theo Kinh Kim Cang, 
      Đức Phật dạy: “Bất cứ vật gì hễ có hình tướng đều là giả dối. Nếu thấy các 
      tướng không phải hình tướng, như thế mới tạm gọi là thấy được Như Lai.”—In 
      the Diamond Sutra, the Buddha taught: “All forms and phenomena are 
      illusive. If one can see beyond forms, one sees the Tathagata.” 
      
      Phàm Sư: Vị sư chưa giác ngộ 
      chân lý mà Phật đã giảng dạy—Ordinary or worldly teachers who are 
      unenlightened by Buddhist truth.
      
      Phàm Tánh: Common nature of all 
      men.
      
      Phàm Tăng: Phàm Tăng ngược lại 
      với Thánh Tăng (những vị Tăng đã có công đức sâu dầy, đạo cao đức 
      trọng)—The ordinary practicing monk, as contrasted with the holy monk 
      (Thánh Tăng) who has achieved higher merit.
      
      Phàm Thánh: Sinners and Saints.
      
      Phàm Thánh Bất Nhị: Phàm Thánh 
      đều cùng có bổn tánh như nhau: Phật tánh—Sinners and saints are of the 
      same fundamental nature: Buddha-nature. 
      
      Phàm Thánh Đồng Cư Địa: Thế 
      giới nầy nơi mà Thánh phàm đồng cư—This world, where saints and sinners 
      dwell together.
      
      Phàm Thánh Nhứt Như: Phàm Thánh 
      bất nhị—Sinners and Saints are of the same fundamental nature—See Phàm 
      Thánh Bất Nhị and Sinh Phật Nhứt Như.
      
      Phàm Thân: The common mortal 
      body—The ordinary individual.
      
      Phàm Thức: Ordinary knowledge.
      
      Phàm Tập: The practices, good 
      and evil, of common or unconverted men.
      
      Phàm Tình: Desires or passions 
      of the unconverted. 
      
      Phàm Tục: Thói thường tốt hay 
      xấu của phàm nhân—Mundane—Earthly—Ordinary—Common—The practices, good or 
      evil, of common or unconverted men. 
      
      Phạm: 
      
      1)      Phạm 
      Thiên: Brahman (skt)—Supreme Being regarded as impersonal. 
      
      a)      Thanh 
      Tịnh: Celibate and pure.
      
      b)      Ly 
      Dục: Giving up desires. 
      
      2)      Phạm 
      Tội: To violate—To commit—To offend against—To break the law. 
      
      3)      Phạm 
      trù: Khuôn phép—Pattern—Rule—Method. 
      
      Phạm Âm: 
      
      1)      Brahma 
      voice, one of the thirty-two marks of a Buddha:
      
      a)      Tiếng 
      nói trong trẻo: The voice is clear.
      
      b)      Tiếng 
      nói hòa nhã: The voice is melodious.
      
      c)      Tiếng 
      nói thanh tịnh (chính trực): The voice is pure.
      
      d)      Tiếng 
      nói sang sảng: The voice is deep.
      
      e)      Tiếng 
      nói ấy ngân vang, ở nơi xa cũng nghe thấy: The voice is far-reaching.
      
      2)      Tiếng 
      ca hay tụng tán thán Phật: Singing in praise of Buddha.
      **   For more information, 
      please see Âm 
             Thanh Của Đức Như 
      Lai.
      
      Phạm Bổn: Những bộ kinh bằng 
      tiếng Phạn (Ấn Độ)—Sutras in the Indian language. 
      
      Phạm Ca Di: Brahma-kayikas 
      (skt)—Tên của chư Thiên ở cõi sơ thiền sắc giới—The Brahma-devas in the 
      first dhyana in the realm of form. 
      
      Phạm Chí: 
      
      1)      
      Brahmacarin (skt): Người xuất gia học Thánh điển và tu hành phạm 
      hạnh—Studying sacred learning; practising continence or chasity.
      
      2)      
      Brahamacari (skt): Người trẻ Bà La Môn tu tập giai đoạn đầu trong bốn giai 
      đoạn đi vào Phạm Thiên—Young Brahman in his first sarama or period of 
      life; ther are four such periods.
      
      3)      Người 
      Phật tử xuất gia tu đời thanh tịnh: A Buddhist ascetic with his will set 
      on purity. 
      
      Phạm Chung: Đại Hồng Chung của 
      tự viện—The temple or monastery bell. 
      
      Phạm Chúng: Chư Tăng Ni—Monks 
      and nuns. 
      
      Phạm Chúng Thiên: 
      Brahmaparisadya or Parsadya (skt)—Các vị chư Thiên ở cõi trời sơ thiền 
      thuộc sắc giới (Phạm Thiên giới được chia làm ba cấp, các vị chư thiên ở 
      hạ cấp thì được gọi là Phạm Chúng Thiên)—The assembly of Brahmadevas, 
      belonging to the retinue of Brahma; the first Brahmaloka; the first region 
      of the first dhyana heaven of form.
      ** For more information, 
      please see Phạm 
           Thiên (B).  
      
      Phạm Chương: Brahmavastu 
      (skt)—Sách học vần Phạn ngữ gồm 12 chương—A Sanskrit syllabary in twelve 
      parts.  
      
      Phạm Cung: 
      
      1)      Cung 
      điện của Phạm Thiên: Brahma’s palace.
      
      2)      Chùa: 
      Buddhist temple. 
      
      3)      Phạm 
      Giới, cõi thiền thứ nhất trong cõi trời sắc giới: The realm of Brahma; the 
      first dhyana heaven of the realm of form.  
      
      Phạm Diên: Phạm Thiên và Trời 
      Na La Diên—Brahma and Narayana. 
      
      Phạm Diễn Na: Bayana (skt)—Theo 
      Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, Phạm Diễn Na, một vương quốc cổ 
      trong vùng Bokhara, bây giờ là Bamian, nổi tiếng với những tượng Phật Nhập 
      Niết Bàn khổng lồ, dài tới 1.000 bộ Anh—According to Eitel in The 
      Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, Bayana, an ancient kingdom 
      and city in Bokhara (modern Bamian), famous for a colossal statue of 
      Buddha (entering Nirvana) believed to be 1,000 feet long. 
      
      Phạm Diện Phật: Đức Phật có 
      gương mặt giống như Phạm Thiên, người ta nói vị ấy sống tới 23.000 năm—A 
      Buddha with Brahma’s face (said to be 23.000 years old). 
      
      Phạm Đàn: Brahmadanda 
      (skt)—Phép trị tội Phạm Đàn. Khi vị sư nào phạm tội thì được đưa đếm “Phạm 
      Đàn” để cách ly, cấm không cho nói chuyện với ai—Brahma-staff—The Brahma 
      (religious) punishment; the explanation is to send to Coventry a 
      recalcitrant monk, the forbidding of any conversation with him, or 
      exclusion to silence. 
      
      Phạm Đạo: Thanh tịnh đạo—The 
      way of purity, or celibacy; the brahman way. 
      
      Phạm Điển: Kinh điển Phật—The 
      Buddhist sutras, or books. 
      
      Phạm Độ: Brahman-Land—Ấn 
      Độ—India. 
      
      Phạm Đức: Năng lực hay phước 
      đức của Phạm Thiên—The power, or bliss of Brahma. 
      
      Phạm Giáp: Kinh điển làm bằng 
      lá cây đa la (một loại cây kè có lá giống như lá thốt nốt) Palm-leaf 
      scriptures.
      
      Phạm Giới: Phá phạm giới luật 
      mà Đức Phật đã đặt ra—To turn one’s back on the precepts—To offend against 
      or break the moral or ceremonial laws of Buddhism. 
      
      Phạm Hành: Noble action—High 
      conduct.
      
      Phạm Hạnh: Pure living. 
      
      (I)     Nghĩa 
      của “Phạm Hạnh”—The meanings of “Pure living”—Cuộc sống thanh tịnh hay 
      giới pháp giúp hành giả cắt đứt dâm dục, sống đời độc thân để được sanh về 
      cõi trời sắc giới Phạm Thiên hay cao hơn—Pure living; noble action; the 
      discipline of celibacy which ensures rebirth in the Brahmaloka, or in the 
      realms beyond form.
      
      (II)  Những 
      lời Phật dạy về “Phạm Hạnh” trong Kinh Pháp Cú—The Buddha’s teachings on 
      “Pure living” in the Dharmapada Sutra:
      
      1)      Sống 
      trăm tuổi mà phá giới và buông lung, chẳng bằng sống chỉ một ngày mà trì 
      giới, tu thiền định—To live a hundred years, immoral and uncontrolled, is 
      no better than a single-day life of being moral and meditative (Dharmapada 
      110).
      
      2)      Sống 
      trăm tuổi mà thiếu trí huệ, không tu thiền, chẳng bằng sống chỉ một ngày 
      mà đủ trí, tu thiền định—To live a hundred years without wisdom and 
      control, is no better than a single-day life of being wise and meditative 
      (Dharmapada 111).
      
      3)      Sống 
      trăm tuổi mà giải đãi không tinh tấn, chẳng bằng sống chỉ một ngày mà hăng 
      hái tinh cần—To live a hundred years, idle and inactive, is no better than 
      a single-day life of intense effort (Dharmapada 112).
      
      4)      Sống 
      trăm tuổi mà không thấy pháp vô thường sinh diệt, chẳng bằng sống chỉ một 
      ngày mà được thấy pháp sinh diệt vô thường—To live a hundred years without 
      comprehending how all things rise and pass away, is no better than a 
      single-day life of seeing beginning and end of all things (Dharmapada 
      113).
      
      5)      Sống 
      trăm tuổi mà không thấy đạo tịch tịnh vô vi, chẳng bằng sống chỉ một ngày 
      mà được thấy đạo tịch tịnh vô vi—To live a hundred years without seeing 
      the immortal state, is no better than a single-day life of one who sees 
      the deathless state (nirvana) (Dharmapada 114).
      
      6)      Sống 
      trăm tuổi mà không thấy pháp tối thượng, chẳng bằng sống chỉ một ngày mà 
      được thấy pháp tối thượng—To live a hundred years without seeing the 
      Supreme Truth, is no better than a single-day life of someone who see the 
      highest law (Dharmapada 115).
      
      Phạm Hoàng:
      
      1)      Vua 
      của Ấn Độ: The Indian Emperor.
      
      2)      Đức 
      Phật: Buddha. 
      
      Phạm Học: 
      
      1)      Nghiên 
      cứu về Bà La Môn: The study of Brahmanism.
      
      2)      Nghiên 
      cứu về Phật Giáo: The study of Buddhism. 
      
      Phạm Hưởng: Âm thanh của Đức 
      Phật—The sound of Buddha’s voice (Buddha’s preaching). 
      
      Phạm Luân: 
      
      1)      Bánh 
      xe chuyển pháp của Đức Phật: The Brahma-wheel—The wheel of the law, or 
      pure preaching of the Buddha.
      
      2)      Bài 
      pháp đầu tiên mà Phạm Thiên Vương thỉnh Phật quay bánh xe pháp: The first 
      sermon at the request of Brahma.  
      
      3)      Giáo 
      thuyết của Phạm Thiên: The doctrine or preaching of the Brahmans. 
      
      Phạm Luật: To offend against 
      the law—Khi Đức Thế Tôn còn tại thế, có hai vị Tỳ Kheo phạm luật hạnh, 
      lấy làm hổ thẹn, không dám hỏi Phật, đến hỏi Ưu Ba Li rằng: “Dạ thưa ngài 
      Ưu Ba Li! Chúng tôi phạm luật thật lấy làm hổ thẹn, không dám hỏi Phật, 
      mong nhờ ngài giải rõ chỗ nghi hối cho chúng tôi được khỏi tội ấy.” Ưu Ba 
      Li liền y theo pháp, giải nói cho hai vị. Bấy giờ ông Duy Ma Cật đến nói 
      với Ưu Ba Li—At the time of the Buddha, there were two bhiksus who broke 
      the prohibitions, and being shameful of their sins they dared not call on 
      the Buddha.  They came to ask Upali and said to him: “Upali, we have 
      broken the commandments and are ashamed of our sins, so we dare not ask 
      the Buddha about this and come to you.  Please teach us the rules of 
      repentance so as to wipe out our sins.” Upali then taught them the rules 
      of repentance. At that time, Vimalakirti came to Upali and said: 
      
      ·        
      “Thưa ngài Ưu Ba Li, ngài chớ 
      kết thêm tội cho hai vị Tỳ Kheo nầy, phải trừ dứt ngay, chớ làm rối loạn 
      lòng họ. Vì sao? Vì tội tánh kia không ở trong, không ở ngoài, không ở 
      khoảng giữa. Như lời Phật đã dạy: ‘Tâm nhơ nên chúng sanh nhơ, tâm sạch 
      nên chúng sanh sạch.’ Tâm cũng không ở trong, không ở ngoài, không ở 
      khoảng giữa. Tâm kia như thế nào, tội cấu cũng như thế ấy. Các pháp cũng 
      thế, không ra ngoài chơn như. Như ngài Ưu Ba Li, khi tâm tướng được giải 
      thoát thì có tội cấu chăng?”—“Upali, do not aggravate their sins which you 
      should wipe out at once without further disturbing their minds.  Why?  
      Because the nature of sin is neither within nor without, nor in between.  
      As the Buddha has said, ‘living beings are impure because their mind 
      are impure; if their minds are pure they are all pure.’  And mind also 
      is neither within nor without, nor in between. Their minds being such, so 
      are their sins.  Likewise all things do not go beyond (their ) suchness.  
      Upali, when your mind is liberated, is there any remaining impurity?’
      
      ·        
      Ưu Ba Li đáp: ‘Không.”—Upali 
      replied: “There will be no more.”  
      
      ·        
      Ông Duy Ma Cật nói: ‘Tất cả 
      chúng sanh tâm tướng không nhơ  cũng như thế! Thưa ngài Ưu Ba Li! Vọng 
      tưởng là nhơ, không vọng tưởng là sạch; điên đảo là nhơ, không điên đảo là 
      sạch; chấp ngã là nhơ, không chấp ngã là sạch. Ngài Ưu Ba Li! Tất cả pháp 
      sanh diệt không dừng, như huyễn, như chớp; các Pháp không chờ nhau cho đến 
      một niệm không dừng; các Pháp đều là vọng kiến, như chiêm bao, như nắng 
      dợn, như trăng dưới nước, như bóng trong gương, do vọng tưởng sanh ra. 
      Người nào biết nghĩa nầy gọi là giữ luật, người nào rõ nghĩa nầy gọi là 
      khéo hiểu.”—Vimalakirti said: “Likewise, the minds of all living beings 
      are free from impurities.  Upali, false thoughts are impure and the 
      absence of false thought is purity. Inverted (ideas) are impure and the 
      absence of inverted (ideas) is purity.  Clinging to ego is impure and 
      non-clinging to ego is purity.  Upali, all phenomena rise and fall without 
      staying (for an instant) like an illusion and lightning. All phenomena do 
      not wait for one another and do not stay for the time of a thought.  They 
      all derive from false views and are like a dream and a flame, the moon in 
      water, and an image in a mirror for they are born from wrong thinking.  He 
      who understands this is called a keeper of the rules of discipline and he 
      who knows it is called a skillful interpreter (of the precepts).” 
      
      
      ·        
      Lúc đó hai vị Tỳ Kheo khen 
      rằng: “Thật là bực thượng trí! Ngài Ưu Ba Li nầy không thể sánh kịp. Ngài 
      là bực giữ luật hơn hết mà không nói được.”—At that “time, the two bhiksus 
      declared: ‘What a supreme wisdom which is beyond the reach of Upali who 
      cannot expound the highest principle of discipline and morality?” 
      
      
      ·        
      Ưu Ba Li đáp rằng: “Trừ Đức 
      Như Lai ra, chưa có bực Thanh Văn và Bồ Tát nào có thể chế phục được chỗ 
      nhạo thuyết biện tài của ông Duy Ma Cật. Trí tuệ ông thông suốt không 
      lường.”—Upali said: ‘Since I left the Buddha I have not met a sravaka or a 
      Bodhisattva who can surpass hi rhetoric for his great wisdom and perfect 
      enlightenment have reached such a high degree.’ 
      
      ·        
      Khi ấy, hai vị Tỳ Kheo dứt 
      hết nghi hối, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và phát nguyện 
      rằng: “Nguyện làm cho tất cả chúng sanh đều được biện tài như 
      vậy.”—Thereupon, the two bhiksus got rid of their doubts and repentance, 
      set their mind on the quest of supreme enlightenment and took the vow that 
      make all living beings acquire the same power of speech. 
      
      Phạm Ma: 
      
      1)      Phạm 
      Thiên và Ma La Vương—Brahma or Brahman and Mara.
      
      a)      Phạm 
      Thiên là vị chủ ở các cõi trời sắc giới: Brahma is the lord of the realm 
      of form.
      
      b)      Ma là 
      chủ Lục Dục Thiên hay cõi Tha Hóa Tự Tại—Mara is the lord of desire or 
      passion. 
      
      2)      Phạm 
      Thiên: Brahma—See Phạm Thiên.
      
      Phạm Ma Đạt: Brahmadatta (skt).
      
      
      1)      Tên vị 
      vua của xứ Kanyakubja: A king of Kanyakubja.
      
      2)      Tên 
      vua xứ Varanasi, cha của Ca Diếp: A king of Varanasi, father of Kasyapa.
      
      
      Phạm Ma La: See Phạm Ma (1).
      
      
      Phạm Ma Ni: Brahma-mani (skt).
      
      1)      Tịnh 
      Châu: Tên một loại ngọc báu—Pure pearl.
      
      2)      Ngọc 
      báu như ý của Phạm Thiên: The magic pearl of Brahma. 
      
      Phạm Ma Tam Bát: 
      Brahma-sahampati or Mahabrahma-sahampati (skt)—Phạm Thiên, là vị chủ của 
      thế giới—Brahma, lord of the world. 
      
      Phạm Nan: Sự khó khăn trong 
      việc duy trì đời sống phạm hạnh—The diffculty of maintaining celibacy, or 
      purity. 
      
      Phạm Ngữ: Ngôn ngữ của Phạm 
      Thiên—The language came from Brahma.
      
      1)      Ngôn 
      ngữ Phạn: Brahma language (Sanskrit).
      
      2)      Mẫu tự 
      Phạn: The Sanskrit alphabet.
      
      3)      Ngôn 
      ngữ của Ấn Độ: The language of India. 
      
      Phạm Nữ: 
      
      1)      Con 
      gái của Phạm Chí: A noble woman. 
      
      2)      Người 
      con gái phạm hạnh: A woman of high character. 
      
      Phạm Pháp: To break the law.
      
      
      Phạm Phú Lâu: Brahmapurohita 
      (skt). 
      
      1)      Những 
      vị cận thần hay phụ tá của Phạm Thiên: The ministers, or assistants of 
      Brahma.
      
      2)      Tên 
      cõi trời sơ thiền thứ hai thuộc sắc giới: The second Brahmaloka; the 
      second region of the first dhyana heaven of form.
      
      Phạm Phụ Thiên: The 
      Brahmapurohitas, or the etinue of Brahma—See Phạm Phú Lâu (2). 
      
      Phạm Phục: Kasaya (skt).
      
      1)      Y phục 
      của Phạm Thiên: Brahma’s robe. 
      
      2)      Áo cà 
      sa: Monk’s robe.
      
      3)      Y phục 
      của người tu phạm hạnh: The garment of celibacy.
      
      Phạm Sát: Brahmaksetra (skt).
      
      
      1)      Cõi 
      Phật: Buddha-land.
      
      2)      Tên 
      gọi tự viện như là nơi thanh tịnh: A name for a Buddhist monastery, i.e. a 
      place of purity. 
      
      Phạm Tăng: 
      
      1)      Vị 
      Tăng Ấn Độ thời xưa. Vào thời đó Tăng sĩ Ấn Độ mặc áo trịch (để lộ) vai 
      phải: A monk from India: Brahman monk is a Buddhist Master of ancient 
      India. During those days, Buddhist monks wore rope, Buddhist monks wore 
      roped exposing thei right shoulders.  
      
      2)      Vị 
      Tăng gìn giữ tịnh hạnh: A monk who maintains his purity. 
      
      Phạm Tâm: Tâm tu theo phạm hạnh 
      hay  thanh cao và tinh khiết mà người thực tập sẽ được sanh về cõi trời vô 
      sắc—The noble or pure mind (which practises the discipline that ensures 
      rebirth in the realm without form).
      
      Phạm Thanh: Tiếng của Đức 
      Phật—The voice of Buddha
      
      Phạm Thân: 
      
      1)      Thân 
      tâm thanh tịnh: The pure spiritual body.
      
      2)      Pháp 
      thân của Phật: Dharmakaya of the Buddha.
      
      Phạm Thân Thiên: Quyến thuộc 
      của Phạm Thiên (Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ Thiên, và Đại Phạm Thiên)—The 
      Brahmakayika, or retinue of Brahma.  
      ** For more information, 
      please see Phạm 
           Thiên (B). 
      
      Phạm Thất: Nơi Tăng đoàn trú 
      ngụ và tu tập, chùa hay tự viện—A dwelling where the sangha is practicing 
      Buddhist laws—A dwelling where celibate discipline is practised, a 
      monastery, temple.
      
      Phạm Thế Giới: Brahmaloka 
      (skt)—Phạm Thế Thiên—Các cõi trời thuộc sắc giới—The Brahmaloka of the 
      realm of form. 
      
      Phạm Thế Thiên: Brahmaloka 
      (skt)—See Phạm Thế Giới. 
      
      Phạm Thích: Trời Phạm Thiên và 
      trời Đế Thích—Brahma and Sakra:
      
      1)      Trời 
      Phạm Thiên, chủ cung trời sắc giới: Brahma, the lord of the form-realm.
      
      2)      Trời 
      Đế Thích, chủ của trời dục giới: Sakra, the lord of the desire-realm. 
      
      Phạm Thích Tứ Thiên: Trời Phạm 
      Thiên, Đế Thích, và Tứ Thiên Vương—Brahma, sakra, and the four Maharajas.
      
      
      Phạm Thiên: Brahmas (skt).
      
      (A)  Nghĩa của 
      Phạm Thiên—The meanings of Brahma:
      
      1)      Vị 
      thần chính của Ấn giáo, thường được diễn tả như ngưới sáng tạo hệ thống 
      thế giới—A  chief of Hindu gods often described as the creator of world 
      system.
      
      2)      Chủ 
      của cung trời sắc giới. Ngài làm chúa tể của chúng sanh, được Phật giáo 
      thừa nhận là chư Thiên, nhưng thấp hơn Phật hay người đã giác ngộ—Lord of 
      the heavens of form. The father of all living beings; the first person of 
      the Brahmanical Trimurti, Brahma, Visnu, and Siva, recognized by Buddhism 
      as devas but as inferior to a Buddha, or enlightened man. 
      
      3)      Các 
      chư Thiên trong cõi trời sắc giới: Devas in the realm of form.
      
      (B)  Ba loại 
      Phạm Thiên—Three kinds of Brahmas:
      
      1)      Phạm 
      Chúng Thiên: The assembly of brahmadevas, i.e. Brahmakayika.
      
      2)      Phạm 
      Phụ Thiên: Brahmapurohitas, or retinue of Brahma.
      
      3)      Đại 
      Phạm Thiên: Phạm Thiên Vương—Mahabrahman, or Brahman himself. 
      **  For more 
      information, please see Thế Chủ.
      
      Phạm Thiên Giới: The realm of 
      Brahma.
      
      Phạm Thiên Hậu: Hậu phi của 
      Phạm Thiên (Phạm Thiên trong Phật giáo không có hậu phi, tuy nhiên, dân 
      gian Ấn Độ tôn sùng và cho rằng ngài có ba bà hậu phi)—The queen or wife 
      of Braham.
      
      Phạm Thiên Ngoại Đạo: 
      Brahmadeva-heretics—Bà La Môn cho rằng Phạm Thiên là Đấng Tạo Hóa, nhưng 
      với Phật giáo điều nầy trái với chân lý—The Brahmans consider Brahma to be 
      the Creator of al things and the Supreme Being, which is heresy with 
      Budhism.  
      
      Phạm Thiên Vương: See Phạm 
      Thiên (B) (3). 
      
      Phạm Thừa: Brahmayana 
      (skt)—Phạm Thiên Thừa hay Bồ Tát Thừa—The noblest of the vehicles, that of 
      the bodhisattva. 
      
      Phạm Thượng: To be impertinent 
      to superiors.
      
      Phạm Tội: To commit a crime—To 
      commit offences.  
      
      Phạm Trọng: Vi phạm giới trọng 
      hay những giới chính—To break the weightier laws.  
      
      Phạm Tự: 
      
      1)      Chữ 
      Phạn—Brahma letters—samskrtam—Sanskrit. 
      
      a)      Bắc 
      Phạn: Sanskrit.
      
      b)      Nam 
      Phạn: Tiếng Phạn Pali được vài học giả Trung Hoa cho rằng cổ hơn tiếng 
      Phạn Sanskrit về cả tiếng nói lẫn chữ viết—Pali, considered more ancient 
      by some Chinese writers than Sanskrit both as a written and spoken 
      language.  
      
      2)      Phạm 
      Thư: Văn Tự cổ của Ấn Độ, phân biệt với tiếng nói bình dân Prakrit. Chỉ 
      vài ngoại lệ kinh điển Trung Quốc được dịch từ tiếng Phạn Pali (Nam Phạn), 
      còn thì đa phần được dịch sang từ tiếng Phạn Sanskrit (Bắc Phạn). —The 
      classical Aryan language of India, in contradistinction to Prakrit, 
      representing the language as ordinarily spoken. With the exception of a 
      few ancient translations probably from Pali versions, most of the original 
      texts used in China were Sanskrit.  
      
      Phạm Tướng: Brahmadhvaja 
      (skt)—Một trong những người con trai của Mahabhijna, trong cõi Phật ở về 
      phía tây nam vũ trụ của chúng ta—One of the sons of Mahabhijna; his Buddha 
      domain is south-west of our universe. 
      
      Phạm Uyển: Tự viện, nơi các vị 
      xuất gia sống đời độc thân tu tập—A monastery or any place where celibate 
      discipline is practised. 
      
      Phạm Vi: 
      
      1)      Phạm 
      trù: Domain—Field.
      
      2)      Khuôn 
      khổ hay nguyên tắc: Rule and restraint—To guard by proper means.   
      
      Phạm Võng: Brahmajala 
      (skt)—Brahma-net. 
      
      Phạm Võng Giới: See Phạm Võng 
      Giới Bổn.
      
      Phạm Võng Giới Bổn: Bồ Tát Giới 
      Kinh hay phần sau của Kinh Phạm Võng—The latter part of the Brahma-sutra.
      ** For more information, 
      please see Bốn Mươi 
           Tám Giới Khinh, and 
      Mười Giới Trọng của 
           chư Bồ Tát trong Kinh 
      Phạm Võng.  
      
      Phạm Võng Giới Phẩm: Tên của 
      Kinh Phạm Võng (Kinh Phạm Võng ngày nay chỉ còn lại một phẩm Bồ Tát Tâm 
      Địa Giới trong bộ Kinh Phạm Võng nên gọi là Phạm Võng Giới Phẩm)—A name 
      for the Brahma-sutra. 
      
      Phạm Võng Kinh: Tên gọi tắt của 
      Phạm Võng Kinh Lư Xá Na, Phật Thuyết Bồ Tát Tâm Địa Giới Phẩm Đệ Thập Phạm 
      Võng Kinh, được ngài Cưu Ma La Thập dịch sang Hoa ngữ khoảng năm 406 sau 
      Tây Lịch. Lấy tên Phạm Võng là vì pháp giới vô biên, như những mắt lưới 
      của vua Trời Đế Thích (giao nhau mà không hề vướng víu trở ngại), cũng 
      giống như giáo pháp của của chư Phật cũng tầng tầng vô tận, trang nghiêm 
      pháp thân cũng không hề có chướng ngại—Brahmajala-sutra, translated into 
      Chinese by Kumarajiva around 406 A.D., the infinitude of worlds being as 
      the eyes or holes in Indra’s net, which is all-embracing, like the 
      Buddha’s teaching. There are many treatises on it. 
      **  For More information, please see Kinh Phạm Võng, Mười Giới Trọng của 
      chư Bồ Tát trong Kinh Phạm Võng, and Bốn Mươi Tám Giới Khinh.  
      
      Phạm Võng Tông: Luật Tông được 
      mang vào hoằng hóa tại Nhật Bản bởi một nhà sư Trung Hoa tên Giám Chân vào 
      khoảng năm 754 sau Tây Lịch—The sect of Ritsu, brought into Japan by the 
      Chinese monk Chien-Chen in 754 A.D.
      
      Phạm Vũ: Chùa hay tự viện—A 
      sacred house, i.e. a Buddhist monastery, or temple.  
      
      Phạm Vương: See Phạm thiên. 
      
      Phạm Vương Cung: Cung điện của 
      Phạm Thiên—The palace of Brahma. 
      
      Phan: 
      
      1)      Cờ 
      phướn: Pataka (skt)—Ba Đa Ca—Lá cờ hay phướn treo tại chùa trong các ngày 
      lễ (vật trang nghiêm biểu tượng cho uy đức của Đức 
      Phật)—Flag—Banner—Streamer—Pennant. 
      
      2)      Leo 
      lên: To climb. 
      
      3)      Nắm 
      lấy: To grasp—To detain.
      
      Phan Duyên: Duyên—Tâm nương vịn 
      vào cảnh sở mà khởi lên, giống như người già vịn vào cây gậy mà đứng lên 
      (tâm thay đổi lúc thế nầy lúc thế khác, tùy theo sự vật của thế giới bên 
      ngoài, giống như con vượn chuyền cây, hay con ngựa vô cương)—Something to 
      lay hold of, a reality, cause, basis, similar to an old man relies on his 
      cane (the mind likea monkey, the thought like a horse).
      ** For more information, 
      please see Duyên in 
           Vietnamese-English 
      Section.  
      
      Phan Giác: Nắêm lấy và hiểu 
      biết những cái cạn cợt bên ngoài, như con vượn chuyền hết cành nầy qua 
      cành khác—Seizing and perceiving, like a monkey jumping from branch to 
      branch, i.e. attracted by external unstable. 
      
      Phán: 
      
      1)      Phán 
      lệnh: To order.
      
      2)      Phán 
      Quyết: To judge—To try.
      
      3)      Phán 
      định: To decide. 
      
      4)      Phán 
      xét: To examine and judge. 
      
      Phán Đoán: Phán quyết—To judge.
      
      
      Phán Lự Tư: Phân biệt tư 
      tưởng—Discriminating thought. 
      
      Phán Quyết: 
      Determination—Decision.  
      
      Phán Giáo: Phân chia hay phân 
      tích giáo pháp hay giáo tướng một đời của Đức Phật—Division of the 
      Buddha’s teaching.
      
      1)    Phán 
      Giáo Thiên Thai Ngũ Thời Bát Giáo: Division of T’ien-T’ai, into the five 
      periods and eight teachings—See Thiên Thai Ngũ Thời Bát Giáo.
      
      2)    Phán 
      Giáo Hoa nghiêm Ngũ Giáo: Division of Hua-Yen into five teachings—See Hoa 
      nghiêm Thời and Ngũ Giáo. 
      
      Phán Thích: Phán đoán ý chỉ của 
      kinh luận, và giải thích ý nghĩa của nó. Phê phán phân tích giáo lý mà Đức 
      Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng—To divide and explain sutras; to arrange in 
      order, analyse the Buddha’s teaching.
      
      Phàn Nàn: To blame—To complain.
      
      Phản: 
      
      1)      Chiếc 
      phản: Camp-bed—Plank bed.
      
      2)      Chống 
      lại: Anti—Counter.
      
      3)      Làm 
      phản: To rebel. 
      
      4)      Ngược 
      lại: Contrary. 
      
      5)      Phản 
      bội: To betray.
      
      6)      Trở 
      về: Turn over—Trun or send back.
      
      Phản Ảnh: To reflect 
      
      Phản Chiếu: Paribimbaya 
      (skt)—Phản ánh—To reflect. 
      
      Phản Đạo Đức: Immoral. 
      
      Phản Đối: To oppose—To object.
      
      
      Phản Quang: Reflected light.
      
      
      Phản Quang Tự Kỷ: Hồi quang tự 
      kỷ—Hồi quang biến chiếu—To turn the spotlight to ourselves—To turn back 
      and reflect ourselves.
      
      Phản Xoa Hợp Chưởng: Một trong 
      mười hai cách chấp tay, đan bện những ngón tay vào nhau—One of the twelve 
      forms of folded hands, with interlocking fingers. 
      
      Phản Suất Sanh Tử: 
      
      1)      Một 
      trong bảy loại sanh tử—One of the seven kinds of mortality.
      
      2)      Thoát 
      vòng sanh tử để đi vào Niết Bàn—Escape from mortality into nirvana.
      
      Phản Tỉnh: A turning about. 
      
      Phản Tỉnh Khẩu Nghiệp: Trong 
      Kinh Giáo Giới La Hầu La ở Rừng Am Bà La trong Trung Bộ Kinh, Đức Phật đã 
      dạy La Hầu La về ‘Phản Tỉnh Khẩu Nghiệp’—The Buddha taught Venerable 
      Rahula about ‘Action With the Speech’ in the Ambalatthikarahulovada Sutta 
      in the Middle Length Discourses of the Buddha:
      
      1)      Này La 
      Hầu La, khi ông muốn làm  một khẩu nghiệp gì, hãy phản tỉnh khẩu nghiệp ấy 
      như sau: “Khẩu nghiệp nầy của ta có thể đưa đến tự hại, có thể đưa đến hại 
      người, có thể đưa đến hại cả hai; thời khẩu nghiệp nầy là bất thiện, đưa 
      đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ.” Rahula, when you wish to do an 
      ction by speech (please see Phản Tỉnh Thân Nghiệp 1, just substituting 
      “speech” for “body”).
      
      a)      Này La 
      Hầu La, nếu trong khi phản tỉnh, ông biết:”Khẩu nghiệp nầy ta muốn làm. 
      Khẩu nghiệp nầy của ta có thể đưa đến tự hại, có thể đưa đến hại nguời, có 
      thể đưa đến hại cả hai; thời khẩu nghiệp nầy là bất thiện, đưa đến đau 
      khổ, đem đến quả báo đau khổ.” Một khẩu nghiệp như vậy, này La Hầu La, 
      nhất định chớ có làm (please see Phản Tỉnh Thân Nghiệp 1a, just 
      substituting “speech” for “body”).
      
      b)      Này La 
      Hầu La, nếu trong khi phản tỉnh, ông biết: “Khẩu nghiệp nầy ta muốn làm. 
      Khẩu nghiệp nầy của ta không có thể đưa đến tự hại, không có thể đưa đến 
      hại người; không có thể đưa đến hại cả hai; thời khẩu nghiệp nầy là thiện, 
      đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc.” Một khẩu nghiệp như vậy, này La 
      Hầu La, ông nên làm (please see Phản Tỉnh Thân Nghiệp 1b, just 
      substituting “speech” for “body”).
      
      2)      Này La 
      Hầu La, khi ông đang làm một khẩu nghiệp, ông cần phải phản tỉnh khẩu 
      nghiệp ấy như sau: “Khẩu nghiệp nầy ta đang làm. Khẩu nghiệp nầy của ta 
      đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời khẩu nghiệp 
      nầy là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ.”  Rahula, when 
      you are doing an action by speech (please see Phản Tỉnh Thân Nghiệp 2, 
      just substituting “speech” for “body”).
      
      a)      Này La 
      Hầu La, nếu trong khi phản tỉnh, ông biết: “Khẩu nghiệp nầy ta đang làm. 
      Khẩu nghiệp nầy của ta đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả 
      hai; thời khẩu nghiệp nầy là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo 
      đau khổ.” Này La Hầu La, ông hãy từ bỏ một khẩu nghiệp như vậy (Please see 
      Phản Tỉnh Thân Nghiệp 2a, just substituting “speech” for “body”).
      
      b)      Nhưng 
      nếu này La Hầu La, khi phản tỉnh, ông biết như sau: “Khẩu nghiệp nầy ta 
      đang làm. Khẩu nghiệp nầy của ta không đưa đến tự hại, không đưa đến hại 
      người, không đưa đến hại cả hai; thời khẩu nghiệp nầy là thiện, đưa đến an 
      lạc, đem đến quả báo an lạc.” Khẩu nghiệp như vậy, nầy La Hầu La, ông cần 
      phải tiếp tục làm (please see Phản Tỉnh Thân Nghiệp 2b, just substituting 
      “speech” for “body”).
      
      3)      Sau 
      khi ông làm xong một khẩu nghiệp, này La Hầu La, ông cần phải phản tỉnh 
      khẩu nghiệp ấy như sau: “Khẩu nghiệp nầy ta đã làm. Khẩu nghiệp nầy của ta 
      đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời khẩu nghiệp 
      nầy là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo khổ.”—Rahula, after you 
      have done an action by speech (please see Phản Tỉnh Thân Nghiệp 3, just 
      substituting “speech” for “body”). 
      
      a)      Nếu 
      trong khi phản tỉnh, này La Hầu La, ông biết như sau: “Khẩu nghiệp nầy ta 
      đã làm. Khẩu nghiệp nầy đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả 
      hai; thời khẩu nghiệp nầy là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo 
      đau khổ.” Một khẩu nghiệp như vậy, này La Hầu La, ông cần phải thưa lên, 
      cần phải tỏ lộ, cần phải trình bày trước vị Đạo Sư, hay trước các vị đồng 
      phạm hạnh có trí. Sau khi đã thưa lên, tỏ lộ, trình bày, cần phải phòng hộ 
      trong tương lai (please see Phản Tỉnh Thân Nghiệp 3a, just substituting 
      “speech” for “body”).
      
      b)      Nếu 
      trong khi phản tỉnh, này La Hầu La, ông biết như sau: “Khẩu nghiệp nầy ta 
      đã làm. Khẩu nghiệp nầy không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, 
      không đưa đến hại cả hai; thời khẩu nghiệp nầy là thiện, đưa đến an lạc, 
      đem đến quả báo an lạc.” Do vậy, này La Hầu La, ông phải an trú trong niềm 
      hoan hỷ, tự mình tiếp tục tu học ngày đêm trong các thiện pháp (please see 
      Phản Tỉnh Thân Nghiệp 3b, just substituting “speech” for “body”).    
      
      Phản Tỉnh Thân Nghiệp: Trong 
      Kinh Giáo Giới La Hầu La Ở Rừng Am Bà La trong Trung Bộ Kinh, Đức Phật đã 
      dạy La Hầu La về ‘Phản Tỉnh Thân Nghiệp’—The Buddha taught Venerable 
      Rahula about ‘Action With the Body’ in the Ambalatthikarahulovada Sutta in 
      the Middle Length Dicourses of the Buddha:
      
      1)      “Này 
      La Hầu La, khi ông muốn làm một thân nghiệp gì, hãy phản tỉnh thân nghiệp 
      ấy như sau: “Thân nghiệp nầy của ta có thể đưa đến tự hại, có thể đưa đến 
      hại người, có thể đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp nầy là bất thiện, 
      đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ.”—Rahula, when you wish to do an 
      action with the body, you should reflect upon that same bodily action 
      thus: “Would this action that I wish to do with the body lead to my own 
      affliction, or to the affliction of others, or to the affliction of both? 
      Is it an unwholesome bodily action with painful consequences, with painful 
      results?”   
      
      a)      Này La 
      Hầu La, nếu trong khi phản tỉnh ông biết: “Thân nghiệp nầy ta muốn làm. 
      Thân nghiệp nầy của ta có thể đưa tự hại, có thể đưa đến hại người, có thể 
      đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp nầy là bất thiện, đưa đến đau khổ, 
      đem đến quả báo đau khổ.” Một thân nghiệp như vậy, này La Hầu La, ông nhất 
      định chớ có làm—When you reflect, if you know: “This action that I wish to 
      do with the body would lead to my own affliction, or to the affliction of 
      others, or to the affliction of both; it is an unwholesome bodily action 
      with painful consequences, with painful results,” then you definitely 
      should not do such an action with the body.  
      
      b)      Này La 
      Hầu La, khi ông muốn làm một thân nghiệp, nếu sau khi phản tỉnh ông biết: 
      “Thân nghiệp nầy ta muốn làm. Thân nghiệp nầy của ta không có thể đưa đến 
      tự hại, không có thể đưa đến hại người, , không thể đưa đến hại cả hai; 
      thời thân nghiệp nầy là thiện, đưa đến an lạc, đưa đến quả báo an lạc.” 
      Một thân nghiệp như vậy, này La Hầu La, ông nên làm—When you reflect, if 
      you know: “This action that I wish to do with the body would not lead to 
      my own affliction, or to the affliction of others, or to the affliction of 
      both; it is a wholesome bodily action with pleasant consequences, with 
      pleasant results,” then you may do such an action with the body.  
      
      2)      Này La 
      Hầu La, khi ông đang làm một thân nghiệp, ông cần phải phản tỉnh thân 
      nghiệp ấy như sau: “Thân nghiệp nầy ta đang làm. Thân nghiệp nầy của ta 
      đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp 
      nầy là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ.”—Rahula, while 
      you are doing an action with the body, you should reflect upon that same 
      bodily action thus: “Does this action that I am doing with the body lead 
      to my own affliction, or to the affliction of others, or to the affliction 
      of both? Is it an unwholesome bodily action with painful consequences, 
      with painful results?” 
      
      a)      Này La 
      Hầu La, nếu trong khi phản tỉnh, ông biết: “Thân nghiệp nầy ta đang làm. 
      Thân nghiệp nầy của ta đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả 
      hai; thời thân nghiệp nầy là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo 
      đau khổ.” Này La Hầu La, ông hãy từ bỏ một thân nghiệp như vậy.—Rahula, 
      when you reflect, if you know: “This action that I am doing with the body 
      leads to my own affliction, or to the affliction of others, or to the 
      affliction of both; it is an unwholesome bodily action with painful 
      consequences, with painful results,” then you should suspend such a bodily 
      action. 
      
      b)      Nhưng 
      nếu, này La Hầu La, trong khi phản tỉnh, ông biết như sau: “Thân nghiệp 
      nầy ta đang làm. Thân nghiệp nầy của ta không đưa đến tự hại, không đưa 
      đến hại người, không đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp nầy là thiện, 
      đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc.” Thân nghiệp như vậy, này La Hầu 
      La, ông cần phải tiếp tục làm.—But when you reflect, if you know: “This 
      action that I am doing with the body does not lead to my own affliction, 
      or to the affliction of others, or to the affliction of both; it is a 
      wholesome bodily action with pleasant consequences, with pleasant 
      results,” then you may continue in such a bodily action.
      
      3)      Này La 
      Hầu La, sau khi làm xong một thân nghiệp, ông cần phải phản tỉnh thân 
      nghiệp ấy như sau: “Thân nghiệp nầy ta đã làm, thân nghiệp nầy của ta đưa 
      đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp nầy là 
      bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ.”—Rahula, after you 
      have done an action with the body, you should reflect upon that same 
      bodily action thus: “Does this action that I have done with the body lead 
      to my own affliction, or to the affliction of others, or to the affliction 
      of both? Was it an unwholesome bodily action with painful consequences, 
      with painful results?”
      
      a)      Nếu 
      trong khi phản tỉnh, này La Hầu La, ông biết như sau: “Thân nghiệp nầy ta 
      đã làm. Thân nghiệp nầy đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả 
      hai; thời thân nghiệp nầy là bất thiện đưa đến đau khổ, đem đến quả báo 
      đau khổ.” Một thân nghiệp như vậy, này La Hầu La, ông cần phải thưa lên, 
      cần phải tỏ lộ, cần phải trình bày trước các vị Đạo Sư, hay trước các vị 
      đồng phạm hạnh có trí. Sau khi đã thưa lên, tỏ lộ, trình bày, cần phải 
      phòng hộ trong tương lai.—When you reflect, if you know: “This action that 
      I have done with the body leads to my own affliction, or to the affliction 
      of others, or to the affliction of both; it was an unwholesome bodily 
      action with painful consequences, with painful results,” then you should 
      confess such a bodily action, reveal it, and lay it open to the Teacher or 
      to your wise companions in the holy life. Having confessed it, revealed 
      it, and laid it open, you should undertake restraint for the future. 
      
      b)      Này La 
      Hầu La, nếu trong khi phản tỉnh, ông biết như sau: “Thân nghiệp nầy ta đã 
      làm. Thân nghiệp nầy không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không 
      đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp nầy thiện, đưa đến an lạc, đem đến 
      quả báo an lạc.” Do vậy, này La Hầu La, ông phải an trú trong niềm hoan hỷ 
      tự mình tiếp tục tu học ngày đêm trong các thiện pháp.—Rahula, but when 
      you reflect, if you know: “This action that I have done with the body does 
      not lead to my own affliction, or to the affliction of others, or to the 
      affliction of both; it was a wholesome bodily action with pleasant 
      consequences, with pleasant results," you”can abide happy and glad, 
      training day and night in wholesome states.    
      
      Phản Tỉnh Ý Nghiệp: Đức Phật đã 
      dạy Đại Đức La Hầu La về ‘Phản Tỉnh Ý Nghiệp’ trong Kinh Giáo Giới La Hầu 
      La Ở Rừng Am Bà La—The Buddha taught Venerable about ‘Action With the 
      Mind’ in the Ambalatthikarahulovada Sutta in the Middle Length Discourses 
      of the Buddha:
      
      1)      Này La 
      Hầu La, như ông muốn làm một ý nghiệp gì, hãy phản tỉnh ý nghiệp ấy như 
      sau: “Ý nghiệp nầy của ta có thể đưa đến tự hại, có thể đưa đến hại người, 
      có thể đưa đến hại cả hai; thời ý nghiệp nầy là bất thiện, đưa đến đau 
      khổ, đem đến quả báo đau khổ.”—Rahula, when you wish to do an action by 
      mind (please see Phản Tỉnh Thân Nghiệp 1, just substituting “mind” for 
      “body’).
      
      a)      Này La 
      Hầu La, nếu trong khi phản tỉnh, ông biết: “Ý nghiệp nầy ta muốn làm. Ý 
      nghiệp nầy của ta có thể đưa đến tự hại, có thể đưa đến hại người, có thể 
      đưa đến hại cả hai; thời ý nghiệp nầy là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem 
      đến quả báo đau khổ.” Một ý nghiệp như vậy, này La Hầu La, ông nhất định 
      chớ có làm (please see Phản Tỉnh Thân Nghiệp 1a, just substituting “mind” 
      for “body”).
      
      b)      Này La 
      Hầu La, nếu trong khi phản tỉnh, ông biết: “Ý nghiệp nầy ta muốn làm. Ý 
      nghiệp nầy của ta không có thể đưa đến tự hại, không có thể đưa đến hại 
      người, không có thể đưa đến hại cả hai; thời ý nghiệp nầy là thiện, đưa 
      đến an lạc, đem đến quả báo an lạc.” Ý nghiệp như vậy, này La Hầu La, ông 
      nên làm (please see Phản Tỉnh Thân Nghiệp 1b, just substituting “mind” for 
      “body”).
      
      2)      Này La 
      Hầu La, khi ông đang làm một ý nghiệp, ông cần phải phản tỉnh ý nghiệp ấy 
      như sau: “Ý nghiệp nầy ta đang làm. Ý nghiệp nầy của ta đưa đến tự hại, 
      đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời ý nghiệp nầy là bất thiện, đưa 
      đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ.” Rahula, while you are doing an 
      action by mind (please see Phản Tỉnh Thân Nghiệp 2, just substituting 
      “mind” for “body”).
      
      a)      Này La 
      Hầu La, nếu trong khi phản tỉnh, ông biết: “Ý nghiệp nầy ta đang làm. Ý 
      nghiệp nầy của ta đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; 
      thời ý nghiệp nầy là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ.” 
      Này La Hầu La, ông hãy từ bỏ một ý nghiệp như vậy (please see Phản Tỉnh 
      Thân Nghiệp 2a, just substituting “mind” for “body”).
      
      b)      Nhưng 
      nếu, này La Hầu La, khi phản tỉnh ông biết như sau: “Ý nghiệp nầy ta đang 
      làm. Ý nghiệp nầy của ta không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, 
      không đưa đến hại cả hai; thời ý nghiệp nầy là thiện, đưa đến an lạc, đem 
      đến quả báo an lạc.” Ý nghiệp như vậy, này La Hầu La, ông phải tiếp tục 
      làm (please see Phản Tỉnh Thân Nghiệp 2b, just substituting “mind” for 
      “body”).
      
      3)      Sau 
      khi làm xong một ý nghiệp, này La Hầu La, ông cần phải phản tỉnh ý nghiệp 
      ấy như sau: “Ý nghiệp nầy ta đã làm. Ý nghiệp nầy của ta đưa đến tự hại, 
      đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời ý nghiệp nầy là bất thiện, đưa 
      đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ.”—Rahula, after you have done an 
      action by mind (please see Phản Tỉnh Thân Nghiệp 3, just substituting 
      “mind” for “body”).
      
      a)      Này La 
      Hầu La, nếu trong khi phản tỉnh, ông biết như sau: “Ý nghiệp nầy ta đã 
      làm. Ý nghiệp nầy đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; 
      thời ý nghiệp nầy là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ.” 
      Một ý nghiệp như vậy, này La Hầu La, ông cần phải lo âu, cần phải tàm quý, 
      cần phải nhàm chán. Sau khi lo âu, tàm quý, nhàm chán, cần phải phòng hộ 
      trong tương lai (please see Phản Tỉnh Thân Nghiệp 2a, just substituting 
      “mind” for “body”). 
      
      b)      Còn 
      nếu trong khi phản tỉnh, này La Hầu La, ông biết: “Ý nghiệp này ta đã làm. 
      Ý nghiệp nầy không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến 
      hại cả hai; thời ý nghiệp nầy là thiện, đưa đến an lạc, đem đến quả báo an 
      lạc.” Do vậy, này La Hầu La, ông phải an trú trong niềm hoan hỷ, tự mình 
      tiếp tục tu học ngày đêm trong các thiện pháp (please see Phản Tỉnh Thân 
      Nghiệp 3b, just substituting “mind” for “body”). 
      
      Phản Trắc: 
      Unreliable—Dishonest. 
      
      Phản Ứng: Reaction. 
      
      Phản Xuất Sanh Tử: See Phản 
      Suất Sanh Tử. 
      
      Phạn: 
      
      1)      Ăn 
      cơm: To eat a meal. 
      
      2)      Cơm: 
      Rice.
      
      3)      Thức 
      ăn: Food.
      
      Phạn Âm: Buddha’s voice—See 
      Phạm Âm and Âm Thanh của Đức Như Lai. 
      
      Phạn Đái Tử: Cái túi đựng gạo, 
      ví với Tỳ Kheo vô dụng, chỉ biết có ăn uống ngủ nghỉ—A rice-bag fellow, a 
      useless monk who only devoted to his food, drinking, sleeping, and 
      resting. 
      
      Phạn Đầu: Vị Tăng coi về việc 
      nấu nướng trong chùa—A monk who is responsible for the cooking (kitchen) 
      in a monastery.  
      
      Phạn Khánh: Chiếc khánh nhỏ 
      dùng để đánh báo giờ cơm—The dinner-gong.  
      
      Phạn Na: Vana (skt)—Một chòm 
      cây—A wood—A grove. 
      
      Phạn Ngữ: Sanskrit (skt)—See 
      Phạm Ngữ. 
      
      Phảng Phất: 
      Vaguely—Dimly—Faintly 
      
      Phanh Phui: To speak out the 
      truth. 
      
      Phao Ngôn: To spread a rumour.
      
      
      Phao Vu: To slander—To 
      calumniate. 
      
      Phân Biệt: Distinction.
      
      Phân Biệt Giai Cấp: Distinction 
      of class and caste. 
      
      Phân Chia: Division-Separation.
      
      Phân Tách: Analyst.
      
      Phẩn Nộ: Anger—Fierce;
      
      Phẩn Nộ Minh Vương: Maharajas 
      as opponents of evil and guardian of Buddhism. 
      
      Pháp: Dhamma (p)—Dharma 
      (skt)—Doctrine—Law—Method—Phenomena—Thing—Truth—Pháp là một danh từ rắc 
      rối, khó xử dụng cho đúng nghĩa; tuy vậy, pháp là một trong những thuật 
      ngữ quan trọng và thiết yếu nhất trong Phật Giáo. Pháp có nhiều 
      nghĩa—Dharma is a very troublesome word to handle properly and yet at the 
      same timeit is one of the most important and essential technical terms in 
      Buddhism.  Dharma has many meanings:
      
      1)      Luật 
      lệ: Rule—Law. 
      
      2)      Theo 
      Phạn ngữ, chữ “Pháp” phát xuất từ căn ngữ “Dhri” có nghĩa là cầm nắm, 
      mang, hiện hữu, hình như luôn luôn có một cái gì đó thuộc ý tưởng “tồn 
      tại” đi kèm với nó—Etymologically, it comes from the Sanskrit root “Dhri” 
      means to hold, to bear, or to exist; there seems always to be something of 
      the idea of enduring also going along with it.
      
      a)      Ý 
      nghĩa thông thường và quan trọng nhất của “Pháp” trong Phật giáo là chân 
      lý—The most common and most important meaning of “Dharma” in Buddhism is 
      “truth,” “law,” or “religion.” 
      
      b)      Thứ 
      hai, pháp được dùng với nghĩa “hiện hữu,” hay “hữu thể,” “đối tượng,” hay 
      “sự vật.”Secondly, it is used in the sense of “existence,” “being,” 
      “object,” or “thing.” 
      
      c)      Thứ 
      ba, pháp đồng nghĩa với “đức hạnh,” “công chánh,” “chuẩn tắc,” về cả đạo 
      đức và tri thức—Thirdly, it is synonymous with “virtue,” “righteousness,” 
      or “norm,” not only in the ethical sense, but in the intellectual one 
      also. 
      
      d)      Thứ 
      tư, có khi pháp được dùng theo cách bao hàm nhất, gồm tất cả những nghĩa 
      lý vừa kể, nên chúng ta không thể dịch ra được. Trong trường hợp nầy cách 
      tốt nhất là cứ để nguyên gốc chứ không dịch ra ngoại ngữ—Fourthly, it is 
      occasionally used in a most comprehaensive way, including all the senses 
      mentioned above. In this case, we’d better leave the original untranslated 
      rather than to seek for an equivalent in a foreign language.  
      
      3)      Luật 
      vũ trụ hay trật tự mà thế giới chúng ta phải phục tòng. Theo đạo Phật, đây 
      là luật “Luân Hồi Nhân Quả”—The cosmic law which is underlying our world. 
      According to Buddhism, this is the law of karmically determined rebirth.
      
      
      4)      Hiện 
      Tượng: Phenomenon—Mọi hiện tượng, sự vật và biểu hiện của hiện thực. Mọi 
      hiện tượng đều chịu chung luật nhân quả, bao gồm cả cốt tủy giáo pháp Phật 
      giáo—All phenomena, things and manifestation of reality. All phenomena are 
      subject to the law of causation, and this fundamental truth comprises the 
      core of the Buddha’s teaching. 
      
      5)      Chân 
      Lý: Ultimate truth. 
      
      6)      Dharma 
      (skt)—Đạt Ma—Đàm Ma—Đàm Vô—Giáo pháp của Phật hay những lời Phật dạy—Con 
      đường hiểu và thương mà Đức Phật đã dạy—Phật dạy: “Những ai thấy được pháp 
      là thấy được Phật.” Vạn vật được chia làm hai loại: vật chất và tinh thần; 
      chất liệu là vật chất, không phải vật chất là tinh thần, là tâm—The 
      teaching of the Buddha (Understanding and 
      Loving)—Law—Doctrine—Things—Events—Phenomena—The way of understanding and 
      love taught by the Buddha—The Buddha says: “He who sees the Dharma sees 
      me.”. All things are divided into two classes: physical and mental; that 
      which has substance and resistance is physical, that which is devoid of 
      these is mental (the root of all phenomena is mind). 
      
      7)      Toàn 
      bộ giáo thuyết Phật giáo, các quy tắc đạo đức bao gồm kinh, luật, giới: 
      The doctrines of Buddhism, norms of behavior and ethical rules including 
      pitaka, vinaya and sila. 
      
      8)      Theo 
      Giáo Sư Junjiro Takakusu trong Cương Yếu Triết Học Phật Giáo, chữ Dharma 
      có năm nghĩa như sau—According to Prof. Junjiro Takakusu in The Essentials 
      of Buddhist Philosophy, the word “Dharma” has five meanings: 
      
      a)      Dharma 
      là cái được nắm giữ hay lý tưởng nếu chúng ta giới hạn ý nghĩa của nó 
      trong những tác vụ tâm lý mà thôi. Trình độ của lý tưởng nầy sẽ sai biệt 
      tùy theo sự  tiếp nhận của mỗi cá thể khác nhau. Ở Đức Phật, nó là sự toàn 
      giác hay viên mãn trí (Bodhi): Dharma would mean ‘that which is held to,’ 
      or ‘the ideal’ if we limit its meaning to mental affairs only. This ideal 
      will be different in scope as conceived by  different individuals. In the 
      case of the Buddha it will be Perfect Enlightenment or Perfect Wisdom 
      (Bodhi). 
      
      b)      Thứ 
      đến, lý tưởng diễn tả trong ngôn từ sẽ là giáo thuyết, giáo lý, hay giáo 
      pháp của Ngài: Secondly, the ideal as expressed in words will be his 
      Sermon, Dialogue, Teaching, Doctrine. 
      
      c)      Thứ 
      ba, lý tưởng đề ra cho các đệ tử của Ngài là luật nghi, giới cấm, giới 
      điều, đức lý: Thirdly, the ideal as set forth for his pupils is the Rule, 
      Discipline, Precept, Morality. 
      
      d)      Thứ 
      tư, lý tưởng là để chứng ngộ sẽ là nguyên lý, thuyết lý, chân lý, lý tính, 
      bản tính, luật tắc, điều kiện: Fourthly, the ideal to be realized will be 
      the Principle, Theory, Truth, Reason, Nature, Law, Condition. 
      
      e)      Thứ 
      năm, lý tưởng thể hiện trong một ý nghĩa tổng quát sẽ là thực tại, sự 
      kiện, sự thể, yếu tố (bị tạo hay không bị tạo), tâm và vật, ý thể và hiện 
      tượng: Fifthly, the ideal as realized in a general sense will be Reality, 
      Fact, Thing, Element (created and not created), Mind-and-Matter, 
      Idea-and-Phenomenon.   
      
      9)      Những 
      phản ánh của các hiện tượng vào tâm con người, nội dung tâm thần, ý tưởng: 
      Reflection of a thing in the human mind, mental content, object of thought 
      or idea.
      
      10)  Những 
      nhân tố tồn tại mà trường phái Tiểu thừa cho đó là nền tảng của nhân cách 
      kinh nghiệm: Factors of existence  which the Hinayana considers as bases 
      of the empirical personality.  
      
      11)  Theo phái 
      Trung Quán, chữ Pháp trong Phật Giáo có nhiều ý nghĩa. Nghĩa rộng nhất thì 
      nó là năng lực tinh thần, phi nhân cách bên trong và đằng sau tất cả mọi 
      sự vật. Trong đạo Phật và triết học Phật giáo, chữ Pháp gồm có bốn 
      nghĩa—According to the Madhyamakas, Dharma is a protean word in Buddhism. 
      In the broadest sense it means an impersonal spiritual energy behind and 
      in everything. There are four important senses in which this word has been 
      used in Buddhist philosophy and religion:  
      
      a)      Pháp 
      có nghĩa là thực tại tối hậu. Nó vừa siêu việt vừa ở bên trong thế giới, 
      và cũng là luật chi phối thế giới: Dharma in the sense of one ultimate 
      Reality. It is both transcendent and immanent to the world, and also the 
      governing law within it. 
      
      b)      Pháp 
      theo ý nghĩa kinh điển, giáo nghĩa, tôn giáo pháp, như Phật Pháp: Dharma 
      in the sense of scripture, doctrine, religion, as the Buddhist Dharma. 
      
      c)      Pháp 
      có nghĩa là sự ngay thẳng, đức hạnh, lòng thành khẩn: Dharma in the sense 
      of righteousness, virtue, and piety. 
      
      d)      Pháp 
      có nghĩa là thành tố của sự sinh tồn. Khi dùng theo nghĩa nầy thì thường 
      được dùng cho số nhiều: Dharma in the sense of ‘elements of existence.’ In 
      this sense, it is generally used in plural.    
      
      Pháp A Dục: Dharmasoka 
      (skt)—Pháp danh vua A Dục trong ngày vị vua này qui-y Phật—Name given to 
      Asoka on his conversion.
      ** For more information, please see A Dục Vương in Vietnamese-English 
      Section and Asoka in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
      
      Pháp Ái: Tình yêu trong phạm 
      trù tôn giáo—Tình yêu của những vị Bồ tát muốn cứu độ chúng sanh, ngược 
      lại với Dục ái hay tình yêu phàm tục—Religious love—Bodhisattva love with 
      desire to save all creatures, in contrast with ordinary love (Dục ái). 
      
      1)      Pháp 
      Ái Tiểu và Đại Thừa—Hinayana and Mahayana Dharma-love:
      
      a)      Pháp 
      Ái Tiểu Thừa: Lòng yêu niết bàn của kẻ căn cơ thấp kém—Hinayana 
      Dharma-love as desire for nirvana.
      
      b)      Pháp 
      Ái Đại Thừa: Lòng ái thiện của bậc Bồ Tát Đại Thừa—Mahayana Dharma-love or 
      Bodhisattva attachment to illusory things
      **   Cả hai thứ pháp ái 
      nầy đều cần phải loại 
             bỏ—Both of which 
      are to be eradicated.
      
      2)      Pháp 
      Ái Như Lai: Tâm Đại Bi của Như Lai hay tình yêu cứu độ chúng sanh chân 
      chánh vô thượng—Tathagata-love, which goes out to all beings for 
      salvation. 
      
      Pháp Âm: Âm thanh thuyết pháp 
      hay của chân lý—The sound of the Truth, or of preaching.
      
      Pháp Ân: Ân Tam 
      Bảo—Dharma-grace, i.e. the grace of Triratna. 
      
      Pháp Ấn: 
      
      1)      Dấu ấn 
      của diệu pháp, diệu pháp chân thực, không chuyển động hay biến đổi nên gọi 
      là “Ấn.”—The seal of Buddha-truth, expressing its reality and 
      immutability.
      
      2)      Dấu 
      hiệu chứng ngộ mà chư Phật hay chư Tổ trao truyền tâm pháp cho nhau—Its  
      universality and its authentic transmission from one Buddha or patriarch 
      to another.
      
      Pháp Ba La Mật: Một trong bốn 
      vị Bồ Tát Ba La Mật trong Kim Cương Giới—One of the four Paramita 
      Bodhisattvas in the Diamond realm. 
      
      Pháp Báo Hóa Tam Thân: The 
      trikaya (skt)—See Tam Thân Phật.  
      
      Pháp Bảo: Dharmaratna (skt).
      
      1)      Kho 
      tàng Phật Pháp hay diệu pháp mà Đức Phật đã thuyết giáo, được trân quý như 
      của báu của người thế tục, ngôi hai trong Tam Bảo—Dharma-treasure—The Law 
      or Buddha-truth, the second personification in the Triratna.
      
      2)      Những 
      vật cá nhân của một vị Tăng hay Ni như  Y Bát, vân vân: The personal 
      articles of a monk or nun, i.e. robe, almsbowl, etc.  
      ** For more information, 
      please see Tam Bảo. 
      
      Pháp Bảo Đàn Kinh: The Platform 
      Sutra—See Kinh Pháp Bảo Đàn. 
      
      Pháp Bảo Tạng: Nơi tồn trữ kinh 
      điển Phật Pháp—The storehouse of all law and truth, i.e. the sutras.
      
      Pháp Bích: Similes or 
      illustrations of the dharma.  
      
      Pháp Bình Đẳng: Dharmasamata 
      (skt).
      
      1)      Sự  
      bình đẳng về chân lý đã được chư Phật dạy, một trong tứ bình đẳng—The 
      sameness of truth as taught by all the Buddhas, one of the fourfold 
      sameness—See Tứ Bình Đẳng (4). 
      
      2)      Theo 
      Kinh Duy Ma Cật, Phẩm Đệ Tử, khi Đức Phật bảo Tu Bồ Đề đi đến thăm bệnh 
      ông Duy Ma Cật dùm Ngài. Tu Bồ Đề bèn bạch Phật như sau—According to The 
      Vimalakirti Sutra, Chapter Three, the Disciples, when the Buddha asked 
      Subhuti to go to visit Vimalakirti on his behalf, Subhuti said to the 
      Buddha as follows:  
      
      ·        
      Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch Thế 
      Tôn! Con không kham lãnh đến thăm bệnh ông. Vì sao? Nhớ lại thuở trước, 
      con vào khất thực nơi nhà ông, lúc đó trưởng giả Duy Ma Cật lấy cái bát 
      của con đựng đầy cơm rồi nói với con rằng ‘Thưa ngài Tu Bồ Đề! Đối với cơm 
      bình đẳng, thì các Pháp cũng bình đẳng, các Pháp bình đẳng thì cơm cũng 
      bình đẳng, đi khất thực như thế mới nên lãnh món ăn. Như Tu Bồ Đề không 
      trừ dâm nộ si, cũng không chung cùng với nó, không hoại thân mà theo một 
      hình tướng, không dứt si ái sanh ra giải thoát, ở tướng ngũ nghịch mà đặng 
      giải thoát, không mở cũng không buộc, không thấy tứ đế cũng không phải 
      không đắc quả, không phải phàm phu cũng không phải rời phàm phu, không 
      phải Thánh nhơn, không phải không Thánh nhơn, tuy làm nên tất cả các Pháp 
      mà rời tướng các Pháp, thế mới nên lấy món ăn. Như Tu Bồ Đề không thấy 
      Phật, không nghe Pháp, bọn lục sư ngoại đạo kia như Phú Lan Na Ca Diếp, 
      Mạc Dà Lê Câu Xa Lê Tử, San Xà Dạ Tỳ La Chi Tử, A Kỳ Đa Xý Xá Khâm Ba La, 
      Ca La Cưu Đà Ca Chiên Diên, Ni Kiền Đà Nhã Đề Tử là thầy của ngài. Ngài 
      theo bọn kia xuất gia, bọn lục sư kia đọa, ngài cũng đọa theo, mới nên lấy 
      món ăn. Tu Bồ Đề! Nếu ngài vào nơi tà kiến, không đến bờ giác, ở nơi tám 
      nạn, đồng với phiền não, lìa Pháp thanh tịnh, ngài được vô tránh tam muội, 
      tất cả chúng sanh cũng được tam muội ấy, những người thí cho ngài chẳng 
      gọi phước điền, những kẻ cúng dường cho ngài đọa vào ba đường ác, ngài 
      cùng với ma nắm tay nhau làm bạn lữ, ngài cùng với các ma và các trần lao 
      như nhau không khác, đối với tất cả chúng sanh mà có lòng oán hận, khinh 
      báng Phật, chê bai Pháp, không vào số chúng Tăng, hoàn toàn không được 
      diệt độ, nếu ngài được như thế mới nên lấy món ăn—Subhuti said: “World 
      Honoured One, I am not qualified to call on him and enquire after his 
      health.  The reason is that once when I went to his house begging for 
      food, he took my bowl and filled it with rice, saying: ‘Subhuti, if your 
      mind set on eating is in the same state as when confronting all (other) 
      things, and if this uniformity as regards all things equally applies to 
      (the act of) eating, you can then beg for food and eat it.  Subhuti, if 
      without cutting off carnality, anger and stupidity you can keep from these 
      (three) evils: if you do not wait for the death of your body to achieve 
      the oneness of all things; if  you do not wipe out stupidity and love in 
      your quest of enlightenment and liberation; if you can look into (the 
      underlying nature of) the five deadly sins to win liberation, with at the 
      same time no idea of either bondage or freedom; if you give rise to 
      neither the four noble truths nor their opposites; if you do not hold both 
      the concept of winning and not winning the holy fruit; if you do not 
      regard yourself as a worldly or unworldly man, as a saint or not as a 
      saint; if you perfect all Dharmas while keeping away from the concept of 
      Dharmas, then can you receive and eat the food.  Subhuti, if you neither 
      see the Buddha nor hear the Dharma; if the six heterodox teachers, 
      Purana-kasyapa, Maskari-gosaliputra, Yanjaya-vairatiputra, 
      Ajita-kesakambala, Kakuda-katyayana and Nirgrantha-jnatiputra are regarded 
      impartially as your own teachers and if, when they induce leavers of home 
      into heterodoxy, you also fall with the latter; then you can take away the 
      food and eat it.  If you are (unprejudiced about) falling into heresy and 
      regard yourself as not reaching the other shore (of enlightenment); if you 
      (are unprejudiced about) the eight sad conditions and regard yourself as 
      not free from them; if you (are unprejudiced about) defilements and 
      relinquish the concept of pure living; if when you realize samadhi in 
      which there is absence of debate or disputation, all living beings also 
      achieve it; if your donors of food are not regarded (with partiality) as 
      (cultivating) the field of blessedness; if those making offerings to you 
      (are partially looked on as also) falling into the three evil realms of 
      existence; if you (impartially regard demons as your companions without 
      differentiating between them as well as between other forms of defilement; 
      if you are discontented with all living beings, defame the Buddha, break 
      the law (Dharma), do not attain the holy rank, and fail to win liberation; 
      then you can take away the food and eat it.
      
      ·        
      Bạch Thế Tôn! Lúc đó con nghe 
      những lời ấy rồi mờ mịt không biết là nói gì, cũng không biết lấy lời chi 
      đáp, con liền để bát lại muốn ra khỏi nhà ông. Ông Duy Ma Cật nói ‘Thưa 
      ngài Tu Bồ Đề! Ngài lấy bát chớ sợ! Ý ngài nghĩ sao? Như Phật biến ra một 
      ngàn người huyễn hóa và nếu người huyễn hóa đó đem việc nầy hỏi Ngài, 
      chừng ấy Ngài có sợ chăng?’ Con đáp: “Không sợ!” Trưởng giả Duy Ma Cật lại 
      nói: “Tất cả các Pháp như tướng huyễn hóa, ngài không nên có tâm sợ sệt. 
      Vì sao? Vì tất cả lời nói năng không lìa tướng huyễn hóa, chí như người 
      trí không chấp vào văn tự, nên không sợ. Vì sao thế? Tánh văn tự  vốn 
      ly, không có văn tự đó là giải thoát. Tướng giải thoát đó là các Pháp vậy—“World 
      Honoured One, I was dumbfounded when I heard his words which were beyond 
      my reach and to which I found no answer.  Then I left the bowl of rice and 
      intended to leave his house but Vimalakirti said: ‘Hey, Subhuti, take the 
      bowl of rice without fear.  Are you frightened when the Tathagata makes an 
      illusory man ask you questions?  I replied: ‘No.’ He then continued: ‘All 
      things are illusory and you should not fear anything.  Why?  Because words 
      and speech are illusory.  So all wise men do not cling to words and 
      speech, and this is why they fear nothing.  Why?  Because words and 
      speech have no independent nature of their own, and when they are no more, 
      you are liberated.  This liberation will free you from all bondage.’
      
      
      Pháp Bố Thí: The almsgiving of 
      the Buddha-truth—See Pháp Thí and Tam Bố Thí. 
      
      Pháp Bổn: Bhutatatthata 
      (skt)—Chân như hay tinh yếu của vạn pháp—The root or essence of  al 
      things.
      
      Pháp Chấp: Chấp vào ý niệm chư 
      pháp hay hiện tượng là có thật. Đây là một ảo tưởng—Holding (bonding) on 
      the concept that of the reality of dharma, things or phenomena (holding to 
      things as realities or false tenet that things are real).  This holding is 
      an illusion. 
      
      Pháp Châu: Thuyền Phật pháp có 
      thể chở người ta ra khỏi biển sanh tử luân hồi để đến cõi Niết Bàn—The 
      barque of the Buddha-truth which ferries men out from the sea of mortality 
      and reincarnation to nirvana.
      
      Pháp Chế: Law. 
      
      Pháp Chiếu: Sự chiếu sáng của 
      Phật pháp—Dharma-shinning.
      
      Pháp Chiếu Đại Sư: Tên của vị 
      Tổ thứ tư của Liên Tông, vào đời nhà Đường, khoảng năm 767 sau Tây Lịch. 
      Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong Liên Tông Thập Tam Tổ, Quê ngài ở Lô 
      Sơn, một hôm nhập định, thần thức dạo chơi nơi miền Cực Lạc, lễ cẩn Đức 
      Phật A Di Đà, thì thấy đứng kề bên Đức Phật có một vị Tăng mặc áo rách nát 
      đứng hầu. Đức Phật A Di Đà chỉ vị Tăng ấy mà bảo rằng: “Ngươi có biết 
      chăng, người nầy là Sa Môn Thừa Viễn ở Hoành Sơn đấy!” Sau khi xuất định 
      Pháp Chiếu liền đến Hoành Sơn để tìm, lúc gặp Thừa Viễn, nhìn kỹ thì quả 
      đúng là vị Tăng mà ngài đã thấy, liền cúi lạy xin theo làm đệ tử. Chưa ai 
      rõ ngài Pháp Chiếu là người bậc như thế nào. Trong năm Đại Lịch thứ hai 
      đời nhà Đường, hàng đạo tục mới được biết đến ngài khi ngài ở chùa Vân 
      Phong tại đất Hoành Châu, ngày đêm chuyên cần tu tập. Tương truyền vào một 
      buổi sáng, vào lúc thanh trai nơi Tăng đường, ngài thấy trong bát cháo 
      hiện ra bóng mây ngũ sắc, trong mây ấy hiện rõ một cảnh sơn tự, phía đông 
      bắc của sơn tự ấy có một dãy núi, dưới chân núi có khe suối, phía bắc khe 
      suối ấy có một cửa ngõ bằng đá, trong cửa ngõ ấy lại có một ngôi chùa to, 
      biển treo trước chùa đề tên “Đại Thánh Trúc Lâm Tự.” Mấy hôm sau, ngài lại 
      thấy nơi bát cháo hiện ra cảnh chùa lớn ấy. Trong chùa gồm có vườn cây, ao 
      nước, lâu đài tráng lệ nguy nga. Chùa lại có một vạn vị Bồ Tát đang ở 
      trong đó. Thấy thế, ngài bèn đem cảnh tượng ấy hỏi nơi các bậc tri thức. 
      Có một vị cao Tăng bảo rằng: “Sự biến hiện của chư Thánh khó có thể nghĩ 
      bàn, nhưng nếu luận riêng về địa thế, non sông, thì đây đích thực là cảnh 
      Ngũ Đài Sơn vậy.” Sau khi nghe lời ấy, ngài có ý muốn đến viếng cảnh Ngũ 
      Đài để thử xem sự thật như thế nào? Hai năm sau, đại sư mở “Đạo Tràng Niệm 
      Phật” tại chùa Hồ Đông. Ngày khai mở hội cảm được mây ngũ sắc giăng che 
      trên chốn đạo tràng, trong mây hiện ra cung điện, lầu các, Phật A Di Đà 
      cùng hai vị Quán Âm, Thế Chí hiện thân vàng sáng chói khắp cả hư không. 
      Tại thành Hoành Châu, bá tánh trông thấy, thảy đều đặt bàn hương án, đốt 
      nhang đảnh lễ. Do điềm lành nầy mà có vô số người phát tâm tinh tấn niệm 
      Phật. Đạo tràng khai mở liên tiếp được năm hội. Một hôm, đại sư gặp một cụ 
      già đến bảo rằng: “Ông đã từng có ý niệm muốn đến Kim Sắc Thế Giới tại Ngũ 
      Đài Sơn để đảnh lễ Đức Bồ Tát Văn Thù, vì sao đến nay mà vẫn chưa chịu 
      thực hành ý nguyện?” Nói xong liền biến mất. Biết là thần nhân nhắc nhở 
      nên ngài sửa soạn hành trang, cùng thêm với mấy pháp hữu nữa, đồng nhau 
      đến viếng cảnh núi Đài Sơn. Năm Đại Lịch thứ năm, vào ngày mồng 6 tháng 4, 
      đại sư cùng đồng bạn mới đến được chùa Phật Quang ở huyện Ngũ Đài. Đêm ấy 
      vào khoảng canh tư, ngài thấy có ánh sáng lạ từ xa chiếu đến thân mình, 
      ngài liền nhắm chừng theo tia sáng ấy mà theo dõi. Đi được 50 dặm thì đến 
      một dãy núi, dưới chân núi có khe suối, phía bắc khe suối có cửa bằng đá, 
      nơi cửa có hai vị đồng tử đứng đón chờ, một vị xưng là Nan Đà, một vị tự 
      xưng là Thiện Tài. Ngài theo chân hai vị đồng tử dẫn đường đến một ngôi 
      chùa cực kỳ nguy nga lộng lẫy, có biển đề “Đại Thánh Trúc Lâm Tự.” Nơi đây 
      đất vàng, cây báu, ao sen, lầu các thảy đều kỳ diễm, trang nghiêm. Cảnh 
      giới quả đúng như ảnh tượng mà ngài đã thấy trong bát cháo khi trước. Ngài 
      vào chùa, lên giảng đường, thấy Đức Văn Thù Bồ Tát ở phía bên Tây, Đức Phổ 
      Hiền Bồ Tát ở phía bên Đông. Hai vị đều ngồi trên tòa sư tử báu cao đẹp, 
      đang thuyết pháp cho một vạn vị Bồ Tát ngồi phía dưới lặng lẽ lắng nghe. 
      Đại sư Pháp Chiếu bước đến chí thành đảnh lễ, rồi quỳ xuống thưa rằng: 
      “Kính bạch Đại Thánh, hàng phàm phu đời mạt pháp, cách Phật đã xa, lại 
      thêm bị chướng nghiệp nặng sâu, trí thức kém cõi. Tuy là có Phật tánh mà 
      không biết làm sao hiển lộ, giáo pháp của Phật thì quá rộng rãi mênh mông. 
      Chưa rõ pháp môn nào thiết yếu để tu hành cho mau được giải thoát?” Đức 
      Văn Thù Bồ Tát bảo: “Thời kỳ nầy chính là đúng vào lúc các ngươi nên niệm 
      Phật. Trong tất cả các hành môn thì không chi hơn là niệm Phật và gồm tu 
      phước huệ. Thuở đời quá khứ, ta nhờ quán Phật, niệm Phật, cúng dường Tam 
      Bảo mà chứng được Nhất Thiết Chủng Trí. Tất cả các pháp như Bát Nhã Ba La 
      Mật, những môn Thiền Định rộng sâu, cho đến chư Phật cũng từ nơi niệm Phật 
      mà sanh. Vì thế nên biết Niệm Phật là Vua trong các Pháp Môn.” Ngài Pháp 
      Chiếu lại hỏi rằng: “Kính bạch Đại Thánh, nên niệm như thế nào?” Đức Văn 
      Thù Bồ Tát dạy: “Về phương Tây của thế giới nầy có Phật A Di Đà là giáo 
      chủ cõi nước Cực Lạc, Đức Thế Tôn ấy có nguyện lực lớn không thể nghĩ bàn. 
      Ngươi nên chuyên niệm danh hiệu của ngài nối tiếp nhau không gián đoạn, 
      khi mạng chung quyết định được vãng sanh, chẳng còn bị thối chuyển nữa.” 
      Nói xong hai vị Bồ Tát đồng đưa tay vàng xoa đầu ngài Pháp Chiếu và bảo 
      rằng: “Do nơi ngươi niệm Phật nên không bao lâu nữa sẽ chứng được quả Vô 
      Thượng Bồ Đề. Nếu có thiện nam tín nữ nào muốn được thành Phật, thì không 
      còn chi hơn là niệm Phật. Kẻ ấy nhứt định sẽ mau lên ngôi Chánh Đẳng Chánh 
      Giác.” Được hai vị Đại Thánh thọ ký xong, ngài Pháp Chiếu vui mừng đảnh lễ 
      rồi từ tạ lui ra. Hai đồng tử khi nãy theo sau đưa tiển. Vừa ra khỏi cổng 
      chùa, quay nhìn lại thì cả người và cảnh đều biến mất. Ngài liền dựng đá 
      đánh dấu chỗ ấy rồi trở về chùa Phật Quang. Đến ngày 13 tháng 4, Đại sư 
      Pháp Chiếu cùng hơn 50 vị Tăng nữa đồng đến hang Kim Cang, thành tâm đảnh 
      lễ hồng danh 35 Đức Phật. Vừa lạy được 10 lượt, ngài bỗng thấy hang Kim 
      Cang hiện ra, rộng lớn, thanh tịnh trang nghiêm, hai vị Bồ Tát Văn Thù, 
      Phổ Hiền đều đồng ngự ở trong đó. Hôm khác, ngài lại một mình đi riêng đến 
      hang Kim Cang, gieo mình đảnh lễ, nguyện thấy Đại Thánh. Đang khi cúi lạy 
      xuống và vừa ngước lên, đại sư bỗng thấy có một vị Phạm Tăng tự xưng tên 
      là Phật Đà Ba Lỵ. Vị nầy đưa ngài vào trong một đại điện trang nghiêm, 
      biển đề tên “Kim Cang Bát Nhã Tự.” Toàn diện do nhiều thứ báu lạ, đẹp, sắc 
      màu trang nghiêm, ánh sáng lấp lánh chiếu tỏa cùng khắp.  Dù đã nhiều lần 
      thấy được các sự linh dị như thế, nhưng đại sư vẫn chưa tường thuật lại 
      với một ai hết cả. Thánh chạp năm ấy, ngài nhập đạo tràng niệm Phật nơi 
      chùa Hoa Nghiêm, định kỳ tuyệt thực, tu hành nguyện được vãng sanh về Cực 
      Lạc Tịnh Độ. Đến đầu hôm của ngày thứ bảy, đang lúc niệm Phật, đại sư bỗng 
      thấy có một vị Phạm Tăng bước vào bảo: “Ông đã từng thấy cảnh giới Ngũ Đài 
      Sơn, sao không truyền thuật lại cho người đời cùng biết?” Nói xong vị ấy 
      liền ẩn mất. Hôm sau, trong lúc niệm Phật vị Tăng ấy lại hiện ra, bảo y 
      như  hôm trước. Ngài đáp rằng: “Không phải tôi dám dấu kín Thánh tích, 
      nhưng chỉ sợ nói ra người đời không tin rồi sanh ra sự chê bai mà thôi.” 
      Phạm Tăng bảo: “Chính Đức Đại Thánh Văn Thù hiện tại ở núi nầy mà còn bị 
      người đời hủy báng, thì ông còn lo ngại làm chi. Hãy đem những cảnh giới 
      mà ông đã được thấy truyền thuật lại cho chúng sanh, hầu làm duyên cho các 
      kẻ nghe biết để họ phát khởi tâm Vô Thượng Bồ Đề.” Ngài tuân lời, nhớ kỹ 
      lại những sự việc đã thấy rồi ghi chép ra truyền lại cho mọi người. Năm 
      sau có sư Huệ Tùy ở Giang Đông cùng với chư Tăng chùa Hoa Nghiêm theo đại 
      sư Pháp Chiếu đến hang Kim Cang lễ Phật. Kế đó lại đến chỗ dựng bia đá lúc 
      trước để chiêm ngưỡng Thánh tích. Trong lúc đại chúng còn đang ngậm ngùi 
      ngưỡng vọng, bỗng nghe tiếng hồng chung từ trong vách đá vang ra, giọng 
      chuông thanh thoát ngân nga, nhặt khoan rành rẽ. Ai nấy thảy đều kinh lạ, 
      đồng công nhận những lời của Pháp Chiếu đại sư tường thuật là đúng sự 
      thật. Vì muốn cho mọi người viếng cảnh đều được phát khởi đạo tâm, nên 
      Tăng chúng nhân cơ duyên ấy, cho khắc lại những sự việc của ngài nghe thấy 
      vào trong vách đá để lưu truyền cho các đời mai hậu. Về sau, ngay ở tại 
      nơi đó, một cảnh chùa trang nghiêm được xây dựng lên, cũng lấy hiệu là 
      “Trúc Lâm Tự” để lưu niệm. Triều vua Đường Đức Tông, đại sư Pháp Chiếu mở 
      đạo tràng niệm Phật tại miền Tinh Châu, cũng liên tiếp được năm hội. Mỗi 
      đêm vua và các người trong hoàng cung đều nghe có tiếng niệm Phật rất 
      thanh thoát từ xa đưa vẳng lại. Sau cho người dò tìm, được biết đó là 
      tiếng niệm Phật ở đạo tràng Tịnh Độ tại Tinh Châu. Vua liền phái sứ giả 
      mang lễ vật đến thỉnh ngài vào triều. Ngài mở đạo tràng niệm Phật tại 
      hoàng cung, cũng gồm đủ năm hội. Vì thế người đương thời gọi ngài là Ngũ 
      Hội Pháp Sư. Từ đó đại sư tinh tấn tu hành, ngày đêm không biếng trễ. Một 
      hôm, ngài thấy vị Phạm Tăng khi trước là Phật Đà Ba Lỵ hiện đến bảo rằng: 
      “Hoa sen công đức của ông nơi ao thất bảo ở cõi Cực Lạc đã được thành tựu. 
      Ba năm sau là đúng thời kỳ hoa nở. Ông nên chuẩn bị” Đến kỳ hạn, đại sư 
      cho gọi Tăng chúng đến căn dặn rằng: “Ta nay về Cực Lạc, mọi người ở lại 
      phải cố gắng tinh tu.” Nói xong, ngài ngồi ngay ngắn, chắp tay lặng yên mà 
      thoát hóa—Name of the fourth patriarch of the Chinese Lotus Sect or 
      Pureland Buddhism, during the T’ang dynasty, around 767 A.D.  According to 
      Most Venerable Thích Thiền Tâm in The Thirteen Patriarchs of Pureland 
      Buddhism, Great Master Fa-Chao, a native of Mount Lu region. One day while 
      entering samadhi, his spirit came to the Ultimate Bliss World. As he 
      prostrated to Amitabha Buddha, he saw a Bhikshu wearing a completely worn 
      out robe attending the Buddha. Amitabha Buddha pointed at that Bhikshu and 
      told Fa-Chao the following: “Do you know him? This good man is Sheng-Yien 
      Bhikshu living in the region of Hung-Shan.” After coming out of the 
      samadhi, Great Master Fa-Chao immediately went to Hung-Shan Mount to seek 
      out the Bhikshu he had seen in his spiritual vision. Upon meeting and 
      observing carefully the Great Venerable Sheng-Yien, he realized the Great 
      Master was the Bhikshu he had seen in the Ultimate World. He immediately 
      prostrated himself to the Great Master and asked to become a disciple. The 
      Great Venerable Master Fa-Chao’s true identity remains unclear.  In the 
      second year of the Đại Lịch reign period of the T’ang Dynasty, Buddhists 
      began hearing about him. He lived at Wind Cloud Temple at Hoành Châu 
      region, day and night always cultivating and practicing the Way. One 
      morning, during breakfast at the Bhiksu during area, he saw in his bowl of 
      rice soup a cloud of five colors. In this cloud clearly emerged a scene of 
      a mountainous temple; on the Northeast side of the temple was a mountain 
      range. Toward the bottom of the mountain lay a creek and in the North of 
      that creek was a stone door. Inside the small door was another large 
      temple. The sign in front of the temple read: “Great Saints Bamboo Grove 
      Temple.” Several days later, once again, he saw the great temple appearing 
      in his bowl of rice-soup. In this temple were a garden, a pond, large and 
      magnificent castles and palaces, which were occupied by ten thousand 
      Bodhisattvas at that time. After having these visions, the Great Master 
      inquired about them to some of the great knowledgeable advisors. A highly 
      virtuous master told him: “The appearance and transformation of the 
      Enlightened Saints are difficult to imagine, but if we are just referring 
      to the landscape and general region, then what you saw has to be the 
      Wu-Tai-Shan Mountains. Taking the advice he received, the Great Master 
      wanted to visit  Wu-Tai-Shan to seek the truth. Two years later, he opened 
      a “Buddha Recitation Congregation” at Hu-Tung Temple in Hung-Chou. His 
      opening of the congregation caused the cloud of five colors to appear and 
      cover the area. Within the cloud appeared many castles and palaces, the 
      Amitabha Buddha as well as Avalokitesvara and Mahasthamaprapta 
      Maha-Bodhisattvas’ golden bodies shone and illuminated the entire sky. In 
      the Hung-Chou City, witnessing this miracle, the people made shrines to 
      light incense and prostrated themselves to this sighting. This miraculous 
      appearance remained for several minutes before disappearing. Because of 
      this magnificently virtuous event, countless people developed faith to 
      practice Buddha Recitation diligently. In turn, the Great Master opened 
      five congregations to practice Pureland Recitation. One day, he 
      encountered an elderly woman who told him: “You have had the thought of 
      going to the Golden World at the Wu-Tai-Shan Mountains to pay homage to 
      the Manjusri Maha-Bodhisattva, but up to this time, why have you not 
      carried out your intentions?” After speaking, the elderly woman 
      immediately vanished. Knowing this was a reminder by a guardian angel, or 
      Dharma protector, the Great Master made preparations to travel with 
      several fellow Dharma friends to visit Wu-Tai-Shan Mountain. It was not 
      until June 4th of the fifth year of the Tai-Li reign period before the 
      Great Master and his fellow cultivators reached the Buddha’s Light Temple 
      of the Wu-Tai-Shan region. That night, approximately at four in the 
      morning, the Great Master saw a mysterious light from afar shining toward 
      him; he immediately followed the light to investigate. After traveling 
      about fifty miles, he came to a mountain range. At the bottom of the 
      mountain, there was a creek and in the North of the creek was a stone 
      gate, at the gate, there were two young children who awaited his arrival. 
      One of them introduced himself as Nanda and the other as Tien-Tsai. The 
      Grat Master followed the two children to a marvelously enchanting temple; 
      the sign read “Great Saints Bamboo Grove Temple.” In this land, the ground 
      was made of gold. The trees were made of jewels; the lotus pond, palaces, 
      and castles were all extremely beautiful and enchanting. This world was 
      the exact duplicate of the vision he had seen years ago in his rice-soup. 
      As the Great Master entered the temple and came to the large hall where 
      the Dharma was taught, he saw Manjusri Maha-Bodhisattva in the West 
      (represents Wisdom) and Samantabhadra Maha-Bodhisattva in the East 
      (represents wholesome conducts). Both Maha-Bodhisattvas were sitting on 
      beautiful precious thrones high above, preaching the Dharma to ten 
      thousand Bodhisattvas as they sat silently below to listen. Great Master 
      Fa-Chao stepped forward to prostrate himself sincerely to the 
      Maha-Bodhisattvas. He then knelt down and asked the following: “Dear the 
      Great Saints, all unenlightened beings and I of this Dharma Ending Age 
      have been separated from the Buddha for a long time now, we are  bound by 
      heavy and deep-rooted karma as well as  lacking wisdom; thus even though 
      having the Buddha Nature within us, we do not know how to reveal it. The 
      Buddha Dharma is too vast and great making it very difficult to be certain 
      which Dharma Door is essential to cultivate to gain enlightenment 
      quickly?” Manjusri Maha-Bodhisattva told him: “This period is truly the 
      proper time for you to practice Buddha Recitation . In all the Ways or 
      Dharma Doors of cultivation, nothing surpasses the practice of Buddha 
      Recitation to accumulate merits and wisdom. In the past, relying on the  
      practice of envisioning  Buddha, reciting Buddha, and making offerings to 
      the Triple Jewels, I was able to achieve the Great Perfect Wisdom or 
      Maha-Prajna Wisdom. All the other Dharmas such as Maha-Prajna Paramita, 
      the various deep and vast doors of Zen Meditation, including all the 
      Buddhas themselves originated and came about by reciting Buddha. 
      Therefore, you must know ‘Buddha Recitation is the King of all Dharma 
      Doors.’” Great Maste Fa-Chao continued to ask: “Dear the Great saint, how 
      should I recite?” Manjusri Maha-Bodhisattva taught: “To the West of this 
      world, there exists a Buddha named Amitabha who rules over the Ultimate 
      Bliss World. That Lokanatha has an unimaginably great vow power. You 
      should  often and diligently recite His Name continuously without 
      interruption; once death arrives, you are guaranteed to gain rebirth and 
      will no longer regress from attaining Buddhahood.” After speaking, the two 
      Maha-Bodhisattvas simultaneously used their golden hands to rub the Great 
      Master Fa-Chao’s head, saying: “Through your practice of Buddha 
      Recitation, it will not be much longer before you will attain the Ultimate 
      Enlightenment of Buddhahood. If any good man or faithful woman wishes to 
      become a Buddha, there is nothing that surpasses cultivating Buddha 
      Recitation. Such an individual is guaranteed to achieve the state of 
      ‘Ultimate and Perfect Enlightenment of Buddhahood.’” After receiving this 
      prophecy from the two Great Saints, Great Master Fa-Chao felt contented. 
      He then  prostrated himself to them and then withdrew slowly from the 
      assembly. The two young people from before followed behind to escort him 
      out.  As soon as he stepped outside the temple gate, when he turned 
      around, both people and the landscape had vanished completely. He quickly 
      assembled a rock to make a reference of the area and then returned to the 
      Buddha’s Light Temple. On April thirteenth, he and over fifty other 
      Bhiksus came to the “Diamond Cave” to”prostrate sincerely the virtuous 
      names of thirty-five past Buddhas. They had just completed ten 
      prostrations when suddenly they saw the Diamond Cave transformed into its 
      full appearance. The cave was large, tranquil, and enchantingl in it were 
      Manjusri and Samantabhadra Maha-Bodhisattvas. On another occasion, he came 
      to the Diamond Cave alone, prostrated himself to the ground as he prayed 
      to witness the Great Saints. As he lifted his head from the ground after a 
      prostration, he suddenly saw a Brahman Monk who introduced himself as 
      Buddhabhallika. This Buddhist Master escorted the Great Master into a 
      great and anchanting temple; the sign read: “Vajra Prajna Temple.” The 
      inside was formed entirely of various rare, precious gems and jewels. The 
      light reflecting from these priceless treasures reflected on one another 
      and brilliantly  radiated throughout. Despite many times witnessing these 
      miraculous and metaphysical worlds, he did not once mention it to anyone. 
      In December of that year, at the Avatamsaka Temple, he retreated and went 
      on a fast for a pre-determined period in order to practice Buddha 
      Recitation vowing to gain rebirth to the Ultimate Bliss Pureland. In the 
      morning of the seventh day, deeply engaged in Buddha Recitation, suddenly 
      he saw a Brahman Monk who said as he came in: “You have seen the greatly 
      enlightened world within Wu-Tai-Shan Mountain, why have you not recounted 
      what you saw so others will also know of it?” After speaking, the Brahman 
      Monk disappeared. The next day, while reciting Buddha’s name, the same 
      Saintly Master once again made his appearance saying exactly what he had 
      said previously. Great Master Fa-Chao replied: “It is not that I dare to 
      hide the living areas of the enlightened saints, but I am just afraid if I 
      tell of it, people will not believe but criticize and ridicule me.” The 
      Brahman Monk said: “Even the Great Saint Manjusri currently living in this 
      mountain is often degraded by people, what reason do you have to worry? 
      You should recount the worlds you have witnessed to sentient beings so 
      they will lay a foundation for those who hear and know of these worlds; 
      perhaps it will help them develop their minds to want to attain the 
      Ultimate Enlightenment of Buddhahood.” Great Master Fa-Chao followed these 
      instructions as he tried to remember carefully all the details of what he 
      had seen and then wrote them down to pass out to everyone to read. In the 
      next year, a Buddhist Master named Hui-Tsuy of Jiang-Tung region as well 
      as the Sangha of the Avatamsaka Temple followed Great Master Fa-Chao to 
      the Diamond Cave to prostrate to the Buddha. Thereafter, they came to the 
      rock formation the Great Master had built earlier to admire the sight. 
      They prayed for a miracle, but felt sad because nothing happened. But then 
      suddenly they heard sounds of bells resonating from the mountain walls. 
      The ringing sounds were peaceful, enchanting, and harmonious. Everyone was 
      overwhelmed with joy and all accepted what the Great Master Fa-Chao had 
      said before was true. Because they wanted for everyone who visited this 
      sight to develop a faithful mind, they used this opportunity to inscribe 
      on the mountain wall the events the Great Master had seen and heard to 
      pass down to future generations. Eventually, a beautiful temple was built 
      at this site as a memorial, also using the title “Bamboo Grove Temple.” 
      During the reign of Emperor T’ang-Te-Tsung, Great Master Fa-Chao opened 
      five consecutive Budha Recitation Congregations at the Tinh-Chou region. 
      For this reason, people of the day called him “Five Buddha Recitations 
      Dharma Master.” From then on, the Great Master cultivated with vigor, day 
      and night he was never lazy or late in getting to his practice. Then one 
      day, he once again saw the Brahman Monk, as Buddhabhallika Master appeared 
      to tell him: “Your lotus flower of virtues and merits in the lake of seven 
      jewels of the Ultimate Bliss World is now complete. Three years from now 
      your flower will blossom, prepare yourself." ”When that time arrived, 
      Great Master Fa-Chao gathered his disciples as he advised and instructed 
      them: “I will now go to the Ultimate Bliss World, those remaining behind 
      must be diligent in their cultivation.” After speaking, the great master 
      sat up perfectly, put his palms together, and peacefully entered 
      Nirvana.            
      
      Pháp Chủ: Buddha—Dharma-lord.
      
      
      Pháp Chúng: Tăng lữ Phật Giáo 
      hay một chúng hội Tăng hoặc Ni—The Buddhist monkhood; an assembly of monks 
      or nuns.
      
      Pháp Cổ: Tiếng trống thúc quân 
      được đem ví với tiếng Phật thuyết pháp khuyên răn đại chúng tiến lên làm 
      việc công đức—The drum of the law which stiring all to advance in virtue.
      
      Pháp Cú: Dharmapada (skt)—See 
      Kinh Pháp Cú.
      
      Pháp Cú Kinh: Dharmapada 
      (skt)—See Kinh Pháp Cú. 
      
      Pháp Cúng Dường: Dharmapuja 
      (skt). 
      
      1)      Pháp 
      cúng dường bằng cách tin pháp, giảng pháp, bảo vệ pháp, tu tập tinh thần 
      và hộ trì Phật giáo—Serving the dharma by believing it, explaining it, 
      obeying it, keeping it, protecting it, cultivating the spiritual nature 
      and assisting the Buddhism. 
      
      2)      Theo 
      kinh Duy Ma Cật, chương mười ba, phẩm Pháp Cúng Dường, do oai thần của 
      Phật, một vị trời từ trên hư không nói với chúng Bồ Tát: “Nầy thiện nam 
      tử! Pháp cúng dường là hơn hết trong các việc cúng dường.”—According to 
      the Vimalakirti Sutra, chapter thirteen, the Offering of Dharma, under the 
      influence of the Buddha’s transcendental power a deva in the sky said to 
      the Bodhisattvas: “Virtuous man, the offering of Dharma surpasses all 
      other forms of offering.”
      
      ·        
      Nguyệt Cái liền hỏi: “Sao gọi 
      là Pháp cúng dường?”—Lunar Canopy asked: ‘What is this offering of 
      Dharma?’
      
      ·        
      Vị trời đáp: “Ông đến hỏi Đức 
      Dược Vương Như Lai, Ngài sẽ nói rõ thế nào là Pháp cúng dường.”—The deva 
      replied: ‘Go to the Tathagata Bhaisajya who will explain it fully.’ 
      
      
      ·        
      Tức thì Nguyệt Cái vương tử 
      đến chỗ Dược Vương Như Lai cúi đầu lễ dưới chân Phật, rồi đứng qua một bên 
      bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Trong việc cúng dường, pháp cúng dường là hơn 
      hết. Thế nào gọi là Pháp cúng dường?”—Thereupon, Lunar Canopy came to the 
      Tathagata Bhaisajya, bowed his head at his feet and stood at his side, 
      asking: ‘World Honoured One, (I have heard that) the offering of Dharma 
      surpasses all other forms of offering; what is the offering of Dharma?’
      
      ·        
      Phật dạy rằng: “Thiện nam tử! 
      Pháp cúng dường là kinh thâm diệu của chư Phật nói ra, tất cả trong đời  
      khó tin khó nhận, nhiệm mầu khó thấy, thanh tịnh không nhiễm, không phải 
      lấy suy nghĩ phân biệt mà biết được. Kinh nầy nhiếp về pháp tạng của Bồ 
      Tát, ấn đà la ni, ấn đó cho đến bất thối chuyển, thành tựu lục độ, khéo 
      phân biệt các nghĩa, thuận pháp Bồ Đề, trên hết các kinh, vào các đại từ 
      bi, lìa các việc ma và các tà kiến, thuận pháp nhân duyên, không ngã, 
      không nhơn, không chúng sanh, không thọ mạng, không vô tướng, vô tác, vô 
      khởi, làm cho chúng sanh ngồi nơi đạo tràng mà chuyển pháp luân, chư 
      Thiên, Long thần, Càn thát bà thảy đều ngợi khen, đưa chúng sanh vào pháp 
      tạng của Phật, nhiếp tất cả trí tuệ của Hiền Thánh, diễn nói cách tu hành 
      của Bồ Tát, nương theo nghĩa thực tướng của các pháp, tuyên bày các pháp 
      vô thường, khổ, không, vô ngã, tịch diệt, cứu độ chúng sanh hủy phá giới 
      cấm, làm cho tà ma ngoại đạo và người tham lam chấp trước đều sợ sệt, chư 
      Phật, Hiền, Thánh đều ngợi khen, trái cái khổ sanh tử, chỉ cái vui Niết 
      Bàn, chư Phật ba đời ở trong mười phương đều nói ra, nếu người nghe những 
      kinh như thế mà tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, dùng sức phương tiện phân 
      biệt giải nói, chỉ bày rành rẽ cho chúng sanh, giữ gìn chánh pháp, đó gọi 
      là Pháp cúng dường.”—“The Tathagata replied: ‘Virtuous one, the offering 
      of Dharma is preached by all Buddhas in profound sutras but it is hard for 
      worldly men to believe and accept it as its meaning is subtle and not 
      easily detected, for it is spotless in its purity and cleanness.  It is 
      beyond the reach of thinking and discriminating; it contains the treasury 
      of the Bodhi-sattva’s Dharma store and is sealed by the Dharani-symbol; it 
      never backslides for it achieves the six perfections (paramitas), discerns 
      the difference between various meanings, is in line with the bodhi Dharma, 
      is at the top of all sutras, helps people to enter upon great kindness and 
      great compassion, to keep from demons and perverse views, and to conform 
      with the law of causality and the teaching on the unreality of an ego, a 
      man, a living being and life and on voidness, formlessness, non-creating 
      and non-uprising.  It enables living beings to sit in a bodhimandala to 
      turn the wheel of the law.  It is praised and honoured by heavenly 
      dragons, gandharvas, etc.  It can help living beings to reach the Buddha’s 
      Dharma store and gather all knowledge (sarvajna realized by) saints and 
      sages, preach the path followed by all Bodhisattvas, rely on the reality 
      underlying all things, proclaim the (doctrine of) impermanence, suffering, 
      voidness and absence of ego and nirvana.  It can save all living beings 
      who have broken the precepts and keep in awe all demons, heretics and 
      greedy people.  It is praised by the Buddhas, saints and sages for it 
      wipes out suffering from birth and death, proclaims the joy in nirvana as 
      preached by past, future and present Buddhas in the ten directions.
      
      “If a listener after hearing about this 
      sutra, believes, understands, receives, upholds, reads and recites it and 
      uses appropriate methods (upaya) to preach it clearly to others, this 
      upholding of the Dharma is called the offering of Dharma. 
      
      ·        
      Lại theo các pháp đúng như 
      lời nói tu hành, tùy thuận 12 nhơn duyên, lìa tà kiến, được vô sanh nhẫn, 
      quyết định không có ngã, không có chúng sanh, mà đối với quả báo nhơn 
      duyên không trái không cãi, lìa các ngã sở, y theo nghĩa không y theo lời, 
      y theo trí không y theo thức, y theo kinh liễu nghĩa không y theo kinh 
      không liễu nghĩa, y theo pháp không y theo người, thuận theo pháp tướng, 
      không chỗ vào, không chỗ về, vô minh diệt hết thời hành cũng diệt hết, cho 
      đến sanh diệt hết thời lão tử cũng diệt hết, quán như thế thì 12 nhơn 
      duyên không có tướng diệt, không có tướng khởi, đó gọi là Pháp cúng dường 
      hơn hết.”—“Further, the practice of all Dharmas as preached,  to keep in 
      line with the doctrine of the twelve links in the chain of existence, to 
      wipe out all heterodox  views, to achieve the patient endurance of the 
      uncreate (anutpatti-dharma-ksanti) (as beyond creation), to settle once 
      for all the unreality of the ego and the non-existence of living beings, 
      and to forsake all dualities of ego and its objects without deviation from 
      and contradiction to the law of causality and retribution for good and 
      evil; by trusting to the meaning rather than the letter, to wisdom rather 
      than consciousness, to sutras revealing the whole truth rather than those 
      of partial revelation; and to the Dharma instead of the man (i.e. the 
      preacher); to conform with the twelve links in the chain of existence 
      (nidanas) that have neither whence to come nor wither to go, beginning 
      from ignorance (avidya) which is fundamentally non-existent, and 
      conception (samskara) which is also basically unreal, down to birth (jati) 
      which is fundamentally non-existent and old age and death (jaramarana) 
      which are equally unreal.  Thus contemplated, the twelve links in the 
      chain of existence are inexhaustible, thereby putting an end to the 
      (wrong) view of annihilation.  This is the unsurpassed offering of 
      Dharma.” 
      
      Pháp Cự: Đuốc pháp—The torch of 
      Buddhism. 
      
      Pháp Danh: 
      
      1)      Pháp 
      Danh: Tên trong đạo hay tên mà vị thầy đặt cho—Religious name—Buddha name 
      which named by the master on the ordination.
      
      2)      Giới 
      Danh: Từ được dùng bởi  Chân Tông—The term chiefly used by the Shin 
      Sect.   
      
      Pháp Diễn Thiền Sư: Fa-Yan 
      (1024-1104)—Thiền Sư Pháp Diễn ở Ngũ Tổ sanh năm 1024, đệ tử của Thiền Sư 
      Bạch Vân Thủ Đoan. Khởi đầu sư học triết lý Bách Pháp Luận của phái Duy 
      Thức, ông đọc thấy câu nầy ‘Khi Bồ Tát vào chỗ thấy đạo thì trí hay ý thức 
      suy luận và lý hay tâm thể trực giác ngầm hợp nhau, cảnh hay ngoại giới và 
      thần hay nội tâm gặp nhau, không còn phân biệt có chủ thể hay năng chứng 
      và khách thể hay sở chứng nữa. Giới ngoại đạo Ấn Độ từng vấn nạn phái Duy 
      Thức rằng đã không phân biệt năng chứng sở chứng thì làm sao có chứng. Các 
      nhà Duy Thức không đáp được lời công kích ấy. Pháp sư Tam Tạng Huyền Trang 
      lúc ấy đang ở Ấn Độ, đến cứu nguy phái Duy Thức bằng câu nói ‘Như người 
      uống nước, nóng lạnh tự biết.’ Đọc câu ấy Pháp Diễn tự hỏi ‘Nóng lạnh có 
      thể biết được, vậy cái gì khiến ta tự biết.’ Sư mang nỗi thắc mắc ấy đến 
      hỏi các pháp sư thông thái của phái Duy Thức, nhưng không ai đáp được. Có 
      người đáp: “Ông muốn rõ ý ấy hãy sang phương nam gõ cửa phái Thiền truyền 
      Tâm ấn Phật.” Thế là rốt cùng Pháp Diễn đi đến với Thiền tông—Zen master 
      was born in 1024, was a disciple of Bai-Yun-Shou-T’uan. He first studied 
      the Yogacara school of Buddhist philosophy and came across the following 
      passage, ‘When the Bodhisattva enters on the path of knowledge, he finds 
      that the discriminating intellect is identified with Reason, and that the 
      objective world is fused with Intelligence, and there is no distinction to 
      be made between the knowing and the known.’ The anti-Yogacarians refuted 
      this statement, saying that if the knowing is not distinguishing from the 
      known, how is knowledge at all possible? The Yogacarians could not answer 
      this criticism, when Hsuan-chang, who was at the time in India, interposed 
      and saved his fellow-monks in the Yogacara. His answer was: “It is like 
      drinking water; one knows by oneself whether it is cold or not.” When 
      Fa-Yan read this answer, he questioned himself ‘What is this that makes 
      one know thus by oneself.’ This was the way he started on his Zen tour, 
      for his Yogacara friends, being philosophers, could not enlighten him, and 
      he finally came to a Zen master for instruction.    
      
      ·       
      Khi gặp Bạch Vân, Pháp Diễn hỏi Thủ Đoan về câu chuyện của 
      Thiền Sư Nam Tuyền và Châu Ma Ni. Khi vừa dứt câu hỏi thì sư Bạch Vân Thủ 
      Đoan liền nạt, ngang đây sư lãnh ngộ, bèn dâng bài kệ lên thầy
      “Sơn 
      tiền nhất phiến nhàn điền địa
      Xoa 
      thủ đinh ninh vân tổ tông
      Kỷ độ 
      mãi lai hoàn tự mại
      Vị lân 
      tùng trúc dẫn thanh phong.”
      (Trước 
      núi một mảnh đất thong dong
      Tay 
      chấp tận tình hỏi tổ tông
      Mấy 
      thuở bán ra rồi mua lại
      Vui 
      thay tùng trúc quyện thanh phong). 
      —Upon 
      meeting Bai-Yun, Fa-Yan inquired to him about a story concerning Nan-Xan 
      and the Mani Jewel. Just when he finished  asking this question, 
      Bai-Yun-Shou-T’uan shouted at Fa-Yan, causing him to instantly attain 
      enlightenment. Fa-Yan then thanked Bai-Yun-Shou-T'’an by offering the 
      following verse:
      
      “Before the mountain quietly lies a patch 
      of 
      farm.
      
      Repeatedly, with folded hands before my chest, I asked the elders.
      How 
      often have you sold it and bought it back by yourself? 
      I like 
      the pines and bamboos that bring forth the cloudless wind. 
      
      ·       
      Theo Pháp Diễn, Thiền là hành chứ không phải là lý luận hay 
      nói. Do đó, ngài ít khi nói về Thiền trong các bài giảng của ngài. Một hôm 
      sau khi nghe Viên Ngộ thuyết về Thiền, Pháp Diễn bèn quở nhẹ đệ tử là Phật 
      Quả Viên Ngộ. Pháp Diễn nói: “Được lắm, nhưng có chút chưa ổn.” Viên Ngộ 
      gạn hỏi hai ba lần về chút ấy là chút gì, rốt cùng Pháp Diễn mới nói: “Ông 
      nói đến Thiền nhiều quá.” Viên Ngộ phản ứng lại: “Sao vậy? Học Thiền thì 
      tự nhiên phải nói Thiền, sư phụ ghét là sao?” Ngũ Tổ Pháp Diễn nói: “Nếu 
      ông nói như một cuộc nói chuyện thường ngày vậy là tốt hơn.” Một vị Tăng 
      có mặt lúc ấy hỏi: “Tại sao Hòa Thượng lại ghét người ta nói đến Thiền 
      chứ?” Pháp Diễn trả lời: “Vì nó làm cho ta bợn dạ.”—According to Fa-Yan, 
      Zen is practical, not reasoning or talking. Thus, in all his preaching, he 
      seldom talked about Zen. One day, after hearing Yuan-Wu, one of his 
      disciples, taught about Zen, he told Yuan Wu: “You are all right, but you 
      have a little fault.” Yuan-Wu asked two or three times what that fault 
      was. The master said: “You have altogether too much of Zen.” Yuan-Wu 
      protested: “If one is studying Zen at all, don’t you think it the most 
      natural thing for one to be talking of it? Why do you dislike it?” Fa-Yan 
      replied: “When it is like an ordinary everyday conversation, it is 
      somewhat better.” A monk happened to be there with them, asked: “Why do 
      you specially hate talking about Zen?” Fa-Yan said: “Because it turns 
      one’s stomach.”    
      
      ·       
      Ngày 25 tháng 6 năm 1104, sư thượng đường nói lời từ biệt 
      với Tăng chúng: “Hòa Thượng Triệu Châu có lời cuối, các ông có nhớ không? 
      Nói thử xem!” Khi không có ai trả lời, sư bèn nói: 
      “Giàu hiềm ngàn miệng ít
            
      Nghèo hận một thân nhiều.”
      Nói xong 
      sư nhắn mọi người: “Trân trọng!” Tối đêm đó sư thị tịch
      ---On 
      the twenty-fifth day of the sixth month of 1104, Fa-Yan entered the hal 
      and  bade the monks farewell, saying: “Zhao-Chou had some final words. Do 
      you remember them? Let’s see if you can recite them!” When no one 
      responded, Fa-Yan then recited Zhao-Chou’s words:
      “Fortune 
      few among the thousand
      But one 
      has countless pains and sorrows.” 
      Fa-Yan then said: “Take care!” Later that night 
      Fa-Yan died. 
      
      Pháp Diệt: Sự tận diệt của Phật 
      pháp, sau thời kỳ thứ ba của ba thời kỳ Chánh Tượng Mạt—The extinction of 
      the Law, or Buddhism, after the third of the three stages.
      ** For more information, 
      please Chánh Pháp, 
           Tượng Pháp, and Mạt 
      Pháp.
      
      Pháp Dung Thiền Sư: Zen Master 
      Pháp Dung. 
      
      1)      Một 
      trong những thiền sư sớm nhất của Trung Quốc, còn được gọi là Ngưu Đầu, 
      lấy tên từ ngọn núi nơi ông sống. Pháp Dung là đệ tử của Tứ Tổ Đạo Tín; 
      tuy nhiên, ông không được kế thừa Pháp. Do đó phái của ông không được thừa 
      nhận—Fa-Yung (594-657), one of the earliest Chinese Zen masters. Fa-Yung 
      is also called Niu-T’ou, named after the mountain on which he lived, 
      founded the Niu-T’ou school. He was a student of T’ao-Hsin, the fourth 
      patriarch of Chinese Ch’an; however, he was not confirmed as a dharma 
      successor. Thus Niu-T’ou school was not among the acknowledged Ch’an 
      schools. 
      
      ·       
      Thời niên thiếu, Pháp Dung là một nhà Khổng học uyên bác, 
      nhưng ông bị Phật giáo lôi cuốn và tập luyện thiền định. Cuối cùng ông lui 
      về ngụ trong động trên núi Ngưu Đầu—In his younger years, he was a 
      Confucian scholar. Nevertheless, he was attracted to Buddhism, and 
      underwent Buddhist meditative training. Eventually he withdrew into a cave 
      on Mount Niu-T’ou.
      
      ·       
      Theo Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, Đạo Tín linh cảm thấy một vị 
      Thánh có sức mạnh tâm linh đang ngụ trên núi Ngưu Đầu, ngày ngày muôn chim 
      đều mang hoa đến cúng dường, bèn quyết định đến thăm. Sau mấy hôm tìm 
      kiếm, Đạo Tín tìm thấy Pháp Dung đang ngồi thiền định trên một tảng đá. 
      Sau khi tự giới thiệu, Đạo Tín bỗng giựt mình khi nghe tiếng hổ gầm ở sườn 
      núi. “Ta xem người vẫn chưa được giải thoát,” Pháp Dung nói, cố để cho Đạo 
      Tín biết rằng mình vẫn còn những dấu vết ràng buộc với cái tôi. Một lát 
      sau, khi Pháp Dung đứng lên từ chỗ tảng đá, Đạo Tín bèn viết chữ “Phật.” 
      Khi Pháp Dung trở lại chỗ ngồi ấy, ông lùi lại chớ không dám ngồi lên chữ 
      “Phật” nầy. Đạo Tín vừa nói vừa mỉm cười, “Ta xem người vẫn chưa được giải 
      thoát.” Pháp Dung phản ứng một cách bối rối vì vướng phải những quan niệm 
      Phật giáo chính thống. Ngài bèn yêu cầu Đạo Tín chỉ dạy cho mình, và Đạo 
      Tín đã làm điều đó—According to the Ching-Te-Ch’uan-Teng-Lu, T’ao-Hsin 
      sensed that there was a holy man of great power living on Mount Niu-T’ou, 
      and birds brought all kinds of flowers to offer to him, so Tao-Hsin 
      decided to go there to look for him. After searching for a few days, he 
      found Fa-Yung on a cliff absorbed in meditation. Then suddenly T’ao-Hsin 
      seemed to hear the roaring of a tiger reverberating from the cliff face, 
      which startled him. “I see you’re not rid of it yet.” Fa-Yung remarked, by 
      which he certainly meant that T’ao-Hsin still showed traces of ego. A 
      moment later, when Fa-Yung got up from his meditation, T’ao-Hsin inscribed 
      the Chinese character for “Buddha” on the spot where he had been sitting. 
      When Fa-Yung came back to take his place again, he in his turn was 
      startled and unwilling to sit down on the sacred name. “I see you’re not 
      rid of it yet,” said T’ao-Hsin, smiling. Fa-Yung, who as shown by his 
      reaction was still caught in orthodox Buddhist conceptions and did not 
      understand this comment on the part of the fourth patriarch, asked him to 
      instruct him in its deep meaning, which T’ao Hsin then did. 
      
      ·       
      Người ta nói khi Đạo Tín đi khỏi đó, thì chim không còn mang 
      hoa về cho Pháp Dung nữa, đó là dấu hiệu chứng tỏ ngài đã đạt tới đại giác 
      sâu đến mức không còn để lại một dấu vết nào nữa—It is said that after 
      T’ao-Hsin left Fa-Yung, no more birds brought (offered) flowers to 
      Fa-Yung, a sign that his enlightenment now left no “traces.” 
      
      ·       
      Về sau các môn đồ tụ tập lại quanh Pháp Dung, ông trình bày 
      cho họ nghe về Phật Pháp theo lối hiểu của mình, do đó tạo thành trường 
      phái Ngưu Đầu. Một nhà sư Nhật Bản tên Saichô đã đưa học thuyết nầy về 
      Nhật, nhưng phái Ngưu Đầu không phát triển cả tại Trung Quốc lẫn Nhật Bản. 
      Sau đó vài thế hệ thì tàn lụi—Later, disciples gathered around Fa-Yung and 
      he taught them the Buddha-dharma in his style, thus founded the Niu-T’ou 
      school of Ch’an. The teachings of this school were brought to Japan by the 
      Japanese monk named Saichô. However, these teachings never became of major 
      importance for the development of the Ch’an tradition either in China or 
      Japan and died out after a few generations.  
      
      2)      Zen 
      Master Pháp Dung (?-1174)—Thiền sư Việt Nam, quê ở Bối Lý, Bắc Việt. Ngài 
      xuất gia làm đệ tử của Thiền sư Khánh Hỷ. Sau khi trở thành pháp tử đời 
      thứ 15 của dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi, ngài làm du Tăng đi hoằng hóa. Sau 
      đó ngài trụ lại tại chùa Khai Giác trên núi Thứu Phong, rồi dời về núi Ma 
      Ni ở Thanh Hóa khai sơn chùa Hương Nghiêm và trụ tại đây để hoằng pháp cho 
      đến khi ngài thị tịch vào năm 1174—A Vietnamese Zen master from Bối Lý, 
      North Vietnam. He left home and became a disciple of Zen master Khánh Hỷ. 
      After becoming the dharma heir of the fifteenth generation of the 
      Vinitaruci Zen Sect, he became a wandering monk to travel along the 
      country to expand Buddhism. Later he stayed at Khai Giác Temple on Mount 
      Thứu Phong, then moved to Mount Ma Ni in Thanh Hóa to build Hương Nghiêm 
      temple and stayed there to revive and expand Buddhism until he passed away 
      in 1174. 
      
      Pháp Duyên: 
      
      1)      Nhân 
      duyên trở thành một Phật tử: To become a Buddhist.
      
      2)      Từ Bi 
      Pháp Duyên: Bi mẫn bố thí vì hiểu rõ pháp duyên (nhân tướng và ngã 
      tướng)—Dharma-caused, i.e. the sense of universal altruism giving to pity 
      and mercy.  
      
      Pháp Duyên Khởi: 
      Dharmadhatu—Duyên khởi của mọi hiện tượng—Mọi vật đều tùy thuộc vào vật 
      khác, do đó một trong tất cả và tất cả trong một—The environmental cause 
      of all phenomena—Everthing is being dependent on everything else; 
      therefore, one is in all and all is in one.
      
      Pháp Duyệt: Pháp hỷ hay sự vui 
      mừng khi nghe được pháp hay tự mình tư duy về pháp—Joy from hearing and 
      meditating on the Law.
      
      Pháp Dược: Diệu pháp có thể 
      chữa lành phiền não cho chúng sanh—The medicine of the law (capable of 
      healing all misery). 
      
      Pháp Đà La Ni: Dharma-dharani 
      (skt)—Nghe giáo pháp của Phật mà thụ trì không quên, đây là một trong ba 
      pháp Đà La Ni—Holding firmly to the truth one has heard, one of the three 
      kinds of dharani.
      ** For more information, 
      please see Tam Đà 
           La Ni. 
      
      Pháp Đạo: Buddhism. 
      
      Pháp Đăng: Ngọn đèn Phật Pháp 
      xua tan bóng tối vô minh—The lamp of Dharma which dispels the darkness of 
      ignorance. 
      
      Pháp Đăng Thiền Sư: Zen 
      master—Pháp Đăng Thiền sư là một trong những vị Tăng nổi tiếng đời nhà 
      Đường—Zen master Fa-T’eng was one of the noted monks during the T’ang 
      dynasty.
      
      ·       
      Một hôm Pháp Đăng hỏi một vị Thiền Sư: “Đầu sào trăm trượng 
      làm sao tiến được?” Vị Thiền sư trả lời: “Câm!” Ngài cứ khán câu đó hoài 
      trong ba năm. Một hôm ngài cưỡi ngựa đi qua cây cầu ván, ván mục, ngựa sụp 
      chân té nhào, quăng ngài rơi xuống cầu. Vừa rơi xuống ngài liền ngộ và làm 
      bài kệ:
      “Ngã hữu 
      minh châu nhất khỏa
      Cửu bị 
      trần lao quang tỏa
      Kim triêu 
      trần tận quang sanh
      Chiếu phá 
      sơn hà vạn đóa.”
      (Ta có 
      một viên minh châu
      Đã lâu bị 
      bụi vùi sâu
      Hôm nay 
      bụi sạch phát sáng
      Soi thấu 
      núi sông muôn vật)
             One day he asked a 
      famous Zen master:    
             “The top of the 
      pole is a hundred yards  
             tall; how can you 
      reach it?” The Zen 
             master replied: 
      “Just keep silent.” He then 
             meditated on that 
      statement for over three 
             years. One day, he 
      rode a hose across a 
             wooden bridge. The bridge was so old 
      that it collapsed right after the horse trod on. Both he and the horse 
      were thrown off the bridge. At that moment he was enlightened and composed 
      the following verse:  
                  “I’ve got a precious gem
                  It was buried deep for a long time
      
            Today, being completely clean, it regains its brightness,
                  Illuminates rivers, mountains all over 
      the world.”
      
      Pháp Đế: Phật được ví như một 
      vị Pháp Vương (Vua Pháp)—Dharma emperor, i.e. the Buddha.
      
      Pháp Đệ: Phật giáo đồ (tín đồ 
      Phật giáo)—A Buddhist disciple.
      
      Pháp Điển: 
      
      1)      Kinh 
      điển Phật giáo—The scriptures of Buddhism.
      
      2)      Tiếng 
      chớp của chân lý, chỉ Phật pháp—The lightning  of the truth, or 
      Buddha-teaching.   
      
      Pháp Điện: 
      
      1)      Chánh 
      điện trong tự viện—The temple or hall of law—The main hall of a 
      monastery—The lightening of the truth. 
      
      2)      Quan 
      Âm Điện: The Kuan-Yin Hall. 
      
      Pháp Định: 
      
      1)      Pháp 
      thiền định: Meditation dharma. 
      
      2)      Phật 
      Tánh: Inherent dharma—Buddha-nature.
      
      Pháp Độ: Luật lệ, hay giới luật 
      và phương cách tu hành—Rules, or disciplines and methods.
      
      Pháp Đường: Pháp đường hay 
      giảng đường—The chief hall—Dharma Hall—Lecture Hall. 
      
      Pháp Gia: Buddhism—See Pháp 
      Môn. 
      
      Pháp Giáo: Buddhism—See Phật 
      Giáo in Vietnamese-English Section and Buddhism in English-Vietnamese 
      Section.  
      
      Pháp Giới: Dharmadhatu or 
      Dharmaksetra (skt)—Đạt Ma Đà Đô—Pháp Tính—Thực Tướng—Dharma realm—Dharma 
      factor—Dharma element—Cosmos—Billion-world universe—Universe.
      
      1)      Tên 
      của sự vật khi nói chung cả lý lẫn sự: A name for “things” in general, 
      noumenal or phenomenal; for physical universe, or any portion or phase of 
      it. 
      
      2)      Chân 
      lý tuyệt đối hay chân như pháp tính là nhân, nương dựa vào đó mà vạn pháp 
      sanh ra. Đây là một trong 18 pháp giới—The unifying underlying spiritual 
      reality regarded as the ground or cause of all things, the absolute from 
      which all proceeds. It is one of the eighteen dhatus.
      
      3)      Pháp 
      Giới trong Mật giáo bao gồm Thai Tạng Giới (vật chất) và Kim Cang Giới 
      (bất hoại): In the Tantric school, Dharmadhatu includes Garbhadhatu 
      (material) and Vajradhatu (indestructible).
      
      4)      Pháp 
      giới còn có nghĩa là xá lợi Phật: A relic of the Buddha.   
      
      5)      Trong 
      pháp giới hay thế giới hiện tượng, có ba thế giới là dục, sắc và tâm. Hết 
      thảy các loài tạo vật, cả Thánh lẫn phàm, nhân và quả, đều ở trong pháp 
      giới đó. Chỉ có Phật là ở ngoài pháp giới: In the phenomenal world 
      (dharmadhatu), there are three worlds of desire, form and mind. All 
      created things or beings, both noble and ignoble, both cause and effect, 
      are within the dharmadhatu. The idea in this text is practically identical 
      with the diagram given above.   
      
      6)      Pháp 
      Giới có đến hai nghĩa—The Realm of Principle (Dharma-dhatu) has a double 
      meaning:
      
      a)      Vũ trụ 
      hiện thực: The actual universe.
      
      b)      Thế 
      giới không hạn định hay Niết Bàn. Nó chính là Chân Như của Phật. Niết Bàn 
      tịch diệt vừa có nghĩa là sự diệt vọng của thể xác con người (theo nghĩa 
      tiêu cực), và vừa là sự diệt tận của các điều kiện  sinh tử (theo nghĩa 
      tích cực): The indeterminate world or Nirvana. It is identical with the 
      Thusness of the Buddha. Nirvana or flamelessness means, on the one hand, 
      the death of a human body and, on the other hand, the total extinction of 
      life conditions (negatively) or the perfect freedom of will and action 
      (positively). 
      
      7)      Theo 
      Giáo Sư Junjiro Takakusu trong Cương Yếu Triết Học Phật Giáo, pháp giới 
      trong ý nghĩa là cảnh giới của lý tắc và vừa là sự tướng của tất cả sự 
      tướng, đồng nghĩa với Như Lai Tạng và cũng đồng nghĩa  với vũ trụ hay thế 
      giới hiện thực, nghĩa là cảnh giới của tất cả sự tướng—According to Prof. 
      Junjiro Takakusu in the Essentials of Buddhist Philosophy, Dharmadhatu, in 
      its double meaning as Realm of Principle and Element of all Elements, is a 
      synonym with Matrix of the Thus-come (Tathagata-garbha) and also with the 
      universe or the actual world, i.e., the realm of all elements—See Lý Tắc 
      Duyên Khởi. 
      
      8)      Theo 
      triết học Trung Quán, Pháp Giới cũng có nghĩa là Chân Như hoặc Thực Tại 
      hay Niết Bàn. Ở đây chữ ‘Giới’ có nghĩa là bản chất thâm sâu nhất, hay bản 
      chất tối hậu. Pháp Giới và Chân Như đều là siêu việt và nội tồn. Nó là 
      siêu việt như Thực Tại tối hậu, nhưng nó hiện hữu trong  mỗi người như là 
      cơ sở và bản chất thâm sâu nhất của họ—According to the Madhyamaka 
      philosophy, the word ‘Dharmadhatu’ is also called ‘Tathata’ or Reality, or 
      Nirvana. Here the word ‘Dhatu’ means the inmost nature, the ultimate 
      essence. Dharmadhatu or Tathata is both transcendent and immanent. It is 
      transcendent as ultimate Reality, but it is present in every one as his 
      inmost ground and essence. 
      **   For more information, 
      please see Ngũ 
             Pháp Giới, Thập 
      Pháp Giới, Thập Bát 
             Giới, and Bốn Cách 
      Nhìn Về Pháp Giới.   
      
      Pháp Giới Cung: Kim Cương Pháp 
      Giới Cung hay cung điện của Đức Đại Nhật Như Lai trong Thai tạng 
      Giới—Dharmadhatu palace, i.e. the shrine of Vairocana in the Garbhadhatu.
      
      
      Pháp Giới Duy Tâm: Theo Kinh 
      Lăng Già và Kinh Hoa Nghiêm thì vạn hữu trong vũ trụ chỉ do tâm 
      tạo—According to the Lankavatara Sutra and the Hua-Yen sutra, the universe 
      is mind only.
      
      Pháp Giới Duyên Khởi: The 
      Principle of Universal Causation. 
      
      1)      Từ ngữ 
      “Pháp giới” (Dharmadhatu) đôi khi được dùng đồng nghĩa với chân lý. Việt 
      ngữ dịch là “Pháp thể của Vạn Pháp.” Tuy nhiên, đôi lúc nó lại có nghĩa là 
      “Vũ trụ,” hay “cảnh giới của tất cả các pháp.” Cả hai nghĩa vũ trụ và 
      nguyên lý phổ biến, luôn luôn phải được in sâu trong tâm trí chúng ta mỗi 
      khi từ ngữ nầy được dùng đến. Nghĩa nào cũng dùng được cho danh hiệu của 
      thuyết “Duyên Khởi.”—The term “Dharmadhatu” is sometimes used as a synonym 
      of the ultimate truth. Therefore, the translation “the Element of the 
      Element” is quite fitting. But at other times it means the universe, “the 
      Realm of All Elements.” The double meaning, the universe and the universal 
      principle must always be borne in mind whenever we use the term. Either 
      meaning will serve as the name of the causation theory.   
      
      2)      Trong 
      pháp giới duyên khởi, mọi hiện tượng đều tùy thuộc lẫn nhau, cái nầy tùy 
      thuộc cái kia, do đó một trong tất cả và tất cả trong một—The Dharmadhatu 
      as the environmental cause of all phenomena (everything is being dependent 
      on everything else, therefore one is in all and all is in one). 
      
      3)      Theo 
      nguyên lý pháp giới duyên khởi nầy, không một sự hữu nào hiện hữu bởi 
      chính nó và hiện hữu cho cái khác, nhưng toàn thể thế giới sẽ vận động và 
      hành sự trong nhất trí, cơ hồ toàn thể được đặt dưới tổ chức tổng quát. 
      Một thế giới lý tưởng như thế được gọi là “Nhất chân pháp giới” hay “Liên 
      Hoa tạng.”—According to the principle of universal causation, no one being 
      will exist by itself and for itself, but the whole world will move and act 
      in unison as if the whole were under general organization. Such an idea 
      world is called ‘the World One-and-True’ or ‘the Lotus-store.’
      
      4)      Nguyên 
      lý nầy căn cứ trên pháp giới duyên khởi của cảnh vực lý tánh (Dharmadhatu) 
      mà chúng ta có thể coi như là sự tự tạo của chính vũ trụ. Đừng quên rằng 
      đó chỉ là duyên khởi do cộng nghiệp của tất cả mọi loài, và nguyên lý nầy 
      cũng dựa trên thuyết vô ngã. Trong thuật ngữ Phật giáo, nguyên lý viên 
      dung được gọi là “Hoa Nghiêm” (Avatamsaka): The principle of universal 
      causation is based upon the universal causation of the Realm of Principle 
      (Dharmadhatu) which we may regard as the self-creation of the universe 
      itself. One should not forget that it is nothing but a causation byt the 
      common action-influence of all brings, and that the principle is also 
      based on the theory of selflessness. In the Buddhist terminology, the 
      principle of totality is called ‘the Avatamsaka’ (Wreath).  
      **   For more information, 
      please see Duyên 
             Khởi (III) (4) and 
      Tứ Duyên Sanh, Tứ 
             Chủng Vũ Trụ, and 
      Tứ Pháp Giới. 
      
      Pháp Giới Đẳng Lưu: Phật 
      Pháp—The universe outflow of the spiritual body of the Buddha (Buddha’s 
      teaching). 
      
      Pháp Giới Định: Hai bộ Đại Nhật 
      đều lấy lục đại pháp giới (đất, nước, lửa, gió, hư không, thức) làm đề mục 
      quán chiếu Thiền định—Dharmadhatu meditation (earth, water, fire, air, 
      space, consciousness), a term for Vairocana in both mandalas. 
      
      Pháp Giới Gia Trì: Chúng sanh 
      gia trì lẫn nhau hay sự tùy thuộc và giúp đở lẫn nhau của vạn hữu trong vũ 
      trụ—Mutual dependence and aid of all beings in a universe.
      
      Pháp Giới Nhất Tướng: Nhất 
      tướng nhất vị hay sự vô ngại Pháp giới—The essential unit of the 
      phenomenal ealm. 
      
      Pháp Giới Phật: The Dharmadhatu 
      Buddha (skt)—Pháp Giới Phật hay Phổ Phật, chỉ những bậc đã thành Phật, đã 
      chứng được tuệ nhất chân pháp giới đại trí, có đại quang minh phổ chiếu 
      chúng sanh—The universal Buddha—The Buddha of a Buddha-realm, i.e. the 
      dharmakaya.
      
      Pháp Giới Tạng: Pháp giới tạng 
      là nơi trữ chứa mọi hiện tượng hay chân lý—The treasury or storehouse or 
      source of all phenomena or truth. 
      
      Pháp Giới Thân: Dahrmakaya 
      (skt)—Pháp giới là Pháp thân của Phật. Pháp thân của Phật là Phật thân cảm 
      ứng với hết thảy chúng sanh  ở khắp pháp giới—The Dharmakaya which 
      manifests itself in all beings—The Dharmadhatu as the Buddhakaya, all 
      things being Buddha.   
      
      Pháp Giới Thể Tánh Trí: Thánh 
      Trí siêu việt (vô cùng vô tận) của Đức Đại Nhật Như Lai (trí thông minh 
      như là tánh chất căn bản của vũ trụ), một trong năm trí của chư Phật được 
      dùng bởi Mật giáo—Vairocana’s immeasurable cosmic energy and wisdom 
      interpenetrating all elements of the universe—Intelligence as the 
      fundamental nature of the universe, one of the five kinds of wisdom of the 
      Buddha used by the esoteric sects. 
      ** For more information, 
      please see Ngũ Trí. 
      
      Pháp Giới Thực Tướng: Pháp giới 
      và thực tướng, cùng một thể mà khác tên. Thực tướng là lý của Biệt giáo, 
      pháp giới là lý của Viên giáo—Dharmadhatu reality, or Dharmadhatu is 
      reality, different names but one idea. The “Reality” is used for noumenon 
      by the Different Teaching, while “Dharmadhatu” is used for noumenon by the 
      Perfect Teaching.  
      
      Pháp Giới Tính: See Pháp Giới.
      
      
      Pháp Giới Viên Dung: Các pháp 
      thuộc pháp giới, mỗi sự việc đều đan bện và thâm nhập vào nhau (đây là 
      thuyết “vô ngại” của tông Hoa Nghiêm và là thuyết “tính cụ” của tông Thiên 
      Thai)—The perfect intercommunion or blending of all things in the 
      Dharmadhatu (this is the doctrine of without obstacles (apratihata) of the 
      Hua-Yen sect and T’ien-T’ai sect). 
      
      Pháp Giới Vô Biên Trí: Trí hiểu 
      biết vô biên về Phật pháp giới. Đây là trí vô biên và siêu việt của chư 
      Phật về pháp giới—Unlimited or infinite understanding of the whole Buddha 
      realm—Unimpeded or unlimited knowledge or omniscience of a Buddha in 
      regard to all beings and things in his realm.
      
      Pháp Giới Vô Ngại: Vạn hữu đan 
      bện thẩm thấu hay pha trộn vào nhau trong pháp giới—The perfect 
      intercommunion or blending of all things in the Dharmadhatu. 
      
      Pháp Giới Vô Ngại Trí: Trí tuệ 
      chứng ngộ được pháp giới vô ngại lý (thấu triệt toàn thể Phật 
      Giới)—Unimpeded understanding of the whole Buddha-realm. 
      ** For more information, 
      please see Pháp Giới 
           Vô Biên Trí.
      
      Pháp Hà: Chân lý Phật pháp như 
      sông sâu, có khả năng rữa sạch mọi uế nhiễm của phiền não—Buddha-truth 
      likened to a deep river able to wash away the stains of ilusion.
      
      Pháp Hạ: Số năm tuổi của Tỳ 
      Kheo hay Tỳ Kheo Ni tính từ sau khi thọ cụ túc giới—Dharma summer—The year 
      or age of a monk or a nun after ordination.   
      
      Pháp Hải: Chân lý Phật pháp như 
      biển cả sâu rộng, có khả năng rữa sạch mọi uế nhiễm của phiền 
      não—Buddha-truth likened to a vast deep ocean able to wash away the stains 
      of illusion.
      
      Pháp Hành: Hành động xãy ra do 
      sự hiểu biết và thực tập Phật pháp—Dharma action—Action resulting from 
      direct apprehension of the doctrine (for those of mentally acute 
      ability)—Practice based on the teaching of Dharma.
      
      Pháp Hiền: Fa-Hsien (?-626)—Sư 
      quê ở Chu Diên tỉnh Sơn Tây. Khi mới xuất gia, sư theo học thiền và thọ 
      giới với Đại Sư Quán Duyên ở chùa Pháp Vân. Đến lúc Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi 
      sang Việt Nam, sư theo Tổ học thiền và tôn Tổ làm Thầy. Khi Tổ thị tịch, 
      sư vào núi tiếp tục tu thiền định. Sau đó người đến tu học với sư ngày 
      càng đông. Sau đó ít lâu sư mới lập chùa và nhận đồ đệ. Sư thị tịch năm 
      626 sau Tây Lịch—He was a native of Sơn Tây Province. When he left home, 
      he studied meditation and received precepts with Great Master Quán Duyên 
      at Pháp Vân Temple. When Patriarch Vinituraci came to Vietname, he joined 
      Vinituraci Zen Sect and honored Vinitaruci as his master. When the 
      Patriarch passed away, he went to the montain to continue to practice 
      meditation. Later his reputation spread and more and more people came to 
      study meditation with him. Sometime later, he built temple and received 
      disciples. He passed away in 626 AD.   
      
      Pháp Hiển: Fa-Hsien 
      337-422—Pháp Hiển, một nhà sư và nhà hành hương nổi tiếng người Trung Hoa. 
      Năm 399 sau Tây Lịch, sư Pháp Hiển cùng một số bạn đồng tu rời Trường An, 
      đi đường bộ qua Ấn Độ bằng ngả Đôn Hoàng, Khotan, và Hy Mã Lạp Sơn. Ngài 
      lưu lại Ấn Độ sáu năm học giới luật. Sau đó năm 414, sư theo đường biển 
      trở về Trung Quốc. Ngài đã viết quyển Phật Quốc Ký và dịch bộ Tăng Chi 
      Luật. Pháp Hiển mở ra một phương thức mà sau đó nhiều người hành hương 
      Trung Quốc đã noi theo. Tầm quan trọng đặc biệt của ông đối với Phật giáo 
      là ở chỗ ông là người đầu tiên thật sự đến Ấn Độ, sưu tầm các văn bản, 
      nghiên cứu những thuyết giảng từ những vị thầy khác nhau, rồi mới trở về 
      Trung Quốc. Cùng với bốn nhà sư khác, ông đi từ Tràng An tới những trung 
      tâm lớn của Phật giáo Ấn Độ bao gồm Ba La Nại, Kiện Đà La, Bồ Đề Đạo 
      Tràng, Ma Kiệt Đà, và Patna, bằng con đường phía nam, rồi tới Tích Lan, 
      Sumatra và Java. Ông đã viếng thăm trên 30 nước khác nhau. Khi ở 
      Pataliputra, ông đã phát hiện và mang về Trung Quốc bộ Luật Tạng của phái 
      Đại Chúng Bộ, cũng như một bản in của Kinh Đại Bát Niết Bàn— Fa-Hsien, the 
      famous Chinese monk and pilgrim who with fellow-monks left Ch’ang-An 399 
      A.D., overland for India, via Tun-Huang, Khotan, and Himalayas, finally 
      reached it, remained alone for six years, and spent three years on the 
      return journey, arriving by sea in 414. In India he gathered Buddhist 
      scriptures, particularly various versions of the Vinaya-pitaka. His 
      records of the Buddhist Kingdoms were made, on his information, by 
      Buddhabhadra, an Indian monk in China. His own chief translation is the 
      work on monastic discipline. Fa-Hsien set a precedent that many other 
      Chinese pilgrims were to follow. His particular importance lies in the 
      facts that he was the first actually to reach India, to collect 
      scriptures, to study the teaching under various masters, and returned to 
      China. His journey, begun together with four other monks, led him from 
      Ch’ang-An by the southern route to the centers of India Buddhism, 
      including Benares, Gandhara, Bodhigaya, Magadha, and Patna, to Ceylon, 
      where he spent two years; and finally to Sumatra and Java. Altogether he 
      visited thirty different countries. In Pataliputra, he found and brought 
      back to China the Vinaya-pitaka of the mahasanghikas and the Sarvastivadas 
      as well as an edition of the Mahaparinirvana-sutra.
      
      ·       
      Theo Giáo sư P.V. Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm Phật 
      Giáo, Pháp Hiển là người đầu tiên trong ba vị khách Trung Hoa đến Ấn Độ. 
      Pháp Hiển đã ghi chép lại các chuyến đi của mình. Pháp Hiển đã cùng bốn vị 
      sư khác khởi hành từ Trường An và qua nhiều chặn đường, họ đã đến Đôn 
      Hoàng. Quan cai trị ở đây cấp cho họ mọi thứ cần thiết để họ có thể vượt 
      qua sa mạc Gô Bi. Ông gần như đi bộ trong suốt đoạn đường từ miền trung 
      Trung Hoa băng ngang sa mạc Gô Bi, vượt qua dãy núi Hindu Kush, băng qua 
      miền Bắc Ấn để đến hải cảng Tamralipti ở Bengal. Đến đây, ông lên thuyền 
      đi Tích Lan rồi trở về Trung Quốc bằng đường biển sau một cuộc hành trình 
      đầy phiêu lưu. Ông đã mang về Trung Quốc những gì mà ông đã qua Ấn Độ để 
      tìm kiếm: các kinh sách Phật giáo cùng những tượng Phật. Khi băng qua sa 
      mạc Gô Bi, Pháp Hiển đã ghi lại như sau: “Trong sa mạc nầy có rất nhiều ma 
      quái và gió nóng, sức người không chịu nổi. Trên trời chẳng có chim, dưới 
      đất chẳng có thú. Đưa mắt nhìn thật xa, mọi hướng để tìm một dấu vết đường 
      đi, nhưng chẳng thấy gì ngoài mấy bộ xương khô của những khách bộ hành xấu 
      số, nhờ đó mà biết đường đi.”  Ông ghi nhận ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hóa 
      Ấn Độ tại những nước ông đến ở miền Trung Á. Những nước ông đi qua đều học 
      kinh sách Ấn Độ và ngôn ngữ được dùng tại Ấn Độ. Pháp Hiển đã viết về 
      Kashgar như sau: “Nước nầy có một cái ống nhổ của Đức Phật, ống nhổ nầy 
      làm bằng đá và có cùng màu với bát khất thực của Ngài. Tại đây người ta 
      xây lên một ngôi tháp để thờ xá lợi những chiếc răng của Phật.” Đáng chú ý 
      nhất là đoạn đường cực kỳ nguy hiểm dọc theo dãy núi Bolor-Tagh và việc 
      vượt qua sông Ấn Hà, trong đó ông mô tả như sau: “Bám theo dãy núi, đoàn 
      chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình về hướng Tây Nam trong mười lăm ngày 
      trên một con đường gay go dốc đứng và hiểm nghèo, vì sườn núi giống như 
      một bức tường đá cao hơn mười ngàn bộ. Khi lên đến gần sống núi thì mắt đã 
      mờ và khi muốn bước tới thì cũng không có chỗ để đặt bàn chân nữa. Dưới 
      kia là con sông Ấn Hà. Những người đến trước đục đá làm đường đi và phải 
      đặt thang vào sườn đá. Tất cả có đến mấy trăm bậc đá. Khi đã vượt qua hết 
      những bậc đá và những cây thang nầy thì chúng tôi phải qua sông bằng cầu 
      treo làm bằng dây thừng. Hai bên bờ sông cách xa nhau gần tám mươi bước.” 
      Sau khi trải qua mùa hè tại Udyana, khi ấy là một trung tâm Phật giáo phồn 
      thịnh, Pháp Hiển đi bộ theo hướng Nam để đến Gandhara và Taksasila, nơi mà 
      Đức Phật đã tiên đoán vua Ca Ni Sắc Ca sẽ cho xây một ngôi chùa ở 
      Peshawar. Pháp Hiển đã viết: “Trong số các đền chùa mà đoàn hành hương 
      được thấy thì không nơi nào có thể sánh được với chùa nầy về mặt vĩ đại và 
      uy nghi, truyền thuyết cũng nói rằng trong số các ngôi chùa trên thế giới 
      thì ngôi chùa nầy được xếp vào hạng nhất.”  Từ Peshawar, Pháp Hiển một 
      mình đi đến Nagarahara (Hadda) vì những người cùng đi đã rời bỏ ông. Thành 
      phố nầy có một đền thờ, trong có thờ xương sọ của Phật. Xá lợi nầy được 
      niêm phong hằng đêm  bằng tám con dấu, mỗi con dấu do một nhân vật lãnh 
      đạo thành phố trông coi. Mỗi buổi sáng, nhà vua đều đến dâng lễ vật và 
      cúng xá lợi. Cách một nửa do tuần (khoảng 10 km) về phía Nam thành phố, 
      Pháp Hiển nhìn thấy hang mà Đức Phật đã lưu lại dấu vết. Ông nói rõ: “Vua 
      các nước láng giềng xung quanh đã phái nhiều nghệ sĩ tài giỏi đến để vẽ 
      lại hang nầy mà họ không làm nổi.” Tại A Phú Hãn, nơi Pháp Hiển đến được 
      sau khi băng qua Safed Koh, có ba ngàn tu sĩ Đại Thừa và Tiểu Thừa. Ở 
      Bannu cũng có số tu sĩ đông như vậy, nhưng tất cả đều thuộc về Tiểu Thừa. 
      Băng qua Punjab, Pháp Hiển đến nước Mathura sau khi đi qua nhiều tu viện 
      với số tu sĩ lên đến mười ngàn người. Ở vùng Mathura có rất nhiều người 
      theo đạo Phật, các tu sĩ ở đây rất được dân chúng và triều thần tôn vinh. 
      Sau đó Pháp Hiển đến vương quốc Trung Bộ, trái tim của đế quốc Gupta. Ông 
      đã mô tả như sau: “Nước nầy có khí hậu ôn hòa, không có sương hay tuyết. 
      Dân cư sung túc và an lạc, không phải đăng ký gì cả, cũng không có những 
      hạn chế của chính quyền. Chỉ những người cày đất của vua là phải trả phần 
      lợi tức thu hoạch khá nặng. Ai muốn bỏ đi thì bỏ đi, ai muốn ở lại thì ở. 
      Trong việc cai trị, nhà vua không dùng đến cực hình. Người phạm tội chỉ bị 
      phạt tiền tùy theo mức độ nặng nhẹ. Cả đến tội phản loạn lần thứ hai cũng 
      chỉ bị chặt một bàn tay phải. Những người cận vệ của vua được trả lương cố 
      định. Cả nước chẳng có một ai giết hại mạng sống, cũng không ai uống rượu. 
      Trong nước nầy, người ta không nuôi heo hay gà, không có chuyện buôn bán 
      gia súc, không có lò mổ hay tiệm rượu ngoài chợ. Các tu sĩ thường trú hay 
      lưu trú được cấp giường, nệm, thực phẩm, y áo một cách chu đáo.”—According 
      to Prof. P.V. Bapat in The Twenty-Five Hundred Years of Buddhism, 
      Fa-Hsienwas the first of the three Chinese pilgrims, has recorded his own 
      travels. Together with four other monks, Fa-Hsien started from Chang-An 
      and travelled stage by stage. They first reached Tun-Huang; the governor 
      there gave them all that was required to enable them to cross the Gobi 
      desert. He practically walked all the way from Central China across the 
      Gobi desert, over the Hindu Kush and across Northern India to the seaport 
      of Tamralipti in Bengal. There he embarked for Ceylon and returned to 
      China by sea after an adventurous voyage. He brought back with him what he 
      had gone to seek in India: sacred books of Buddhism and images of Buddhist 
      deities. In his accounts, he recorded: “There are a great many evil 
      spirits and also hot winds that men cannot stand. There are neither birds 
      above nor beasts below. Gazing on all sides as far as eye can reach in 
      order to mark the track, no guidance is to be obtained, except the rotting 
      bones of death travellers, which point the way.”  He notices the 
      prevalence of Indian culture in the States he visited in Central Asia. 
      They study Indian books and the Indian spoken language. Fa-Hsien says of 
      Kashgar as follows: “This country has a spittoon which belonged to the 
      Buddha; it is made of stone and is of the same color as his alms bowl. 
      There is also a relic of the Buddha’s teeth, for which people raised a 
      pagoda to worship.” A significantly dangerous section of his route along 
      the Bolor-Tagh range and the first crossing of the Indus as described by 
      Fa-Hsien are worth relating: “Keeping to the range, the party journeyed on 
      in a south-western direction for fifteen days over a difficult and 
      dangerous road, the side of the mountain being like a stone wall ten 
      thousand feet high. On nearing the edge, the eye becomes confused; and 
      wishing to advance, the foot finds no resting place. Below, there is a 
      river named Indus. The men of former times had cut away the rock to make a 
      way down, and had placed ladders on the side of the rock. There are 
      several hundred rock-steps in all; and after passing all the ladders and 
      rock-steps, the river is crossed by a suspension bridge of ropes. The two 
      banks of the river are somewhat less than eighty paces apart. After 
      spending the summer in retreat in Udyana, then a flourishing center of 
      Buddhism, Fa-Hsien marched South to Gandhara and Taksasila, where the 
      Buddha prophesied that king Kaniska would raise a pagoda in Peshawar. 
      Fa-Hsien writes: “Of all the pagodas and temples seen by the pilgrims, not 
      one could compare with this in grandeur and dignity, and tradition says 
      that of the various pagodas in the inhabited world this one takes the 
      highest rank.”   From Peshawar, Fa-Hsien proceeded alone to Nagarahara 
      (Hadda) for his companions had already left him. That city had a shrine 
      containing the Buddha’s skull bone. It was sealed with eight seals every 
      night for safety, each in the custody of one of the leading men in the 
      city. Fa-Hsien records: “Every morning the king makes offerings and 
      worships the relic.” Half a yojana to the south of the city,  Fa-Hsien 
      notes the the cave inside which the Buddha left his shadow: “The kings of 
      the various countries around have sent artists to sketch it, but they have 
      not ben able to do so.” In Afghanistan, which he entered after crossing 
      the Safed Koh, there were three thousand monks belonging to both the 
      Greater and Lesser Vehicles. There were the same number in Bannu, but all 
      belonging to the Lesser Vehicle. Crossing the Punjab, he reached the 
      Mathura country after passing many monasteries where there were nearly ten 
      thousand monks. Buddhism was very popular in the Mathura region and its 
      monks were honored by the people and the officials of the Court. Then 
      Fa-Hsien reached the Middle Kingdom, the heart of the Gupta Empire. He 
      noted: “The Mathura country has a temperate climate, without frost or 
      snow; and the people are prosperous and happy, without registration or 
      official restrictions. Only those who till the king’s land have to pay so 
      much on the profit they make. Those who want to go away may go; those who 
      want to stay may stay. The king and his administration has no corporal 
      punishments; criminals are merely fined according to the gravity of their 
      offences. Even for a second attempt at rebellion the punishment is only 
      the loss of the right hand. The men of the king’s body-guard have all 
      fixed salaries. Throughout the country, no one kills any living thing, nor 
      drinks wine. In this country, they do not raise pigs or fowls; there are 
      no dealings in cattle, no butchers’ shops or distilleries in their market 
      place. In this country, Buddhist monks are venerated and well respected. 
      Rooms with beds and matresses, food and clothes are provided for resident 
      and travelling monks without fail, and this is the same in all places.”
      
      
      ·       
      Sau đó, Pháp Hiển lần lượt đến thăm Sankasya (Kapitha), 
      Kanyakubja (Kanauj) hay thành phố của những thiếu nữ lưng gù Shaki, Saketa 
      hoặc Ayodhya, Xá Vệ với vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên, Ca Tỳ La Vệ, thành 
      phố của vua Tịnh Phạn, phụ vương của Đức Phật, lúc đó như một vùng hoang 
      dã ngoại trừ một số tu sĩ và vài chục gia đình, thành Tỳ Xá Ly, nước Ma 
      Kiệt Đà với Hoa Thị thành (Pataliputra), tại đây ông được thấy cung điện 
      tuyệt vời của vua A Dục. Ông đã hết lời ca ngợi Ma Kiệt Đà như sau: “Trong 
      tất cả các nước vùng Trung Ấn, thì Ma Kiệt Đà có những đô thị, thành phố 
      rộng lớn nhất. Dân chúng giàu có, thịnh vượng và đua nhau làm việc thiện, 
      giúp đỡ láng giềng.” Ông cũng nói đến các bệnh viện miễn phí ở các thành 
      phố với vẻ rất khâm phục. Từ đây ông đi đến Na Lan Đà, Vương Xá, và Bồ Đề 
      Đạo Tràng. Ông nói: “Một cảnh hoang dã hoàn toàn bên trong những bức 
      tường,” nhưng chung quanh là những dấu tích thiêng liêng, tất cả đều được 
      Pháp Hiển ghi nhận đầy đủ, kể cả Ba La Nại, vườn Nai ở Sarnath, nơi Đức 
      Phật có bài thuyết pháp đầu tiên, và cuối cùng là Kausambi với khu vường 
      Ghociranava, ngày nay mới được tìm thấy với tên Ghositarama. Tại nơi đây, 
      ông đã ghi lại những gì ông được nghe nói về tu viện Paravata ở Deccan. Từ 
      Ba La Nại, Pháp Hiển quay trở lại Hoa Thị thành. Những gì ông ghi lại về 
      các nỗ lực của mình để có được các bản viết tay về kinh điển Phật giáo khá 
      lý thú. Thường thì các kinh sách nầy chỉ được truyền miệng từ thế hệ nầy 
      sang thế hệ khác, và chỉ ở điện Kỳ Viên trong một tu viện Đại Thừa ông mới 
      kiếm được một bản sao phù hợp với kinh sách đã được Nghị Hội lần thứ nhất 
      chấp nhận và đã được các vị sư khắp nơi hành trì trong khi Đức Phật còn 
      tại thế—Fa-Hsien then visited in succession Sankasya (Kapitha); Kanyakubja 
      (Kanauj), the city of hump-back maidens; Shaki, Saketa or Ayodhya; 
      Sravasti with its shrine of the Garden of Gold; Kapilavastu, the city of 
      Suddhodana, the Buddha’s father, then just like a wilderness, except for 
      monks and some tens of families; Vaisali (Beshar); and the country of 
      Magadha and the city of Pataliputra where he saw the marvelous palace of 
      Asoka. He has high praise for Magadha: “Of all the countries of Central 
      India, this has the largest cities and towns. Its people are rich and 
      thriving to practise charity to their neighbor.” He also mentioned the 
      free hospitals in the cities with much admiration. From there he went to 
      Nalanda (Bargaon), Rajagrha and Gaya, then a complete waste within its 
      walls, but surrounded by many hallowed spots, all duly noted by Fa-Hsien. 
      Banares, including the Deer Park at Sarnath where the Buddha preached his 
      first sermon, and lastly Kausambi with its garden of Ghociravana, the 
      Ghositarama of recent discovery. AT this point he records what he heard of 
      the Paravata monastery in the Deccan. From Banares, Fa-Hsien returned to 
      Pataliputra. What he records of his efforts to gain written texts of 
      Buddhism is interesting. Usually, they were transmitted orally from 
      generation to generation, and only at the shrine of the Garden of Gold in 
      Sravasti in a monastery of the Greater Vehicle he obtained a copy 
      according to the text accepted at the First Council and practised by monks 
      generally while the Buddha was still alive.  
      
      ·       
      Sau đó ông đến Tích Lan trên đường trở về Trung Hoa. Tại 
      Tích Lan, ông dành ra hai năm để thu thập và sao chép các kinh sách bằng 
      tiếng Phạn chưa từng có tại Trung Hoa. Từ Tích Lan, Pháp Hiển lên một 
      thương thuyền lớn đi Java. Pháp Hiển lưu lại Java năm tháng. Tại đây, ông 
      thấy đạo Bà La Môn phát triển mạnh, trong khi niềm tin đạo Phật rất yếu 
      ớt. Từ Java Pháp Hiển đáp tàu về Quảng Châu. Ông lưu lại Quảng Châu trong 
      mùa đông trước khi lên đường về Nam Kinh. Khi đến Nam Kinh, ông trao lại 
      cho Giáo Hội tất cả những Kinh Luật mà ông đã thu thập được—He then 
      arrived in Ceylon on his way back to China. In Ceylon, he spent two years 
      to collect and copy Sanskrit texts unknown in China. From Ceylon, Fa-Hsien 
      sailed in a  big merchant vessel to Java. He stayed in Java for five 
      months. There he found Brahmanism flourishing while the faith of the 
      Buddha was very weak. From Java, Fa-Hsien sailed in another merchant 
      vessel to Kuang-Chou. He spent a winter in Kuang-Chou before going south 
      to the capital, Nan-Ching, where he handed over to the Order all the 
      Sutras and the Disciplines he had collected.
      
      ·       
      Phần kết của tập ký sự ông viết rất xúc động: “Pháp Hiển đã 
      mất sáu năm để đi từ Trường An  đến Trung Ấn, ở lại đây sáu năm, và mất 
      thêm ba năm nữa mới về Quảng Châu. Bần đạo đã đi qua tất cả gần 30 nước. 
      Trong cuộc hành trình dài với biết bao khó khăn nguy hiểm, Pháp Hiển chẳng 
      nghĩ gì đến thân mạng tự nghĩ là không quan trọng của mình. Rất may là nhờ 
      có sự hộ trì che chở của Tam Bảo, bần đạo đã bình an trở về được đến quê 
      nhà. Thế nên, Pháp Hiển đã ghi lại trên các thẻ tre và bản lụa câu chuyện 
      chuyến đi để mong chia sẻ cùng các độc giả tại Trung Quốc về những điều ít 
      ai được biết đến nầy.”—The conclusion of his account is very touching, he 
      says: “Fa-Hsien spent six years in travelling from Ch’ang-An to Central 
      India; he stayed there for six years, and it took him three more years to 
      get back to Kuang-Chou. He passed through thirty countries from the sandy 
      desert westwards all the way to India. In the long journey with tremendous 
      difficulties and dangers, Fa-Hsien had given no thought to his own 
      unimportant life. Happily, owing to the protection of the Precious 
      Trinity, he returned home safely. Therefore, he wrote down on bamboo 
      tablets and silk accounts of what he had been through, desiring to share 
      with the readers in China this rare information.”    
      
      Pháp Hiệu: Tên đạo của một vị 
      sư khi được làm lễ thọ giới—The name received by a monk on ordination. 
      
      Pháp Hoa: 
      
      1)      Kinh 
      Diệu Pháp Liên Hoa—The Dharma-flower, i.e. the Lotus Sutra. 
      
      2)      Tên 
      của một ngôi chùa nổi tiếng tọa lạc trong quận Phú Nhuận, thành phố Sài 
      Gòn, Nam Việt Nam. Chùa được Hòa Thượng Đạo Thanh xây năm 1928 và trùng tu 
      năm 1932. Trong Chánh điện có tượng Phật tạc 150 năm về trước từ nguyên 
      khối đá cẩm thạch của núi Ngũ Hành Sơn Đà Nẳng. Trên tường bên hông Chánh 
      điện có bản “Công Cứ Niệm Phật” bằng gỗ, được Hòa Thượng Khánh Anh khắc 
      năm 1920. Giữa là một bao lam khắc Tam Thánh, Cửu Phẩm Liên Hoa và Thánh 
      chúng bên dưới—Name of a famous pagoda located in Phú Nhuận district, 
      Saigon City, South Vietnam. The pagoda was built in 1928 and rebuilt in 
      1932. In the Main Hall, the statue of Sakyamuni Buddha is worshipped. The 
      statue is made of a block of marble stone, and was cast 150 years ago from 
      Mount Ngũ Hành in Đà Nẳng province. On the wall of the Main Hall, there is 
      the “Công Cứ Niệm Phật” board, carved in wood by Most Venerable Khánh Anh 
      in 1920. In the middle of the board is the bas-relief of the Three 
      Amitabha Noble Ones, the Lotus of Nine Stages and Sages are placed at the 
      bottom.      
      
      Pháp Hoa Kinh: 
      Saddharma-pundarika-sutra (skt)—The Lotus Sutra. 
      ** For more information, 
      please see Kinh 
           Diệu Pháp Liên Hoa.
      
      
      Pháp Hoa Nhứt Thực: Toàn Thừa 
      Pháp Hoa—The one perfect Vehicle of the Lotus Sutra.
      
      Pháp Hoa Tam Bộ Kinh: The 
      Threefold Lotus Sutra. 
      
      Pháp Hoa Tam giáo: Theo Kinh 
      Pháp Hoa thì Phật pháp chia làm ba phương pháp—The three modes of 
      Sakyamuni’s teaching according to the Lotus Sutra:
      
      1)      Đốn 
      giáo: Giáo pháp chỉ thẳng và tức thì khai ngộ hành giả—Direct, or sudden, 
      or immediate  teaching, by which the learner is taught the whole truth at 
      once.
      
      2)      Tiệm 
      giáo: Giáo pháp khai ngộ từ từ—The gradual teaching.
      
      3)      Viên 
      giáo: Giáo pháp khai ngộ hoàn toàn—The perfect teaching. 
      
      Pháp Hoa Tam Muội: 
      Saddharma-pundarika-samadhi (skt)—Pháp nhất thực của lý tam đế viên dung, 
      ví như một bông sen (thâu hết các phép mà quy về thực tướng)—The 
      contemplation of the Lotus, the samadhi which sees  into the three dogmas.
      
      1)      Không 
      Đế: Lý “Không tướng”—The dogma of unreality or the noumenal.
      
      2)      Giả 
      Đế: Lý “Giả tướng”—The dogma of dependent reality or phenomenal.
      
      3)      Trung 
      Đế: Lý “Thực tướng”—The dogma of transcendence or the absolute which 
      unites both noumenal and phenomenal.   
      
      Pháp Hoa Tông: Pháp Hoa Tông 
      nguyên là tên gọi của tông Thiên Thai vì tông nầy lấy Kinh Pháp Hoa làm 
      kinh căn bản—The Lotus sect, i.e. that of T’ien-T’ai, which had this sutra 
      for its basis. There are many treatises with this as part of the title.
      
      
      Pháp Hóa: Chuyển hóa bằng Phật 
      pháp (sự giáo hóa của chánh pháp)—Transformation by Buddha-truth (teaching 
      in or by it).
      
      Pháp Hóa Sinh Thân: The 
      nirmanakaya or corporeal manifestation of the spiritual Buddha.  
      
      Pháp Hộ: See Dhammapala in 
      Sanskrit/Pali-Vietnamese Section. 
      
      Pháp Hội: 
      
      1)      Cuộc 
      đại hội để hành lễ hay nghe thuyết pháp—An assembly for worship or 
      preaching. 
      
      2)      Tên 
      của một ngôi chùa nổi tiếng nằm trong quận 10, thành phố Sài Gòn, Nam Việt 
      Nam. Chùa do Hòa Thượng Đạt Bình, dòng Thiền Thiên Thai, khởi công xây 
      dựng từ năm 1945. Chùa được trùng tu năm 1960. Từ năm 1954, chùa được chọn 
      làm Phật Học Đường của Giáo Hội Tăng Già Việt Nam, mỗi năm đều mở hai khóa 
      Hạ và Đông để đào tạo Tăng tài. Chùa có nhiều pho tượng bằng gỗ được tạc 
      vào khoảng thập niên 60, như tượng của Phật A Di Đà, tượng Phật Thích Ca 
      Đản Sanh, tượng Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, tượng Diệm Ma 
      Vương, tượng Hộ Pháp—Name of a famous pagoda located in the tenth 
      district, Saigon City, South Vietnam. It was built in 1945 by Most 
      Venerable Đạt Bình from the T’ien-T’ai Meditation Sect. It was rebuilt in 
      1960. Since 1954, the pagoda has been chosen as the School of Buddhist 
      Studies of Vietnam Buddhist Sangha Association. The course has been opened 
      per annum in Summer and Winter to train monks and nuns as Heads as well as 
      Buddhist Dharma propagators. The pagoda has kept lots of wooden statues of 
      Amitabha Buddha, Lord Buddha’s Holy Birth, Avalokitesvara Bodhisattva, 
      Mahasthama Bodhisattva, Yama of Hell, and Dharma Guardians. All of these 
      statues were created in the 1960s.    
      
      Pháp Hội Xã: Tự viện—A 
      monastery. 
      
      Pháp Hữu: Tà kiến Tiểu Thừa cho 
      rằng vạn hữu, hay những yếu tố tạo thành vạn hữu là có thật—The false view 
      of Hinayana that things, or elements of which they are made, are real.
      
      Pháp Hữu Ngã Vô Tông: Phái 
      Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ chủ trương pháp thì có, nhưng cái ta thì không 
      (thể của các pháp do nhân duyên sinh ra có thực thể, còn cái ta là do sự 
      hòa hợp của giả tạm của các pháp, là hư vọng)—The Sarvastivadins who while 
      disclaiming the reality of personality claimed the reality of things. 
      
      Pháp Hữu Lậu: Pháp còn nằm 
      trong phạm trù điều kiện, làm cho ý chí và nghị lực chúng ta hướng ngoại 
      cầu hình thay vì hướng nội cầu lấy tâm Phật—Outflows—Conditioned 
      dharmas—Leaking—Anything which serves to divert beings away from inherent 
      Budha-nature. Outflows are so called because they are turning of energy 
      and attention outward rather than inward.
      
      Pháp Hỷ: 
      
      1)      Vui 
      mừng khi nghe hay nếm được vị pháp—Joy of the Law—The joy of hearing or 
      tasting dharma.
      
      2)      Tên 
      của vị Tỳ Kheo Pháp Hỷ: A monk with the name of Dharmanandi. 
      
      3)      Theo 
      Kinh Duy Ma Cật, Phẩm Bồ Tát, Ma Vương giả làm Trời Đế Thích, đem hiến một 
      muôn hai ngàn thiên nữ cho Bồ Tát Trì Thế—According to the Vimalakirti 
      Sutra, Chapter Bodhisattvas, a demon pretended to be Indra, offered twelve 
      thousand goddesses (devakanya) to the Bodhisattva Ruler of the World. 
      
      ·       
      Ma vương nói với Trì Thế: “Thưa Chánh sĩ! Xin ngài nhận một 
      muôn hai ngàn Thiên nữ nầy để dùng hầu hạ quét tước.”—The demon said to 
      the Ruler of the World Bodhisattva: “Bodhisattva, please take these twelve 
      thousand goddesses who will serve you.”
      
      ·       
      Trì Thế nói rằng: “Nầy Kiều Thi Ca! Ông đừng cho vật phi 
      pháp nầy, tôi là kẻ Sa Môn Thích tử, việc ấy không phải việc của tôi.”—The 
      Ruler of the World Bodhisattva replied: “Sakra, please do not make to a 
      monk this unclean offering which does not suit me.”
      
      ·       
      Nói chưa dứt lời, bỗng ông Duy Ma Cật đến nói với Trì Thế: 
      “Đây chẳng phải là Đế Thích, mà là Ma đến khuấy nhiễu ông đấy!” Ông lại 
      bảo ma rằng: “Các vị Thiên nữ nầy nên đem cho ta, như ta đây mới nên thọ 
      “Even before the Ruler of the World Bodhisattva had finished speaking, 
      Vimalakirti came and said: “He is not Sakra; he is a demon who comes to 
      disturb you.” He then said to the demon: ‘You can give me these girls and 
      I will keep them.” 
      
      ·        
      Ma sợ hãi nghĩ rằng: “Có lẽ 
      ông Duy Ma Cật đến khuấy rối ta chăng?” Ma muốn ẩn hình mà không thể ẩn, 
      rán hết thần lực, cũng không đi được. Liền nghe giữa hư không có tiếng 
      rằng: “Nầy Ba Tuần! Hãy đem Thiên nữ cho ông Duy Ma Cật thì mới đi được. 
      Ma vì sợ hãi, nên miễn cưởng cho—The demon was frightened, and being 
      afraid that Vimalakirti might give him trouble, he tried to make himself 
      invisible but failed, and in spite of his use of supernatural powers he 
      could not go away.  Suddenly a voice was heard in the air, saying:  
      ‘Demon, give him the girls and then you can go.’ Being scared, he gave the 
      girls.’ 
      
      ·        
      Khi ấy ông Duy Ma Cật bảo các 
      Thiên nữ rằng: “Ma đã đem các ngươi cho ta rồi, nay các ngươi đều phải 
      phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Rồi ông theo căn cơ của Thiên nữ 
      mà nói Pháp để cho phát ý đạo, và bảo rằng các ngươi đã phát ý đạo, có 
      Pháp vui để tự vui chớ nên vui theo ngũ dục nữa.”—At that time,  
      Vimalakirti said to them: “The demon has given you to me.  You can now 
      develop a mind set on the quest of supreme enlightenment.” Vimalakirti 
      then expounded the Dharma to them urging them to seek the truth.  He 
      declared: “You have now set your minds on the quest for the truth and can 
      experience joy in the Dharma instead of in the five worldly pleasures 
      (arising from the objects of the five senses).”
      
      ·        
      Thiên nữ hỏi: “Thế nào là 
      Pháp vui?”— The goddesses asked him: ‘What is this joy in the Dharma?”
      
      
      ·       
      Ông đáp: “Vui thường tin Phật; vui muốn nghe pháp; vui cúng 
      dường Tăng; vui lìa ngũ dục; vui quán ngũ ấm như oán tặc; vui quán thân tứ 
      đại như rắn độc; vui quán nội nhập (sáu căn)  như không; vui gìn giữ đạo 
      ý; vui lợi ích chúng sanh; vui cung kính cúng dường bực sư trưởng; vui 
      nhẫn nhục nhu hòa; vui siêng nhóm căn lành; vui thiền định chẳng loạn; vui 
      rời cấu nhiễm đặng trí tuệ sáng suốt; vui mở rộng tâm Bồ Đề; vui hàng phục 
      các ma; vui đoạn phiền não; vui thanh tịnh cõi nước Phật; vui thành tựu 
      các tướng tốt mà tu các công đức; vui trang nghiêm đạo tràng; vui nghe 
      pháp thâm diệu mà không sợ; vui ba môn giải thoát mà không vui phi thời; 
      vui gần bạn đồng học; vui ở chung với người không phải đồng học mà lòng 
      thương không chướng ngại; vui giúp đỡ ác tri thức; vui gần thiện tri thức; 
      vui tâm hoan hỷ thanh tịnh;  vui tu vô lượng Pháp đạo phẩm. Đó là Pháp vui 
      của Bồ Tát”—He replied: “Joy in having faith in the Buddha, joy in 
      listening to the Dharma, joy in making offerings to the Sangha, and joy in 
      forsaking the five worldly pleasures; joy in finding out that the five 
      aggregates are like deadly enemies, that the four elements (that make the 
      body) are like poisonous snakes, and that the sense organs and their 
      objects are empty like space; joy in following and upholding the truth; 
      joy in being beneficial to living beings; joy in revering and making 
      offerings to your masters; joy in spreading the practice of charity 
      (dana); joy in firmly keeping the rules of discipline (sila); joy in 
      forbearance (ksanti); joy in unflinching zeal (virya) to sow all excellent 
      roots; joy in unperturbed serenity (dhyana); joy in wiping out all 
      defilement that screens clear wisdom (prajna); joy in expanding the 
      enlightened (bodhi) mind; joy in overcoming all demons; joy in eradicating 
      all troubles (klesa); joy in purifying the Buddha land; joy in winning 
      merits from excellent physical marks; joy in embellishing the bodhimandala 
      (the holy site); joy in fearlessness to hear (and understand ) the 
      profound Dharma; joy in the three perfect doors to nirvana (i.e. voidness, 
      formlessness and inactivity) as contrasted with their incomplete 
      counterparts (which still cling to the notion of objective realization); 
      joy of being with those studying the same Dharma and joy in the freedom 
      from hindrance when amongst those who do not study it; joy to guide and 
      convert evil men and to be with men of good counsel; joy in thestat of 
      purity and cleanness; joy in the practice of countless conditions 
      contributory to enlightenment.  All this is the Bodhisattva joy in the 
      Dharma.”
      
      Pháp Hỷ Thực: Lấy pháp hỷ làm 
      thức ăn—The food of joy in the Law. 
      
      Pháp Khí: 
      
      1)      Những 
      nhạc khí dùng trong thờ phượng: Implements used in worship. 
      
      2)      Những 
      người có thể tu hành theo đạo Phật: One who obeys the Buddha.
      
      Pháp Không: Tánh không hay sự 
      không thật của chư pháp. Mọi vật đều tùy thuộc lẫn nhau, chứ không có cá 
      nhân hiện hữu, tách rời khỏi vật khác—The emptiness or unreality of all 
      things—Everything is being dependent on something else and having no 
      individual existence apart from other things; hence the illusory nature of 
      all things as being composed of elements and not possessing reality—The 
      non-reality of things—Things are unreal. 
      ** For more information, 
      please see Nhị 
           Không and Tam Không.
      
      Pháp Không Chân Như: Chân như 
      được hiểu như vô ngã và vô tướng của vạn hữu—The Bhutatathata as 
      understood when this non-individuality or unreality of things is 
      perceived. 
      
      Pháp Không Quán: Một trong hai 
      Nhị Không Quán; quan niệm cho rằng các pháp sắc tâm đều do nhân duyên sinh 
      ra, chứ không có tự tánh hay thực thể—Meditative insight into the 
      unreality of all things, one of the two kinds of meditative insight.
      ** For more information, 
      please see Nhị 
           Không (C).
      
      Pháp Kiếm: Lưỡi kiếm chân lý 
      chặt đứt hết sự hoạt động của phiền não—The sword of Buddha-truth, which 
      is able to cut off the functioning of illusion.
      
      Pháp Kiên Na La Vương: Druma 
      (skt)—Vua Kiên Na La—King of the Kinnaras. 
      
      Pháp Kiến: Đầu óc thô thiển hẹp 
      hòi hay mê chấp vào một pháp; cho pháp đó là đúng, còn các pháp khác là 
      sai—Maintaining one tenet and considering others wrong; narrow-minded; 
      bigoted. 
      
      Pháp Kiều: 
      
      1)      Dân 
      Pháp: The French people.
      
      2)      Cầu 
      Chân Lý Phật Pháp có khả năng giúp cho chúng sanh đáo bỉ ngạn niết bàn: 
      The bridge of Buddha-truth, which is able to carry all across to nirvana.
      
      Pháp Kim Cang: Dharmaraja 
      (skt)—See Kim Cang. 
      
      Pháp Kính: Pháp kính phản chiếu 
      trí huệ Phật—The Dharma mirror, reflecting the Buddha-wisdom. 
      
      Pháp Lạc: Niềm vui tôn giáo—Vui 
      khi nghe hay nếm đươc hương vị của pháp, khi thờ kính Phật tổ, khi tạo lập 
      công đức, cúng dường hay tụng niệm (dùng mùi vị của pháp để làm cho tâm 
      thần vui thú)---Religious joy—Joy of hearing or tasting the dharma, 
      worshipping Buddha, laying up merit, making offerings, repeating sutras.  
      
      
      Pháp Lan: Gobharana (skt)—Pháp 
      Lan cùng Sư Matanga là những vị Tỳ Kheo Ấn Độ đầu tiên tới Trung Quốc, vào 
      khoảng giữa thế kỷ thứ nhất sau Tây Lịch—Gobharana, companion of Matanga, 
      being the first Indian monk said to have come to China, in the middle of 
      the first centurey A.D.  
      
      Pháp Lãng: Fa-Lang 507-581—Sư 
      Pháp Lãng là một đại diện quan trọng của phái Tam Luận thuộc Phật giáo 
      Trung Quốc. Ông gia nhập giáo đoàn năm 528. Trước tiên ông tu tập thiền 
      định và nghiên cứu Luật Tạng. Sau đó ông sang qua nghiên cứu tu tập về 
      những trước tác của phái Tam Luận. Năm 558, ông đến Nam Kinh (kinh đô 
      Trung Quốc thời bấy giờ), nơi có hàng ngàn Tăng chúng tu tập quanh ông. 
      Ông đã góp phần to lớn trong việc truyền bá Tam Luận. Một đệ tử của ông là 
      Cát Tạng đã tiếp tục truyền thống Tam Luận sau khi ông thị tịch—Fa-Lang, 
      an important representative of the San-Lun school of Chinese Buddhism. In 
      528, he entered the Buddhist order and devoted himself initially to the 
      practice of meditation and the study of Vinaya texts. Later he occupied 
      himself with the writings of the San-Lun school. In 558, he went to 
      Nanking (capital of China at that time), where he gathered thousands of 
      students around him, thus bringing the San-Lun school great popularity. 
      After he passed away, Chi-Tsang, one of his disciples, carried on the 
      tradition.   
      
      Pháp Lạp: 
      
      1)      Một 
      năm của Phật Giáo: A Buddhist year.
      
      2)      Cuối 
      kỳ tu tập ba tháng an cư kiết hạ của một vị Tăng: The end of the monk’s 
      year after the summer retreat.
      
      3)      Số năm 
      Tỳ Kheo đã an cư kiết hạ sau khi thọ giới hay tuổi hạ lạp của Tỳ Kheo:  
      the number of summer retreat or discipline years indicating the years 
      since a monk’s ordination. 
      **   For more information, 
      please see Hạ Lạp. 
      
      Pháp Linh: Chuông pháp hay âm 
      thanh thanh thoát dễ chịu khi trì tụng kinh điển—The dharma-bell; the 
      pleasing sound of intoning the sutras.
      
      Pháp Loa: Dharma-sankha 
      (skt)—Loa Phật Pháp, ý ám chỉ tiếng Đức Phật thuyết pháp như tiếng loa 
      thổi của vỏ ốc vang rất xa (thế tục dùng tù và để thổi ra hiệu ba quân, 
      tiếng thuyết pháp của Đức Phật có sức mạnh hàng phục ma quỷ)—Conch of the 
      Law, a symbol of the universality, power, or command of the Buddha’s 
      teaching.
      
      Pháp Lợi: Phúc lợi mà Phật pháp 
      mang lại cho chúng sanh—The blessing or benefits of Buddhism. 
      
      Pháp Lôi: Tiếng sấm của pháp, 
      làm thức tĩnh sự u mê nơi con người và làm tăng trưởng công đức—The 
      thunder of dharma, awakening man from stupidity and stimulate the growth 
      of virtue, the awful voice of buddha-truth.
      
      Pháp Luân: Dharma-cakra 
      (skt)—The wheel of law—Bánh xe pháp hay chân lý Phật pháp có khả năng 
      nghiền nát những ác quấy, đối lập và ảo vọng. Lời thuyết pháp của Đức phật 
      phá vỡ mọi não phiền nghiệp hoặc, lời ấy không ngừng nghỉ ở một người nào, 
      một chỗ nào, mà nó xoay chuyển mãi từ thế hệ nầy qua thế hệ khác—The Wheel 
      of Law, or Buddha truth which is able to crush all evil and all 
      opposition—The preaching of a Buddha—Dharma wheel is likened a wheel 
      because it crushed all illusions, evil and on opposition, like Indra’s 
      wheel, which rolls from man to man, place to place, age to age. 
      
      Pháp Luật: Giới luật và những 
      nguyên tắc lễ nghi trong Phật giáo—Laws or rules. 
      
      Pháp Lữ: Người tu hành—A 
      companion of the Dharma—A disciple. 
      
      Pháp Lực: Năng lực của chân lý 
      Phật pháp có khả năng loại bỏ họa hoạn và trấn áp tà vạy—The power of 
      Buddha-truth—Able to do away with calamity and subdue evil.
      
      Pháp Ma: Ảo tưởng nhìn thấy vạn 
      hữu là có thật—The illusion that things are real and not merely seeming.
      
      
      Pháp Mật: Dharmagupta (skt)—Vị 
      sáng lập tông phái Pháp Mật tại Tích Lan, một trong bảy phái của Nhất 
      Thiết Hữu Bộ—Founder of the school of this name in Ceylon, one of the 
      seven divisions of the Sarvastivadah.
      ** For more information, please see 
      Sarvastivadah in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section. 
      
      Pháp Mệnh: 
      
      1)      Tuệ 
      mệnh của Pháp thân: The wisdom-life of the Dharmakaya. 
      
      2)      Tuổi 
      thọ của một vị Tăng: The age or lifetime of a monk. 
      
      Pháp Minh: Dharmaprabhasa 
      (skt)—Pháp Minh Như Lai, vị Phật sẽ xuất hiện trong vũ trụ của chúng ta 
      trong Bảo Minh Kiếp trong thế giới Thiện Tịnh, khi ấy không còn sự khác 
      biệt về giới tính, sự sanh sản chỉ bằng chuyển hóa—Brightness of the law, 
      a Buddha who will appear in our universe in the Ratnavabhasa-kalpa in a 
      realm called Suvisuddha, when there will be no sexual difference, birth 
      taking place by transformation.
      
      Pháp Minh Đạo: Tâm trí thanh 
      tịnh soi sáng đường mà chư Phật đã tu hành—The wisdom of the pure heart 
      which illumines the Way of all Buddhas.
      
      Pháp Minh Môn: Giáo pháp tỏa ra 
      ánh sáng trên vạn hữu, giúp cho chúng sanh có thể biện biệt và giải thích 
      vạn hữu—The teaching which sheds light on everything, differentiating and 
      explaining them. 
      
      Pháp Môn: Dharmaparyaya 
      (skt)—Pháp trí của Phật là cửa ngõ giác ngộ—Giáo pháp của Phật hay Phật 
      pháp được coi như là cửa ngõ (những lời nói nầy làm chuẩn tắc cho đời) vì 
      qua đó chúng sanh đạt được giác ngộ. Chúng sanh có 8 vạn 4 ngàn phiền não, 
      thì Đức Phật cũng đưa ra 8 vạn bốn ngàn pháp môn đối trị. Vì biết rằng căn 
      tánh của chúng sanh hoàn toàn khác biệt nên Đức Phật chia ra nhiều pháp 
      môn nhằm giúp họ tùy theo căn cơ của chính mình mà chọn lựa một pháp môn 
      thích hợp để tu hành. Một người có thể tu nhiều pháp môn tùy theo khả năng 
      sức khỏe và thời gian của mình. Tất cả các pháp môn đều có liên hệ mật 
      thiết với nhau. Tu tập những giáo pháp của Phật đòi hỏi liên tục, thường 
      xuyên, có lòng tin, có mục đích và sự cả quyết. Trây lười và vội vã là 
      những dấu hiệu của thất bại. Con đường đi đến giác ngộ Bồ Đề chỉ có một 
      không hai, nhưng vì con người khác nhau về sức khỏe, điều kiện vật chất, 
      tính thông minh, bản chất và lòng tin, nên Đức Phật dạy về những quả vị 
      Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát Đạo, cũng như những con đường của kẻ xuất 
      gia hay người tại gia. Tất cả những con đường nầy đều là Phật đạo. Không 
      ai có thể không đi mà đến. Đạo không thể nào không học, không hiểu, không 
      hành mà có thể đạt được giác ngộ—The Dharma Door—The doctrine or wisdom of 
      Buddha regarded as the door (method) to enlightenment—The teaching of the 
      Buddha. The meaning is that the dharma is something like a gate, because 
      through it sentient beings attain the enlightenment. As the living have 
      84,000 delusions, so the Buddha provides 84,000 methods of dealing with 
      them. Knowing that the spiritual level of sentient beings is totally 
      different from one another, the Buddha had allowed his disciples to choose 
      any suitable Dharma they like to practice. A person can practice one or 
      many dharmas, depending on his physical conditions, his free time, since 
      all the dharmas are closely related. Practicing Buddhist Dharma requires 
      continuity, regularity, faith, purpose and determination. Laziness and 
      hurriedness are signs of failure. There is only one path leading to 
      Enlightenment, but, since people differ greatly in terms of health, 
      material conditions, intelligence, character and faith, the Buddha taught 
      more than one path leading to different stages of attainment such as stage 
      of Hearers, that of Pratyeka-buddhas, that of Bodhisattvas, that of  
      laymen, and that of monks and nuns. All of these ways are ways to the 
      Buddhahood. Nobody can reach final attainment without following a path, 
      and no enlightenment can be reached without studying, understanding and 
      practicing.  
      
      Pháp Môn Bất Nhị: Non-Dual 
      Dharma—Theo Kinh Duy Ma Cật, phẩm thứ chín, Pháp Môn Không Hai, cư sĩ Duy 
      Ma Cật họp bàn cùng các Bồ Tát về pháp môn Không Hai như sau—According to 
      the Vimalakirti Sutra, chapter nine, Initiation into the Non-Dual Dharma, 
      Upasaka Vimalakirti discussed with other Bodhisattvas about the Non-Dual 
      Dharma as follows:  Bấy giờ ông Duy Ma Cật bảo các vị Bồ Tát rằng: “Các 
      nhân giả! Theo chỗ các ngài hiểu thì thế nào là Bồ Tát vào pháp môn không 
      hai?”—At that time, Vimalakirti said to the Bodhisattvas present: 
      “Virtuous Ones, each of you please say something about the non-dual Dharma 
      as you understand it.” 
      
      a)      
      Trong Pháp hội có Bồ Tát tên là Pháp Tự Tại nói: “Các nhân giả! 
      Sanh Diệt là hai. Pháp vốn không sanh, cũng không diệt, đặng vô sanh pháp 
      nhẫn, đó là vào pháp môn không hai.”—In the meeting a Bodhisattva called 
      “Comfort in the Dharma” said: “Virtuous Ones, birth and death are a 
      duality but nothing is created and nothing is destroyed.  Realization of 
      this patient endurance leading to the uncreate is initiation into the 
      non-dual Dharma.” 
      
      b)      
      Bồ Tát Đức Thủ nói: “Ngã và Ngã Sở là hai. Nhân có ngã mới có ngã 
      sở, nếu không có ngã thời không có ngã sở, đó là vào pháp môn không 
      hai.”—The Bodhisattva called “Guardian of the Three Virtues” said: 
      “Subject and object are a duality for where there is ego there is also 
      (its) object, but since fundamentally there is no ego, its object does not 
      arise; this is initiation into the non-dual Dharma.” 
      
      c)      
      Bồ Tát Bất Thuấn nói: “Thọ và Không Thọ là hai. Nếu các pháp không 
      thọ thời không có ‘được,’ vì không có ‘được,’ nên không thủ xả, không gây 
      không làm đó là vào pháp môn không hai.”—The Bodhisattva “Never Winking” 
      said: “Responsiveness (vedana, the second aggregate) and unresponsiveness 
      are a duality.  If there is no response to phenomena, the latter cannot be 
      found anywhere; hence there is neither accepting nor rejecting (of 
      anything), and neither karmic activity nor discrimination; this is 
      initiation into the non-dual Dharma.”
      
      d)      
      Bồ Tát Đức Đảnh nói: “Nhơ và Sạch là hai. Thấy được tánh chân thật 
      của nhơ, thời không có tướng sạch, thuận theo tướng diệt, đó là vào pháp 
      môn không hai.”—The Bodhisattva “Highest virtue” said: “Impurity and 
      purity are a duality.  When the underlying nature of impurity is clearly 
      perceived, even purity ceases to arise.  Hence this cessation (of the idea 
      of purity) is initiation into the non-dual Dharma.” 
      
      e)      
      Bồ Tát Thiện Túc nói: “Động và Niệm là hai. Không động thời không 
      niệm, không niệm thời không phân biệt; thông suốt lý ấy là vào pháp môn 
      không hai.”—The Bodhisattva “Winner of Samadhi by Looking at the Star” 
      said: “(External) disturbance and (inner) thinking are a duality; when 
      disturbance subsides, thinking comes to an end and the absence of thought 
      leads to non-dual Dharma.” 
      
      f)       
      Bồ Tát Thiện Nhãn nói: “Một Tướng và Không Tướng là hai. Nếu biết 
      một tướng tức là không tướng, cũng không chấp không tướng mà vào bình 
      đẳng, đó là vào pháp môn không hai.”—The Bodhisattva “Skilful Eye” said: 
      “Monistic form and formlessness are a duality. If monistic form is 
      realized as (fundamentally) formless, with relinquishment of formlessness 
      in order to achieve impartiality, this is initiation into the non-dual 
      Dharma.” 
      
      g)      
      Bồ Tát Diệu Tý nói: “Tâm Bồ Tát và Tâm Thanh Văn là hai. Quán tướng 
      của tâm vốn không, như huyễn như hóa, thời không có tâm Bồ Tát cũng không 
      có tâm Thanh Văn, đó là vào pháp môn không hai.”—The Bodhisattva 
      “Wonderful Arm” said: “The Bodhisattva mind and the Sravaka mind are a 
      duality. If the mind is looked into as void and illusory, there is neither 
      Bodhisattva mind nor Sravaka mind; this is initiation into the non-dual 
      Dharma.” 
      
      h)      
      Bồ Tát Phất Sa nói: “Thiện và Bất Thiện là hai. Nếu không khởi 
      thiện và bất thiện, vào gốc không tướng mà thông suốt được, đó là vào pháp 
      môn không hai.”—The Bodhisattva Pusya said: “Good and evil are a duality; 
      if neither good nor evil arises so that formlessness is realized to attain 
      Reality, this is initiation into the non-dual Dharma.” 
      
      i)        
      Bồ Tát Sư Tử nói: “Tội và Phước là hai. Nếu thông đạt được tánh của 
      tội, thì tội cùng phước không khác, dùng tuệ kim cang quyết liễu tướng ấy, 
      không buộc không mở, đó là vào pháp môn không hai.”—The Bodhisattva Simha 
      (Lion) said: “Weal and woe are a duality; if the underlying nature of woe 
      is understood, woe does not differ from weal.  If the diamond 
      (indestructible) wisdom is used to look into this with neither bondage nor 
      liberation (coming into play), this is initiation into the non-dual 
      Dharma.” 
      
      j)        
      Bồ Tát Sư Tử Ý nói: “Hữu Lậu và Vô Lậu là hai. Nếu chứng được các 
      pháp bình đẳng thời không có tướng hữu lậu và vô lậu, không chấp có tướng 
      cũng không chấp vô tướng, đó là vào pháp môn không hai.”—The Bodhisattva 
      “Lion’s Fearlessness” said: “The mundane and supra-mundane are a duality.  
      If all things are looked into impartially, neither the mundane nor the 
      supra-mundane will arise, with no differentiation between form and 
      formlessness, this is initiation into the non-dual Dharma.” 
      
      k)      
      Bồ Tát Tịnh Giải nói: “Hữu Vi và Vô Vi là hai. Nếu lìa tất cả số 
      thời tâm như hư không, dùng tuệ thanh tịnh không có chướng ngại, đó là vào 
      pháp môn không hai.”—The Bodhisattva “Pure Interpretation” said: “Activity 
      (ju wei) and non-activity (wu wei) are a duality, but if the mind is kept 
      from all mental conditions it will be (void) like space and pure and clean 
      wisdom will be free from all obstructions.  This is initiation into the 
      non-dual Dharma.” 
      
      l)        
      Bồ Tát Na La Diên nói: “Thế Gian và Xuất Thế Gian là hai. Tánh thế 
      gian không tức là xuất thế gian, trong đó không vào không ra, không đầy 
      không vơi, đó là vào pháp môn không hai.”—The Bodhisattva Narayana said: 
      “The mundane and the supra-mundane are a duality but the underlying nature 
      of the mundane is void (or immaterial) and is but the supra-mundane which 
      can be neither entered nor left and neither overflows (like the stream of 
      transmigration) nor scatters (like smoke).  This is initiation into the 
      non-dual Dharma.” 
      
      m)     
      Bồ Tát Thiện Ý nói: “Sanh Tử và Niết Bàn là hai. Nếu thấy được tánh 
      sanh tử thời không có sanh tử, không buộc không mở, không sinh không diệt, 
      hiểu như thế đó là vào pháp môn không hai.”—The Bodhisattva “Skillful 
      Mind” said: “Samsara and nirvana are a duality.  If the underlying nature 
      of samsara is perceived there exists neither birth nor death, neither 
      bondage nor liberation, and neither rise nor fall.  Such an understanding 
      is initiation into the non-dual Dharma.” 
      
      n)      
      Bồ Tát Hiện Kiến nói: “Tận và Không Tận là hai. Pháp đến chỗ rốt 
      ráo thời tận hoặc không tận đều là tướng Vô Tận tức là Không, không thời 
      không có tướng tận và không tận, được như thế đó là vào pháp môn không 
      hai.”—The Bodhisattva  “Direct Insight” said: “The exhaustible and the 
      inexhaustible are a duality.  If all things are looked into exhaustively, 
      both the exhaustible and the inexhaustible cannot be exhausted; and the 
      inexhaustible is identical with the void which is beyond both the 
      exhaustible and the inexhaustible.  Such an interpretation is initiation 
      into the non-dual Dharma.”
      
      o)      
      Bồ Tát Phổ Thủ nói: “Ngã và Vô Ngã là hai. Ngã còn không có, thời 
      Phi Ngã đâu có được. Thấy được thực tánh của Ngã không còn có hai tướng, 
      đó là vào pháp môn không hai.”—The Bodhisattva “Upholder of Universality” 
      said: “The ego and non-ego are a duality.  Since the ego cannot be found, 
      where can the non-ego be found?  He who perceives the real nature of the 
      ego will not give rise to dualities; this is initiation into the non-dual 
      Dharma.” 
      
      p)      
      Bồ Tát Điển Thiên nói: “Minh và Vô Minh là hai. Thực tánh của vô 
      minh là minh, minh cũng không thể nhận lấy, lìa tất cả số, ở đó bình đẳng 
      không hai, đó là vào pháp môn không hai.”—The Bodhisattva “Lightning 
      Perception” said: “Enlightenment and unenlightenment are a duality, but 
      the underlying nature of unenlightenment is enlightenment which should 
      also be cast away; if all relativities are discarded and replaced by 
      non-dual impartiality, this is initiation into the non-dual Dharma.”
      
      
      q)      
      Bồ Tát Hỷ Kiến nói: “Sắc và Không là hai. Sắc tức là không, chẳng 
      phải sắc diệt rồi mới không, tánh sắc tự không; thọ, tưởng, hành, thức 
      cũng thế. Thức và Không là hai. Thức tức là không, chẳng phải thức diệt 
      rồi mới không, tánh thức tự không. Thông hiểu lý đó là vào pháp môn không 
      hai.”—The Bodhisattva Priyadarsana said: “Form (rupa) and voidness are a 
      duality, (but) form is identical with voidness, which does not mean that 
      form wipes out voidness, for the underlying nature of form is void of 
      itself.  So are (the other four aggregates) reception (vedana), conception 
      (sanjna), discrimination (samskara) and consciousness (vijnana- in 
      relation to voidness). “Consciousness and voidness are a duality (yet) 
      consciousness is identical with voidness, which does not mean that 
      consciousness wipes out voidness for the underlying nature of voidness is 
      void of itself.  A thorough understanding of this is initiation into the 
      non-dual Dharma.” 
      
      r)       
      Bồ Tát Minh Tướng nói: “Tứ Đại và Không Đại là hai. Tánh tứ đại tức 
      là tánh không đại, như lớp trước lớp sau không, thời lớp giữa cũng không. 
      Nếu biết được thực tánh các đại thời đó là vào pháp môn không hai.”—The 
      Bodhisattva “Understanding the Four Elements” said: “The four elements 
      (earth, water, fire and air) and their voidness are a duality (but) the 
      underlying nature of the four elements is identical with that of 
      voidness.  Like the past (before the four elements came into being) and 
      the future (when they scatter away) which are both void, the present (when 
      they appear) is also void.  Identical understanding of the underlying 
      nature of all four elements is initiation into the non-dual Dharma.”
      
      
      s)      
      Bồ Tát Diệu Ý nói: “Con Mắt và Sắc Trần là hai. Nếu biết được tánh 
      của mắt thời đối với sắc không tham, không sân, không si, tức là tịch 
      diệt. Tai với tiếng, mũi với hương, lưỡi với vị, thân với xúc, ý với pháp 
      cũng là hai. Nếu biết được tánh của ý thời đối với pháp không tham, không 
      sân, không si, tức là tịch diệt. Nhận như thế đó là vào pháp môn không 
      hai.”—The Bodhisattva “Deep Thought” said: “Eyes and form are a duality 
      (but) if the underlying nature of the eye is known with neither desire nor 
      anger nor stupidity in relation to things seen, this is nirvana. 
      “Likewise, the ear and sound, the nose and smell, the tongue and taste, 
      the body and touch, and the mind and ideation are dualities (but) if the 
      underlying nature of the mind is known with neither desire, anger and 
      stupidity in relation to things (heard, smelt, tasted, touched and 
      thought), this is nirvana. Resting in this state (of nirvana) is 
      initiation into the non-dual Dharma.” 
      
      t)       
      Bồ Tát Vô Tận Ý nói: “Bố Thí và Hồi Hướng Nhứt Thiết Trí là hai. 
      Tánh bố thí tức là tánh hồi hướng nhứt thiết trí. Trì giới, nhẫn nhục, 
      tinh tấn, thiền định, trí tuệ và hồi hướng nhứt thiết trí lại cũng là hai. 
      Tánh trí tuệ tức là tánh hồi hướng nhứt thiết trí, ở trong đó vào một 
      tướng là vào pháp môn không hai.”—The Bodhisattva “Inexhaustible Mind” 
      said: “Charity-perfection (dana-paramita) and the dedication (parinamana) 
      of its merits towards realizing the all-knowledge (sarvajna) are a 
      duality, (but) the underlying nature of charity is dedication towards the 
      All-knowledge. “Likewise, discipline perfection (sila-paramita), 
      patience-perfection, (ksanti-paramita), zeal-perfection (virya-paramita), 
      meditation-perfection (dhyana-paramita) and wisdom-perfection 
      (prajna-paramita), with dedication to the All-knowledge, are (five) 
      dualities, but their underlying natures are but dedication to the 
      All-knowledge, while realization of their oneness is initiation into the 
      non-dual Dharma.”
      
      u)      
      Bồ Tát Thâm Tuệ nói: “Không Vô Tướng và Vô Tác là hai. Không tức là 
      vô tướng, vô tướng tức là vô tác. Nếu không vô tướng, vô tác thời không có 
      tâm, ý thức. Một món giải thoát là ba món giải thoát, đó là vào pháp môn 
      không hai.”—The Bodhisattva “Profound Wisdom” said: “Voidness, 
      formlessness and non-activity are (three different gates to liberation, 
      and when each is compared to the other two there are) three dualities, 
      (but) voidness is formless and formlessness is non-active.  For when 
      voidness, formlessness and non-activity obtain, there is neither mind, nor 
      intellect nor consciousness, and liberation through either one of these 
      three gates is identical with liberation through all the three.  This is 
      initiation into the non-dual Dharma.”
      
      v)      
      Bồ Tát Tịnh Căn nói: “Phật, Pháp, và chúng Tăng là hai. Phật tức là 
      Pháp, Pháp tức là chúng Tăng. Ba ngôi báu ấy đều là tướng vô vi, cũng như 
      hư không. Tất cả pháp cũng vậy, theo được hạnh ấy là vào pháp môn không 
      hai.”—The Bodhisattva “Unstirred Sense Organs” said: “Buddha, Dharma and 
      Sangha are three different treasures and when each is compared to the 
      other two there are three dualities (but) Buddha is identical with Dharma, 
      and Dharma is identical with Sangha.  For the three treasures are 
      non-active (wu wei) and are equal to space, with the same equality for all 
      things.  The realization of this (equality) is initiation into the 
      non-dual Dharma.”
      
      w)     
      Bồ Tát Tâm Vô Ngại nói: “Thân và Thân Diệt là hai. Thân tức là thân 
      diệt. Vì sao? Thấy thực tướng của thân thời không thấy thân và thân diệt. 
      Thân và thân diệt không hai, không khác, theo đó chẳng kinh chẳng sợ là 
      vào pháp môn không hai.”—The Bodhisattva “Unimpeded Mind” said: “Body and 
      its eradication (in nirvana) are a duality but body is identical with 
      nirvana.  Why?  Because if the underlying nature of body is perceived, no 
      conception of (existing) body and its nirvanic condition will arise, for 
      both are fundamentally non-dual, not being two different things.  The 
      absence of alarm and dread when confronting this ultimate state is 
      initiation into the non-dual Dharma.” 
      
      x)       
      Bồ Tát Thượng Thiện nói: “Thân Thiện, Khẩu Thiện và Ý Thiện là hai. 
      Ba nghiệp này là tướng vô tác. Tướng vô tác của thân tức là tướng vô tác 
      của khẩu, tướng vô tác của khẩu tức là tướng vô tác của ý. Tướng vô tác 
      của ba nghiệp nầy tức là tướng vô tác của tất cả các pháp. Tùy thuận trí 
      tuệ vô tác như thế là vào pháp môn không hai.”—The Bodhisattva “Superior 
      Virtue” said: “The three karmas (produced by) body, mouth and mind (are 
      different when each is compared to the other two and make three) dualities 
      (but) their underlying nature is non-active; so non-active body is 
      identical with non-active mouth, which is identical with non-active mind.  
      These three karmas being non-active, all things are also non-active.  
      Likewise, if wisdom (prajna) is also non-active, this is initiation into 
      the non-dual Dharma.” 
      
      y)      
      Bồ Tát Phước Điền nói: “Làm Phước, Làm Tội, Làm Bất Động là hai. 
      Thực tánh của ba việc làm tức là Không, không thời không làm phước, không 
      làm tội, không làm bất động. Ở ba việc nầy mà không khởi là vào pháp môn 
      không hai.”—The Bodhisattva “Field of Blessedness” said: “Good conduct, 
      evil conduct and motionlessness are (different and when each is compared 
      to the other two make three) dualities (but) the underlying nature of all 
      three is voidness which is free from good, evil and motionlessness.  The 
      non-rising of these three is initiation into the non-dual Dharma.” 
      
      
      z)       
      Bồ Tát Hoa Nghiêm nói: “Do Ngã mà Khởi ra là hai. Thấy được thực 
      tướng của ngã thời không khởi ra hai pháp. Nếu không trụ hai pháp thời 
      không có thức. Không có thức là vào pháp môn không hai.”—The Bodhisattva 
      “Majestic Blossom” said: “The ego and its objective are a duality, (but) 
      if the underlying nature of the ego is looked into, this duality 
      vanishes.  If duality is cast away there will be no consciousness, and 
      freedom from consciousness is initiation into the non-dual Dharma.” 
      
      
      aa)   
      Bồ Tát Đức Tạng nói: “Có tướng Sở Đắc là hai. Nếu không có sở đắc 
      thời không có lấy bỏ. Không lấy bỏ là vào pháp môn không hai.”—The 
      Bodhisattva “Treasure of Threefold Potency” said: “Realization implies 
      subject and object which are a duality, but if nothing is regarded as 
      realization, there will be neither grasping nor rejecting, and freedom 
      from grasping and rejecting is initiation into the non-dual Dharma.”
      
      
      bb)  
      Bồ Tát Nguyệt Thượng nói: “Tối và Sáng là hai. Không tối, không 
      sáng thời không có hai. Vì sao? Như vào định diệt thọ tưởng thời không có 
      tối, không có sáng. Tất cả pháp tướng cũng như thế; bình đẳng vào chỗ ấy 
      là vào pháp môn không hai.”—The Bodhisattva “Moon in Midheaven” said: 
      “Darkness and light are a duality.  Where there is neither darkness nor 
      light, this duality is no more. Why?  Because in the state of samadhi 
      resulting from the complete extinction of sensation and thought there is 
      neither darkness nor light, while all things disappear. A disinterested 
      entry into this state is initiation into the non-dual Dharma.”
      
      cc)   
      Bồ Tát Ấn Thủ nói: “Ưa Niết Bàn, Không Ưa Thế Gian là hai. Nếu 
      không ưa Niết Bàn, không chán thế gian thời không có hai. Vì sao? Nếu có 
      buộc thời có mở, nếu không có buộc thì nào có cầu mở. Không buộc, không 
      mở, thời không ưa, không chán, đó là vào pháp môn không hai.”—The 
      Bodhisattva Ratna Mudra( (Precious Symbol) said: Joy in nirvana and 
      sadness in samsara are a duality which vanishes when there is no longer 
      joy and sadness.  Why?  Because where there is bondage, there is also 
      (desire for) liberation, but if fundamentally there is no bondage nor 
      liberation, there will be neither joy nor sadness; this is initiation into 
      the non-dual Dharma.”
      
      dd)  
      Bồ Tát Châu Đảnh Vương nói: “Chánh Đạo và Tà Đạo là hai. Ở chánh 
      đạo thời không phân biệt thế nào là tà, thế nào là chánh. Lìa hai món phân 
      biệt đó là vào pháp môn không hai.”—The Bodhisattva “Gem on the Head” 
      said: “Orthodoxy and heterodoxy are a duality, (but) he who dwells in 
      (i.e. realizes) orthodoxy does not discriminate between orthodoxy and 
      heterodoxy.  Keeping from these two extremes is initiation into the 
      non-dual Dharma.” 
      
      ee)   
      Bồ Tát Nhạo Thật nói: “Thực và Không Thực là hai. Thực thấy còn 
      không thấy thực, huống là không thực thấy. Vì sao? Không phải mắt thịt mà 
      thấy được, chỉ có mắt tuệ mới thấy được. Nhưng mắt tuệ không thấy mà chỗ 
      nào cũng thấy cả, đó là vào pháp môn không hai.”—The Bodhisattva “Joy in 
      Reality” said: “Reality and unreality are a duality, (but) he who realizes 
      reality does not even perceive it, still less unreality.  Why?  Because 
      reality is invisible to the ordinary eyes and appears only to the eye of 
      wisdom.  Thus (realization of) the eye of wisdom, which is neither 
      observant nor unobservant, is initiation into the non-dual Dharma.” 
      
      
      ff)     
      Các Bồ Tát nói như thế rồi, hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi thế nào là Bồ 
      Tát vào pháp môn không hai—After the Bodhisattva had spoken, they asked 
      Manjusri for his opinion on the non-dual Dharma. 
      
      gg)  
      Ngài Văn Thù Sư Lợi nói: “Như ý tôi đối với tất cả các pháp không 
      nói, không rằng, không chỉ, không biết, xa lìa các vấn đáp, đó là vào pháp 
      môn không hai.”—Manjusri said: “In my opinion, when all things are no 
      longer within the province of either word or speech, and of either 
      indication or knowledge, and are beyond questions and answers, this is 
      initiation into the non-dual Dharma.” 
      
      hh)  
      Khi đó ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi ông Duy Ma Cật rằng: “Chúng tôi ai 
      ai cũng nói rồi, đến lượt nhân giả nói thế nào là Bồ Tát vào pháp môn 
      không hai?”—At that time, Manjusri asked Vimalakirti: “All of us have 
      spoken; please tell us what is the Bodhisattva’s initiation into the 
      non-dual Dharma.” 
      
      ii)      
      Ông Duy Ma Cật im lặng không nói một lời. Bấy giờ Ngài Văn Thù Sư 
      Lợi khen rằng: “Hay thay! Hay thay! Cho đến không có văn tự ngữ ngôn, đó 
      mới thật là vào pháp môn không hai.”—Vimalakirti kept silent without 
      saying a word. At that, Manjusri exclaimed: “Excellent, excellent; can 
      there be true initiation into the non-dual Dharma until words and speech 
      are no longer written or spoken? 
      
      jj)      
      Sau khi nói phẩm pháp môn không hai nầy, trong chúng có năm ngàn Bồ 
      Tát đều vào pháp môn không hai, chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn—After this 
      initiation into the non-dual Dharma had been expounded, fie thousand 
      Bodhisattvas at the meeting were initiated into it thereby realizing the 
      patient endurance of the uncreate.
      
      Pháp Môn Hải: Pháp môn đối trị 
      phiền não của Phật nhiều như biển cả—The ocean of Buddha’s methods.
      
      Pháp Môn Không Hai: Non-Dual 
      Dharma—See Pháp Môn Bất Nhị. 
      
      Pháp Môn Lợi Ích Cho Tự Ngã: 
      Theo Tương Ưng Bộ Kinh, Phẩm Veludvara, Đức Phật đã dạy về Pháp Môn Đưa 
      Đến Bảy Điều Lợi Ích Cho Tự Ngã. Vị nào thành tựu bảy điều lợi ích này, 
      nếu muốn có thể tuyên bố: “Ta đã đoạn tận địa ngục, đoạn tận khỏi sanh vào 
      loại bàng sanh, đoạn tận cõi ngạ quỷ, đoạn tận các ác sanh, ác thú, đọa 
      xứ, được các bậc Thánh ái kính, không bị phá hoại, không bị đâm cắt, không 
      bị điểm ố, không bị uế nhiễm, đem lại giải thoát, được người trí tán thán, 
      không bị chấp thủ. Vị nầy đã đạt quả “Dị Lưu—According to The Connected 
      Discourses of the Buddha, Chapter Veludvara, the Buddha taught about the 
      Dharma exposition applicable to oneself. Those who possess these below 
      mentioned good qualities. 
      
      (A)  Thân Hành 
      Thanh Tịnh—Purified bodily conduct:
      
      1)      Vị 
      Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Ta muốn sống, không muốn chết; muốn lạc, 
      không muốn khổ. Nếu có ai đến đoạt mạng sống của ta, một người muốn sống, 
      không muốn chết, muốn lạc, không muốn khổ, như vậy là một việc không khả 
      ái, không khả ý đối với ta. Nhưng nếu ta đoạt mạng sống của một người muốn 
      sống sống, không muốn chết, muốn lạc, không muốn khổ, như vậy cũng là một 
      việc không khả ái, không khả ý đối với người ấy. Một pháp không khả ái, 
      không khả ý cho ta, thời pháp ấy cũng không khả ái, không khả ý cho người 
      khác. Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao lại đem 
      cột pháp ấy cho một người khác? Do suy tư như vậy, vị ấy từ bỏ sát sanh, 
      khuyến khích người khác từ bỏ sát sanh, nói lời tán thán từ bỏ sát sanh. 
      Như vậy về thân hành, vị ấy hoàn toàn thanh tịnh—A noble disciple reflects 
      thus: “I am one who wishes to live, who does not wish to die; I desire 
      happiness and am averse to suffering. Since I am one who wish to live, who 
      do not wish to die; if someone were to take my life, that would not be 
      pleasing and agreeable to me. Now if I were to take the life of another, 
      of one who wishes to live, who does not wish to die, who desires happiness 
      and is averse to suffering; that would not be pleasing and agreeable to 
      the other either. What is displeasing and disagreeable to me is 
      displeasing and disagreeable to other too. How can I inflict upon another 
      what is displeasing and disagreeable to me?” Having reflected thus, he 
      himself abstains from the destruction of life, exhorts others to abstain 
      from the destruction of life, and speaks in praise of abstinence from 
      destruction of life. Thus this bodily conduct of his is purified. 
      
      2)      Vị 
      Thánh đệ tử suy tư như sau: “Nếu có ai lấy của không cho của ta, gọi là ăn 
      trộm, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta. Nhưng nếu ta 
      lấy của không cho của người khác, gọi là ăn trộm, như vậy là một việc 
      không khả ái, không khả ý cho người ấy. Một pháp này không khả ái, không 
      khả ý cho ta, thời pháp ấy cũng không khả ái và không khả ý cho người 
      khác. Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao lại đem 
      cột pháp ấy cho người khác?” Do suy tư như vậy, vị ấy từ bỏ lấy của không 
      cho, khuyến khích người khác từ bỏ lấy của không cho, nói lời tán thán từ 
      bỏ lấy của không cho. Như vậy về thân hành, vị ấy được hoàn toàn thanh 
      tịnh—A noble disciple reflects thus: “If someone were to take from me what 
      I have not given, that is, to commit theft, that would not be pleasing and 
      agreeable to me. Noe if I were to take from another what he has not given, 
      that is, to commit theft, that would not be pleasing and agreeable to the 
      other either. What is displeasing and disagreeable to me displeasing and 
      disagreeable to me is displeasing and disagreeable to the other too. How 
      can I inflict upon another what is displeasing and disagreable to me?” 
      Having reflected thus, he imself abstains from taking what is not given, 
      exhorts others to abstain from taking what is not given. Thus this bodily 
      conduct of his is purified. 
      
      3)      Vị 
      Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Nếu ai có tà hạnh với vợ của ta, như vậy là 
      một việc không khả ái, không khả ý cho ta. Nhưng nếu ta có tà hạnh với vợ 
      của người khác, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho người 
      ấy. Một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời pháp này không khả 
      ái, không khả ý cho người khác. Và một pháp này không khả ái, không khả ý 
      cho ta, thời sao ta lại đem cột pháp ấy cho người khác?” Do suy tư như 
      vậy, vị ấy tự mình từ bỏ tà hạnh trong các dục, khuyến khích người khác 
      từ  bỏ tà hạnh trong các dục, nói lời tán thán từ bỏ tà hạnh trong các 
      dục. Như vậy về thân, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh—A noble disciple 
      reflects thus: “If someone were to commit adultery with my wife, that 
      would not be pleasing and agreeable to me. Now if I were to commit 
      adultery with the wives of another, that would not be pleasing and 
      agreeable to the other either. What is displeasing and disageable to me is 
      displeasing and disagreeable to the other too. How can I inflict upon 
      another what is displeasing and disagreeable to me?” Having reflected 
      thus, he himself abstains from sexual misconduct, exhorts others to 
      abstain from sexual misconduct. Thus this bodily conduct of his  is 
      purified. 
      
      (B)  Khẩu Hành 
      Thanh Tịnh—Purified verbal conduct:
      
      1)      Vị 
      Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Nếu có ai làm tổn hại lợi ích của ta với 
      lời nói láo, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta. Nhưng 
      nếu ta cũng làm tổn hại lợi ích của người khác với lời nói láo, như vậy 
      cũng là một việc không khả ái, không khả ý cho người ấy. Một pháp này 
      không khả ái, không khả ý cho ta, thời pháp này không khả ái, không khả ý 
      cho người khác. Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao 
      lại đem cột pháp ấy cho người khác?” Do suy tư như vậy, vị ấy tự mình bỏ 
      nói láo, khuyến khích người khác từ bỏ nói láo, nói lời tán thán từ bỏ nói 
      láo. Như vậy về khẩu hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh—A noble 
      disciple reflects thus: “If someone were to damage my welfare with false 
      speech, that would not be pleasing and agreeable to me. Now if I were to 
      damage the welfare of another with false speech, that would not be 
      pleasing and agreeable to the other either. What is displeasing and 
      disagreeable to me is displeasing and disagreeable to the other too. How 
      can I inflict upon another  what is displeasing and disagreeable to me?” 
      Having reflected thus, he himself abstains from false speech, exhorts  
      others to abstain from false speech, and speaks in praise of abstinence 
      from false speech. Thus this verbal conduct of his is purified.
      
      2)      Một vị 
      Thánh đệ tử suy tư như vầy: “Nếu có ai chia rẽ bạn bè ta bằng lời nói hai 
      lưỡi, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta. Nhưng nếu ta 
      chia rẽ bạn bè người khác bằng lời nói hai lưỡi, như vậy là một việc không 
      khả ái, không khả ý cho người ấy…” (phần còn lại giống như #4). Do suy tư 
      như vậy, vị ấy tự mình từ bỏ nói hai lưỡi, khuyến khích người khác từ bỏ 
      nói hai lưỡi, nói lời tán thán từ bỏ nói hai lưỡi. Như vậy, về khẩu hành, 
      vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh—A noble disciple reflects thus: “If 
      someone were to divide me from my friends by divisive speech, that would 
      not be pleasing and agreeable to me. Now if I were to divide another from 
      his friends by divisive speech, that would not be pleasing and agreeable 
      to the other either…” (the rest remains the same as in #4). Thus this 
      verbal conduct of his is purified.
      
      3)      Vị 
      Thánh đệ tử suy nghĩ như vầy: “Nếu có ai đối xử với ta bằng thô ác ngữ, 
      như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta. Nhưng nếu ta cũng 
      đối xử với người khác bằng thô ác ngữ, như vậy cũng là một việc không khả 
      ái, không khả ý cho người ấy. Và một pháp không khả ái… đem cột pháp ấy 
      vào cho một người khác?” (phần còn lại cũng giống như phần còn lại của 
      #4). Do suy tư như vậy, tự ấy tự mình từ bỏ thô ác ngữ, khuyến khích người 
      khác từ bỏ thô ác ngữ, nói lời tán thán từ bỏ thô ác ngữ. Như vậy, về khẩu 
      hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh—A  noble disciple reflects thus: “If 
      someone were to address me with some harsh speech, that would not be 
      pleasing and agreeable to me. Now if I were to address another with harsh 
      speech, that would not be pleasing and agreeable to the other either…” 
      (the rest remains the same as in #4). Thus this verbal conduct is 
      purified.
      
      4)      Vị 
      Thánh đệ tử suy tư như vầy: “Nếu có ai đối xử với ta bằng lời tạp ngữ phù 
      phiếm, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta. Nhưng nếu ta 
      cũng đối xử với người khác lời tạp ngữ phù phiếm, như vậy là một việc 
      không khả ái, không khả ý cho người ấy. Và một pháp không khả ái, không 
      khả ý cho ta, thời pháp ấy cũng không khả ái, không khả ý cho người khác… 
      đem cột pháp ấy cho người khác?” Do suy tư như vậy, vị ấy tự mình từ bỏ 
      lời nói phù phiếm, khuyến khích người khác từ bỏ lời nói phù phiếm, tán 
      thán từ bỏ lời nói phù phiếm. Như vậy, về khẩu hành, vị ấy được hoàn toàn 
      thanh tịnh—A noble disciple reflects thus: “If someone were to address me 
      with frivolous speech and idle chatter, that would not be pleasing and 
      agreeable to me. Now if I were to address another with frivolous speech 
      and idle chatter, that would not be pleasing and agreeable to the other 
      either. What is displeasing and disagreeable to me is displeasing and 
      disagreeable to the other too. How  can I inflict upon another what is 
      displeasing and disagreeable to me?” Having reflected thus, he himself 
      abstains from idle chatter, exhorts others to abstain from idle chatter, 
      and speak in praise of abstinence from idle chatter. Thus this verbal 
      conduct of his is purified.        
      
      Pháp Môn Nhẫn Nhục: Dharma gate 
      of Patience—Trong sáu pháp Ba La Mật, nhẫn nhục vô cùng quan trọng. Nếu 
      chúng ta tu tập toàn thiện pháp môn nhẫn nhục, chúng ta sẽ chắc chắn hoàn 
      thành đạo quả—Dharma door of patience—Among the six paramitas, the Dharma 
      door of patience is very important. If we cultivate the Dharma door of 
      patience to perfection, we will surely reach an accomplishment—Thực tập 
      pháp môn nhẫn nhục, chúng ta chẳng những không nóng tánh mà còn kham nhẫn 
      mọi việc—To practice the Dharma door of patience, one must not only be hot 
      tempered, but one should also endure everything.  
      
      Pháp Môn Niệm Phật: Dharma Door 
      of Buddha Recitation—Dù pháp môn Niệm Phật giản dị, nhưng rất thâm sâu. 
      Điều tối cần là phải niệm một cách chí thành tha thiết thì tư tưởng của 
      mình mới giao cảm được với tư tưởng Phật, và từ đó lợi ích mới có được 
      trong hiện đời. Nếu bạn trây lười lơ đểnh và không có nghị lực hăng hái, 
      thì bạn có thể gieo nhân giải thoát, nhưng ác nghiệp khinh lờn Phật pháp 
      là kết quả không thể nghĩ bàn. Tuy nhiên nhờ vào phước đức của sự niệm 
      Phật, bạn có thể thoát khỏi tam đồ ác đạo mà sanh vào cõi người hay cõi 
      trời, nhưng còn lâu lắm mới có đủ phước đức để câu hội Liên Trì—Although 
      Buddha recitation is simple, it is very deep and encompassing. However, it 
      is most important to be utterly sincere and earnest, for only then will 
      your thoughts merge with those of Amitabha Buddha’s and can you reap true 
      benefits in this very life. If you are lazy and careless or lack of 
      zealous energy, you may still sow the seeds of future liberation, but evil 
      karma as a result of disrespect the Buddha teachings is inconceivable.  
      However, thanks to the residual merits of reciting the name of Amitabha, 
      you escape the three evil paths and are reborn in the human or celestial 
      realms, but you will find it is very difficult to join the Ocean-Wide 
      Lotus Assembly.   
      
      Pháp Môn Thân: 
      
      1)      Tông 
      Thiên Thai lập thuyết tam thân của thân Phật—A T’ien-T’ai definition of 
      the Dharmakaya of the Trinity:
      
      a)      Sắc 
      Thân: The powers of the dharmakaya.
      
      b)      Pháp 
      Môn Thân: The methods of the Buddha. 
      
      c)      Thực 
      Tướng Thân: The reality or real qualities of the Buddha. 
      
      2)      Biểu 
      thị vô số hình tượng chư Phật và chư Bồ Tát trong Mạn Đà La: The various 
      representations of the perspective characteristics of Buddhas and 
      Bodhisattvas in the mandalas.
      
      Pháp Môn Tịnh Độ Bao Quát Mà Thực Hành Quá 
      Giản Dị: The Pure Land teaching is all-embracing, yet its 
      practice is extremely simple. 
      
      Pháp Môn Tịnh Độ Dễ Dàng Cho Mọi Căn Cơ: 
      The Pure Land method is easy for people of all capacities. 
      
      Pháp Ngã: Pháp chấp hay khái 
      niệm giả tạo cho rằng vạn hữu có tự tánh (các pháp sắc tâm thực có thể 
      tính), cá nhân hay độc lập, chứ không phải được thành lập bởi nhiều yếu tố 
      khác biệt nhau—The false notion of anything being a thing in itself, 
      individual or independent, and not merely composed of elements to be 
      disintegrated. 
      
      Pháp Ngã Kiến: Tà kiến pháp 
      chấp cho rằng sự vật hiện hữu với một bản chất độc lập—The erroneous 
      (false) view that anything exists with an independent nature.
      **For more information, 
      please see Pháp Ngã.
      
      Pháp Ngã Tướng: 
      Dharmatmyalakshana (skt)—Sự tin rằng có một cái gì đó thuộc về bản chất 
      đằng sau những gì hiện ra cho người ta thấy—The belief that there is 
      something substantial behind what is presented to one’s view. 
      
      Pháp Ngữ: 
      
      1)      Lời 
      Phật thuyết pháp—A word or a phrase of the Buddha’s preaching.
      
      2)      Bài 
      thuyết pháp (có thể là của một bậc thầy): Buddhist preaching—Dharma-words, 
      religious discourses. 
      
      Pháp Nha: Mầm non trong Phật 
      Giáo—The sprout or bud of Buddhism. 
      
      Pháp Nhãn: 
      
      1)      Pháp 
      nhãn có thể thấu suốt vạn hữu, có thể thấy rõ sự thật—The (Bodhisattva) 
      Dharma-eye which is able to penetrate all things—To see clearly or purely 
      the truth. 
      
      2)      Tên 
      của Thiền sư Văn Ích (885-958), người sáng lập ra Pháp Nhãn Tông, một 
      trong năm tông phái Thiền Trung Hoa—Name of Zen master Wen-Yi, the founder 
      of the Fa-Yen sect, one of the five Zen (Ch’an) schools in China.
      **   For more information, 
      please see Văn Ích 
             Thiền Sư.  
      
      Pháp Nhãn Tịnh: Thấy được chân 
      đế một cách rõ ràng—To see clearly or purely the truth. 
      
      1)      Pháp 
      Nhãn Tịnh Tiểu Thừa: Sơ quả kiến “Tứ Đế” pháp (thấy được chân lý Tứ Diệu 
      Đế)—In Hinayana, to see the truth of the four dogmas or four Noble Truths.
      
      2)      Pháp 
      Nhãn Tịnh Đại Thừa: Sơ địa đắc chân vô sanh pháp (thấy chân lý giải thoát 
      luân hồi sanh tử)—In Mahayana, to see the truth which releases from 
      reincarnation.  
      
      Pháp Nhãn Tông: Dòng Thiền được 
      sáng lập bởi ngài Văn Ích Thiền Sư—The Fa-Yen Sect, established by Wen-Yi 
      Zen Master—See Pháp Nhãn (2) and Văn Ích Thiền Sư.
      
      Pháp Nhãn Văn Ích: 
      Fa-Yen-Wen-Yi—See Văn Ích Thiền Sư. 
      
      Pháp Nhẫn: Dharmakshanti (skt).
      
      1)      Pháp 
      nhẫn là chấp nhận sự khẳng định rằng tất cả các sự vật là đúng như chính 
      chúng, không phải chịu luật sinh diệt là luật chỉ được thù thắng trong thế 
      giới hiện tượng tạo ra do phân biệt sai lầm: Dharmakshanti means 
      acceptance of the statement that all things are as they are, not being 
      subject to the law of birth and death, which prevails only in the 
      phenomenal world created by our wrong discrimination.  
      
      2)      Pháp 
      Nhẫn là sự nhẫn nại đạt được qua tu tập Phật pháp có khả năng giúp ta vượt 
      thoát ảo vọng. Cũng là khả năng kham nhẫn những khó khăn bên 
      ngoài—Patience attained through dharma to overcome illusion. Also, ability 
      to bear patiently external hardships.
      
      Pháp Nhập: Pháp Xứ—Cảnh giới mà 
      ý thức nương vịnh hay duyên vào đó, một trong thập nhị nhập—The sense-data 
      of direct mental perception, one of the twelve entrances or places 
      (dvadasayatanani).
      ** For more information, 
      please see Thập Nhị 
           Nhập. 
      
      Pháp Nhĩ: See Pháp Nhiên. 
      
      Pháp Nhiên: Luật lệ tự 
      nhiên—According to the rule, naturally.
      
      Pháp Nhũ: Lấy pháp làm thức ăn 
      để nuôi dưỡng pháp thân—The milk of the Dharma which nourishes the 
      spiritual nature
      
      Pháp Ni: Tỳ Kheo Ni—A nun. 
      
      Pháp Niệm Xứ: The position of 
      insight into the truth that nothing has reality in itself.
      ** For more information, 
      please see Tứ Niệm 
           Xứ. 
      
      Pháp Phi Pháp: Dharmadharma 
      (skt)—Real and unreal—Thing and nothing—Being and non-being.  
      
      Pháp Phục: Kasaya (skt)—Pháp Y 
      hay áo cà sa của Tăng Ni—Dharma garment, the robe—The religious dress, 
      general name of monastic garments. 
      
      Pháp Phược: See Pháp Chấp. 
      
      Pháp Quang Định: Đèn chân lý—Bồ 
      Tát sơ địa chứng đắc phép nầy thì có thể phóng ra tuệ quang (pháp quang 
      định)—Samadhi the light of Truth, that of the bodhisattva in the first 
      stage. 
      
      Pháp Sa: Kashgar (skt)—Theo 
      Eitel trong Trung Anh Tự Điển, Kashgar từng là một vương quốc cổ ở trung 
      Á—According to The Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms composed 
      by Professor Soothill, Kashgar was an ancient Buddhistic kingdom in 
      Central Asia. 
      
      Pháp Sơn: Núi chân lý Phật 
      Pháp—Buddha-truth mountain, i.e. the exalted dharma. 
      
      Pháp Số: Phạm trù hay số của 
      các pháp môn như tam giới, ngũ uẩn, ngũ vị, tứ đế, lục đạo, mười hai nhân 
      duyên, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, vân vân—The categories of Buddhism such 
      as the three realms, five skandhas, five regions, four dogmas, six paths, 
      twelve nidanas, and thirty-seven Aids to Enlightenment, etc.
      
      Pháp Sư: Dharma-bhanaka 
      (skt)—Expounder of the Law. 
      
      1)      Bậc tu 
      hành tinh thông Phật pháp, xứng đáng làm thầy của người khác—A Buddhist 
      teacher—Master of the Law—Teacher of the Law—Dharma teacher (master).
      
      2)      Nhà sư 
      chuyên giảng pháp—Có năm loại: A Buddhist monk who preaches the 
      Buddha-truth. There are five different kinds:
      i)        
      Thụ Trì Pháp Sư: A custodian of the sutras.
      
      ii)       Đọc 
      Kinh Pháp Sư: Reader.
      
      iii)     Tụng 
      Kinh Pháp Sư: Intoner.
      
      iv)     Giải 
      Thuyết Pháp Sư: Expounder.
      
      v)      Thư Tả 
      Pháp Sư: Copier. 
      
      Pháp Sự: Phật Sự—Dharma 
      work—Religious affairs.   
      
      Pháp Tài: Pháp nầy cũng có thể 
      đem lại lợi nhuận cho mọi người như tiền tài đem lai niềm vui hạnh phúc 
      cho người thế tục—The riches of the Law, or the law as wealth.
      
      Pháp Tàng: Chân lý Phật Pháp là 
      dấu hiệu tiêu biểu cho sức mạnh chế ngự ma quân—The standard of 
      Buddha-truth as an emblem of power over the hosts of Mara. 
      
      Pháp Tạng: Dharmakara 
      (skt)—Phật Pháp Tạng—Như Lai Tạng.  
      
      1)      Lý của 
      pháp tính hay pháp tính hàm chứa vô lượng đức tánh trong vũ 
      trụ—Dharma-store which contains innumerable dharma-nature in the universe.
      
      2)      Chân 
      lý tuyệt đối hàm chứa nơi vạn pháp trong vũ trụ, cũng là nguồn gốc căn bản 
      của vạn pháp: The absolute, unitary storehouse of the universe, the primal 
      source of all things.
      
      3)      Kho 
      Pháp Bảo kinh điển, chứa những kim ngôn ngọc ngữ của Phật:  The treasury 
      of Buddha’s teaching, the sutras, etc.
      
      4)      Thư 
      viện Phật Giáo: Any Buddhist library.
      
      5)      Pháp 
      Tạng Tỳ Kheo, một trong những tiền thân của Đức Phật A Di Đà: Dharmakara, 
      mine of the Law; one of the incarnations of Amitabha. 
      
      6)      Hiền 
      Thủ Pháp Tạng, tên người sáng lập ra tông Hoa Nghiêm: Hsien-Shou-Fa-Tsang, 
      name of the founder of the Hua-Yen Schol. 
      
      Pháp Tạng Bộ: Dharmaguptikas 
      (skt)—Pháp Tạng Bộ tách rời ra khỏi Hóa Địa Bộ do sự khác biệt về điểm nên 
      cúng dường Phật hay cúng dường Tăng Bảo. Bộ phái nầy chú trọng việc cúng 
      dường Phật và rất tôn kính các bảo tháp thờ Phật như được ghi rõ trong 
      Luật Tạng của họ. Giống như Hóa Địa Bộ, họ tin là các A La Hán đã đoạn trừ 
      hết dục vọng, và những người ngoại đạo không thể có được những quyền lực 
      siêu nhiên. Trường phái nầy một thời phổ biến ở Trung Á và Trung Hoa. Họ 
      có Kinh, Luật, và Luận Tạng riêng. Các tu viện ở Trung Hoa đều theo các 
      cấm giới của họ—The Dharmaguptikas broke away from the Mahisasakas with 
      whom they differed on points dealing with gifts to the Buddha or to the 
      Sangha. This school believed in offering gifts to the Buddha and greatly 
      revered the stupas of the Buddha as is clear from their rules (Vinaya). 
      Like the Mahisasakas, they believed that an Arhat was free from passion 
      and that heretics could not gain supernatural powers. This school was once 
      popular in Central Asia and China. They had their own Sutra, Vinaya, and 
      Abhidharma literature. The rules of their distinctive Pratimoksa were 
      followed in the monasteries of China.   
      
      Pháp Tánh: Tathagata-garbha or 
      Dharmata (skt)—Chơn tánh tuyệt đối của vạn hữu là bất biến, bất chuyển và 
      vượt ra ngoài mọi khái niệm phân biệt—Dharma-nature—The nature underlying 
      all things—Thusness—True Suchness—The absolute, the true nature of all 
      things which is immutable, immovable and beyond all concepts and 
      distinctions. Dharmata (pháp tánh)  or Dharma-nature, or the nature 
      underlying all things has numerous alternative forms:
      
      1)      Pháp 
      định: Inherent dharma or Buddha-nature.
      
      2)      Pháp 
      trụ: Abiding dharma-nature.
      
      3)      Pháp 
      giới: Dharmaksetra—Realm of dharma.
      
      4)      Pháp 
      thân: Dharmakaya—Embodiment of dharma.
      
      5)      Thực 
      tế: Region of reality.
      
      6)      Thực 
      tướng: Reality.
      
      7)      Không 
      tánh: Nature of the Void—Immaterial nature.
      
      8)      Phật 
      tánh: Buddha-nature.
      
      9)      Vô 
      tướng: Appearance of nothingness--Immateriality.
      
      10)  Chân như: 
      Bhutatathata.
      
      11)  Như Lai 
      tạng: Tathagatagarbha.
      
      12)  Bình đẳng 
      tánh: Universal nature.
      
      13)  Ly sanh 
      tánh: Immortal nature.
      
      14)  Vô ngã 
      tánh: Impersonal nature.
      
      15)  Hư định 
      giới: Realm of abstraction.
      
      16)  Bất biến 
      dị tánh: Immutable nature.
      
      17)  Bất tư 
      nghì giới: Realm beyond thought.
      
      18)  Tự tánh 
      thanh tịnh tâm: Mind of absolute purity, or unsulliedness. 
      
      Pháp Tánh Chân Như: Pháp tánh 
      và chân như (khác tên nhưng tự thể giống nhau)—Dharma-nature and 
      bhutatathata.  
      
      Pháp Tánh Độ: The ksetra 
      (skt)—Tánh Độ hay cõi mà pháp tánh thân (chơn như) an trụ—Region of the 
      dharma-nature, i.e. the bhutatathata.
      
      Pháp Tánh Hải: Pháp tánh sâu 
      rộng, không thể đo lường được, ví như biển cả bao la—The ocean of the 
      dharma-nature, vast, unfathomable. 
      
      Pháp Tánh Phật: Dharmatabuddha 
      (skt)—Đức Phật của chính bản thể, từ Pháp Thân Phật trong khía cạnh tuyệt 
      đối của nó—The Buddha as Essence itself, i.e., the Dharmakaya in its 
      absolute aspect. 
      
      Pháp Tánh Sở Lưu Phật: 
      Dharmatanishyanda-buddha (skt)—Đức Phật được quan niệm như là phát xuất từ 
      bản thể tối hậu của các sự vật, tức là,  một hình tướng của tuyệt đối được 
      hiện ra—The Buddha conceived as flowing out of the ultimate essence of 
      things, that is, a manifested form of the Absolute. 
      
      Pháp Tánh Sơn: Pháp tánh như 
      núi, cố định, không lay chuyển được—The dharma-nature as a mountain, i.e. 
      fixed, immovable. 
      
      Pháp Tánh Tam Muội: Samadhi as 
      the Dharma-nature. 
      
      Pháp Tánh Thân: See Pháp Thân. 
      
      
      Pháp Tánh Thủy: Nước pháp cam 
      lồ của Pháp Tánh (thanh tịnh)—The “sweet-dew” water of the dharma-nature 
      (pure).
      
      Pháp Tánh Thường Lạc: Pháp tánh 
      (một tên khác của niết bàn) nên có đầy đủ tứ tánh thường lạc ngã tịnh—The 
      eternity and bliss of the dharma-nature.
      
      Pháp Tánh Tông: Trường phái 
      (Hoa Nghiêm, Thiên Thai, Chân Ngôn) cho rằng vạn hữu đều xuất phát từ thật 
      tánh chân như—Sects (Hua-Yen, T’ien-T’ai, Shingnon) which hold that all 
      things proceed from the bhutatathata (all phenomena are of the same 
      essence as the noumena).
      
      Pháp Tánh Tùy Duyên: Pháp tánh 
      tùy duyên hay chân như tùy duyên. Thể của pháp tánh tùy theo nhiễm duyên 
      mà sanh ra, có thể là tĩnh hay động; khi động thì hoàn cảnh bên ngoài trở 
      nên ô nhiễm, mà gây nên phiền não; khi tĩnh là không ô nhiễm hay niết bàn. 
      Khi tĩnh như tánh của nước, khi động như tánh của sóng—The dharma-nature 
      in the sphere of illusion. Dharma-nature, or bhutatathata, in its 
      phenomenal character; the dharma-nature may be static or dynamic; when 
      dynamic it may by environment either become sullied, producing the world 
      of illusion, or remain unsullied, resulting in nirvana. Static, it is like 
      a smooth sea; dynamic, to its waves.   
      
      Pháp Tánh Tùy Vọng: See Pháp 
      Tánh Tùy Duyên. 
      
      Pháp Tập: See Pháp Hội. 
      
      Pháp Thanh Tịnh: Dharmaviraja 
      (skt)—Chân lý thanh tịnh—Truth immaculate. 
      
      Pháp Thành: Phật pháp là kinh 
      thành ngăn giữ không cho tà ngụy xâm nhập; kinh điển là thành trì bảo hộ 
      chân lý—Dharma as a citadel against the false; the secure nirvana 
      abode—The sutras as the guardian of truth.
      
      Pháp Thành Tựu: Siddhi (skt)—Sự 
      thành tựu của giáo pháp là không thể nghĩ bàn—The success of the law is 
      unconceivable.
      
      Pháp Thân: Dharmakaya (skt).
      
      (A)  Nghĩa của 
      Pháp thân—The meanings of Dharmakaya:
      
      1)      Pháp 
      thân là cái thân của Pháp, theo đó Dharma có nghĩa là phép tắc, tổ chức, 
      cơ cấu, hoặc nguyên lý điều hành. Nhưng chữ Dharma còn có nhiều nghĩa sâu 
      xa hơn, nhất là khi ghép với chữ Kaya thành Dharmakaya. Nó gợi lên một cá 
      thể, một tánh cách người. Chân lý tối cao của đạo Phật không phải chỉ là 
      một khái niệm trừu tượng như vậy, trái lại nó sống động với tất cả ý 
      nghĩa, thông suốt, và minh mẫn, và nhất là với tình thương thuần túy, gột 
      sạch tất cả bệnh tật và bợn nhơ của con người: Dharmakaya is usually 
      rendered “Law-body” where Dharma is understood in the sense of  of “law,” 
      “organization,” “systematization,” or “regulative principle.” But really 
      in Buddhism, Dharma has a very much more comprehensive meaning. Especially 
      when Dharma is coupled with Kaya. Dharmakaya implies the notion of 
      personality. The highest reality is not a mere abstraction, it is very 
      much alive with sense and awareness and intelligence, and, above all, with 
      love purged of human infirmities and defilements.  
      
      2)      Pháp 
      thân hay chân thân của Phật, thân thứ nhất trong tam thân Phật—Dharma 
      body—Embodiment of truth and Law—The spiritual of true 
      body—Nirmanakaya—The transformation Body of the Buddha—The Body-of-form of 
      all Buddhas which is manifested for the sake of men who cannot yet 
      approach the Dharmakaya—The formless true body of Buddhahood. The first of 
      the Trikaya. 
      
      3)      Pháp 
      thân là một quan niệm hệ trọng trong giáo lý Phật giáo, chỉ vào thực tại 
      của muôn vật hoặc pháp: Dharmakaya or the law body is an important 
      conception in Buddhist doctrine of reality, or things. 
      
      4)      Theo 
      Thiền Sư D.T. Suzuki trong Cốt Tủy Đạo Phật, Pháp Thân không có trí và bi. 
      Pháp thân tự nó là trí hoặc là bi, tùy lúc ta cần nhấn mạnh ở mặt nầy hay 
      mặt khác. Nếu ta hình dung Pháp thân như hình ảnh hoặc phản ảnh của chính 
      ta sẳn có về con người là chúng ta lầm. Pháp thân không hề có thứ thân nào 
      mường tượng như vậy. Pháp Thân là Tâm, là miếng đất của hành động, tại đó 
      bi và trí hòa đồng trong nhau, chuyển hóa cái nầy thành cái kia, và gây 
      thành nguồn năng lực kích động thế giới giác quan và tri thức: According 
      to Zen Master D.T. Suzuki in the Essence of Buddhism, the Dharmakaya is 
      not the owner of wisdom and compassion, he is the Wisdom or the 
      Compassion, as either phase of his being is emphasized for some special 
      reason. We shall miss the point entirely if we take him as somewhat 
      resembling or reflecting the human conception of man. He has no body in 
      the sense we have a human body. He is spirit, he is the field of action, 
      if we can use this form of expression, where wisdom and compassion are 
      fused together, are transformed into each other, and become the principle 
      of vitality in the world of sense-intellect. 
      
      5)      Theo 
      triết học Trung Quán, Pháp là bản chất của vật tồn hữu, là thực tại chung 
      cực, là Tuyệt đối. Pháp thân là tánh chất căn bản của Đức Phật. Đức Phật 
      dùng Pháp thân để thể nghiệm sự đồng nhất của Ngài với Pháp hoặc Tuyệt 
      Đối, và thể nghiệm sự thống nhất của Ngài với tất cả chúng sanh. Pháp thân 
      là một loại tồn hữu hiểu biết, từ bi, là đầu nguồn vô tận của tình yêu 
      thương và lòng từ bi. Khi một đệ tử của Phật là Bát Ca La sắp tịch diệt, 
      đã bày tỏ một cách nhiệt thành sự mong muốn được trông thấy Đức Phật tận 
      mắt. Đức Phật bảo Bát Ca Lê rằng: “Nếu ngươi thấy Pháp thì đó chính là 
      thấy ta, ngươi thấy Ta cũng chính là thấy Pháp.”—According to the 
      Madhyamaka philosophy, Dharma is the essence of being, the ultimate 
      Reality, the Absolute. The Dharmakaya is the esential nature of the 
      Buddha. As Dharmakaya, the Buddha experiences his identity with Dharma or 
      the Absolute and his unity with all beings. The Dharmakaya is a knowing 
      and loving, an inexhaustible fountain head of love and compassion. When 
      the Buddha’s disciple, Vakkali, was on his death, he addressed his desire 
      to see the Buddha in person. On that occasion, the Buddha remarked: “He 
      who sees the Dharma sees Me. He who sees Me sees the Dharma.”     
      
      (B)  Phân loại 
      Pháp Thân—Categories of Dharmakaya:
      
      1)      Hai 
      loại Pháp Thân—Two kinds of Dharmakaya: 
      
      a)      Tổng 
      Tướng Pháp Thân: The unity of dharmakaya.
      
      b)      Biệt 
      Tướng Pháp Thân: The diversity of dharmakaya. 
      
      2)      Hai 
      loại Pháp thân khác—Other two kinds of Dharmakaya: Theo Giáo Sư Junjiro 
      Takakusu trong Cương Yếu Triết Học Phật Giáo, có hai loại Pháp Thân là bản 
      thân giáo pháp và bản thân lý thể—According to Prof. Junjiro Takakusu in 
      The Essentials of Buddhist Philosophy, Dharmakaya has two senses:
      
      a)      Bản 
      thân giáo pháp: Scripture-body—Chỉ cho giáo điển tồn tại làm biểu tượng 
      cho bản thân của Phật sau khi ngài khuất bóng—Scripture-body means that 
      the teaching remains as representative of the body after the Buddha’s 
      demise.
      
      b)      Bản 
      thân lý thể: Ideal-body—Chỉ cho giác ngộ như là bản thân  Vô tướng—The 
      Ideal-body means the Enlightenment as a Formless-body.  
      **  For more information, 
      please see Nhị Pháp 
            Thân, Tam Pháp Thân, 
      and Tam Thân      
            Phật. 
      
      Pháp Thân Bồ Tát: See Pháp Thân 
      Đại Sĩ. 
      
      Pháp Thân Đại Sĩ: Pháp Thân Bồ 
      Tát—Theo tông Thiên Thai, đây là bậc Bồ Tát mới lìa bỏ được một phần của 
      vô minh mà hiển hiện được một phần pháp tính (Bồ Tát từ sơ địa trở 
      lên)—According to the T’ien-T’ai sect, the Dharmakaya Mahasattva is one 
      who has partially freed himself from illusion and partially attained the 
      six spiritual powers (Lục thông). He is above the initial stage.  
      
      Pháp Thân Hóa Sanh: The 
      dharmakaya, or spiritual body, born or formed on a disciple’s conversion.
      
      
      Pháp Thân Huệ Mệnh: See Pháp 
      mệnh. 
      
      Pháp Thân Kệ: Dharmakaya-gatha 
      (skt)—See Duyên Khởi Kệ and Pháp Thân Xá Lợi.   
      
      Pháp Thân Lưu Chuyển: Chân Như 
      là thể của pháp thân. Chân Như có hai nghĩa bất biến và tùy duyên. Theo 
      nghĩa tùy duyên mà bị ràng buộc với các duyên nhiễm và tịnh để biến sanh 
      ra y báo và chánh báo trong thập giới (pháp thân trôi chảy trong dòng 
      chúng sanh)—Dharmakaya in its phenomenal character, conceived as becoming, 
      as expressing itself  in the stream of being. 
      
      Pháp Thân Như  Lai: The 
      Dharmakaya Tathagata (skt)—Pháp thân tuy không đến không đi, nhưng dựa vào 
      ẩn mật của Như Lai Tạng mà hiển hiện làm pháp thân—The Buddha who reveals 
      the spiritual body. 
      
      Pháp Thân Phật: Thể của pháp 
      tính (có cái đức giác tri) gọi là Pháp Thân Phật—The Dharmakaya Buddha.
      
      
      Pháp Thân Quán: Meditation on 
      (insight into) the Dharmakaya.
      
      Pháp Thân Tạng: Pháp thân tạng 
      là nơi tồn trữ pháp thân, là tinh yếu của Phật quả, bằng quán chiếu (thiền 
      quán) mà bậc Thánh đạt được—The storehouse of the Dharmakaya—The essence 
      of Buddhahood by contemplating which the holy man attains to it. 
      
      Pháp Thân Thanh Tịnh: The pure 
      dharmabody. 
      
      Pháp Thân Tháp: Tháp có đặt xá 
      lợi Phật. Mật giáo lấy chữ “Tông” trong tiếng Phạn là Pháp Thân (vì chữ 
      “Tông” là hạt giống pháp giới, hình dáng như tháp tròn)—The pagoda where 
      abides a spiritual relic of Buddha; the esoteric sect uses the letter 
      “Tsung” as such an abode of the dharmakaya. 
      
      Pháp Thân Thể Tánh: Thể tánh 
      của pháp thân—The embodiment or totality, or nature of the Dharmakaya.
      
      1)      Tiểu 
      Thừa Pháp Thân Thể Tánh: Trong Tiểu Thừa, Phật tánh là cái gì tuyệt đối, 
      không thể nghĩ bàn, không thể nói về lý tánh, mà chỉ nói về ngũ phần pháp 
      thân hay ngũ phần công đức của giới, định, tuệ, giải thoát, và giải thoát 
      tri kiến—In Hinayana the Buddha-nature in its absolute side is described 
      as not discussed, being synonymous with the five divisions of the 
      commandments, meditation, wisdom, release, and doctrine. 
      
      2)      Đại 
      Thừa Pháp Thân Thể Tánh—In the Mahayana:
      
      a)      Đại 
      Thừa Tam Luận Tông của Ngài Long Thọ lấy thực tướng làm pháp thân. Thực 
      tướng là lý không, là chân không, là vô tướng, mà chứa đựng tất cả các 
      pháp. Đây là thể tính của pháp thân—The Madhyamika School of Nagarjuna 
      defines the absolute  or ultimate reality as the formless which contains 
      all forms, the essence of being, the noumenon of the other two 
      manifestations of the Triratna.
      
      b)      Pháp 
      Tướng Tông hay Duy Thức Tông định nghĩa pháp thân thể tính như sau—The  
      Dharmalaksana School defines the nature of the dharmakaya as:
      
      ·       
      Pháp thân có đủ ba thân: The nature or essence of the whole 
      Triratna.
      
      ·       
      Pháp thân trong ba thân: The particular form of the Dharma 
      in that trinity.
      
      c)      Nhất 
      Thừa Tông của Hoa Nghiêm và Thiên Thai  thì cho rằng “Pháp Thân” là chân 
      như, là lý và trí bất khả phân—The One-Vehicle Schools represented by the 
      Hua-Yen and T’ien-T’ai sects, consider the nature of the dharmakaya to be 
      the Bhutatathata, noumenon and wisdom being one and undivided.  
      
      d)      Chân 
      Ngôn Tông thì lấy lục đại làm Pháp Thân Thể Tính—The Shingon sect takes 
      the six elements as the nature of dharmakaya:
      
      ·       
      Lý Pháp Thân: Lấy ngũ đại (đất, nước, lửa, gió, hư không) 
      làm trí hay căn bản pháp thân—Takes the sixth elements (earth, water, 
      fire, air, space) as noumenon or fundamental Dharmakaya.
      
      ·       
      Trí Pháp Thân: Lấy tâm làm Trí Pháp Thân—Takes mind 
      (intelligence or knowledge) as the wisdom dharmakaya. 
      
      Pháp Thân Trí: The wisdom or 
      expression of the Dharmakaya.
      
      Pháp Thân Tuệ Mệnh: The wisdom 
      life of the dharmakaya. 
      
      Pháp Thân Xá Lợi: Sarira 
      (skt)—Pháp thân xá lợi của Đức Phật, gồm những kinh điển, những bài kệ, và 
      lý trung đạo thực tướng bất biến mà Đức Phật từng thuyết giảng—The 
      spiritual relics of the Buddha, his sutras, or verses, his doctrine and 
      immutable law. 
      
      Pháp Thần: Phật là Pháp Vương, 
      chư Bồ Tát là Pháp Thần hay bề tôi của Pháp Vương—Ministers of the Law, 
      i.e. Bodhisattvas; the Buddha is King of the Law, these Bodhisattvas are 
      his ministers. 
      
      Pháp Thể: 
      
      1)      Thể 
      tính của chư pháp (hữu vi và vô vi)—Embodiment of the Law, or of things.
      
      a)      Vi 
      Diệu Pháp có 75 pháp thể: The Abhidharma has 75.
      
      b)      Thành 
      Thực Tông có 84: The Satyasiddhi-sastra has 84.
      
      c)      Du Già 
      hay Duy Thức Luận có 100: The Yogacara has 100. 
      
      2)      Vị 
      Tăng: A monk.
      
      Pháp Thệ: Một lời thệ nguyện 
      khi phát tâm tu hành—A religious vow.
      
      Pháp Thí: Thuyết pháp hay ban 
      bố chân lý Phật pháp, là một trong những pháp cúng dường. Cúng dường pháp 
      là pháp cúng dường cao tột vì nó giúp người nghe có cơ duyên vượt thoát 
      luân hồi sanh tử để đạt tới Phật quả—Truth-giving—Offering of the 
      Buddha-truth—Among the various offerings to the Buddhas, the offering of 
      the Dharma is the highest because it enables the audience to transcend 
      Birth and Death and ultimately attain Buddhahood—The almsgiving of the 
      Buddha-truth.
      ** For more information, 
      please see Tam Bố 
           Thí.
      
      Pháp Thí Cúng Dường: See Pháp 
      thí.
      
      Pháp Thiên: Dharmadeva 
      (skt)—Một vị Tăng tại tu viện Na Lan Đà, dưới tên Pháp Thiên ngài đã dịch 
      46 tác phẩm từ năm 973 đến năm 981, và dưới tên Pháp Hiền ngài đã dịch 72 
      tác phẩm từ năm 982 đến năm 1001—A monk from Nalanda-samgharama who 
      translated forty-six works under this name from 973 to 981, and under the 
      name of Dharmabhadra seventy-two works from 982-1001.
      
      Pháp Thông Thiện Hỷ: Thiền Sư 
      Pháp Thông Thiện Hỷ—Zen Master Pháp Thông Thiện Hỷ—Thiền Sư Việt Nam, quê 
      tại Nam Việt. Ngài là Pháp tử đời thứ 36 dòng Thiền Tào Động. Ngài khai 
      sơn ngôi chùa Long Ẩn trên núi Long Ẩn, tỉnh Phước Long, có lẽ vào năm 
      1733. Hầu hết cuộc đời ngài, ngài chấn hưng và hoằng hóa Phật giáo tại Nam 
      Việt. Sau khi ngài thị tịch, đệ tử xây tháp và thờ ngài ngay trước chùa—A 
      Vietnamese Zen Master from South Vietnam. He was the Dharma heir of the 
      thirty-sixth generation of the T’ao-T’ung Zen Sect. Probably in 1733, he 
      built Long Ẩn Temple on Mount Long Ẩn, in Phước Long province. He spent 
      most of his life to revive and expand Buddhism in the South. After he 
      passed away, to honor him, his disciples built his stupa at the right 
      front of the Temple. 
      
      Pháp Thụ: Cây Pháp, hay Phật 
      pháp có khả năng giúp người ta thu được quả vị Niết Bàn—The dharma-tree  
      or Buddha-teaching which bears nirvana fruit. 
      
      Pháp Thuận: Thiền sư Pháp Thuận 
      (914-990)—Zen Master Pháp Thuận (914-990)—Thiền sư Việt Nam, sanh năm 914 
      tại Bắc Việt. Sư xuất gia từ thuở còn rất nhỏ, sau thọ giới với Thiền sư 
      Long Thọ Phù Trì và sau đó trở thành Pháp tử, đời thứ mười của dòng Tỳ Ni 
      Đa Lưu Chi. Vua Lê thường mời sư vào triều bàn việc chánh trị và ngoại 
      giao và xem sư như là Quốc Sư. Sư thị tịch năm 990, thọ 76 tuổi—Zen master 
      Pháp Thuận, a Vietnamese Zen master, born in 914 in North Vietnam. He left 
      home since he was very young. Later he received precepts from Zen Master 
      Long Thọ Phù Trì  and became the Dharma heir of the tenth lineage of the 
      Vinitaruci Sect. He was always invited to the Royal Palace by King Lê to 
      discuss the national political and foreign affairs. King Lê always 
      considered him as the National Teacher. He passed away in 990 A.D. at the 
      age of 76. 
      
      Pháp Thủy: Chân Lý Phật Pháp 
      giống như nước có khả năng rửa sạch mọi uế nhiễm phiền não—The 
      Buddha-truth likened to water, able to wash away the stains of illusion.
      
      Pháp Thuyền: Pháp Châu—Thuyền 
      Bát Nhã (thuyền Phật pháp) đưa con người từ biển sanh tử luân hồi sang bờ 
      giác ngộ Niết bàn—The barque of Buddha-truth which ferries men out from 
      the sea of mortality and reincarnation to enlightenment and nirvana. 
      
      Pháp Thư: Dharma book.
      
      Pháp Thực: Dharmahara (skt).
      
      1)      Những 
      thức ăn đúng theo quy định hay những thức ăn đúng theo phép tắc do Phật 
      chế định—Diet in harmony with the rules in Buddhism.
      
      2)      Chân 
      lý là pháp thực: Truth is dharma-food.
      
      3)      For 
      more information, please see Dharmahara in Sanskrit/Pali-Vietnamese 
      Section. 
      
      Pháp Thực Thời: Quy định thời 
      gian ăn uống, trước chứ không sau giờ ngọ—The regulation time for meals, 
      at or before noon, not after.
      
      Pháp Thực Tướng: Immortal 
      reality.  
      
      Pháp Thường Đại Mai Thiền Sư: 
      Zen master Fa-Chang-T’a-Mei—See Đại Mai Pháp Thường Thiền Sư. 
      
      Pháp Tính Độ: See Pháp Giới.
      
      
      Pháp Trai Nhựt: Ngày trì trai 
      giữ giới thường vào mỗi nửa tháng. Và sáu ngày giữ tám giới khác trong 
      tháng, tổng cộng là tám ngày Bát Quan Trai trong tháng. Trong những ngày 
      nầy Phật tử thuần thành thường giữ Bát quan Trai giới—The day of 
      abstinence observed at the end of each half month. Also the six abstinence 
      days, in all making the eight days for keeping the eight commandments. On 
      these days Good Buddhists always keep the eight commandments. 
      
      Pháp Trần: Dhammarammana 
      (p)—Dharma-alambana (skt)—Pháp là đối tượng của tâm hay của ý căn, hay 
      những ý nghĩ tiến triển từ sự tiếp xúc với đối tượng cảm nhận được trong 
      tâm—The mental objects—Object of the mind or of mind-sense, or thought 
      that proceed from contact with sensible objects in the mind.  
      
      Pháp Trí: Dhamma-jnana (p)—Vô 
      Lậu Trí hay sự hiểu biết của bậc giác ngộ—Enlightened 
      understanding—Dharma-wisdom, which enables one to understand the law—The 
      understanding of the law. 
      
      Pháp Trụ: Dharmasthitita (skt)
      
      1)      Sự 
      tương tục của hiện hữu: Continuity of existence.
      
      2)      Diệu 
      lý của chân như dừng trụ trong hết thảy các pháp—Dharma abode, i.e., the 
      omnipresent bhutatathata in all things.
      *For more information, 
      please see Pháp  Định.
      
      Pháp Trường: Nơi dành riêng cho 
      việc tu tập trong tự viện—Any place set aside for religious practices, or 
      purposes. 
      
      Pháp Tu Bất Nhị: Đa phần chúng 
      ta hãy còn vướng mắc vào nhị nguyên nên không thể nhận rõ đâu là tinh túy, 
      đâu là hình tướng bên ngoài, đâu là hiện hữu, đâu là không hiện hữu, danh 
      sắc hay hiện tượng, vân vân. Chúng ta thường ôm lấy tinh túy và chối bỏ 
      hình tướng bên ngoài, ôm lấy tánh không và chối bỏ sự hiện hữu, vân vân. 
      Đây là loại tà kiến tạo ra nhiều tranh cãi và nghi nan. Thật ra có sự hổ 
      tương giữa tâm linh và hiện tượng. Hành giả nên tự hòa giải với chính mình 
      để loại những vướng mắc không cần thiết—Non-dual Method—Most of us are 
      still attached to duality and have not reconciled essence and marks, 
      existence and non-existence, noumenon and phenomena. We embrace essence 
      and reject marks, we embrace non-existence (emptiness) and reject 
      existence and so on. This kind of wrong view creates a lot of disputes, 
      doubts and perplexity. In fact, there is mutual identity between noumenon 
      and phenomena, phenomena are noumenon, noumenon is phenomena. Buddhist 
      cultivators should reconcile  all things and eliminate this unnecessary 
      attachment.   
      
      Pháp Tuân Thạch Điền: Zen 
      master Fa-Hsun-Shih-T’ien (1170-1244)—Thiền sư Trung Hoa, người đã quan 
      ngại đến sự tồn vong của Thiền, nhưng qua bài thơ ngài lại cả quyết: “Con 
      đường của Tổ tông nhà Thiền thật sâu và hiếm có ai đi được. Nó sâu thẳm 
      mịt mù hơn cái hố sâu không đáy; khỏi cần phải đưa tay giúp đỡ những khách 
      bộ hành, cứ để cho rong rêu trước sân mặc tình xanh lên.” (Tổ sư môn hạ 
      tuyệt nhân hành, thâm hiểm quá ư vạn nhẫn khanh, thùy thủ bất năng không 
      phí lực, Nhiệm giao đường thượng lục đài sanh). Theo Thiền sư D.T. Suzuki 
      trong Thiền Luận, Tập II, thừa nhận rằng phong thái của Thiền là phải thế. 
      Tuy nhiên, ngài cho rằng khi rong rêu nơi cửa Thiền  chưa từng bị dẫm đạp 
      bởi những bước chân của một chúng sanh nào, thì Thiền sẽ thành ra cái gì? 
      Phải làm sao cho con đường khả dĩ đi được, ít ra trong mức độ nào đó; phải 
      khám phá ra một vài phương tiện giả tạm hầu dễ lôi cuốn những tâm hồn một 
      ngày nào đó trở thành truyền nhân đích thực của Thiền—A Chinese Zen master 
      in the end of the twelfth century. He was so concerned about the destiny 
      of Zen, but he was so determined that there was no other way to penetrate 
      into it. Through a poem he said: “Very dew indeed there are who can walk 
      the path of our Fathers! In depth and steepness an abysmal pit; uselessly 
      I extend the hand to help the passengers; let the moss in my front court 
      grow as green as it chooses.” According to Zen master D.T. Suzuki in the 
      Essays in Zen Buddhism, Book II, this view of Zen is what we must expect 
      of course of a genuine Zen master. However, when the moss of the Zen 
      courtyard is never disturbed by the footsteps of any human beings, what 
      will become of Zen? The path must be made walkable, to a certain extent at 
      least; some artificial means must be devised to attract some minds who may 
      one day turn out to be true transmitters of Zen.       
      
      Pháp Tùy Duyên: Giáo pháp của 
      Phật mà mỗi người nghe hiểu và lợi lạc khác nhau—Indeterminate 
      teaching—The teaching of the Buddha from which his listeners each knowing 
      received a different benefit. 
      
      Pháp Tứ Y: Bốn thứ y theo về 
      pháp—The four trusts of dharma:
      
      1)      Y Pháp 
      Bất Y Nhân: Y theo pháp chẳng y theo người—Trust in the Law, not in 
      men—Trust in the truth which is eternal, rather than in man, even its 
      propagator.
      
      2)      Y Liễu 
      Nghĩa Kinh, Bất Y Bất Liễu Nghĩa Kinh: Y theo kinh liễu nghĩa, chẳng y 
      theo kinh bất liễu nghĩa—Trust in sutras containing ultimate truth—Trust 
      in the perfect meaning (the truth of the middle way) of the sutras.
      
      3)      Y 
      Nghĩa Bất Y Ngữ: Dựa theo nghĩa, chứ không dựa theo ngôn ngữ (ngôn ngữ chỉ 
      là công cụ để chuyên chở ý nghĩa mà thôi, không nên câu chấp)—Trust in 
      truth, not in words—Trust in the meaning or spirit, not the letter.
      
      4)      Y Trí 
      Bất Y Thức: Y Thánh Trí Bất Y Phàm Trí (tâm vọng tưởng được khởi lên bởi 
      lục trần)—Trust in wisdom growing out of  eternal truth and not in 
      illusory knowledge—Trust in the Buddha’s wisdom rather than mere 
      knowledge. 
      *For more 
      information, please see Tứ Y Pháp.
      
      Pháp Tử: Người đắc pháp hay một 
      môn đệ nhà Thiền đã đạt đến cùng một mức độ giác ngộ như Thầy và đã được 
      Thầy cho phép thực hiện việc truyền bá giáo lý của Thầy. Người đắc pháp có 
      thể là một cư sĩ dù nam hay nữ. Luc Tổ Huệ Năng cũng là một cư sĩ khi ông 
      nhận ấn chứng từ Ngũõ Tổ (Hoàng Nhẫn)—Child of the Dharma or Dharma 
      Successor—One who makes his living by following Buddhism—A Zen disciple 
      who has reached the same degree of enlightenment as his master and been 
      given permission to carry on his line of teaching. A Dharma-Sucessor may 
      be a layman or laywoman. Hui-Neng, the Sixth Patriarch, was a layman when 
      he received the seal of transmission from the Fifth Patriarch. 
      
      Pháp Tự Tại: Bồ tát có khả năng 
      thuyết pháp không ngằn mé—A  Bodhisattva’s complete dialectical freedom 
      and power, so that he can expound all things unimpeded. 
      
      Pháp Tự Tướng Tương Vi Nhân: 
      Một trong bốn nhân Tương Vi (nhân trái nghịch nhau) trong Nhân Minh, lập 
      luận hay ý thứ trái lại với ngôn trần hay pháp tự tướng—One of the four 
      fallacies connected with the reason, in which the reason is contrary to 
      the truth of the premiss. 
      ** For more information, 
      please see Nhân 
           Minh. 
      
      Pháp Tướng: 
      
      1)      Pháp 
      tướng được ví với một vị Tăng cao hạ, có đạo đức lãnh đạo Tăng đoàn: 
      Dharma-generals, i.e. monks of high character and leadership.
      
      2)      Vẻ bề 
      ngoài của vạn hữu: The aspects or characteristics of things—Things.   
      
      Pháp Tướng Tông: Dharmalaksana 
      (skt).
      
      (A)  Còn gọi 
      là Du Già Tông, Nhiếp Luận Tông hay Duy Thức Tông—Also called Yogacara 
      Sect, Samparigraha School, or Consciousness-Only School.  
      
      1)      Theo 
      Giáo Sư Junjiro Takakusu trong quyển “Cương Yếu Triết Học Phật Giáo,” Pháp 
      Tướng có nghĩa là “những sự tướng biểu hiện của các pháp.” Pháp ở đây chỉ 
      cho các sự thể thuộc vật chất và tinh thần (sắc và tâm), bởi vì đối tượng 
      chính của tông phái  nầy là truy cứu về bản chất và phẩm tính của mọi hiện 
      hữu. Sơ Tổ của tông phái nầy là Ngài Vô Trước, anh ruột của ngài Thế Thân, 
      tác giả của bộ Du Già Sư Địa Luận. Tại Ấn Độ, đầu tiên tông nầy được gọi 
      là Du Già Tông, chỉ cho sự thực hành về phép quán tưởng. Sau khi trở về 
      với Đại Thừa, Thế Thân đã tập đại thành các quan điểm triết học của Du Già 
      Tông, đã quy định chủ điểm của tông nầy là “Duy Thức,” đặt sự hiện hữu của 
      tất cả ngoại giới nơi thức. Nói tắt là chỉ có thức hiện hữu. Trên phương 
      diện thể tánh luận, tông nầy đứng giữa các tông phái chấp “Hữu” và chấp 
      “Vô.” Nó không chấp vào học thuyết tất cả mọi sự thể đều hiện hữu, vì quan 
      niệm rằng không có gì ngoài tác động của tâm, cũng không chấp vào học 
      thuyết chẳng có gì hiện hữu, vì quả quyết rằng có sự hiện hữu của các 
      thức. Tông nầy hoàn toàn tán đồng học thuyết “Trung Đạo,” không bao giờ đi 
      đến cực đoan của chủ trương “hữu luận” cũng như “vô luận.” Như vậy tông 
      nầy có thể được mệnh danh là “Duy Tâm Thực Tại Luận” hay “Thức Tâm Luận.” 
      Danh hiệu chính thức của nó là “Duy Thức,” hay Tánh Tướng Học, khảo cứu về 
      bản tánh và sự tướng của các pháp—According to Prof. Junjiro Takakusu in 
      The Essentials of Buddhist Philosophy, Dharma-laksana means 
      “Characteristics of Dharma,” Dharma here denoting things substantial and 
      mental, or matter and mind, for the chief object of this school is to 
      investigate the nature and qualities of all existences. The first founder 
      of the school was Asanga, an elder brother of Vasubandhu, who was the 
      author of the text “Yogacara-bhumi.” In India the school was formerly 
      called Yogacara, which means the practice of self-concentration. 
      Vasubandhu, when he was converted to Mahayana by his brother and succeeded 
      in the systematizing the philosophical views of the Yogacara School, 
      designated the tenet of the school as Mere Ideation (Vijnaptimatra), 
      attributing the existence of all the outer world to inner ideation. In 
      short, holding that nothing but ideation exists. As to ontology this 
      school stands  between the realistic and nihilistic schools, given  above. 
      It adheres neither to the doctrine that all things exist, because it takes 
      the view that nothing outside the mind (mental activity) exists, nor to 
      the doctrine that nothing exists, because it asserts that ideations do 
      exist. It firmly adheres to the doctrine of the mean, neither going to the 
      extreme of the theory of existence nor to that of non-existence. This 
      school can, therefore, be called the “ideal-realism” or “Ideation Theory.” 
      The academic name of this school is “Mere Ideation,” or Vijnaptimatra 
      (Ideation Only), a study of Nature and Characteristics of dharmas or 
      elements.   
      
      2)      Pháp 
      Tướng tông tuy là duy thức, lại dùng khuôn mẫu của phương pháp phân tích 
      dùng trong các tông phái thuộc Thực tại và Hư vô luận, và phân thế giới 
      hiện hữu làm năm loại, gồm 100 pháp (see bách Pháp Pháp Tướng Tông). Một 
      đặc điểm là tông nầy chia Tâm làm tám thức, mỗi thức là một thực tại biệt 
      lập. Không có tông phái nào khác trong Phật Giáo có một học thuyết như 
      thế. Thêm vào năm thức (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân) còn có giác quan thứ 
      sáu, ý thức; thức thứ bảy, tự ý thức; và thức thứ tám là tạng thức. Hai 
      thức bảy và tám được gọi là mạt na và a lại da thức: The Dharmalaksana, 
      though idealistic, takes the model of the analytical method used in the 
      Realistic and Nihilistic Schools, and classifies the world of becoming 
      into five categories which are subdivided into one hundred dharmas (see 
      Bách Pháp Pháp Tướng Tông). A special of this school is that the mind is 
      divided into eight consciousnesses, each being a separate reality. No 
      other school of Buddhism has such a doctrine. In addition to the first 
      five  mental faculties (eye, ear, tongue, skin-sense or consciousnesses) 
      there are the sixth, the sense-center, a general perceiving organ or 
      conscious mind; the seventh, the thought-center or the self-conscious 
      mind, and the eight, the store-center or store-consciousness. The last two 
      are called Manas (thought) and Alaya (store-consciousness). 
      
      a)      Trong 
      số tám thức nầy, năm phần đầu họp thành thức (vijnana): Among these eight 
      consciousnesses the former five constitute the sense-consciousness 
      (Vijnana).
      
      b)      Thứ 
      sáu là trung tâm giác quan tạo các khái niệm do những tri giác đạt được từ 
      thế giới bên ngoài: The sixth, the sense-center, forms conceptions out of 
      the perceptions obtained from the outside.  
      
      c)      Thứ 
      bảy là ý (manas): The seventh is thought (Manas)—Mạt na thức là trung tâm 
      tư tưởng, suy nghĩ, yêu cầu và suy luận dựa trên nền tảng ý thức—The 
      seventh, the thought-center, thinks, wills and reasons on a self-centered 
      basis.  
      
      d)      Thứ 
      tám là tâm (citta): The eighth is mind (citta)—Thức thứ tám là A Lại Da 
      thức, chứa giữ những chủng tử, nghĩa là giữ những hiệu quả hay năng lực 
      của tất cả những hiện hành—The eighth, the store-center, store seeds, 
      i.e., keeps efficiency or energy for all manifestations. 
      
      e)      Thức 
      thứ sáu, bảy, và tám luôn luôn dựa vào nhau mà hoạt động, bởi vì thức thứ 
      sáu là tâm điểm chung cho tri giác và tri nhận hướng nội; nó hoạt động 
      hướng ngoại dựa trên mạt na thức, mà thức nầy lại dựa trên a lại da thức. 
      Mạt na đáp ứng cho tự thức, tự quan tâm hay những xu huớng vị kỷ. Nhiệm vụ 
      chủ thể của thức thứ tám được thức thứ bảy xem như là “Ngã” mặc dầu trong 
      thực tế không có gì là “Ngã” cả. Ý tưởng về “Ngã giả ảo” nầy làm nhiễm ô 
      tất cả những tư tưởng khiến khơi dậy ý tưởng về cá thể hay tự ngã: The 
      sixth, the seventh and the eighth always act on one another, for The sixth 
      is the general center of perception and cognition inwardly which acts 
      outwardly on the basis of the thought-center which inturn acts on the 
      basis of the all-storing center. The Manas is responsible for 
      self-consciousness, self-interest, or selfish motives. The subjective 
      function of the eighth is seen and regarded by the seventh as self (atman) 
      thought in reality there is no such thing as self. This false idea 
      pollutes all thoughts and gives rise to an idea of individual or personal 
      ego or soul.  
      
      3)      For 
      more information, please see Tam Chủng Hiện Hữu.
      
      (B)  Còn gọi 
      là Đại Thừa Duy Thức Tông. Tông nầy chia giáo pháp của Phật ra làm ba thời 
      kỳ—Mahayana Dharmalaksana school (Duy Thức Tông) which devides the 
      Buddha’s Teaching into three periods in which he taught:
      
      1)      A Hàm: 
      The unreality of the ego.
      
      2)      Bát 
      Nhã: The unreality of the djarmas.
      
      3)      Giải 
      thâm mật: Sandhinirmocana-sutra—The middle or uniting way.
      
      (C)  Nhiếp 
      Luận Tông là tiền thân của Pháp Tướng Tông. Một tác phẩm tiêu biểu của Đại 
      Thừa Duy Tâm Luận được gọi là Nhiếp Đại Thừa Luận, do Vô Trước viết vào 
      thế kỷ thứ 5, và Thế Thân chú giải, được Phật Thủ dịch sang Hán văn vào 
      năm 531, và Chân Đế dịch vào năm 563; lại được ngài Huyền Trang dịch lần 
      nữa vào khoảng 648-649. Trong các bản dịch nầy, bản thứ hai của Chân Đế 
      làm căn bản cho Nhiếp Luận Tông ở Trung Hoa. Chân Đế quê ở Ujjayini, có lẽ 
      quan hệ đến đại học Valabhi, một trung tâm học Phật, ông đến Trung Hoa năm 
      548, và trong khoảng thời gian từ đó đến năm 557, ông đã dịch 32 tác phẩm. 
      Người ta nói ông cũng viết trên 40 tác phẩm khoảng 200 quyển. Đối tượng 
      chính của ông là truyền bá học thuyết A Tỳ Đạt Ma Câu Xá và Nhiếp Đại Thừa 
      Luận. Hoạt động văn học và tôn giáo của ngài dường như đã có ảnh hưởng lớn 
      trong tâm khảm của người Trung Hoa qua sự kiện ngài đã có những đệ tử tài 
      ba sau nầy. Chân Đế là người đã thiết lập Câu Xá và Nhiếp Luận Tông. Hoạt 
      động của ông được xếp ngang hàng với ngài Cưu Ma La Thập, người xuất hiện 
      trước ngài, và Huyền Trang người sanh ra sau ngài—The Samparigraha 
      (She-Lun) school, the forerunner of the Dharmalaksana School. A 
      representative work of Mahayana idealism named the Acceptance of the Great 
      Vehicle (Mahayana-samparigraha)  was written by Asanga in the fifth 
      century, annotated by Vasubandhu (420-500), and translated into Chinese in 
      531 by Buddhasanta, in 563 by Paramartha, and again by Hsuan-Tsang during 
      648-649). Of these, the second, Paramartha’s translation, laid the 
      foundation of the She-Lun School in China. Paramartha, a native of 
      Ujjayini, probably connected with Valabhi University, a center of Buddhist 
      learning, came to China in 548, and between that time and 557 translated 
      thirty-two texts. He is also said to have written more than forty works, 
      altogether amounting to two hundred Chinese volumes. His chief object was 
      to propagate the doctrine of the Abhidharma-kosa and the 
      Mahayana-samparigraha. His literary and religious activity seems to have 
      greatly influenced the Chinese mind of the time as is testified by the 
      fact that he had many able pupils under him. Paramartha founded the 
      realistic Kosa School, as we have seen before, and the Samparigraha 
      School. His activities can be compared only with Kumarajiva who came 
      before him and Hsuan-Tsang who came after him.
      
      (D)  Các dòng 
      truyền thừa—Lines of transmission: Theo Giáo Sư Junjiro Takakusu trong 
      Cương Yếu Triết Học Phật Giáo, ở Ấn Độ, sau khi Thế Thân tịch diệt,  dường 
      như có đến ba dòng truyền thừa của Du Già Duy Tâm Luận—According to Prof. 
      Junjiro Takakusu in The Essentials of Buddhist Philosophy, in India, after 
      the death of Vasubandhu, there seem to have been three lines of 
      transmission of Yogacara Idealism.
      
      1)      Dòng 
      đầu tiên là vào thế kỷ thứ năm, truyền chi Trần Na (Dignaga), Vô Tánh 
      (Agotra) và Hộ Pháp (Dharmapala); trung tâm dòng nầy là trường đại học Na 
      Lan Đà. Giới Hiền gốc người Na Lan Đà và vị đệ tử là Huyền Trang cũng 
      thuộc dòng nầy: The first was the line of Dignaga in the fifth century, 
      Agotra, and Dharmapala whose center of transmission was Nalanda 
      University. Silabhadra of Nalanda and his Chinese pupil Hsuan-Tsang belong 
      to this line.
      
      2)      Dòng 
      thứ hai là truyền chi Đức Tuệ (Gunamati) và An Huệ (Sthiramati) mà nơi 
      truyền thừa dường như là ở đại học Valabhi; Chân Đế, sáng tổ Nhiếp Luận 
      Tông ở Trung Hoa thuộc dòng nầy: The second was the line of Gunamati and 
      Sthiramati whose center of transmission seems to have  been Valabhi 
      University; Paramartha, the founder of Shê-Lun School in China, belongs to 
      this line.
      
      3)      Dòng 
      thứ ba là truyền chi của Nan Đà (Nanda), người mà giáo nghĩa được Chân Đế 
      theo đuổi, và Thắng Quân (Jayasena) người đã từng giảng dạy nhiều vấn đề 
      cho Huyền Trang. Dòng truyền thừa chót nầy không phát triển mấy ở Ấn Độ và 
      dường như sớm biến mất sau đó: The third was the line of Nanda, whose 
      tenet was followed by Paramartha, and Jayasena, who instructed Hsuan-Tsang 
      on certain questions. This last line of transmission did not flourish much 
      in India and seemed to have soon disappeared.   
      **   For more information, 
      please see Du Già 
             Tông, Nhiếp Luận 
      Tông, and Duy Thức 
             Tông. 
      
      Pháp Tượng: Một vị thầy có thể 
      dùng chánh pháp để uốn nắn đệ tử—Dharma workman, a teacher able to mould 
      his pupil.
      
      Pháp Tỷ Lượng: Dùng cái nầy mà 
      lượng định ra cái kia, như lấy cái sanh mà suy luận ra cái chết—Inferring 
      one thing from another, as from birth deducing death.
      ** For more information, 
      please see Nhị 
           Lượng. 
      
      Pháp Uẩn: Giáo thuyết Phật 
      pháp—The Buddha’s detailed teaching.
      ** For more information, 
      please see Pháp 
           Tạng. 
      
      Pháp Uyển: Vườn Pháp, chỉ Phật 
      Giáo như một khu vườn sum suê tươi tốt—The garden of Dharma, Buddhism. 
      
      Pháp Ứng: Tùy theo nhu cầu của 
      chúng sanh ứng hiện Pháp thân—Dharmakaya response, its response to the 
      needs of all. 
      
      Pháp Văn: Văn chương Phật 
      Giáo—The literature of Buddhism.
      
      Pháp Vân: Dharmamegha 
      (skt)—Phật pháp như đám mây lợi nhuận chúng sanh—Buddhism as a fertilizing 
      cloud. 
      
      Pháp Vân Đẳng Giác: Giai đoạn 
      sau khi vượt qua Pháp Vân Địa là Đẳng Giác Địa hay giác ngộ phổ trí (từ 
      đây đế Phật quả chỉ còn một địa cuối cùng là Diệu Giác)—The stage after 
      the tenth bodhisattva stage, that of universal knowledge, or 
      enlightenment. 
      
      Pháp Vân Địa: Giai đoạn thứ 
      mười nơi mà Phật pháp tiết ra những giọt sương mai tinh khiết—The tenth 
      bodhisattva stage, when the dharma everywhere drop their sweet dew.
      
      Pháp Vị: Dharmaniyamata (skt).
      
      
      1)      Chân 
      Như: The bhutatathata—Dharma state. 
      
      2)      Vị cam 
      lồ của pháp: The “sweet-dew” taste or flavour of the dharma.
      
      3)      Thứ tự 
      hay ổn định của các sự vật, mỗi mỗi ở trong vị trí riêng của nó: 
      Orderliness or fixedness of things, each in its own position. 
      
      4)      Ngôi 
      thứ của một vị Tăng: The grade or position of a monk. 
      
      Pháp Vị: The taste or flavor of 
      the Dharma. 
      
      Pháp Vị Tự Tại Chướng: 
      Non-attainment of complete mastery of all things. 
      
      Pháp Vô Ngã: Dharmanairatmya 
      (skt)—Selflessness of things.  
      
      1)      Vạn 
      hữu không có thực ngã, không có tự tính, không độc lập—Things are without 
      independent individuality, i.e. the tenet that things have no independent 
      reality, no reality in themselves—No permanent individuality in or 
      independence of things.
      
      2)      Cái ý 
      niệm cho rằng không có tự tính hay ngã tạo nên tính đặc thù của mỗi sự vật 
      được những người theo Phật Giáo Đại Thừa khẳng định là đặc biệt của họ chứ 
      không phải của Tiểu Thừa. Ý niệm nầy thật tự nhiên vì ý niệm về “không 
      tính” là một trong những đặc điểm nổi bậc nhất của Đại Thừa, nên thật là 
      tự nhiên khi các học giả Đại Thừa đặc “Pháp Vô Ngã” ở một vị trí nổi bậc 
      trong triết học của họ: The idea that there is no self-substance or 
      “Atman” constituting the individuality of each object is insisted on by 
      the followers of Mahayana Buddhism to be their exclusive property, not 
      shared by the Hinayana. This idea is naturally true as the idea of “no 
      self-substance” or Dharmanairatmya is closely connected with that of 
      “Sunyata” and the latter is one of the most distinguishing marks of the 
      Mahayana., it was natural for its scholars to give the former a prominent 
      position in their philosophy. 
      
      3)      Trong 
      Kinh Lăng Già, Đức Phật dạy: “Khi một vị Bồ Tát Ma ha tát nhận ra rằng tất 
      cả các pháp đều thoát ngoài tâm, mạt na, ý thức, ngũ pháp, và ba tự tính, 
      thì vị ấy được gọi là hiễu rõ thực nghĩa của “Pháp Vô Ngã.”—In the 
      Lankavatara Sutra, the Buddha taught: “When a Bodhisattva-mahasattva 
      recognizes that all dharmas are free from Citta, Manas, Manovijnana, the 
      Five Dharmas, and the Threefold Svabhava, he is said to understand well 
      the real significance of Dharmanairatmya.”—See Tâm, Mạt Na Thức, Ý Thức, 
      Ngũ Pháp, and Tam Không (B).     
      
      Pháp Vô Ngã Trí: 
      Dharmanairatmyajnana (skt)—Năng lực về nhận biết nhờ đó mà cái chân lý về 
      “Pháp Vô Ngã” được chấp nhận—The knowledge or wisdom of the 
      dharmanairatmya, or the power of cognisance whereby the truth of 
      Dharmanairatmya is accepted.
      **  For more information, 
      please see Pháp Vô 
            Ngã.  
      
      Pháp Vô Ngại Trí: Trí tuệ hay 
      khả năng giảng giải đúng theo Chánh Pháp một cách vô ngại—Wisdom or power 
      of explanation in unembarrassed accord with the Law, or Buddha-truth.
      ** For more information, 
      please see Vô Ngại 
           and Tứ Vô Ngại.  
      
      Pháp Vũ: 
      
      1)      Mưa 
      Pháp làm thấm nhuận chúng sanh: The rain of Buddha-truth which fertilizes 
      all beings.
      
      2)      Mái 
      nhà Phật Pháp: Dharma roof, or canopy.
      
      3)      Tự 
      Viện: Monastery. 
      
      Pháp Vui: See Pháp Hỷ. 
      
      Pháp Vực: Pháp Giới—The realm 
      of dharma. 
      
      Pháp Vương: Dharmaraja 
      (skt)—Phật là bậc Pháp Vương vì ngài tự do tự tại, không bị lệ thuộc ràng 
      buộc vào bấc cứ một pháp nào—King of the Law—Buddha—Dharma King.
      
      Pháp Vương Tử: Kumarabhuta 
      (skt)—Cưu Ma La Phù Đa—Cưu Ma La Phù—Pháp Vương tử hay Bồ Tát, người kế 
      thừa ngôi vị của Phật để nối truyền Chánh Pháp—Son of the 
      Dharma-king—Bodhisattva—Dharma prince. 
      
      Pháp Uy Đức Lực: The august 
      power of Dharma. 
      
      Pháp Xứng: See Dharmakirti in 
      Sanskrit/Pali-Vietnamese Section. 
      
      Pháp Y: See Pháp Phục. 
      
      Pháp Yếu: Sự thiết yếu của chân 
      lý—The essentials of the truth.  
      
      Phát: 
      
      1)      Phân 
      Phát: To issue—To distribute—To give out—To send.
      
      2)      Phát 
      Khởi: To shoot forth—To initiate—To start.
      
      3)      Tóc 
      trên đầu: Hair of the head.   
      
      Phát Âm: To pronounce. 
      
      Phát Biểu: To express a view—To 
      state.
      
      Phát Bồ Đề Tâm: Khởi lên cái tư 
      tưởng về sự chứng ngộ—To vow to devote the mind to bodhi, or to awake the 
      thought of enlightenment. 
      
      Phát Cáu: To lose one’s temper.
      
      
      Phát Chân: Nói lên chân lý—To 
      exhibit the truth, to tell the truth; to manifest the bhutatathata or 
      innate Buddha. 
      
      Phát Chẩn: To give alms to poor 
      people. 
      
      Phát Cuồng: To go crazy—To go 
      mad. 
      
      Phát Dục: To develop—To grow.
      
      
      Phát Đại Nguyện: To make a 
      strong resolve 
      
      Phát Đạt: To thrive—To 
      flourish—To prosper. 
      
      Phát Điên: To go out of one’s 
      mind—To go crazy—To go mad. 
      
      Phát Giác: To discover—To find 
      out. 
      
      Phát Giảng: To commence 
      expounding the truth
      
      Phát Giận: To get angry. 
      
      Phát Giới: Phát giới cho đệ tử, 
      để họ lấy đó mà tu trì—To bestow the commandments on a disciple. 
      
      Phát Hành: To publish—To 
      circulate—To issue. 
      
      Phát Hiện: To appear. 
      
      Phát Huy: To develop. 
      
      Phát Khiếp: Terrified. 
      
      Phát Khởi: To spring up—To 
      begin—To develop—To stimulate.
      
      Phát Khùng: To be beside 
      oneself (out of control) with anger.
      
      Phát Lồ: See Phát Lộ. 
      
      Phát Lộ: Phát lồ, hay bộc lộ rõ 
      tội đã phạm phải không một chút nào dấu diếm—To reveal—To manifest—To 
      confess—To confess one’s negative actions to all Buddhas.
      
      Phát Luận: Bộ luận của Hoàng 
      Phát ngoại đạo (ngoại đạo tóc vàng)—The Sastra of the non-Buddhist Kapila.
      
      
      Phát Lưu: To 
      deport—Deportation.
      
      Phát Mại: To put on sale. 
      
      Phát Minh: To invent. 
      
      Phát Ngộ: Awakened to the 
      Way—Phát ngộ là có khả năng ngộ đạo hay thấy được con đường dẫn đến giác 
      ngộ, nhưng chưa đạt được giác ngộ—Awakened to the Way means the ability to 
      see the clear path toward attaining enlightenment, but enlightenment 
      itself is not yet attained. 
      
      Phát Ngôn: To speak.
      
      Phát Ngôn Quyền: Right of 
      speech. 
      
      Phát Ngôn Viên (Nhân): Speaker.
      
      
      Phát Nguyện: To vow—To 
      resolve—To make a vow—Một Phật tử chơn thuần nên luôn phát khởi thệ nguyện 
      rằng: “Phát tâm Bồ đề, tin sâu lý nhân quả, đọc tụng kinh điển, khuyến tấn 
      người tu hành, và cứu độ chúng sanh.”—A devoted Buddhist should always 
      vow: “Awaken mind with a longing for Bodhicitta, deeply believe in the law 
      of Cause and Effect, recite Mahayana sutras, encourage other cultivators 
      and save other sentient beings.” 
      
      Phát Nguyện Cần Phải Khẩn Thiết: 
      Vows (to become a Buddha or to be reborn in the Pure Land) should be 
      earnest—Vows should be made in earnest. 
      
      Phát Nguyện Lơ Là Lấy Lệ: To 
      vow in a perfunctory manner—Phật tử thuần thành không nên phát nguyện lơ 
      là—Devoted cultivator should never vow in a perfunctory manner. 
      
      Phát Nguyện Sớm Thoát Luân Hồi: 
      To vow to speedy escape the cycle of birth and death. 
      
      Phát Nguyện Vĩnh Cửu: Eternal 
      vows.
      
      Phát Nộ: To get angry—To be in 
      a rage. 
      
      Phát Phối: See Phát lưu. 
      
      Phát Quang: Phát ra ánh sáng—To 
      send forth light—To radiate—See Phóng quang.
      
      Phát Quang Địa: Địa thứ ba 
      trong Thập Địa Bồ Tát—The third of the ten stages of the development of a 
      Bodhisattva into a Buddha—See Thập Địa Tam Thừa (3).
      
      Phát Sinh: To thrive—To 
      produce—To grow—To initiate. 
      
      Phát Tài: To become wealthy—To 
      grow rich. 
      
      Phát Tang: To announce the 
      death of someone. 
      
      Phát Tâm: 
      
      1)      Phát 
      nguyện nơi tâm: Mental initiation or initiative—To make up one’s mind. 
      
      2)      Phát 
      Bồ Đề Tâm, hay phát tâm nguyện cầu vô thượng Bồ Đề: To start out for bodhi 
      or perfect enlightenment—To show kindness of heart, give alms.
      
      Phát Tâm Cúng Dường: To make an 
      offering with pious intent.
      
      Phát  Thanh: To broadcast. 
      
      Phát Tháp: Tháp cúng dường tóc 
      Phật (Cư sĩ Cấp Cô Độc bạch với Đức Phật rằng: Khi Đức Thế Tôn đi du hành 
      các quốc độ, con không có dịp được nhìn thấy ngài, xin ngài ban cho con 
      vật gì để con chiêm ngưỡng cúng dường. Đức Phật bèn ban cho móng tay và 
      một nhúm tóc. Cấp Cô Độc bèn xin phép Phật cho dựng Phát Tháp để tóc Phật 
      và Trảo Tháp để móng tay Phật. Đức Phật đã hứa khả—A pagoda over a hair of 
      Buddha’s head. 
      
      Phát Thệ: To vow. 
      
      Phát Triển: To develop. 
      
      Phát Vãng: See Phát Lưu. 
      
      Phát Vi Diệu Âm: To produce 
      wonderful sounds.
      
      Phát Ý: Phát tâm—To resolve 
      on—To have a mind to—See Phát Tâm.
      
      Phạt: 
      
      1)      Hình 
      phạt: Punishment.
      
      2)      Chặt 
      đứt cây: To cut (chop) down. 
      
      Phạt Giam: To imprison.
      
      Phạt Lãng Già: Varanga 
      (skt)—Tên của một vị thần—Name of a spirit or god.
      
      Phạt Lạp Bì: Valabhi 
      (skt)—Vương quốc và thành phố cổ nằm trên bờ biển phía đông của Gujerat, 
      Ấn Độ, còn gọi là Bắc La—An ancient kingdom and city on the eastern coast 
      of Gujerat, India, also known as northern Lata. 
      
      Phạt Lý Sa: Varsa (skt)—Tên bộ 
      chủ số luận ngoại đạo—Name of a noted Samkhya leader, Varsaganya. 
      
      Phạt Na Bà Kỳ: Vanavasin 
      (skt)—Một trong mười sáu vị A La Hán—One of the sixteen Arhats.  
      
      Phạt Triết La Đà La: See Phạt 
      Xa La Đà La. 
      
      Phạt Vạ: To fine. 
      
      Phạt Xa La: Svastika (skt)—Phạt 
      Xa La—Phược Bạch La—Phạt Triết Đa—Ba Phát Xa La—Phạt Triết Xa La—Kim Cương 
      Chấp—Dấu hiệu của sức mạnh có khả năng chế ngự tất cả của Phật—Diamond 
      club—The thunderbolt—The symbol of the all-conquering power of Buddha. 
       
      
      Phạt Xa La Đà La: Trì hay Chấp 
      Kim Cang—Tên chung của thần bộ tay cầm chày Kim Cang—Vajradhara, the 
      bearer of the vajra.  
      
      Phạt Xa La Phất Đa La: 
      Vajraputra (skt)—Một trong mười sáu vị La Hán—One of the sixteen arhats.
      
      
      Phạt Xa La Phược La: Vajrajvala 
      (skt)—Kim Cang Quang—The scintillation of the diamond—The lightning. 
      
      Phẳng Lặng: Calm—Quiet. 
      
      Phẳng Phiu: Smooth—even—Level.
      
      
      Phẩm: Varga (skt).
      
      1)      Phẩm 
      chất: Character.
      
      2)      Phẩm 
      Kinh: A chapter of a sutra. 
      
      3)      Phẩm 
      trật: Class—Series—Rank.
      
      Phẩm Cách Cao Thượng: Noble 
      quality. 
      
      Phẩm Chất: Quality. 
      
      Phẩm Chức: Conduct and 
      function. 
      
      Phẩm Giá: Dignity. 
      
      Phẩm Hạnh: Quality. 
      
      Phẩm Phương Tiện: Tactfulness  
      Chapter. 
      
      Phân: 
      
      1)      Phân 
      chia: To divide—To separate.
      
      2)      Phân 
      nhiệm: A duty.
      
      3)      Phân 
      ra: A share.
      
      4)      Phân 
      số: A fractional part.
      
      5)      Thơm: 
      Fragrant.  
      
      Phân Biệt: Vibhajya, Vibhaga, 
      Prativikalpa, or Vikalpa (skt)
      
      (A)  Suy xét 
      thức biệt các sự lý, có ba hình thức—Discriminate—Discern—Divide. There 
      are three forms of discrimination:
      
      1)      Tự 
      tánh phân biệt: Natural discrimination (present objects).
      
      2)      Kế độ 
      phân biệt: Calculating discrimination (future action).
      
      3)      Tùy 
      niệm phân biệt: Discriminating by remembrance of affairs that are past.
      **  Phân biệt không hợp với lý “Bình Đẳng Như Như” của đạo 
      Phật—Discrimination is incompatible with the truth of equal thusness in 
      Buddhism.
      
      (B)  Trong 
      Kinh Lăng Già, phân biệt trái nghịch với sự hiểu biết trực giác  là sự 
      hiểu biết vượt ngoài phân biệt. Trong cuộc sống thế tục hằng ngày, nếu 
      “phân biệt” được xử lý một cách hợp lý sẽ vận hành để sản sanh ra những 
      hiệu quả tốt, nhưng nó không thể đi sâu vào tâm thức mà chân lý tối hậu 
      tiềm ẩn trong đó. Để đánh thức chân lý ra khỏi giấc ngủ sâu, chúng ta phải 
      từ bỏ phân biệt—According to the Lankavatara Sutra, discrimination stands 
      contrasted to intuitive understanding which goes beyond  discrimination. 
      In ordinary worldly life, discrimination, if properly dealt with, works to 
      produce good effects, but it is unable to penetrate into the depths of 
      consciousness where the ultimate truth is hidden. To awaken this from a 
      deep slumper, discrimination must be abandoned.  
      
      (C)  Pháp 
      Tướng hay Duy Thức tông cho rằng mọi hình thức chỉ là sự phân biệt chứ 
      không có ngoại lệ: The Mind-Only or Vijnaptimatra School of Buddhism 
      regards all forms without exception as “vikalpa.”
      
      Phân Biệt Duyên: 
      Vikalpapratyaya (skt)—Các điều kiện của phân biệt—Conditions of 
      discrimination. 
      
      Phân Biệt Đúng: Right 
      discernment.
      
      Phân Biệt Giữa Trạng Thái Tốt Và Xấu: 
      To distinguish between good and bad states. 
      
      Phân Biệt Hý Luận: 
      Vikalpaprapanca (skt)—Sự phân biệt và sự hý luận lang bang—Discrimination 
      and futile reasoning. 
      
      Phân Biệt Khởi: Phân biệt khởi 
      là các mê hoặc khởi lên từ tư duy, giáo pháp và thầy bạn, ngược lại với 
      những phân biệt sai lầm được huân tập tự nhiên hay là câu sinh 
      khởi—Delusions arising from reasoning, teaching and teachers, in contrast 
      with errors that arise naturally among people (Câu sinh khởi).
      
      Phân Biệt Ngã Chấp: Ý nghĩa về 
      sự chấp trước được phát triển từ kết quả của sự lý luận—The idea of 
      clinging developed as the result of reasoning.  
      
      Phân Biệt Sai: Parikalpita 
      (skt). 
      
      1)      Phân 
      biệt sai lầm hay cho rằng tiêu cực là tích cực—Wrong discernment—Mistaken 
      discernment—Thinking of a negative action is a positive action. 
      
      2)      Trong 
      Kinh Lăng Già, Đức Phật đã nhắc nhở Ngài Mahamati: “Này Mahamati, huyễn ảo 
      không tạo ra các sai lầm, vì các sai lầm phát xuất từ sự phân biệt hư 
      vọng—In the Lankavatara Sutra, the Buddha reminded Mahamati: “Oh Mahamati, 
      maya is not the cause of confusion, for it does not produce errors, as 
      errors come from wrong discrimination.” 
      
      Phân Biệt Sự Thức: Đây là sự 
      phân biệt thứ ba trong ba cách phân biệt  (chân thức, hiện thức và phân 
      biệt sự thức) được nói đến trong Kinh Lăng Già. Nó bao gồm tám thức ngoại 
      trừ thức A-Lại-Da—The third of the three kinds of perception (real or 
      abstract/chân thức—manifest/hiện thức—reasoned or inferred/phân biệt sự 
      thức), according to the Lankavatara Sutra. It includes all the eight kinds 
      of perception except the alaya-vijnana. 
      
      Phân Biệt Thuyết Bộ: Theo Keith 
      trong Trung Anh Phật Học Tự Điển, thì Phân Biệt Thuyết Bộ (The 
      Vibhajyavadins) và sự khởi thủy của nó hãy còn mù mờ. Phân Biệt Thuyết Bộ 
      nầy cho rằng phải bàn luận đúng sai—According to Keith in the Dictionary 
      of Chinese Buddhist Terms, the origin of Vibhajyavadins  is still 
      obscure—The method of particularization in dealing with questions in 
      debate. It is suggested that this school was established to harmonize the 
      differences between the Sthaviras and Mahsanghikas. The Abhidharma Pitaka 
      as we have it in Pali Canon is the definite work of this school. 
      
      Phân Biệt Thức: The 
      discriminating perception.
      
      Phân Biệt Trí: Viveka 
      (skt)—Phân biệt hiện tượng hay sự tướng hữu vi, đối lại với vô phân biệt 
      hay căn bản thực trí của Đức Phật—Differentiating knowledge, 
      discrimination of phenomena, as contrast with knowledge of the fundamental 
      identity of all things (vô phân biệt trí)—See Hậu Đắc Trí. 
      
      Phân Biệt Trí Tương Ưng Nhiễm: 
      Theo Khởi Tín Luận, sự nhiễm trược của phân biệt trí, dựa vào cảnh giới mà 
      khởi trí thì gọi là Phân biệt trí tương ưng nhiễm—According to the 
      Awakening of Faith, the taint on mind following upon the action of 
      discriminating—See Lục nhiễm tâm.
      
      Phân Biệt Tưởng: Yếu tố tinh 
      thần phân biệt giữa sự khác biệt của các đối tượng. Có hai loại phân biệt: 
      Đúng và sai—Discernment—A mental factor which discriminates between 
      different objects or between different aspects of the same object. There 
      are two kinds of discernment: right discernment and wrong discernment
      
      Phân Chân Tức: See Lục Tức 
      Phật. 
      
      Phân Chứng Tức: See Lục Tức 
      Phật. 
      
      Phân Dụ: Một thí dụ chỉ có thể 
      hiểu dụ được một phần, chứ chẳng thể toàn phần; thí dụ như khi nói “mặt 
      như vầng trăng,” chỉ là lấy một khía cạnh đoan chính của vầng trăng để làm 
      nổi bật một phần sự đoan chính của gương mặt mà thôi—A metaphor only 
      correct in part, such as saying “a face like the moon.”
      
      Phân Đà Lợi: 
      
      1)      
      Pundarika (skt)—Một loại sen trắng đang xòe nở. Nó cũng được gọi là “bách 
      diệp” hoa—White lotus in full bloom. It is also called a hundred-leaf 
      flower.
      
      2)      
      Saddharma-pundarika (skt)—Theo Kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì đây là đệ bát 
      hàn địa ngục (địa ngục lạnh thứ tám), vì cái lạnh nơi đây làm trơ xương 
      những tội phạm, làm cho thân hình họ trắng ra như những bông sen trắng 
      nầy—According to the Lotus Sutra, this is the eighth and coldest hell, 
      because the cold lays bare the bones of the wicked, so that they resemble 
      the whiteness of this lotus.     
      
      Phân Định: To determine—To 
      decide. 
      
      Phân Đoạn: Bhagya 
      (skt)—Lot—Dispensation—Allotment—Fate. 
      
      Phân Đoạn Biến Dịch: There are 
      two kinds:
      
      1)      Phân 
      Đoạn Sinh Tử: Tùy theo nghiệp nhân tốt xấu của mình trong tam giới và lục 
      đạo (ba nẻo sáu đường) mà thọ mệnh có phân hạn và hình thể có đoạn 
      biệt—The condition and station resulting from good or bad karma in the 
      three realms of desire, form and formless and in the six paths.
      
      2)      Biến 
      Dịch Sinh Tử: Quả báo tốt của nghiệp vô lậu vượt ra ngoài vòng luân hồi ở 
      các vị A-La-Hán và các bậc Thánh cao hơn—The condition and station 
      resulting from good karma in the realms beyond transmigration, including 
      arhats and higher saints. 
      
      Phân Đoạn Đồng Cư: Những chúng 
      sanh có cùng một số phận—Those of the same lot, or incarnation, dwelling 
      together. 
      
      Phân Đoạn Luân Hồi: Bánh xe 
      luân hồi sanh tử—The wheel of fate of reincarnation.
      
      Phân Đoạn Sinh Tử: Phân đoạn 
      tử—Phân đoạn thân—Phân đoạn tam đạo—Thân của sáu đường sanh tử luân hồi, 
      mỗi đường đều tùy theo nghiệp nhân của mình trong tam giới  mà thọ mệnh có 
      phân hạn, hình thể có đoạn biệt (nên gọi là phân đoạn)—The mortal lot or 
      dispensation in regard to the various forms of reincarnation. The 
      condition and station resulting from good or bad karma in the three realms 
      (desire, form and formless) and in the six paths
      
      Phân Đoạn Tam Đạo: See Phân 
      Đoạn Sinh Tử.
      
      Phân Đoạn Tử: See Phân Đoạn 
      Sinh Tử.
      
      Phân Đôi: To divide into two.
      
      
      Phân Giải: To conciliate—To 
      reconcile—To mediate. 
      
      Phân Hạng: To classify.  
      
      Phân Ly: To separate—To divide.
      
      
      Phân Minh: 
      Obvious—Clear—Distinct—Evident. 
      
      Phân Na Kha: Purnaka (skt)—Tên 
      của một loài dạ xoa hay quỷ—Name of a yaksa or demon.
      
      Phân Phát: To distribute—To 
      dispense.  
      
      Phân Tán: Visarj (skt)—To 
      dismiss—To scatter—To separate. 
      
      Phân Tâm: Confused—Distracted.
      
      
      Phân Thân: Thần thông của Phật 
      có khả năng tự phân thân bất cứ lúc nào và bất kỳ ở đâu—The Buddha’s power 
      to reproduce himself ad infinitum and anywhere.
      
      Phân Tích: To divide—To 
      separate—To leave the world—To analyze. 
      
      Phân Tỏ: To explain—To expose.
      
      
      Phân Trần: To explain. 
      
      Phân Tuế: Đêm Trừ Tịch—The New 
      Year’s eve, the dividing night of the year.
      
      Phân Tướng Môn: Giáo lý thuyết 
      minh sự sai biệt giữa tam thừa và nhất thừa, đối lại với “cai nhiếp môn” 
      hay giáo thuyết giải thích nhất thừa thâu tóm cả tam thừa—The doctrine 
      which differentiates the three vehicles from the one vehicle, in contrast 
      with the doctrine which explains the one vehicle containing the three.
      
      Phân Vị: Avastha (skt)—Sự vật 
      phát sinh biến hóa về thời phân và địa vị như là một trạng thái, chẳng hạn 
      như sóng là trạng thái hay phân vị giả lập ở nước, nước cũng lại là một 
      trạng thái của sóng—Avastha is defined as time and position or a state, 
      such as the state of water disturbed into waves, waves being also a state 
      of water.  
      A dependent state. 
      Phấn:
      
      
      1)      
      Bột mì: Flour—Powder. 
      
      2)      
      Phấn Khởi: (a) Enrgetic—Impetuous—Enthousiastic. 
      
      3)      
      Phấn Khởi: (v) To rouse—To excite—To exert.
      Phấn Chấn: 
      Enthusiastic. 
      
      Phấn Cốt Toái Thân: Xương cốt 
      bị nghiền nát và thi thể bị phân ra làm từng mảnh—Bones ground to powder 
      and body to fragments.
      
      Phấn Đấu: To struggle—To 
      strive—To make one’s best efforts. 
      
      Phấn Khởi: 
      Encouraged—Excited—Enthusiastic. 
      
      Phấn Tảo Y: Phấn Tảo—Phẩn Tảo 
      Y—Nạp Y—Bá Nạp Y (áo vá trăm mảnh)—Áo cà sa của chư Tăng Ni được khâu 
      thành bởi những miếng vải rách hay vải vụn mà người ta vứt bỏ nơi bãi rác 
      (áo nầy biểu thị biết hổ thẹn, phòng nóng lạnh, nghi pháp Sa Môn, được 
      trời và người cung kính, không tham trước, tùy thuận tịch diệt, không bị 
      phiền não đốt cháy, dễ thấy điều ác, không dư dật trang nghiêm, thuận theo 
      Bát Thánh Đạo, và không nhiễm tâm) —Robe of rags which used to be utilized 
      as  dusting rags—The monk’s garment made of cast-off rags.  
      
      Phấn Tấn: Tức thời vào 
      định—Speedy or immediate samadhi. 
      
      Phần: 
      
      1)      Đốt 
      cháy: To burn—Consume by fire.
      
      2)      Một 
      phần: Part—Share—Portion. 
      
      Phần Chứng: Partial-attainment.
      
      
      Phần Dụ: See Phân Dụ. 
      
      Phần Dương Thiện Châu: 
      Fen-Yang-Shan-Chou 947-1024—Thiền sư Phần Dương (947-1024), thuộc phái Lâm 
      Tế, đệ tử và kế thừa Pháp của Thiền sư Thủ Sơn Tỉnh Niệm, và là thầy của 
      Thạch Sương Sở Viện—Fen-Yang-Shan-Chou, a Chinese Ch’an master of the 
      Lin-Chi school; a disciple and dharma successor of Shou-Shan-Sheng-Nien, 
      and the master of Shih-Chuang-Ch’u-Yuan.
      
      ·       
      Người ta kể lại rằng ông đã đi khắp trung quốc và gặp 71 vị 
      thầy, hầu tìm cách cứu vãng những gì có thể cứu vãng được trong truyền 
      thống nhà Thiền đang suy thoái. Vì thế mà những thuyết giảng của ông có 
      những yếu tố bắt nguồn từ những truyền thống khác nhau, nhờ đó mà truyền 
      thống ấy vẫn còn tồn tại trong phái thiền Lâm Tế—It is said of Fen-Yang 
      that he wandered throughout China ans sought out seventy-one masters in an 
      effort to save what could be saved of the Ch’an tradition, which was then 
      in decline. Thus this style of instruction synthesized elements from the 
      various lineages that then survived in the Lin-Chi school.   
      
      ·       
      Phần Dương là một trong những thiền sư đầu tiên sùng kính 
      những lời chỉ dạy của các thầy ngày xưa qua hình thức thơ, từ đó ông sáng 
      lập ra thi thơ ca ngợi về thiền—Fen-Yang was one of the first Chinese 
      Ch’an masters to celebrate the sayings of the ancient masters in poetic 
      form. In this way he founded the Ch’an tradition of eulogistic poetry. 
      
      Phần Hương: Đốt nhang—To burn 
      incense. 
      
      Phần Lớn: The majority.  
      
      Phần Nhiều: Most—Generally. 
      
      Phần Thưởng: Prize—Recompense.
      
      
      Phẩn: Rác rưới—Garbage. 
      
      Phẩn Quả: Theo Kinh Niết Bàn, 
      thì quả Phẩn là quả amraka nơi đống phân, hay viên ngọc trong 
      bùn—According to the Nirvana Sutra, this is the amraka fruit in the 
      midden, or a pearl in the mud. 
      
      Phẩn Tảo: Quét—Sweeping 
      garbage. 
      
      Phẩn Tảo Y: See Phấn Tảo Y. 
      
      Phẩn Trừ: Phẩn trừ là một từ mà 
      Phật dùng trong Kinh Pháp Hoa, nghĩa là dẹp bỏ phiền não—A term the Buddha 
      used in the Lotus Sutra meaning to get rid of garbage.
      
      Phẫn: Krohda (skt)—Anger.
      
      Phẫn Kết: The bond of anger.
      
      
      Phẫn Nộ: 
      
      1)      Giận 
      dữ: Anger—Angry—Fierce.
      
      2)      See 
      Phẫn Nộ Minh Vương. 
      
      Phẫn Nộ Câu: Một hình thức của 
      Quan Thế Âm—A form of Kuan-Yin with a hook. 
      
      Phẫn Nộ Minh Vương: 
      
      1)      Phẫn 
      Nộ Minh Vương là đối thủ của ma, và là hộ pháp của Đạo Phật—The Fierce 
      Maharajas as opponents of evil and guardian of Buddhism.
      
      2)      Một 
      trong hai hình thức của Bồ Tát, một là phá ma, hai là thiện hiện: One of 
      the two bodhisattva forms, resisting evil, in contrast with the other 
      form, manifesting goodness. 
      
      Phẫn Vương: See Phẫn Nộ Minh 
      Vương. 
      
      Phận: Ngoại đạo tin rằng có cái 
      gọi là số phận hay định mệnh—Externalists believe that there exists a 
      so-called Lot or Destiny. 
      
      Phận bạc: Unhapy lot. 
      
      Phận hèn: Vile condition. 
      
      Phất: 
      
      1)      Không 
      phải: Not—No—Not to.
      
      2)      Phủi: 
      To rub—To wipe—To dust.  
      
      Phất Ba Đề: Devapuspa or 
      Bhupadi (skt)—Thiên Hoa—Deva-flowers.
      
      Phất Bà Kha La: Puspahara 
      (skt)—Tên của một loài Dạ Xoa ăn hoa—Flower plucker or flower-eater, name 
      of a yaksa. 
      
      Phất Bà Thế La: Purvasaila 
      (skt). 
      
      1)      Đông 
      Sơn nơi mà phía sau đó mặt trời mọc lên: The eastern mountain behind which 
      the sun is supposed to rise. 
      
      2)      Phất 
      Bà Thế La Tăng Già Lam (Purvasaila-Sangharama): Đông Sơn, tên của một tự 
      viện. Một trong những hệ phái của Mahasanghika (see Mahasanghika in 
      Sanskrit/Pali-Vietnamese)—The eastern mountain, name of a monastery east 
      of Dhyanyakataka. One of the subdivisions of the Mahasanghika school.  
      
      Phất Bì Đề Ha: Purva-Videha 
      (skt)—Videha (skt)—Bố Lỗ Ba—Bố Lỗ Bà Bì Đề Ha—Một lục địa về phía Đông của 
      núi Tu Di—A continent east of Sumeru. 
      
      Phất Ca La: Pudgala (skt)—See 
      Phú Già La. 
      
      Phất Lật Đặc: Vrji (skt)—Tam 
      Phạt Thị (Samvaji)—Một vương quốc cổ nằm về phía Bắc sông Hằng, phía Đông 
      Nam xứ Nê Pan, dân chúng ở đó nổi tiếng về những khuynh hướng ngoại đạo 
      cha truyền con nối của họ—An ancient kingdom north of the Ganges, 
      southeast of Nepal, the inhabitants called Samvaji, were noted for their 
      heretical proclivities. 
      
      Phất Nhã Đa La: Tên của một 
      trong 24 Thiên Tôn được thờ phụng ở Trung Quốc—The reward of virtue, a 
      name for Punyatara, one of the twenty-four deva-aryas, worshipped in 
      China.
      
      Phất Như Đàn: Punyadarsa (skt).
      
      
      1)      Tấm 
      kiếng chiếu rọi chân lý: Auspicious mirror, interpreted as mirror of the 
      law.
      
      2)      Tên 
      của một vị sư nổi tiếng ở Trung Quốc: Name of a noted monk in China .
      
      Phất Nhược Đa La: Punyatara 
      (skt).
      
      1)      Vị sa 
      môn xứ Ka-Bun, đến Trung Quốc vào khoảng năm 404 cùng với Cưu Ma La Thập—A 
      sramana of Kubha (Kabul), who came to China in 404 AD with Kumarajiva. 
      
      2)      Một 
      trong hai mươi bốn vị Thiên Tôn được thờ phụng tại Trung Quốc—One of the 
      twenty-four Deva-Arya worshipped in China.  
      
      Phất Sa: Pusya (skt).
      
      1)      Bọt: 
      Foam.
      
      2)      Nguyệt 
      điện: Nguyệt cung—A lunar mansion.
      
      Phất Sa Ca Vương Kinh: Tên khác 
      của Bình Sa Vương Ngũ Nguyên Kinh—Another name for Bimbisara’s Five-Vow 
      Sutra.  
      
      Phất Sa Mật Đa: Pusyamitra 
      (skt)—Dòng dõi bốn đời sau vua A Dục, cũng là kẻ thù của Phật giáo. Vị vua 
      nầy hỏi quần thần làm cách nào để được lưu danh hậu thế thì quần thần bảo 
      rằng Tiên Đế A Dục đã xây 84.000 tháp vinh danh Phật mà lưu danh hậu thế, 
      nay bệ hạ chỉ việc phá hết các tháp ấy là tên tuổi bệ hạ sẽ được mãi mãi 
      lưu truyền. Thế là Phất Sa Mật Đa bèn y lời xàm tấu hủy tháp giết 
      Tăng—Descendant of Asoka and enemy of Buddhism. He was the fourth 
      successor of King Asoka; asking his ministries what he should do to 
      perpetuate his name; he was told that Asoka had erected 84,000 shrines and 
      he might become famous by destroying them, which he is said to have done. 
      
      
      Phất Sa Phật: Để Sa Phật—Tên 
      của một vị cổ Phật—Name of an ancient Buddha. 
      
      Phất Sa Vương: Vatsaraja 
      (skt)—King vatsa.
      
      Phất Thạch: See Bàn Thạch Kiếp.
      
      
      Phất Tích Nhập Huyền: Nếu muốn 
      chứng nhập pháp tánh rốt ráo viên mãn của chư Phật, thì phải phủi sạch dấu 
      vết bất tịnh trước kia—To rub out the traces of past impurity and enter 
      into the profundity of Buddha. 
      
      Phất Trần: Cái que hay thanh 
      cây dài khoảng từ 4 đến 5 tấc, có hình giống như xương  sống của con 
      người, các lão sư dùng để nhấn mạnh một điểm khi nói, hay để tựa khi ngồi 
      hoặc đôi khi dùng đập nhẹ vào các môn sinh—A baton or stick, about fifteen 
      inches long and shaped like the human spine, used by Zen masters to 
      emphasize a point or sometimes to rap a student.  
      
      Phất Tử: 
      
      1)      Đồ lau 
      bụi—A duster—Fly brush. 
      
      2)      See 
      Phất Trần. 
      
      Phật: Buddha (skt).  
      
      (A)   Đạo Vô 
      Thượng hay Tâm Tuyệt Đối: Ultimate Truth or absolute Mind.
      
      (B)   Tàu dịch 
      là “Giác” và “Trí”—Chinese translation is “to perceive” and “knowledge.”
      
      (C)   Đấng 
      Toàn Giác hay một người đã giác ngộ viên mãn: về chân tánh của cuộc sinh 
      tồn. Chữ Phật có nghĩa là tự mình giác ngộ, đi giác ngộ cho người, sự giác 
      ngộ nầy là viên mãn tối thượng: One awakened or enlightened to the true 
      nature of existence. Buddha is the name for one who has been enlightened, 
      who brings enlightenment to others, whose enlightened practice is complete 
      and ultimate.  
      
      (D)   Từ 
      Buddha” được rút ra từ ngữ căn tiếng Phạn “Budh” nghĩa là hiểu rõ, thấy 
      biết hay tỉnh thức. Phật là người đã giác ngộ, không cón bị sanh tử luân 
      hồi và hoàn toàn giải thoát—The tern Buddha derived from the Sanskrit verb 
      root “Budh” meaning to understand, to be aware of, or to awake. It 
      describes a person who has achieved  the enlightenment that leads to 
      release from the cycle of birth and death and has thereby attained 
      complete liberation. 
      
      (E)    Đức 
      Phật Lịch Sử là đấng đã hoàn toàn đạt tới Chánh đẳng Chánh giác—Phật là 
      Đấng Chánh Biến Tri, đản sanh vào năm 623 trước Tây lịch, tại miền bắc Ấn 
      Độ, bây giờ là xứ Népal, một nước nằm ven sườn dãy Hy Mã Lạp Sơn, trong 
      vườn Lâm Tỳ Ni tại thành Ca Tỳ La Vệ, vào một ngày trăng tròn tháng tư. 
      Trước khi thành Phật, tên Ngài là Sĩ Đạt Đa Cồ Đàm. Ngài nguyên là Thái Tử 
      của nước Ca Tỳ La Vệ, phụ hoàng là Tịnh Phạn  Vương, mẫu hoàng tên Ma Da. 
      Tịnh Phạn  vương đặt tên cho Ngài là Tất Đạt Đa nghĩa là “ngôi vua.” Vua 
      Tịnh Phạn làm lễ thành hôn cho Thái tử với công chúa con vua Thiện Giác là 
      nàng Da Du Đà La. Trước khi xuất gia, Ngài có một con trai là La Hầu La. 
      Mặc dù sống đời nhung lụa, danh vọng, tiền tài, cung điện nguy nga, vợ đẹp 
      con ngoan, ngài vẫn cảm thấy tù túng như cảnh chim lồng cá chậu. Một hôm 
      nhân đi dạo ngoài bốn cửa thành, Thái tử trực tiếp thấy nhiều cảnh khổ đau 
      của nhân loại, một ông già tóc bạc, răng rụng, mắt mờ, tai điếc, lưng 
      còng, nương gậy mà lê bước xin ăn; một ngươiø bệnh nằm bên lề rên xiết đau 
      đớn không cùng; một xác chết sình chương, ruồi bu nhặng bám trông rất ghê 
      tởm; một vị tu khổ hạnh với vẻ trầm tư mặc tưởng. Những cảnh tượng nầy làm 
      cho Thái tử nhận chân ra đời là khổ. Cảnh vị tu hành khổ hạnh với vẻ thanh 
      tịnh cho Thái tử một dấu chỉ đầu tiên trên bước đường tìm cầu chân lý là 
      phải xuất gia. Khi trở về cung, Thái tử xin phép vua cha cho Ngài xuất gia 
      làm Tăng sĩ nhưng bị vua cha từ chối. Dù vậy, Thái tử vẫn quyết chí tìm 
      con đường tu hành để đạt được chân lý giải thoát cho mình và chúng sanh. 
      Quyết định vô tiền khoáng hậu ấy làm cho Thái tử Sĩ Đạt Đa sau nầy trở 
      thành vị giáo chủ khai sáng ra Đạo Phật. Năm 29 tuổi, một đêm Ngài dứt bỏ 
      đời sống vương giả, cùng tên hầu cận là Xa Nặc thắng yên cương cùng trốn 
      ra khỏi cung, đi vào rừng xâu, xuất gia tầm đạo. Ban đầu, Thái tử đến với 
      các danh sư tu khổ hạnh, những vị nầy sống một cách kham khổ, nhịn ăn nhịn 
      uống, dãi nắng dầm mưa, hành thân hoại thể. Thấy cách tu hành như thế 
      không có hiệu quả, Ngài khuyên nên bỏ phương pháp ấy, nhưng họ không nghe. 
      Thái tử bèn đi tu tập nhiều nơi khác, nhưng đến đâu cũng thấy còn hẹp hòi 
      thấp kém, không thể giải thoát con người hết khổ được. Thái tử tìm chốn tu 
      tập một mình, quên ăn bỏ ngủ, thân hình mỗi ngày thêm một tiều tụy, kiệt 
      sức, nằm ngã trên cỏ, may được một cô gái chăn cừu đổ sữa cứu khỏi thần 
      chết. Từ đó, Thái tử nhận thấy muốn tìm đạo có kết quả, cần phải bồi dưỡng 
      thân thể cho khỏe mạnh. Sau sáu năm tầm đạo, sau lần Thái tử ngồi nhập 
      định suốt 49 ngày đêm dưới cội Bồ Đề bên bờ sông Ni Liên tại Gaya để chiến 
      đấu trong một trận cuối cùng với bóng tối si mê và dục vọng. Trong đêm thứ 
      49, lúc đầu hôm Thái tử chứng được túc mệnh minh, thấy rõ được tất cả 
      khoảng đời quá khứ của mình trong tam giới;  đến nửa đêm Ngài chứng được 
      Thiên nhãn minh, thấy được tất cả bản thể và nguyên nhân cấu tạo của vũ 
      trụ; lúc gần sáng Ngài chứng được Lậu tận minh, biết rõ nguồn gốc của khổ 
      đau và phương pháp dứt trừ đau khổ để được giải thoát khỏi luân hồi sanh 
      tử. Thái tử Sĩ Đạt Đa đã đạt thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, hiệu là 
      Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngày thành đạo của Ngài tính theo âm lịch là ngày 
      mồng tám tháng 12 trong lúc Sao Mai bắt đầu ló dạng. Sau khi đạt giác ngộ 
      vào năm 35 tuổi cho đến khi Ngài nhập Niết Bàn vào năm 80 tuổi, Ngài 
      thuyết giảng suốt những năm tháng đó. Chắc chắn Ngài phải là một trong 
      những người nhiều nghị lực nhất chưa từng thấy: 45 năm trường Ngài giảng 
      dạy ngày đêm, và chỉ ngủ khoảng hai giờ một ngày. Suốt 45 năm, Đức Phật 
      truyền giảng đạo khắp nơi trên xứ Ấn Độ. Ngài kết nạp nhiều đệ tử, lập các 
      đoàn Tăng Già, Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni, thách thức hệ thống giai cấp, giảng 
      dạy tự do tín ngưỡng, đưa phụ nữ lên ngang hàng với nam giới, chỉ dạy con 
      đường giải thoát cho dân chúng trên khắp các nẻo đường. Giáo pháp của Ngài 
      rất đơn giản và đầy ý nghĩa cao cả, loại bỏ các điều xấu, làm các điều 
      lành, thanh lọc thân tâm cho trong sạch. Ngài dạy phương pháp diệt trừ vô 
      minh, đường lối tu hành để diệt khổ, xử dụng trí tuệ một cách tự do và 
      khôn ngoan để có sự hiểu biết chân chánh. Đức Phật khuyên mọi người nên 
      thực hành mười đức tính cao cả là từ bi, trí tuệ, xả, hỷ, giới, nghị lực, 
      nhẫn nhục, chân thành, cương quyết, thiện ý và bình thản. Đức Phật chưa hề 
      tuyên bố là Thần Thánh. Người luôn công khai nói rằng bất cứ ai cũng có 
      thể trở thành Phật nếu người ấy biết phát triển khả năng và dứt bỏ được vô 
      minh. Khi giác hạnh đã viên mãn thì Đức Phật đã 80 tuổi. Đức Phật nhập 
      Niết Bàn tại thành Câu Thi Na, để lại hàng triệu tín đồ trong đó có bà Da 
      Du Đà La và La Hầu La, cũng như một kho tàng giáo lý kinh điển quý giá mà 
      cho đến nay vẫn được xem là khuôn vàng thước ngọc.
      Đức 
      Phật nói: “Ta không phải là vị Phật đầu tiên ở thế gian nầy, và cũng không 
      phải là vị Phật cuối cùng. Khi thời điểm đến sẽ có một vị Phật giác ngộ ra 
      đời, Ngài sẽ soi sáng chân lý như ta đã từng nói với chúng sanh.” Trước 
      khi nhập diệt, Đức Phật đã dặn dò tứ chúng một câu cuối cùng: “Mọi vật 
      trên đời không có gì quý giá. Thân thể rồi sẽ tan rã. Chỉ có đạo Ta là quý 
      báu. Chỉ có chân lý của Đạo Ta là bất di bất dịch.”—The historical person 
      with the name of Siddhartha, a Fully Enlightened One. One who has reached 
      the Utmost, Right and Equal Enlightenment—The Buddha is the All-Knowing 
      One. He was born in 623 BC in Northern India, in what is now Nepal, a 
      country situated on the slope of Himalaya, in the Lumbini Park at 
      Kapilavathu on the Vesak Fullmoon day of April. Before becoming Buddha, 
      his name is Siddhartha Gotama. He was born a prince. His father was Rajah 
      Suddhodana, and his mother Maha Maya. His personal name was Siddartha 
      meaning heir to the throne. He married the princess Yasodhara, daughter of 
      King Soupra-Buddha, who bore him a son named Rahula. Although raised in 
      princely luxury and glory, surrounded with splendid palaces, His beautiful 
      wife and well-behaved son, He felt trapped amidst this luxury like a bird 
      in a gold cage, a fish in a silver vase. During a visit to the outskirts 
      of the city, outside the four palace portals, He saw the spectacle of 
      human suffering, an old man with white hair, fallen teeth, blurred eyes, 
      deaf ears, and bent back, resting on his cane and begging for his food; A 
      sick man lying at the roadside who roaned painfully; a dead man whose body 
      was swollen and surrounded  with flies and bluebottles; and a holy ascetic 
      with a calm appearance. The four sights made Him realize that life is 
      subject to all sorts of sufferings. The sight of the holy ascetic who 
      appeared serene gave Him the clue that the first step in His search for 
      Truth was “Renunciation.” Back in his palace, he asked his father to let 
      Him enter monkhood, but was refused. Nevertheless, He decided to renounce 
      the world not for His own sake or convenience, but for the sake of 
      suffering humanity. This unprecedented resolution made Prince Siddartha 
      later become the Founder of Buddhism. At the age of twenty-nine, one night 
      He decided to leave behind His princely life. After his groom Chandala 
      saddled His white horse, He rode off the royal palace, toward the dense 
      forest and became a wandering monk. First, He studied under the guidance 
      of the leading masters of the day and learned all they could teach Him. 
      When He could not find what He was looking for, He joined a group of five 
      mendicants and along with them, He embarked on a life of austerity and 
      particularly on starvation as the means which seemed most likely to put an 
      end to birth and death. In His desire for quietude He emaciated (made His 
      body to become thiner and thiner) His body for six years, and carried out 
      a number of strict methods of fasting, very hard for ordinary men to 
      endure. The bulk of His body was greatly reduced by this self-torture. His 
      fat, flesh, and blood had all gone. Only skin and bone remained. One day, 
      worn out He fell to the ground in a dead faint. A shepherdess who happened 
      to pass there gave Him milk to drink. Slowly, He recovered His body 
      strength. His courage was unbroken, but His boundless intellect led Him to 
      the decision that from now on He needed proper food. He would have 
      certainly died had He not realized the futility of self-mortification, and 
      decided to practice moderation instead. Then He went into the Nairanjana 
      river to bathe. The five mendicants left Him, because they thought that He 
      had now turned away from the holy life. He then sat down at the foot of 
      the Bodhi tree at Gaya and vowed that He would not move until He had 
      attained the Supreme Enlightenment. After 49 days, at the beginning of the 
      night, He achieved the “Knowledge of Former Existence,” recollecting the 
      successive series of His former births in the three realms. At midnight, 
      He acquired the “Supreme Heavenly Eye,” perceiving the spirit and the 
      origin of the Creation. Then early next morning, He reached the state of 
      “All Knowledge,” realizing the origin of sufferings and discovering the 
      ways to eliminate them so as to be liberated from birth-death and 
      reincarnation. He became Anuttara Samyak-Sambodhi, His title was Sakyamuni 
      Buddha. He attained Enlightenment at the age of 35, on the eighth day of 
      the twelfth month of the lunar calendar, at the time of the Morning Star’s 
      rising. After attaining Enlightenment at the age of 35 until his 
      Mahaparinirvana at the age of 80, he  spent his life preaching and 
      teaching. He was certaintly one of the most energetic man who ever lived: 
      forty-nine years he taught and preached day and night, sleeping only about 
      two hours a day. For 45 years, the Buddha traversed all over India, 
      preaching and making converts to His religion. He founded an order of 
      monks and later another order of nuns. He challenged the caste system, 
      taught religious freedom and free inquiry, raised the status of women up 
      to that of men, and showed the way to liberation to all walks of life. His 
      teaching were very simple but spiritually meaningful, requiring people “to 
      put an end to evil, fulfil all good, and purify body and mind." ” He 
      taught the method of eradicating ignorance and suppressing sufferings. He 
      encouraged people to maintain freedom in the mind to think freely. All 
      people were one in the eyes of the Buddha. He advised His disciples to 
      practice the ten supreme qualities: compassion, wisdom, renunciation, 
      discipline, will power, forbearance, truthfulness, determination, 
      goodwill, and equanimity. The Buddha never claimed to be a deity or a 
      saint. He always declared that everyone could become a Buddha if he 
      develops his qualities to perfection and is able to eliminate his 
      ignorance completely through his own efforts. At the age of 80, after 
      completing His teaching mission, He entered Nirvana at Kusinara, leaving 
      behind millions of followers, among them were His wife Yasodara and His 
      son Rahula, and a lot of priceless doctrinal treasures considered even 
      today as precious moral and ethical models.  The Buddha said: “I am not 
      the first Buddha to come upon this earth, nor shall I be the last. In due 
      time, another Buddha will arise, a Holy one, a supreme Enlightened One, an 
      incomparable leader. He will reveal to you the same Eternal Truth which I 
      have taught you.” Before entering Nirvana, the Buddha uttered His last 
      words: “Nothing in this world is precious. The human body will 
      disintegrate. Ony is Dharma precious. Only is Truth everlasting.” 
      
      (F)    Phật là 
      Đấng đã đạt được toàn giác  dẫn đến sự giải thoát hoàn toàn khỏi luân hồi 
      sanh tử. Danh từ Phật không phải là danh từ riêng mà là một tên gọi “Đấng 
      Giác Ngộ” hay “Đấng Tĩnh Thức.” Thái tử Sĩ Đạt Đa không phải sanh ra để 
      được gọi là Phật. Ngài không sanh ra là tự nhiên giác ngộ. Ngài cũng không 
      nhờ ân điển của bất cứ một đấng siêu nhiên nào; tuy nhiên sau nhiều cố 
      gắng liên tục, Ngài đã giác ngộ. Bất cứ chúng sanh nào thành tâm cũng có 
      thể vượt thoát khỏi những vướng mắc để thành Phật. Tất cả Phật tử nên luôn 
      nhớ rằng Phật không phải là thần thánh hay siêu nhiên. Ngài cũng không 
      phải là một đấng cứu thế cứu người bằng cách tự mình gánh lấy gánh nặng 
      tội lỗi của chúng sanh. Như chúng ta, Phật cũng sanh ra là một con người. 
      Sự khác biệt giữa Phật và phàm nhân là Phật đã hoàn toàn giác ngộ, còn 
      phàm nhân vẫn mê mờ tăm tối. Tuy nhiên, Phật tánh vẫn luôn đồng đẳng trong 
      chúng sanh mọi loài. Trong Tam Bảo, Phật là đệ nhất bảo, pháp là đệ nhị 
      bảo và Tăng là đệ tam bảo—The Buddha is the person who has achieve the 
      enlightenment that leads to release from the cycle of birth and death and 
      has thereby attained complete liberation—The word Buddha is not a proper 
      name but a title meaning “Enlightened One” or “Awakened One.” Prince 
      Siddhartha was not born to be called Buddha. He was not born enlightened, 
      nor did he receive the grace of any supernatural being; however, efforts 
      after efforts, he became enlightened. Any beings who sincerely try can 
      also be freed from all clingings and become enlightened as the Buddha. All 
      Buddhists should be aware that the Buddha was not a god or any kind of 
      supernatural being (supreme deity), nor was he a savior or creator who 
      rescues sentient beings by taking upon himself the burden of their sins. 
      Like us, he was born a man. The difference between the Buddha and an 
      ordinary man is simply that the former has awakened to his Buddha nature 
      while the latter is still deluded about it. However, the Buddha nature is 
      equally present in all beings—The Sakyamuni Buddha is the first person of 
      the Trinity, the Dharma second and the Order the third. There are four 
      types of the Buddha:
      
      1)      Tam 
      Tạng Phật, đấng đạt được giác ngộ dưới cội Bồ đề: The Buddha of the 
      Tripitaka who attained enlightenment on the bare ground under the 
      bodhi-tree.
      
      2)      Thông 
      Phật: The Buddha on the deva robe under the bodhi-tree.
      
      3)      Biệt 
      Phật: The Buddha on the great precious Lotus throne under the realm 
      bodhi-tree.
      
      4)      Viên 
      Phật: The Buddha on the throne of Space in the realm of eternal rest and 
      glory.   
      
      (G)    
      Theo các tông phái Thiền thì Phật tử chấp nhận rằng vị Phật lịch sử 
      ấy không phải là vị thần tối thượng, cũng không phải là đấng cứu thế cứu 
      người bằng cách tự mình gánh lấy tội lỗi của loài người. Người Phật tử chỉ 
      tôn kính Đức Phật như một con người toàn giác toàn hảo đã đạt được sự giải 
      thoát thân tâm qua  những nỗ lực của con người và không qua ân điển của 
      bất cứ một đấng siêu nhiên nào. Theo Phật giáo, ai trong chúng ta cũng là 
      một vị Phật, nghĩa là mỗi người chúng ta đều có khả năng làm Phật; tuy 
      nhiên, muốn thành Phật, chúng ta phải đi theo con đường gian truân đến 
      giác ngộ. Trong các kinh điển, chúng ta thấy có nhiều sự xếp loại khác 
      nhau về các giai đoạn Phật quả. Một vị Phật ở giai đoạn cao nhất không 
      những là một người giác ngộ viên mãn mà còn là một người hoàn toàn, một 
      người đã trở thành toàn thể, bản thân tự đầy đủ, nghĩa là một người trong 
      ấy tất cả các khả năng tâm linh và tâm thần đã đến  mức hoàn hảo, đến một 
      giai đoạn hài hòa hoàn toàn và tâm thức bao hàm cả vũ trụ vô biên. Một 
      người như thế không thể nào đồng nhất được nữa với những giới hạn của nhân 
      cách và cá tính và sự hiện hữu của người ấy. Không có gì có thể đo lường 
      được, không có lời nào có thể miêu tả được con người ấy—According to the 
      Zen sects, Buddhists accept the historic Sakyamuni Buddha neither as a 
      Supreme Deity nor as a savior who rescues men by taking upon himself the 
      burden of their sins. Rather, it verenates him as a fully awakened, fully 
      perfected human being who attained liberation of body and mind through his 
      own human efforts and not by the grace of any supernatural being. 
      According to Buddhism, we are all Buddhas from the very beginning, that 
      means everyone of us is potentially a Buddha; however, to become a Buddha, 
      one must follow the arduous road to enlightenment. Various classifications 
      of the stages of Buddhahood are to be found in the sutras. A Buddha in the 
      highest stage is not only fully enlightened but a Perfect One, one who has 
      become whole, complete in himself, that is, one in whom all spiritual and 
      psychic faculties have come to perfection, to maturity, to a stage of 
      perfect harmony, and whose consciousness encompasses the infinity of the 
      universe. Such a one can no longer be identified with the limitations of 
      his individual personality, his individual character and existence; there 
      is nothing by which he could be measured, there are no words to describe 
      him.  
      
      (H)    
      Các tên khác của một vị Phật—Other names (appellations) of a 
      Buddha:
      
      1)      
      See Thập Hiệu. 
      
      2)      
      Đấng Tự Hữu:  Svayambhuva (skt)—Self-existing One. 
      
      3)      
      Vị Lãnh Đạo: Nayaka (skt)—The Leader. 
      
      4)      
      Bậc Thắng Đạo: Vinayaka (skt)—The Remover-of-obstacles.
      
      5)      
      Bậc Dẫn Đạo: Parinayaka (skt)—The Guiding One.
      
      6)      
      Bậc Thấu Thị: Rishi (skt)—The Buddha.
      
      7)      
      Ngưu Vương: Vrishabha (skt)—Bull-king.
      
      8)      
      Đấng Phạm Thiên: Brahma (skt)—Brahma.
      
      9)      
      Bậc Tỳ Nữu: Vishnu (skt)—Vishnu.
      
      10)   
      Đấng Tự Tại: Isvara (skt)—Isvara.
      
      11)   
      Vị Ca Tỳ La: Kapila (skt)—Kapila.
      
      12)   
      Bậc Chấp Thực: Bhutanta (skt)—The Destroyer.
      
      13)   
      Đấng Vô Tận: Arishta (skt)—The Imperishable.
      
      14)   
      Đấng A Lợi Trạch Tra Ni Di: Nemina (skt)—Nemina.
      
      15)   
      Đấng Tô Ma: Soma (skt)—Soma.
      
      16)   
      Hỏa Thần: Fire.
      
      17)   
      Đấng La Ma: Rama (skt)—Rama.
      
      18)   
      Đấng Tỳ Da Bà: Vyasa (skt)—Vyasa.
      
      19)   
      Đấng Luân Già: Suka (skt)—Suka.
      
      20)   
      Đế Thích: Indra (skt)—Indra.
      
      21)   
      Bậc Đại Lực: The Strong One.
      
      22)   
      Thủy Thần: Varuna (skt)—Varuna.
      
      23)   
      Bất Sinh Bất Diệt: Anirodhanutpada (skt)—Immortality.
      
      24)   
      Không: Emptiness.
      
      25)   
      Như Như: Suchness.
      
      26)   
      Chân Lý: Sutyata (skt)—Truth.
      
      27)   
      Thực Hữu: Bhutata (skt)—Reality.
      
      28)   
      Thực Tế: Bhutakoti (skt)—Real Limit.
      
      29)   
      Pháp Giới: Dharmadhatu (skt)—Dharmadhatu.
      
      30)   
      Niết Bàn: Nirvana (skt)-Nirvana.
      
      31)   
      Thường Hằng: Nitya (skt)—Eternity.
      
      32)   
      Bình Đẳng: Samata (skt)—Sameness.
      
      33)   
      Bất Nhị: Advaya (skt)—Non-duality.
      
      34)   
      Bất Diệt: Anirodha (skt)—The Imperishable. 
      
      35)   
      Vô Tướng: Abimitta (skt)—Formless.
      
      36)   
      Duyên: Pratyaya (skt)—Causality.
      
      37)   
      Phật Tính Giáo Đạo: Buddha-hetupadesa (skt)—Teaching the Cause of 
      Buddhahood.
      
      38)   
      Giải Thoát: Vimoksha (skt)—Emancipation.
      
      39)   
      Đạo Đế: Margasatyam (skt)—Truth-paths.
      
      40)   
      Nhất Thiết Trí: Sarvajna (skt)—The All-knowing.
      
      41)   
      Thắng Giả: Jina (skt)—The Conquering One.
      
      42)   
      Ý Sinh Thân: Manomayakaya (skt)—The Will-body.   
      **    For more 
      information, please see Thập         
              Hiệu, and Tứ 
      Chủng Phật.  
      
      Phật A Di Đà: See Amitabha 
      Buddha.
      
      Phật A Di Đà Và Cõi Trang Nghiêm Tịnh Độ: 
      Amitabha Buddha and the adornments of the Western Pure Land.  
      
      Phật A Súc Bệ: Aksobhya Buddha.
      
      Phật A Súc Tỳ Hoan Hỷ Quang: 
      Akshobhya, Light Of Joy Buddha.   
      
      Phật Ảnh: Buddhachaya (skt)—Ảnh 
      Phật, trước đây bên Ấn Độ chỉ được trưng bày nơi mà chỉ có những người 
      “tâm đã thanh tịnh” mới thấy được—The shadow of Buddha, formerly exhibit 
      in various places in India, visible only to those “of pure mind.”. 
      
      Phật Âm: 
      
      1)      The 
      Buddha’s sound.
      
      2)      Tên 
      của một nhà sư Ấn Độ nổi tiếng—Name of a famous Indian monk:
      
      (A)  Tiểu sử 
      của Phật Âm—Buddhaghosa’s biography: Phật Âm, một học giả của trường phái 
      Nguyên Thủy, sanh trưởng trong gia đình Bà La Môn vào cuối thế kỷ thứ 4 
      tại Ma Kiệt Đà, gần Bồ đề đạo tràng (có người cho rằng Phật Âm sanh ra tại 
      miền Nam Ấn Độ và không phải trong một gia đình Bà La Môn). Vào thời của 
      ngài Phật Âm, đạo Phật qua tiếng Pali đã không còn được nhiều người biết 
      đến tại Ấn Độ. Tiếng Phạn đã trở nên ưu thế. Ngay cả các học giả Phật giáo 
      cũng dùng tiếng Phạn làm phương tiện diễn đạt. Chính tôn giả Mã Minh, đã 
      viết các thi phẩm của mình bằng tiếng Phạn vào thế kỷ thứ nhất sau Tây 
      Lịch. Tương tự, các nhà tư tưởng lớn như Long Thọ, Thế Thân, và Trần Na 
      cũng viết bằng tiếng Phạn. Thậm chí các vị vua triều đại Gupta cũng không 
      còn tỏ sự quan tâm đến tiếng Pali, mà ngược lại bảo trợ cho tiếng Phạn. Do 
      đó, thời ấy cả tiếng Pali và hệ phái Phật giáo Nguyên Thủy (Theravada) đã 
      dần dần suy thoái đến mức không còn đáng kể ở Ấn Độ nữa.  Tuy vậy, các Tỳ 
      Kheo cư ngụ tại Bồ Đề Đạo Tràng với người đứng đầu là Mahasthavira Revata, 
      dù là trong thế kỷ thứ 5, khi Phật Âm được kết nạp vào Tăng đoàn, vẫn gắn 
      bó với tiếng Pali. Trong thời của Phật Âm, trong nước thường diễn ra những 
      cuộc tranh luận tôn giáo. Buddhaghosa là người thông thuộc kinh Vệ Đà và 
      có biệt tài bảo vệ luận cứ của mình, nên hay đi từ nơi nầy đến nơi khác để 
      tìm đối thủ tranh luận. Một hôm Hòa Thượng Revata nghe ông tụng kinh 
      Patanjali, Hòa Thượng rất khâm phục vì sự phát âm chính xác của ông, và vì 
      muốn thuyết phục ông theo đạo Phật nên chấp nhận cuộc tranh luận với ông. 
      Phật Âm  hỏi: “Ngài có hiểu được các bài kinh nầy không?” Hòa Thượng đáp: 
      “Có, ta hiểu, các kinh ấy đều không đúng.” Mahasthavira Revata chỉ trích 
      các bài kinh một cách nghiêm khắc đến nỗi Phật Âm (Buddhaghosa) phải nín 
      thinh. Sau đó Phật Âm yêu cầu Hòa Thượng cho nghe giáo lý của ngài. Hòa 
      Thượng liền đọc một đoạn của bộ luận tạng. Phật Âm không hiểu  và hỏi: 
      “Thần chú của ai vậy?” Hòa Thượng đáp: “Thần chú của Đức Phật.” Phật Âm 
      lại hỏi: “Ngài dạy cho tôi được chăng?” Hòa Thượng trả lời: “Được chứ, 
      miễn là ông gia nhập giáo hội và tuân theo luật lệ của Tăng đoàn.” Sau đó 
      Phật Âm được truyền giới. Dưới sự hướng dẫn của Hòa Thượng Revata, ông 
      nghiên cứu chánh pháp, giới luật, và về sau trở thành nhà luận giải xuất 
      chúng về các giáo lý của Đức Phật.  Trong khi còn sống tại tu viện, nơi 
      ông được truyền giới, ông đã viết cuốn sách đầu tiên của mình tên là 
      Nanodaya. Sau đó ông viết cuốn Atthasalini, một tập bình giải cuốn Pháp 
      Tập Luận (Dhamma-sangani). Khi đang sắp sửa viết luận giải cho bộ 
      Parittasuttas thì Hòa Thượng Revata bảo ông: “Chỉ có một bộ Tam tạng gốc 
      được mang từ Tích Lan về đây. Chúng ta không có được các bài luận giải mà 
      cũng không  được nhiều đạo sư  truyền lại. Nhưng ở Lanka có những bài luận 
      giải do tôn giả Mahinda để lại rồi sau được dịch ra tiếng địa phương. 
      Ngươi hãy đến đó mà nghiên cứu để các luận giải nầy có thể hữu ích cho tất 
      cả chúng ta.” Theo lời thầy dạy, Phật Âm đã lên đường đi về Tích Lan, dưới 
      triều vua Mahanama. Ngài đã lưu lại tu viện Mahapadhana mấy năm để học 
      giáo lý Nguyên Thủy. Ông đã được nghe các lời bình giải bằng tiếng Tích 
      Lan cũng như các lời truyền giảng của các trưởng lão thuộc Thera 
      Sanghapala, tin tưởng rằng đây là những lời dạy chính xác và đích thực của 
      Như Lai. Sau đó ông trịnh trọng đề nghị với Tăng đoàn: “Tôi muốn dịch các 
      bài luận giải từ tiếng Tích Lan  ra tiếng Ma Kiệt Đà. Xin cho tôi được tự 
      do tiếp cận với tất cả các bộ kinh ở đây.” Khi nghe ông nói như thế, Tăng 
      đoàn đưa cho ngài hai bài kệ bằng tiếng Pali để thử sức và yêu cầu ông 
      bình giải về các bài kệ nầy. Phật Âm đã viết một bản yếu lược cho toàn thể 
      bộ Tam Tạng và đặt tên cho nó là Thanh Tịnh Đạo. Rất hài lòng về khả năng 
      xuất chúng của ông, Tăng đoàn đã giao toàn bộ sách vở  cho ông. Ngụ tại 
      Granthakara Parivena ở đế đô Anuradhapura, Phật Âm hoàn thành xong nhiệm 
      vụ phiên dịch các bản luận giải bằng tiếng Tích Lan ra tiếng Ma Kiệt Đà. 
      Sau đó, ông trở về cố hương—A scholar of the Theravada, born to a Brahmin 
      family at the end of the 4th century in Magadha, near Bodh-Gaya (some 
      people, for some reason, believe that Buddhaghosa was born in Southern 
      India, and not a Brahmin family). In Buddhaghosa’s time, Pali Buddhism in 
      India had lost much of its popularity. Sanskrit had regained the upper 
      hand. Even Buddhist scholars had accepted Sanskrit as the medium of 
      expression. Asvaghosa, who lived in the first century A.D., wrote his 
      poetical works in Sanskrit. Similarly, great thinkers like Nagarjuna, 
      Vasubandhu and Dinnaga also wrote in Sanskrit. Even the Gupta kings no 
      longer showed any interest in Pali and patronized Sanskrit. Thus both Pali 
      and Theraveda gradually dwindled into significance in India. However, the 
      bhikshus who then resided at Bodh Gaya under Mahasthavira Revata at that 
      time, even in the fifth century when Buddhaghosa was intiated into the 
      Order, stood firm in their allegiance to Pali. In Buddhaghosa’s time, 
      religious discussions were very common in the country. Buddhaghosa, who 
      was eminently versed in the Vedas and well qualified to hold his own in 
      arguments, went from place to place in quest of adversaries. One day the 
      Mahasthavira heard Buddhaghosa reciting sutras from Patanjali. He was so 
      impressed by the correctness of Buddhaghosa’s pronunciation that, probably 
      with the intention of converting him to Buddhism, he engaged in a 
      discussion with him. Buddhaghosa asked: “Do you understand these sutras?” 
      Revata replied: “Yes, I do; they are faulty.” Mahasthavira Revata 
      criticized these sutras so severely that Ghosa was dumb. Then Ghosa 
      requested Mahasthavira Revata to enunciate his doctrine, whereupon the 
      latter read an extract from the Abhidharma-pitaka. It was beyond 
      Buddhaghosa’s comprehension. He asked: “Whose mantra is this?” 
      Mahasthavira replied: “It is the Buddhamantra.” Ghosa again asked: “Would 
      you please teach it to me?” Mahasthavira replied: “Yes, I will, provided 
      you enter the Order according to the rules of the Sangha.” Ghosa was 
      ordained and became a disciple of Mahasthavira Revata. While living at the 
      vihara where Buddhaghosa received his ordination, he compiled his first 
      book, namely, Nanodaya. Then, according to tradition, he wrote the 
      Atthasalini, a commentary on the Dhamma-sangani. While preparing for a 
      commentary on the Parittasuttas, his master, Mahasthavira Revata, 
      instructed him thus: “The original Tripitaka alone has been brought here 
      from Ceylon. Here we neither possess commentaries, nor the tradition 
      coming down from various teachers. But in Lanka, there are commentaries 
      originally brought down by the wise Mahinda and later translated into the 
      language of the island. Go there and study them, so that they may be 
      beneficial to all.” As asked by the master, Buddhaghosa went to Ceylon, 
      and arrived there during the reign of king Mahanama. He stayed at 
      Mahapadhana great vihara to study Theravada teachings for several years. 
      He heard all the Simhalese commentaries and the tradition of the Elders 
      from Thera Sanghapala and was convinced that they were the exact and true 
      teachings of the Tathagata. Then he made a solemn request to the Bhikkhu 
      Sangha: “I want to translate the commentaries from Simhalese into Magadhi. 
      I should have free access to all the books.” Thereupon, the Sangha gave 
      him two stanzas in Pali in order to test his ability and asked him to 
      comment upon them. Buddhaghosa wrote a compendium of the whole of the 
      tripitaka and name it Visuddhimagga or the Path of Purity. Highly 
      satisfied with this performance, the bhikhus entrusted him with the whole 
      of the literature. Residing in Granthakara Parivena at Anuradhapura, 
      Buddhaghosa completed his task of rendering Simhalese commentaries into 
      Magadhi. Thereafter he returned to his mother country and there worshipped 
      the Bodhi tree.
      
      (B)  Tác phẩm 
      của ngài Phật Âm—Buddhaghosa’s works: Tại đế đô Anuradhapura, ngoài bộ 
      Thanh Tịnh Đạo ra, ông còn viết 19 bài bình giải về những điển lễ Phật 
      giáo, trong đó có Bình giải Kinh Tạng, và Thiên Kiến Luật 
      (Samanta-pasadika)—Besides his principal work is the  Abhidharma 
      Visuddhimagga (Way of Purity), he also wrote 19 commentaries to canonical 
      works, the Samanta-pasadika, and many other works, either preversed or 
      lost.
      
      1)      Thanh 
      Tịnh Đạo (Visuddhimagga)—The Path or Purity: Thanh Tịnh Đạo là quyển sách 
      đầu tiên mà Phật Âm viết tại Tích Lan. Trong đó có thể thấy cái gì cũng có 
      của văn học Phật giáo thời trước. Khắp nơi trong sách của Phật Âm đã trích 
      dẫn gần như toàn bộ văn học giáo điển và cả hậu giáo điển. Theo Đại Sự 
      (Mahavamsa) thì đây là một sự tóm lược cả ba bộ tạng cùng với phần luận 
      giải—The Path or Purity (Visuddhimagga) was the first work of Buddhaghosa 
      in Ceylon. In it ‘something of almost everything’ in early Buddhist 
      literature may be found. Throughout the book, Buddhaghosa quotes freely 
      from almost the whole of canonical and even post-canonical literature. As 
      the Mahavamsa states, it is truly ‘a summary of the three Pitakas together 
      with the commentary.’  
      
      2)      Cuốn 
      Dhammapadatthakatha là một bản dịch tiếng Pali của bộ luận gốc tiếng Tích 
      Lan. Một số nhà nghiên cứu cho rằng đây không phải là tác phẩm của đại 
      luận sư Phật Âm, nhưng điều nầy rất có thể là do sự khác biệt về đề 
      tài—The Dhammapadatthakatha is also a Pali translation of an original 
      Simhalese commentary. Some scholars suggest that this is not the work of 
      the great commentator Buddhaghosa. Their chief argument is the difference 
      in style, which may well be due to the difference in the subject matter.
      
      
      3)      Thiên 
      Kiến Luật là một cuốn luận giải về giới luật. Tác phẩm đồ sộ nầy được viết 
      theo yêu cầu của trưởng lão Buddha-Siri. Trong phần giới thiệu cuốn Thiên 
      Kiến Luật, chính Phật Âm đã mô tả tác phẩm của chính mình như sau: “Khi 
      bắt đầu viết bộ luận nầy, vốn đã bao gồm trong đó cả phần Maha-atthakatha, 
      mà không làm mất đi ý nghĩa chính xác của những quyết định ghi trong 
      Maha-paccari, cũng như trong cuốn Kurundi cùng các luận thư khác, và gồm 
      cả ý kiến của các trưởng lão…từ những luận thư nầy tôi đã tiến hành viết 
      quyển sách, sau khi gạn lọc ngôn từ, cô đọng những đoạn dài dòng, cả các 
      quyết định chính thức, mà không đi xa phương cách diễn đạt của tiếng 
      Pali.”—The Samanta-pasadika is a commentary on the Vinaya. This voluminous 
      work was written at the request of Thera Buddha Siri. According to Prof. 
      Bapat in The Twenty-Five Hundred Years Of Buddhism, in the introduction to 
      the Samanta-pasadika, Buddhaghosa himself describes his work as follows: 
      “In commencing this commentary, having embodied therein the 
      Mahaatthakatha, without excluding any proper meaning from the decisions 
      contained in the Maha-paccari, as also in the famous Kurundi and other 
      commentaries and including the opinion of the Elders…from these 
      commentaries, after casting off the language, condensing detailed 
      accounts, including the authoritative decisions, without overstepping any 
      Pali idiom, I shall proceed to compose my work.”  
      
      4)      Luận 
      Bổn Sanh Kinh là một bộ luận lớn được viết theo yêu cầu của ba trưởng lão 
      Atthadassi, Buddhamita và Phật Thiên (Buddhadeva). Phật Thiên là người 
      thuộc Hóa Địa Bộ, nhưng cuốn Luận Bổn Sanh Kinh thì toàn bộ được viết theo 
      sự thẩm duyệt của đại tu viện (Mahavihara). Điều nầy cho thấy là không có 
      tư tưởng đối nghịch giữa Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravada) và Hóa Địa Bộ 
      (Mahisasaka) vào thời điểm nầy—The Jatakatthakatha is an extensive 
      commentary which was written at the request of the Theras, namely, 
      Atthadassi, Buddhamitta, and Buddhadeva. Buddhadeva is mentioned as 
      belonging to the Mahisasaka sect, but the Jatakatthakatha is wholly based 
      on the Mahvihara recension. This indicates that there was no antagonistic 
      feeling between the Theravada and the Mahisasaka sects, at least at that 
      time. 
      
      5)      Luận 
      giải về Giới Pháp (Patimokkha) dưới nhan đề Kankhavitarani hay 
      Matikatthakatha. Sách nầy căn cứ trên truyền thống của tu viện, và được 
      viết theo yêu cầu của trưởng lão Sona—A commentary on the Patimokkha known 
      as Kankhavitarani or the Matikatthakatha. It was based on the Mahavihara 
      tradition and was written at the request of a Thera named Sona.
      
      6)      Các 
      bài luận giải về bảy đoạn trong Luận Tạng, dựa trên bản gốc bằng tiếng 
      Tích Lan, và được chấp thuận trên truyền thống đại tu viện—The 
      commentaries on the seven texts of the Abhidharma-pitaka, based on the 
      original Simhalese commentaries as well as on the accepted tradition of 
      Mahavihara.  
      
      7)      Luận 
      giải về bốn bộ kinh Nikaya): Cuốn Sumangalavilasini về Trường Bộ Kinh 
      (Digha-Nikaya), được viết theo yêu cầu của trưởng lão Dathanaga thuộc 
      Sumangala Parivena. Cuốn Papan-casudani về Trung Bộ Kinh 
      (Majjhima-Nikaya), được viết theo yêu cầu của trưởng lão Buddhamitta, ông 
      nầy là bạn của Phật Âm gặp tại Mayura-pattana ở miền nam Ấn Độ. Cuốn 
      Saratthappakasini về Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta-Nikaya), được viết theo 
      yêu cầu của trưởng lão Jotipala. Và cuốn Manorathapurini về Tăng Chi Bộ 
      Kinh (Anguttara-Nikaya) với phần tiểu sử của hầu hết các đệ tử của Đức 
      Phật, ngoài ra còn có bảng liệt kê địa danh tất cả các nơi Đức Phật đã an 
      cư kiết hạ—Commentaries on the four principal Nikayas. The 
      Sumangalavilasini on the Digha-Nikaya, written at the request of Thera 
      Dathanaga of the Sumangala Parivena; the Papancasudani on the 
      Majjhima-Nikaya, written at the request of Thera Buddhamitta; the 
      Saratthappakasini on the Samyutta-Nikaya, written at the request of Thera 
      Jotipala; and the Manorathapurani on the Anguttara. Among thse, special 
      mention may be made of the Manorathapurani, the commentary on the 
      Anguttara-Nikaya. It contains biographical notes on almost all the chief 
      disciples of the Lord Buddha, besides an enumeration of the names of all 
      places where the Buddha went during the rainy season (see Bốn Mươi Sáu Mùa 
      An Cư Kiết Hạ Của Phật).  
      
      Phật Ấn: Thực tướng của chư 
      pháp và đạo lớn của chư Phật nó quyết định và bất biến—Buddha-seal, the 
      sign of assurance. 
      
      Phật Bà Đề Ha: Purvavideha 
      (skt)—Đông Thắng Thần Châu, một trong bốn lục địa lớn quanh núi Tu Di—One 
      of the four great continents around Mount Sumeru—See Tứ Châu (4).
      
      Phật Bà Tỳ Đề Ha: Purvavideha 
      (skt)—See Tứ Châu (4). 
      
      Phật Bảo: 
      
      1)      Bảo 
      thứ nhất trong Tam Bảo: Buddha-Treasure, the first of the Triratna.
      
      2)      Tên 
      một ngôi chùa thuộc Hệ phái Nam Tông, tọa lạc trong quận Tân Bình, thành 
      phố Sài Gòn, Nam Việt Nam. Chùa được xây vào năm 1965, đã trải qua ba đời 
      trụ trì. Vị trụ trì đầu tiên là Hòa Thượng Giới Nghiêm. Hiện nay chùa là 
      điểm tiếp đón chư Tăng Ni từ các nước Miên, Lào, và Thái Lan. Sân chùa có 
      ngôi tháp Phật Bảo cao 11.5 mét. Ở đỉnh tháp có tôn trí xá lợi Phật được 
      Hòa Thượng Giới Nghiêm mang về từ Đại Hội Kết Tập Kinh Điển lần thứ sáu 
      tại Miến Điện 1961 (nhằm Phật lịch 2.505)—Name of a pagoda located in Tân 
      Bình district, Saigon City, South Vietnam. It was built in 1965 and had 
      three successors. The first Head was Most Venerable Giới Nghiêm. At 
      present, Phật Bảo Pagoda is the reception place for Buddhist monks and 
      nuns from Cambodia, Laos, and Thailand, belonging to the Theravada School. 
      In the front yard of the pagoda stands Phật Bảo stupa, 11.55 meters high. 
      On its top storey are adored Buddha’s relics brought by Most Venerable 
      Giới Nghiêm from the sixth International Congress of Collecting the 
      Buddhist Tripitakas, held in Burma in 1961 (the 2,505th year of Buddhist 
      calendar).    
      
      Phật Bảo Cái Chiếu Không Tự Tại Lực Vương: 
      Self-Mastery Power Like A Jwelled Canopy Shinning in Space Buddha. 
      
      Phật Bảo Hoa Du Bộ: Precious 
      Flower Traveling Buddha. 
      
      Phật Bảo Hoa Đức: 
      Jewelled-Flower-Virtue Buddha.  
      
      Phật Bảo Hỏa: Precious Fire 
      Buddha.
      
      Phật Bảo Liên Hoa Thiện Trụ Ta La Thọ 
      Vương: King Precious Lotus Skillful Dwelling Beneath The Sala 
      Tree Buddha
      
      Phật Bảo Nguyệt: Precious Moon 
      Buddha. 
      
      Phật Bảo Nguyệt Quang: Precious 
      Moonlight Buddha. 
      
      Phật Bảo Pháp Bảo Tăng Bảo: 
      Buddha, Dharma and Sangha—The Buddhist Trinity—The three Jewels—The three 
      Precious Ones . 
      
      Phật Bảo Quang: Precious Light 
      Buddha.
      
      Phật Bảo Tướng: 
      Jewelled-Appearance Buddha. 
      
      Phật Bát Nê Hoàn Kinh: The 
      nirvana or Mahaparinirvana.  
      
      Phật Bát Thế La: Purvasailah 
      (skt).
      
      1)      Đông 
      Sơn, một trong năm tông phái của Đại Chúng Bộ—Eastern Hill, one of the 
      five divisions of the Mahasanghika school.
      
      2)      
      Purvasailah, tên một tự viện tọa lạc về phía đông Dhanakataka—A monastery 
      east of Dhanakataka.
      
      Phật Bất Động Trí Quang: Light 
      Of Unmoving Wisdom Buddha. 
      
      Phật Bất Hóa Độ Vô Duyên, Bất Hóa Độ Định 
      Nghiệp: The Buddha could save neither non-condition nor the 
      fixed karma. 
      
      Phật Bình Đẳng Giới: The 
      Buddha-law by which all may attain to Buddhahood. 
      
      Phật Bồ Tát Hóa Sanh: Phật và 
      Bồ tát có thể hóa sanh tùy ý, không ngăn ngại, không điều kiện—The 
      transformation of a Buddha or Bodhisattva, in any form at will, without 
      gestation, or intermediary conditions. 
      
      Phật Bộ: Một trong (3 bộ) thuộc 
      Thai Tạng Giới hay (5 bộ) thuộc Kim Cang Giới. Những bộ có hình tượng Phật 
      trong các vị chư tôn Mạn đồ la—The groups in which Buddha appears in the 
      Garbhadhatu and Vajradhatu respectively.
      
      Phật Bổn Hạnh Tập Kinh: 
      Buddhacarita (skt)—Phật Bản Hạnh Tán Truyện—Những bài kệ văn tán thán hành 
      trạng cả cuộc đời Đức Phật, do Hiền Thánh Ấn Độ soạn và Bảo Vân dịch sang 
      Hoa ngữ vào khoảng năm 587 sau Tây Lịch—A life of Sakyamuni, translated 
      into Chinese by Jnanagupta around 587 A.D.. 
      
      Phật Cảnh: Buddha-domains—The 
      spiritual region of Buddhas—There are two kinds:
      
      1)      Chứng 
      cảnh: Domain or state of absolute enlightenment.
      
      2)      Hóa 
      cảnh: Domain that the Buddha is transforming. 
      
      Phật Cao Nhứt Xích, Ma Cao Nhứt Trượng, 
      Phật Cao Nhứt Trượng, Ma Quá Đầu 
      Thượng, Phật Quá Đầu Thượng, Ma Quy Hàng Phật: If the Buddha is 
      one foot tall, the demons will make themselves ten feet tall; if the 
      Buddha is ten feet tall, the demons stands just above the Buddha’s head. 
      Nevertheless, if the Buddha grows taller still and exceeds the demons in 
      heigth, the demons will surrender to the Buddha—Lời dạy nầy có nghĩa là 
      nếu Phật không cao hơn ma thì Phật sẽ bị ma trấn áp; người tu cũng vậy, 
      phải giữ cho ông Phật nơi chính mình luôn cao hơn ma dù trong bất cứ trạng 
      huống nào, nếu không sẽ bị ma chướng đánh đổ. Người tu mà thối chuyển là 
      do tự nơi mình, chớ nên đổ thừa cho hoàn cảnh, cũng không nên đổ thừa cho 
      ai, chỉ tại mình trây lười giải đãi nên thua ma. Nếu mình kiên tâm trì 
      chí, thì ma chướng sẽ tiêu tan—This teaching means if the Buddha is not 
      taller than the demonds, he will be subverted. In the same manner, 
      cultivatos should always ensure that his own Buddha is taller than that of 
      the demons under any circumstances; otherwise, he will be subverted and 
      vanquished. Therefore, cultivators who fail and retrogress should not  
      blame external circumstances or anyone. They should only blame themselves, 
      for being weaker than the demon. If they persist in holding fast to their 
      vows and determination, demonic obstacles will disappear.           
      
      Phật Châu Tráp Trang Nghiêm Công Đức: 
      Encompassing Adornments And Merit And Virtue Buddha. 
      
      Phật Chi Đề: Tháp thờ xá lợi 
      Phật. Những tháp nầy trở thành những biểu tượng của Phật Giáo—Buddha’s 
      Caitya, or Stupa—A Buddhist reliquary, or pagoda, where relics of the 
      Buddha (sarira) were kept. Such towers (stupas) have become symbols of 
      Buddhism.
      
      Phật Chiên Đàn Công Đức: 
      Chandana Merit And Virtue Buddha. 
      
      Phật Chiên Đàn Khốt Trang Nghiêm Thắng: 
      Adornment And Victory In Chandana Cave Buddha.  
      
      Phật Chiên Đàn Quang: Chandana 
      Light Buddha. 
      
      Phật Chủng: Hạt giống sanh ra 
      quả vị Phật, chủng tử Phật hay Bồ Tát, một khi được gieo vào tâm người, sẽ 
      trổ quả vị Phật hay Giác ngộ (những việc mà vị Bồ Tát làm gọi là hạt giống 
      Phật)—The seed of Buddhahood—Bodhisattva seeds which sown in the heart of 
      man, produce the Buddha fruit or enlightenment. 
      
      Phật Chủng Tánh: 
      
      1)      Người 
      cùng một họ hay chủng tộc với Phật—The Buddha-clans.
      
      2)      Đệ tử 
      nối truyền hoằng hóa Phật pháp—Buddhists.  
      
      Phật Công Đức Hoa: Flower Of 
      Merit And Virtue Buddha. 
      
      Phật Cốt: Xá lợi xương cốt của 
      Phật—A bone of the Buddha (as relics).
      
      Phật Cụ: Những đồ vật trang trí 
      trên bàn thờ—Articles used on an altar in worship of Buddha.
      
      Phật Cụ Thập Thân: Mười thân 
      toàn thiện của Phật—The ten perfect bodies or characteristics of Buddha:
      
      1)      Bồ đề 
      thân: Chánh Giác Phật hay Vô Trước Phật. Vì thành tựu chánh giác nên không 
      dính mắc vào sanh tử; tuy nhiên vì trụ ở thế gian nên không dính mắc vào 
      Niết Bàn—Bodhi-body in possession of complete enlightenment.
      
      2)      Nguyện 
      thân: Nguyện Phật—Thân Phật nguyện sanh vào cõi trời Đâu Suất—Vow-body, 
      i.e. the vow to be born in and from the Tusita heaven.
      
      3)      Hóa 
      thân: Nirmanakaya (skt)—Phật là hóa thân sanh làm người (làm thái tử nơi 
      cung vua)—Buddha incarnate as a man in the royal palace.
      
      4)      Trú 
      trì thân: Trụ trì Phật và thân sau khi thị tịch chỉ còn lại xá lợi thân mà 
      trụ trì vào Phật pháp—The Buddha who still occupies his relics or what he 
      has left behind on earth and thus upholds the dharmas.
      
      5)      Tướng 
      hảo trang nghiêm thân: Sambhogakaya (skt)—Nghiệp báo Phật—Đó là thân Phật 
      có vô biên tướng hảo trang nghiêm, là công đức báo đáp vạn hạnh nghiệp 
      nhân—Endowed with an idealized body with all Buddha marks and merits.
      
      6)      Thế 
      lực thân (Tâm Phật): Lấy cái tâm từ bi của Phật để nhiếp phục tất 
      cả—Power-body, embracing all with his heart of mercy.
      
      7)      Như Ý 
      thân (Ý sinh thân): Như Ý Phật—Thân Phật đối với chư vị Bồ Tát  thị hiện 
      tùy theo ý muốn và nhu cầu của chúng sanh—At will body, appearing 
      according to wish and need.
      
      8)      Phúc 
      đức thân (Tam muội thân): Thân thường trụ tam muội hay thân của phúc đức 
      cao nhất—Samadhi body, or body of blessed virtue.
      
      9)      Trí 
      thân (Tính Phật): Đại viên trí vốn có nơi chư Phật—Wisdom-body, whose 
      nature embraces all wisdom.
      
      10)  Pháp 
      thân: Dharmakaya (skt)—Thân Phật tuyệt đối (cuối cùng)—The absolute Buddha 
      or essence of all life.  
      
      Phật Cúng: Cúng dường một vị 
      Phật—An offering to Buddha. 
      
      Phật Cứu Độ Chúng Sanh Bằng Bốn Phương 
      Pháp: Theo Đạo Xước (562-645), một trong những tín đồ lỗi lạc 
      của Tịnh Độ Tông, trong An Lạc Tập, một trong những nguồn tài liệu chính 
      của giáo pháp Tịnh Độ, chư Phật cứu độ chúng sanh bằng bốn phương 
      pháp—According to Tao-Ch’o (562-645), one of the foremost devotees of the 
      Pure Land school, in his Book of Peace and Happiness, one of the principal 
      sources of the Pure Land doctrine. All the Buddhas save sentient beings in 
      four ways:
      
      1)      Bằng 
      khẩu thuyết như được ký tải trong Nhị Thập Bộ Kinh: By oral teachings such 
      recorded in the twelve divisions of Buddhist literature.  
      
      2)      Bằng 
      tướng hảo quang minh: By their physical features of supernatural beauty.
      
      3)      Bằng 
      vô lượng đức dụng thần thông đạo lực, đủ các thứ biến hóa: By their 
      wonderful powers and virtues and transformations. 
      
      4)      Bằng 
      các danh hiệu của các Ngài, mà, một khi  chúng sanh thốt lên, sẽ trừ khử 
      những chướng ngại và chắc chắn sẽ vãng sanh Phật tiền:  By recitating of 
      their names, which when uttered by beings, will remove obstacles and 
      result their rebirth in the presence of the Buddha.   
      
      Phật Danh Quang: Famous-Light 
      Buddha. 
      
      Phật Danh Văn: Well-Known 
      Buddha.
      
      Phật Danh Văn Quang: 
      Well-Known-Light Buddha. 
      
      Phật Di Lặc: Maitreya, người 
      của yêu thương, vị Phật của tương lai. Ngài là vị Phật nối tiếp Phật Thích 
      Ca. Người ta còn gọi Ngài là Phật của tình thương qua hình ảnh một ông 
      Phật mập và luôn cười.  Sự thờ cúng Phật Di Lặc rất phổ biến trong Phật 
      giáo Tây Tạng. Ngài là một trong năm vị Phật trần thế (Ca na dà Mâu 
      Ni—Kanakamuni, Thích Ca Mâu Ni—Sakyamuni, Krakuchchanda, Ca Diếp—Kashyapa, 
      Di Lặc—Maitreya). Ngài hiện đang ngự trị trên các cõi trời Đâu 
      Xuất—Metteya, Loving One, the future Buddha or the Buddha-to-come—The 
      Bodhisattva who will be the next holder of the supreme office of Buddha. 
      The Buddha of Love through the image of the fat and always laughing 
      Buddha. The cult of Maitreya is very widespread in Tibetan Buddhism. He is 
      one of the five earthly Buddhas (Krakuchchanda, Kanakamuni, Kashyapa, 
      Shakyamuni, Maitreya). He is currently presiding in the Tushita heaven. 
      
      
      Phật Di Lặc Tiên Quang: 
      Maitreiya Immortal Light Buddha. 
      
      Phật Diệm Kiên: 
      Blazing-Shoulders Buddha.
      
      Phật Diệt Độ: Phật Niết Bàn, sự 
      chấm dứt khổ đau phiền não, và vượt qua bể khổ sanh tử—Buddha’s 
      nirvana—The extinction of suffering or delusion, and as transport across 
      the bitter sea of mortality.
      
      Phật Diệu Âm: Wonderful Sound 
      Buddha.
      
      Phật Diệu Âm Thắng: Wonderful 
      Voice And Victory Buddha. 
      
      Phật Dõng Thí: Courageous 
      Giving Buddha. 
      
      Phật Dược Sư Lưu Ly Quang: 
      Medicine Master Crystal Light Buddha. 
      
      Phật Dược Vương (Dược Sư): 
      Bhaisajya Buddha—Người thầy điều trị hay vị cứu tinh. Ngài đang ngự trị 
      nơi Thiên Đường Đông Độ, trong khi Phật A Di Đà bên Tây Phương Cực 
      Lạc—Medicine teacher, frequently referred to as the “Medicine Buddha.” He 
      reigns over an Eastern Paradise, while Amitabha reigns over the Western 
      Paradise.  
      
      Phật Đa Bảo: Đa Bảo Như Lai, 
      một trong những hình ảnh trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Vị cổ Phật trồi 
      lên từ trong lòng đất có tên là Đa Bảo Như Lai, dù đã nhập diệt nhưng pháp 
      của Ngài vẫn còn đang được tuyên lưu. Ý nói chân lý là thường 
      hằng—Prabhutaratna Buddha—An important image in the Wonder Lotus Sutra—An 
      ancient monument emerges from the ground, opens up, and reveals an Extinct 
      Buddha named Prabhutaratna, who although extinct is still alive and 
      teaching. This symbolizes the idea the truth is eternal.
      
      Phật Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Phật: 
      Tamalapattra and Chandana Fragrance Buddha. 
      
      Phật Đà: 
      
      1)      Xuất 
      phát từ động từ gốc Phạn ngữ “Budh” có nghĩa là hiểu rõ, thấy biết hay 
      tỉnh thức. Phật là người đã giác ngộ, không còn bị sanh tử luân hồi, và 
      hoàn toàn giải thoát—Derived from the Sanskrit verb root “Budh” meaning to 
      understand, to be aware of, or to awake. It describes a person who has 
      achieved the enlightenment that leads to release from the cycle of birth 
      and death and has thereby attained complete liberation. 
      
      2)      Một 
      trong mười danh hiệu của Đức Như Lai, thường gọi tắt là Phật: One of the 
      ten names for the Tathagata.
      
      3)      Có 
      nhiều vị Tăng ở Ấn Độ và Trung Á mang tên “Phật Đà.”—There are numerous 
      monks from India and Central Asia bearing this as part of their names. 
      **   For more information, 
      please see Phật. 
      
      Phật Đà Ba Lợi: 
      
      1)      Vị 
      Tăng tên Phật Đà Ba Lợi đến Trung Quốc từ Kabul vào khoảng năm 676 sau Tây 
      Lịch—A monk named Buddhapala, who arrived in China from Kabul in around 
      676 A.D.
      
      2)      Vị 
      Tăng tên Phật Đà Ba Lợi, đệ tử của Ngài Long Thọ, và là người sáng lập ra 
      tông phái Trung Luận Tính Giáo—A monk named Buddhapalita, a disciple of 
      Nagarjuna and founder of the Madhyamika school.
      
      Phật Đà Bạt Đà La: 
      
      1)      
      Buddhabadra (Giác Hiền Sa Môn)—Dòng dõi của một người bác của Phật, người 
      đã dịch Kinh Hoa Nghiêm vào năm 418 sau Tây lịch. Ngài từ Ca Tỳ La Vệ đến 
      Trung Quốc, nơi đây ngài sáng tác một số tác phẩm Phật Giáo—A descendant 
      of  Buddha’s uncle, who translated the Avatamsaka Sutra in 418 AD. He came 
      to China from Kapilavastu in around 408 A.D., her he composed several 
      Buddhist works.
      
      2)      Tên 
      của một vị đệ tử của Dharmakosa, người mà Ngài Huyền Trang đã được gặp bên 
      Ấn Độ vào khoảng những năm từ 630 đến 640 sau Tây Lịch—Name of a disciple 
      of Dharmakosa, whom Hsuan-Tsang met in India, 630-640 A.D. 
      
      Phật Đà Cúc Đa: Buddhagupta 
      (skt)—Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, Phật Đà Cúc Đa là một 
      vị quân vương Phật tử của xứ Ma Kiệt Đà, là con và người kế vị của vua 
      Sakraditya—According to Eitel, Buddhagupta was a  Buddhist king of 
      Magadha, son and successor of Sakraditya.
      
      Phật Đà Da Xá: Tăng sĩ Phật Đà 
      Da Xá, còn được biết như là Vibhasa râu đỏ, từ thành Kashmir đã đến Trung 
      Hoa vào những năm từ 403 đến 413 để dịch kinh từ Phạn ra Hoa 
      ngữ—Buddhayasas of Kashmir or Kabul, known as “red-beard Vibhasa,” who 
      arrived in China from 403 to 413 to translate Sutras from Sanskrit to 
      Chinese. 
      
      Phật Đà Đa La: Buddhatrata 
      (skt)—Tên của vị Tam Tạng Pháp Sư  Giác Cứu, dịch giả của nhiều bộ luận 
      vào khoảng năm 650 sau Tây Lịch—Buddhatrata, a monk from Kashmir or Kabul, 
      was a translator of many sastras, around 650 A.D. 
      
      Phật Đà Đề Bà: Buddhadeva 
      (skt)—Một trong bốn nhà bình luận nổi tiếng Phật Giáo—One of the four most 
      famous Buddhist commentators. 
      
      Phật Đà Mật Đa La: Buddhamitra 
      (skt)—Tổ thứ chín bên Ấn Độ—Ninth patriarch in India.
      ** For more information, 
      please see Hai Mươi 
           Tám Tổ Ấn Độ.  
      
      Phật Đà Nan Đề: Buddhanandi 
      (skt)—Dòng dõi Thích Ca và là tổ thứ tám bên Ấn Độ—A descendant of the 
      Gautama family and eighth patriarch in India. 
      ** For more information, 
      please see Hai Mươi 
           Tám Tổ Ấn Độ.
      
      Phật Đà Phạt Na Sơn: 
      Buddhavanagiri (skt)—Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển của Giáo 
      Sư Soothill, đây là ngọn núi gần thành Vương Xá, nổi tiếng với những hang 
      đá, mà Đức Phật đã có một thời trú ngụ tại đó—According to Eitel in the 
      Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms composed by Professor 
      Soothill, this is a   moutain near Rajagrha, famous for its rock caverns, 
      in one of which Sakyamuni lived for a time.
      
      Phật Đà Phiến Đa: Buddhasanta 
      (skt)—Phật Đà Phiến Đa là một vị sư miền Trung Ấn, là dịch giả của khoảng 
      mười tác phẩm Phật Giáo từ khoảng những năm 529-539 sau Tây Lịch—A monk 
      from Central India, translator of some ten works from 529 to 539 A.D.
      
      Phật Đà Tăng Ha: Buddhasimha 
      (skt)—Một đệ tử của Ngài Vô Trước, vào khoảng thế kỷ thứ năm sau Tây Lịch, 
      nổi tiếng về mật tu và tài năng xuất chúng—A disciple of Asanga, probably 
      fifth century A.D. He was famous for his esoteric practices and lofty 
      talents.
      
      Phật Đà Thập: Buddhajiva 
      (skt)—Một vị Tăng đến Trung Quốc từ Kashmir hay Kabul vào khoảng năm 423 
      sau Tây Lịch—Buddhajiva, a monk who arrived in China from Kashmir or Kabul 
      in around 423 A.D.
      
      Phật Đại Bi Quang: Greatly 
      Compassionate Light Buddha. 
      
      Phật Đại Cường Tinh Tấn Dõng Mãnh: 
      Great Firm Vigor and Courage Buddha. 
      
      Phật Đại Diệm Kiên: 
      Great-Blazing-Shoulder Buddha.
      
      Phật Đại Huệ Lực Vương: Great 
      Wisdom-Power Buddha. 
      
      Phật Đại Minh: Great-Brightness 
      Buddha.
      
      Phật Đại Quang: Great-Light 
      Buddha.
      
      Phật Đại Thông Quang: Light Of 
      Great Penetrations Buddha. 
      
      Phật Đại Tu Di: Great Sumeru 
      Buddha.
      
      Phật Đàn: Sự bố thí như hạnh 
      chư Phật, đối lại với sự bố thí của ma. Phật đàn là bố thí một cách trong 
      sạch, thanh tịnh giống như Phật thuyết pháp độ chúng 
      sanh—Buddha-dana—Buddha-giving, in contrast with Mara-giving or preaching. 
      Buddha-charity as the motive of giving, or preaching, and of 
      self-sacrifice, or self-immolation. 
      ** For more information, 
      please see Nhị Đàn. 
      
      Phật Đản: Ngày Phật Đản sanh, 
      có lẽ  vào ngày mồng 4 tháng 8; tuy nhiên, tất cả các nước theo Phật giáo 
      lấy ngày trăng tròn tháng tư làm lễ kỷ niệm—Buddha’s Birth Day, perhaps on 
      the 4th  month, 8Th day; however, all Buddhist countries obseve the Full 
      Moon Day of the Lunar month of Vaisakha (April-May) as Buddha Birth Day 
      Anniversary.  
      
      Phật Đảnh: Đức Phật Thích Ca 
      Mâu Ni trong đệ tam tòa Thai Tạng Giới được coi như là Phật Đảnh Tôn Thiền 
      Định Phổ Trí Tự Tại—Sakyamuni in the third court of the Garbhadhatu is 
      represented as the Foremost Honoured One in meditation as Universal Wise 
      Sovereign. 
      
      Phật Đảnh Ấn: Usnisa (skt)—Dấu 
      ấn trên đỉnh đầu của Đức Phật như một chùm tóc—The characteristic sign on 
      a Buddha’s head (short curls, topknot, etc).  
      
      Phật Đảnh Chú: Thủ Lăng Nghiêm 
      Chú—Sitatapatrosnisa-dharani (skt)—Bạch Tản Cái Phật Đảnh Đà La Ni Chú—The 
      white-umbrella dharani. 
      
      Phật Đảnh Cốt: Buddhosnisa 
      (skt)—Chỗ u lên trên đỉnh đầu của Phật, một trong những tướng hảo—The 
      skull or cranial protuberance on the the Buddha’s head; one of his 
      characteristic marks.
      
      Phật Đảnh Tôn Thắng Đà La Ni: 
      The Unisha Vijaja Dharani Sutra—Theo Pháp sư Thích Thiền Tâm trong Kinh 
      Phật Đảnh Tôn Thắng Đà La Ni, trong tất cả các thần chú về Phật Đảnh, môn 
      Đà La Ni nầy rất là tối tôn tối thắng, hay trừ hết tất cả những khổ não 
      trong sáu nẻo luân hồi của tất cả chúng sanh—According to Dharma Master 
      Thich Thien Tam in the Unisha Vijaja Dharani Sutra, in all the greatest 
      Dharani of the Buddha, this mantra is the best, unequaled, often 
      eliminating suffering for all sentient beings in all the six realms of 
      existence. 
      
      1.      Namo 
      Bagabhàte
      Na Mô Ba 
      ga pha tê.
      
      2.      
      Sarvatadran lokiya
      Sạt hoa 
      tát răn lô ky da.
      
      3.      Pradi 
      vitistraya
      Bơ ra di 
      vi ti  sắc tra da.
      
      4.      
      Buddhàya Bagabhàté
      Bút đà 
      da ba ga phê tê.
      
      5.      
      Tadyatha!
      Tát đi 
      da tha!
      
      6.      Aum! 
      Bhrum, bhrum, bhrum
      Um! Bút 
      rum, bút rum, bút rum.
      
      7.      
      Suddhàya suddhàya
      Suýt đà 
      da, vi suýt đà da.
      
      8.      
      Visuddhàya visuddhàya
      Vi suýt 
      đà da, vi suýt đà da.
      
      9.      Á Sàma 
      sàma
      Á sá ma 
      sá ma. 
      
      10.  Samànta 
      bhàvasad
      Sa măn 
      tá phạ hoa sát.
      
      11.  Sabhàrana 
      gati gagàna
      Sa phả 
      ra na  ga ti ga gạ na.
      
      12.  Sabhàva 
      visuddhi
      Xoa phạ 
      hoa vi suýt đi.
      
      13.  Á vicanya 
      dumam
      Á vi 
      chuân da đu măn.
      
      14.  
      Survàtatthà gadà
      Sạt hoa 
      tát thá ga đá.
      
      15.  Sùgada
      Sú ga 
      đa.
      
      16.  Bhàra 
      bhàcanà
      Phạ ra, 
      phạ ca nã.
      
      17.  Amirtá 
      pisàku
      A mi rị 
      tá, bi sá cu.
      
      18.  Maha 
      mùdra mandara pana
      Ma ha 
      muýt dơ ra măn, đa ra ba na. 
      
      19.  Aum! Á 
      hàra áhàra
      Um! Á hạ 
      ra, á hạ ra.
      
      20.  Ayusàn 
      dhàrani
      A du săn 
      đà ra ni.
      
      21.  Suddhàya 
      suddhàya
      Suýt đà 
      da, suýt đà da.
      
      22.  Gagana 
      svabhàva visuddhi
      Ga ga na 
      xoa phạ hoa vi suýt di.
      
      23.  Usnisà 
      vicaya visuddhi
      U sắc ni 
      sá vi ca da vi suýt đi.
      
      24.  Sáhàsara 
      rasami santonité
      Sá hạ sa 
      ra, ra sa mi san tô ni tê.
      
      25.  Sàrava 
      tatthàgada
      Sá ra 
      hoa tát thá ga đa.
      
      26.  Avalokini
      A hoa lô 
      ki ni.
      
      27.  
      Sarvatatthàgada matté
      Sạt hoa 
      tát thá ga đa mát tê.
      
      28.  Sàtra 
      pàramità
      Sá tra 
      bá ra mi tá.
      
      29.  Bari 
      pùrani
      Ba rị bủ 
      ra ni.
      
      30.  Nasà 
      bùmipra dissité
      Na sá bủ 
      mi bơ ra, đi sắc si tê. 
      
      31.  Sàrava 
      tatthagada h’ridhàya
      Sá ra 
      hoa tát thá ga da hất rị đà da. 
      
      32.  Dissàna
      Đi sắc 
      sá na.
      
      33.  Disité
      Đi sắc 
      si tê.
      
      34.  Aum! 
      Mùdri mùdri maha mùdri
      Um! Muýt 
      đơ ri, muýt đơ ri, ma ha muýt đơ ri. 
      
      35.  Vajra 
      caya
      Hoa di 
      ra ca da.
      
      36.  Samhàdanà 
      visuddhi
      Săn hạ 
      đa nã Vi suýt đi.
      
      37.  Sàrava 
      kama, bhàrana visuddhi
      Sá ra 
      hoa ca ma, phạ ra na, vi suýt đi. 
      
      38.  Para 
      durikati biri visuddhi
      Ba ra đu 
      ri ca ti, bi ri vi suýt đi.
      
      39.  Pratina 
      varadhàya ayùsuddhi
      Bơ ra ti 
      na hoa ra đá da, a dục suýt đi. 
      
      40.  Samayà 
      dissàna dissité
      Sam ma 
      dã , đi sắc sá na, đi sắc si tê.
      
      41.  Aum! Mani 
      mani màhàmani
      Um! Ma 
      ni, ma ni, mạ ha ma ni.
      
      42.  Á mani, 
      ámani
      Á ma ni, 
      á ma ni.
      
      43.  Vimani 
      vimani màhà vimani
      Vĩ ma 
      ni, vĩ ma ni, mạ hạ vĩ ma ni.
      
      44.  Matdi 
      matdi màhà matdi
      Mát đi 
      mát đi, mạ ha mát đi.
      
      45.  Tatthàdà 
      bùdha
      Tát thá 
      đá, bủ đa.
      
      46.  Kuthi 
      virisuddhi
      Cu thi 
      vi ri suýt đi.
      
      47.  Visaphora 
      buddhi visuddhi
      Vĩ sa 
      phổ ra, bút đi vi suýt đi.
      
      48.  Aum! Hyhy
      Um! Hi 
      hi.
      
      49.  Jàya jàya
      Dá ra, 
      dá ra.
      
      50.  Vijàya 
      vijàya
      Vĩ dá 
      ra, vĩ dá ra.
      
      51.  Samara 
      samara
      Sa ma 
      ra, sa ma ra.
      
      52.  Sabhàra 
      sabhàra
      Sa phạ 
      ra, sa phạ ra.
      
      53.  Sàrabhà 
      budha
      Sá ra 
      phạ bút đa.
      
      54.  Dissàna
      Đi sắc 
      sá na.
      
      55.  Dissité
      Đi sắc 
      si tê.
      
      56.  Suddhi 
      suddhi
      Suýt đi, 
      suýt đi.
      
      57.  Vàjri 
      vàjri màhàvàjri
      Họa di 
      ri, họa di ri, mạ hạ họa di ri.
      
      58.  Á vàjri
      Á họa di 
      ri.
      
      59.  Vàjra 
      gàbi
      Họa di 
      ra gạ bi.
      
      60.  Jàya gàbi
      Dá ra gạ 
      bi.
      
      61.  Vijàya 
      gàbi
      Vĩ dá ra 
      gạ bi.
      
      62.  Vàjra 
      jvàlà gàbi
      Họa di 
      ra, rít họa lã gạ bi.
      
      63.  Vàjro 
      nagaté
      Hoạ di 
      rô, na ga tê.
      
      64.  Vàjro 
      nabàvé
      Họa di 
      rô, na bà vê.
      
      65.  Vàjra 
      sambàvé 
      Họa di 
      ra, sam bà vê.
      
      66.  Vàjro 
      vàjrina
      Họa di 
      rô, Họa di rị na.
      
      67.  Vàjram 
      vabhà dumàmà
      Họa di 
      rảm, hoa phạ đô mạ mạ.
      
      68.  Sàriram 
      sàrabhà sattabhànaim
      Sá rị 
      rảm, sá ra phạ, sát ta phạ năng. 
      
      69.  Tàcaya 
      biri visuddhi
      Tả ca 
      da, bi ri, vi suýt đi.
      
      70.  S’ya 
      vabhà dumi satna
      Sất da 
      hoa phạ đô mi sát na.
      
      71.  Sàrabhà 
      gati birisuddhi 
      Sát ra 
      phạ, ga ti, bi rị suýt đi.
      
      72.  Sàrabhà 
      tatthagada s’yami
      Sá ra 
      phạ, tát tha gạ đa, sất da mi.
      
      73.  Sàma 
      sabhà sadyantu 
      Sá ma sa 
      phạ, sát dăn tu.
      
      74.  Sarva 
      tatthagada
      Sạt hoa 
      tát tha ga đa.
      
      75.  Sàma 
      sàbhàsa dissité
      Sá ma sá 
      phạ sa, đi sắc si tê.
      
      76.  Aum! 
      S’diya s’diya 
      Um! Sất 
      đi dà, sất đi da.
      
      77.  Buddhiya 
      buddhiya
      Bút đi 
      da, bút đi da. 
      
      78.  
      Vibuddhiya vibuddhiya
      Vi bút 
      đi da, vi bút đi da.
      
      79.  Boddhàya 
      boddhàya
      Bồ đà 
      da, bồ đà da.
      
      80.  
      Viboddhàya viboddhàya
      Vi bồ đà 
      da, vi bồ đà da.
      
      81.  Mocaya 
      mocaya
      Mô ca 
      da, mô ca da. 
      
      82.  Vimocaya 
      vimocaya
      Vi mô ca 
      da, vi mô ca da.
      
      83.  Suddhàya 
      suddhàya
      Suýt đà 
      da, suýt đà da.
      
      84.  
      Visuddhàya visuddhàya
      Vi suýt 
      đà da, vi suýt đà da.
      
      85.  Samànta 
      tatbiri mocaya
              Sa măn tá, tát bi 
      ri, mô ca da.
      
      86.  Samadhàya 
      sami birisudhi
      Sa măn 
      đá da, sa mi bi ri suýt đi.
      
      87.  Sàrabhà 
      tatthàgadà samaya h’ridàya—Sá ra phạ, Tát thá ga đá, sam ma da, hất rị đà 
      da. 
      
      88.  Dissàna 
      dissité
      Đi sắc 
      sá na, đi sắc si tê.
      
      89.  Aum! 
      Mùdri mùdri màhà mùdra
      Um! Muýt 
      đơ ri, muýt đơ ri, mạ hạ muýt đơ ra.
      
      90.  Mandàra 
      pana
      Mạn đà 
      ra bá na.
      
      91.  Dissité
      Đi sắc 
      si tê.
      
      92.  Svàha
      Xóa ha.
      
      
      Phật Đạo: Con đường dẫn tới 
      giác ngộ hay Phật quả—The way of Buddha—The way which leads to Buddhahood 
      or enlightenment—The Buddhist doctrine .
      
      Phật Đạt Ma: Dharma Buddha.
      
      Phật Đăng Thủ Tuân: Thiền sư 
      Phật Đăng Thủ Tuân (1079-1134), người Trung Hoa. Ngài khởi sự theo học 
      Thiền với Quảng Giám Anh. Sau đó đến Thái Bình, nơi Phật Giám cư ngụ, 
      nhưng không biết làm cách nào để nắm được Thiền. Sư quấn chăn lại thề 
      rằng: “Đời nầy mà không thấu suốt lẽ Thiền, sẽ không bao giờ giở chăn ra 
      mà nằm nghỉ.” Ngày ngồi thiền, đêm đứng dậy, sư dốc chí tinh nghiên Thiền 
      cần mẫn cơ hồ như mất cha mất mẹ. Cứ bảy ngày, rồi bảy ngày như thế trôi 
      qua—Zen master Fo-Teng-Shou-Hsun, a famous Chinese Zen master, was born in 
      1079. He began to study Zen under Kuang-Chien-Ying. He came later to 
      T’ai-Ping, where Fo-Chien resided, but was at a loss how to take hold of 
      Zen. He put a seal on his bedding and made this vow: “If I do not attain 
      the experience of Zen in this life, this will never be spread to rest my 
      body in.” He sat in meditation during the day, but the night was passed 
      standing up. He applied himself  to the monastery Zen most assiduously as 
      if he had lost his parents. Seven weeks thus elapsed. 
      
      ·       
      Nhân lúc Phật Giám thượng đường thuyết pháp, rằng: “Sum la 
      vạn tượng được ấn thành Nhất pháp.” Nhờ đó mà Thủ Tuân sáng mắt ra. Phật 
      Giám bảo: Tiếc thay một hạt minh châu bị gã phong điên lượm được.” Rồi 
      Phật Giám bảo Thủ Tuân: Linh Nguyên nói rằng ‘nhất kiến đào hậu, trực chí 
      như kim bất cánh nghi (một lần từ thấy hoa đào đó, cho đến bằng nay hết cả 
      ngờ). Cái chỗ người ta không còn ôm ấp mối ngờ ấy là gì?”—When Fo-Chien 
      gave a sermon saying, ‘A world of multiplicities is all stamped with the 
      One.’ Tis opened the eye of Shou-Hsun. Fo-Chien said: “What a pity that 
      the lustrous gem has been carried away by this lunatic!” He then said to 
      Shou-Hsun: “According to Ling-Yun, ‘Since I once saw the peach bloom, I 
      have never again cherrished a doubt.’ What is this when no doubts are ever 
      cherrished by anybody?”
      
      ·       
      Thủ Tuân đáp: “Đừng nói Linh Nguyên không hề ôm ấp một mối 
      ngờ; thực tình chính nay chẳng thể có mối ngờ bị ôm ấp ở đâu 
      cả.”—Shou-Hsun answered, “Don’t say that Ling-Yun never cherrishes a 
      doubt; it is in fact impossible for any doubt to be cherrished anywhere 
      even now.”
      
      ·       
      Phật Giám nói: “Huyền Sa quở Linh Nguyên rằng ‘Đúng thì đúng 
      đấy, nhưng chưa thật thấu triệt.’ Giờ hãy bảo cho ta biết cái chỗ thấu 
      triệt này ở đâu?”—Fo-Chien said: “Hsuan-Sha criticized Ling-Yun, saying: 
      ‘You are al right as far as you go, but you have not yet really  
      penetrated.’ Now tell me where is this unpenetrated spot.”
      
      ·       
      Thủ Tuân đáp: “Con cảm kích sâu đậm tấm lòng thiết tha như 
      bà mẹ của thầy.”— Shou-Hsun replied: “Most deeply I appreciate your 
      grand-motherly kindness.
      
      ·       
      Phật Giám đồng ý lời giải bày nầy. Rồi thì Thủ Tuân làm một 
      bài kệ—Fo-Chien gave his approval to this remark. Thereupon, Shou-Hsun 
      produced the following stanza:  
      Trọn 
      ngày nhìn trời mà không ngẩng đầu
      Khi thấy 
      hoa đào rậm rạp mới nhướng mi
      Giả sử 
      cho ngài có lưới trùm trời đất
      Qua khỏi 
      quan ải rồi hãy nghỉ đi.
      (Chung 
      nhật khán thiên bất cử đầu
      Đào hoa 
      lạn mạn thủy đài mâu
      Nhiêu 
      quân cánh hữu già thiên võng
      Thấu đắc 
      lao quan tức tiện hưu).
      All day 
      he has been looking at the sky yet 
      without 
      lifting his head, 
      Seeing 
      the peach in full bloom he has 
      for the 
      first time raised his eyebrows:
      Mind 
      you, however, 
      there’s 
      still a world-enveloping net 
      Only 
      when the last barrier-gate is broken through, there is complete rest.
      
      ·       
      Viên Ngộ Phật Quả, nghe chuyện này, hơi ngờ chỗ chứng của 
      Thủ Tuân. Ngài nghĩ, phải để tự mình chứng kiến thực tình Thủ Tuân là như 
      thế nào. Ngài cho gọi sư đến và cùng đi dạo núi với sư. Khi họ đến một đầm 
      nước sâu, Phật Quả đẩy mạnh đồng hành của mình xuống nước. Không đợi lâu, 
      ngài hỏi ngay: “Trước khi Ngưu Đầu chưa thấy Tứ Tổ thì sao?” Thủ Tuân trả 
      lời: “Đầm sâu, nhiều cá.” Phật Quả hỏi tiếp: “Về sau thì sao?” Thủ Tuân 
      đáp: “Cây cao vời gió.” Phật Quả lại hỏi: “Khi thấy và chưa thấy thì sao?” 
      Thủ Tuân đáp: “Chân co chân duỗi.”  Cuộc thử thách hoàn toàn vừa ý Phật 
      Quả, và do đó, Phật Quả đã là bá phụ của Thủ Tuân  về mặt chánh 
      tín—Yuen-Wu-Fo-Kuo who heard of this had some misgiving about Shou-Hsun’s 
      attainment he would give it a test and see for himself how genuine 
      Shou-Hsun was. He called him in and had a walk with him in the mountain. 
      When they came to a deep pool, Fo-Kuo rudely pushed his companon into the 
      water. No sooner he did this than he asked: “How about Niu-T’ou before he 
      saw the Fourth Patriarch?” Shou-Hsun replied: “Deep is the pool, many are 
      the fish.” Fo-Kuo asked agai: “How afterwards?” Shou-Hsun replied: “The 
      high trees invite a breeze.” Fo-Kuo asked: “How when he is seen and not 
      seen?” Sho-Hsun replied: “The legs stretched are the legs bent.” The test 
      fully satisfied Fo-Kuo, who was by the way Shou-Hsun’s uncle in faith. 
      
      Phật Đấu Chiến Thắng: 
      Victorious In Battle Buddha. 
      
      Phật Đệ Tử: Buddhists—Disciples 
      of Buddha. 
      
      Phật Địa: Giai đoạn thứ mười 
      trong thập địa, nơi mà Bồ Tát đạt tới giác ngộ cao nhất và sắp sửa thành 
      Phật—Buddha-bhumi—The Buddha stage, being the tenth stage where the 
      Bodhisattva has arrived at the point of highest enlightenment and is just 
      about to become a Buddha.
      
      Phật Điền: Nơi vun trồng công 
      đức Phật để chắc chắn gặt được Phật quả, đặc biệt Phật là một đối tượng 
      thờ phụng và cúng dường—The Buddha field, in which the planting and 
      cultivation of the Buddhist virtues ensure a rich harvest, especially the 
      Buddha as an object of worship and the Order for almsgiving. 
      
      Phật Điện: Buddha Hall. 
      
      Phật Định Quang: Samadhi Light 
      Buddha. 
      
      Phật Đồ Trừng: Buddhasimha 
      (skt)—Phật Đà Tăng Ha—Buddhacinga or Buddhochinga (skt)—Phật Đồ Đặng—Phật 
      Đồ Chanh (Fo-T’u-Ch’êng)—Nhà sư Thiên Trúc, đến Lạc Dương vào khoảng năm 
      310 sau Tây Lịch. Ông còn được biết đến qua danh hiệu Thiên Trúc Phật Đồ 
      Trừng, tu học từ bé và đắc pháp thần thông—An Indian monk who came to 
      Lo-Yang about 310 A.D., also known as Indian Fo-T’u-Ch’êng, noted for his 
      magic. 
      
      Phật Độ: Buddhaksetra (skt).
      
      (I)     Nghĩa 
      của Phật Độ—The meanings of “Buddha Realms”
      
      1)      Báo 
      Độ: The land of reward, the Pure Land.
      
      2)      Cực 
      Lạc: Sukhavati (skt)—Tên của cõi nước thanh tịnh của Đức Phật A Di Đà nằm 
      về phương tây của vũ trụ—Highest Joy, name of the Pure Land of Amitabha 
      Buddha in the west.  
      
      3)      Hoa 
      Tạng Thế Giới: The Pure Land of all Buddhas in their Sambhogakaya.
      
      4)      Phật 
      quốc: The land or realm of a Buddha—The land of the Buddha’s birth.
      
      5)      Thường 
      Tịch Quang Tịnh Độ: Trụ xứ của chư Phật—The realm of eternal rest and 
      light, and of eternal spirit (Dharmakaya), the abode of Buddhas. 
      
      (II)  Phân 
      loại Phật Độ—Categories of “Buddha Realms”
      
      (A)  Tứ Phật 
      Độ—There are four kinds:
      
      1)      Đồng 
      cư quốc độ: Where common beings and saints dwell together :
      
      a)      Uế độ: 
      Ta bà quốc độ—Saha world—Where all beings are subject to transmigration.
      
      b)      Tịnh 
      độ: Thanh tịnh độ---The Pure Land.
      
      2)      Phương 
      tiện hữu dư quốc độ (Biến dịch quốc độ): Trú xứ của Tứ Thánh—The sphere 
      where beings are still subject to higher forms of transmigration—The abode 
      of Srota-apanna (Tu đà hườn), Sakrdagamin (Tư đà hàm), Anagamin (A na 
      hàm), and Arhat (A la hán)—See Tứ Thánh Quả. 
      
      3)      Thực 
      báo vô chướng ngại quốc độ: The bodhisattva realm—Final unlimited reward.
      
      4)      Thường 
      tịch quang quốc độ: Buddha-parinirvana—Where permanent tranquility and 
      enlightenment reign.
      
      (III)           
      Đức Phật dạy về Phật Độ—The Buddha taught about Buddha Lands: Theo 
      Kinh Duy Ma Cật, Đức Phật dạy rằng: “Này Bảo Tích! Tất cả chúng sanh là 
      cõi Phật của Bồ Tát. Vì sao? Bồ Tát tùy chỗ giáo hóa chúng sanh mà lãnh 
      lấy cõi Phật; tùy theo chỗ điều phục chúng sanh mà lãnh lấy cõi Phật; tùy 
      chúng sanh ưng theo quốc độ nào vào trí tuệ của Phật mà lãnh lấy cõi Phật; 
      tùy chúng sanh ưng theo quốc độ nào phát khởi căn tánh Bồ Tát mà lãnh lấy 
      cõi Phật. Vì sao thế? Vì Bồ Tát lãnh lấy cõi Phật thanh tịnh đều vì muốn 
      lợi ích chúng sanh. Ví như có người muốn xây dựng cung nhà nơi khoảng đất 
      trống, tùy ý được thành công, nếu xây dựng giữa hư không quyết không thành 
      tựu được; Bồ Tát cũng thế, vì thành tựu chúng sanh nên nguyện lãnh lấy cõi 
      Phật. Nguyện lãnh lấy cõi Phật chẳng phải ở nơi rỗng không vậy—According 
      to the Vimalakirti Sutra, the Buddha said: “Ratna-rasi, all species of 
      living beings are the Buddha land sought by all Bodhisattvas. Why is it 
      so?  Because a Bodhisattva wins the Buddha land according to the living 
      beings converted by him (to the Dharma); according to the living beings 
      tamed by him; according to the country (where they will be reborn to) 
      realize the Buddha-wisdom and in which they will grow the Bodhisattva  
      root.  Why is it so?  Because a Bodhisattva wins the pure land solely for 
      the benefit of all living beings.  For instance, a man can build palaces 
      and houses on vacant ground without difficulty, but he will fail if he 
      attempts to build them in (empty) space.  So, a Bodhisattva, in order to 
      bring living beings to perfection, seeks the Buddha land which cannot be 
      sought in (empty) space.
      **   For more information, 
      please see Báo Độ, 
             Hoa Tạng Thế Giới, 
      and Tứ Độ.  
      
      Phật Độc Giác: Prayetka-Buddha 
      (skt)—Một chúng hữu tình mà mức độ giác ngộ gấp một ngàn lần một vị 
      A-la-hán, nhưng chưa lớn bằng một vị Bồ Tát. Tuy nhiên, nói chung, cả ba 
      đều đã giải thoát khỏi luân hồi sanh tử—An enlightened being whose level 
      of enlightenment is one thousand times greater than that of a Arhat, but 
      not as great as that of a Bodhisattva. However, generally speaking, three 
      of them are equal because they have attained liberation from the cycle of 
      life and death. 
      
      Phật Đức: Phật đức với toàn 
      sanh, toàn quả, toàn bi, cứu khổ chúng sanh—Buddha-virtue—Buddha’s perfect 
      life, perfect fruit, and perfect mercy in releasing all beings from 
      suffering.  
      
      Phật Đức Niệm: Virtue And 
      Mindfulness Buddha. 
      
      Phật Đường: Pagoda. 
      
      Phật Gia: Gia đình Phật giáo. 
      Tất cả Phật tử từ Tu Đà Hoàn trở lên—The family of Buddhism—All Buddhists 
      from Srota-apanna (Tu Đà hoàn) upwards. 
      
      Phật Giám Huệ Cần: See Huệ Cần 
      Phật Giám.  
      
      Phật Giáo: Buddhism. 
      
      (I)     Ý 
      nghĩa của Đạo Phật—The meanings of Buddhism:
      
      1)      Có 
      người cho rằng đây chỉ là đời sống của Đức Phật, tấm gương của Đức Phật và 
      những đệ tử gần gũi nhất của Ngài đặt ra, đó là kỳ công quang vinh của một 
      người, một người đứng trước công chúng tuyên bố con đường giải thoát: To 
      someone it can be only life of the Buddha; the example that the Buddha and 
      his immediate disciples set, that glorious feat of a man, who stood before 
      men as a man and declared a path of deliverance. 
      
      2)      Với số 
      người khác, Phật giáo có nghĩa là học thuyết quần chúng như đã ghi trong 
      văn học Phật giáo gồm Tam Tạng kinh điển. Và trong đó miêu tả một triết lý 
      cao quý, sâu sắc, phức tạp và uyên bác về cuộc đời: To others, Buddhism 
      would mean the massive doctrine as recorded in the Buddhist Tripitaka 
      (literature), and it is described a very lofty, abstruse, complex and 
      learned philosophy of life. 
      
      3)      Đạo 
      Phật, một triết lý, một phương cách sống hay là một tôn giáo. Đều nầy 
      không quan trọng. Phật giáo là giáo pháp của Đức Phật thuyết giảng, một 
      nền giáo lý hoàn toàn xây dựng trên trí tuệ của con người. Đạo Phật rất 
      tôn trọng lý trí. Nhắm mắt tin suông là trái với giáo lý nhà Phật. Chính 
      Đức Phật đã dạy: “Không nên tin một cách mù quáng những lời ta dạy, mà 
      trước tiên hãy thử nó như đem lửa thử vàng để biết vàng thật vàng giả.” 
      Đạo Phật không phải là một tôn giáo chuyên thờ cúng hay cầu xin các vị 
      thần linh. Đạo Phật không cấm Phật tử tìm hiểu giáo lý của những tôn giáo 
      khác. Đức Phật dạy nếu có những điều phải và hợp lý thì Phật tử có quyền 
      tự do thụ nhận cho dù điều ấy là giáo lý của một tôn giáo khác. Đạo Phật 
      khác với các tôn giáo và các chủ nghĩa khác ở chỗ tôn trọng quyền nhận xét 
      của cá nhân, tự do tư tưởng và phát triển lý trí. Chính vì vậy mà Đức Phật 
      dạy rằng giáo lý của Ngài không có gì dấu diếm trong tay áo cả. Ngài còn 
      nói thêm rằng giáo lý tùy thuộc vào vào sự thấu hiểu chân lý của con 
      người, chứ không phải tùy thuộc vào ân huệ của một vị thần linh hay bất cứ 
      quyền năng nào khác. Đức Phật còn nhấn mạnh về sự tự do dò xét khi Ngài 
      bảo các đệ tử rằng nếu cần phải xét đoán ngay cả Đức Như Lai nữa, để có 
      thể hoàn toàn tin chắc giá trị của vị Thầy mà mình đang theo. Phật day 
      rằng chúng ta phải học, hiểu, hành rồi mới tin. Ngài nhắc nhở rằng nếu 
      chưa hiểu hoặc còn hoài nghi mà mê muội tin theo là phỉ báng Phật. Hoài 
      nghi không phải là một cái tội, vì Phật giáo không có những tín điều buộc 
      phải tin theo. Hoài nghi tự nhiên mất khi con người hiểu rõ, thấy rõ sự 
      thật, thấy rỏ chân lý: Buddhism—Buddha teaching—Buddhism is a philosophy, 
      a way of life or a religion. The teaching of Buddha. This is not 
      important. Buddhism is what the Buddha taught. His teaching was based on 
      human inner wisdom. Buddhism always values reason. Blindly believing in 
      everything is contrary to Buddha’s teaching. The Buddha taught: “Do not 
      believe blindly in my teachings. Always test them like using fire to test 
      gold to determine whether it is authentic or counterfeit.” Buddhism is not 
      a religion versed in worshipping and imploring favors from deities. It is 
      different from other religions and doctrines in that it respects personal 
      opinions, beliefs, and intellectual development. Buddhism does not prevent 
      its disciples from learning other religious teachings. The Buddha said 
      that if there were reasonable and rational teachings in other religions, 
      His followers were free to reapect such things. From that basic principle, 
      the Buddha declared that there was nothing hidden in the sleeve of His 
      saffron robe when referring to His teachings. He also added that His 
      doctrine was consistent with how people understood the Truth. It did not 
      depend on the favors bestowed by any deity or any other spiritual power. 
      The Buddha emphasized the concept of free inquiry when He asked His 
      disciples to judge even the Tathagata in order to have an utter 
      trustfulness in Him. He asked them to study, understand, and believe 
      latter on. Whoever has not yet understood or still has doubt but blindly 
      believes has thus defamed the Buddha. Doubt is not a sin because Buddhism 
      has no creed to be believed. Doubt will automatically dissipate when 
      people fully understand or perceive the Truth. 
      
      4)      Danh 
      từ Phật giáo được lấy từ gốc Phạn ngữ  “Bodhi” có nghĩa là “Giác ngộ,” và 
      do vậy Phật giáo là triết lý của sự giác ngộ. Chính vì thế mà định nghĩa 
      thật sự của Phật giáo là “Diệu Đế.” Đức Phật không dạy từ lý thuyết, mà 
      Ngài luôn dạy từ quan điểm thực tiễn qua sự hiểu biết, giác ngộ và thực 
      chứng về chân lý của Ngài: The name Buddhism comes from the word “Bodhi” 
      which means “waking up,” and thus Buddhism is the philosophy of Awakening. 
      Therefore, the real definition of Buddhism is Noble Truth. The Buddha did 
      not teach from theories. He always taught from a practical standpoint 
      based on His understanding, His enlightenment, and His realization of the 
      Truth. 
      
      5)      Với 
      Đức Phật, con người là tối thượng, nên Ngài đã dạy: “Hãy là ngọn đuốc và 
      là nơi nương tựa của chính bạn, chớ đừng tìm nơi nương tựa vào bất cứ nơi 
      nào khác.” Đó là lời nói chân thật của Đức Phật. Ngài đã từng nói: “Tất cả 
      những gì thực hiện được đều hoàn toàn do nỗ lực và trí tuệ rút ra từ kinh 
      nghiệm bản thân của con người. Con người làm chủ vận mệnh của mình. Con 
      người có thể làm cho cuộc đời mình tốt hơn hoặc xấu hơn. Con người nếu tận 
      sức tu tập đều có thể thành Phật.”—To the Buddha, man is a supreme being, 
      thus, he taught: “Be your own torch and your own refuge. Do not seek 
      refuge in any other person.” This was the Buddha’s truthful word. He also 
      said: “All realizations come from effort and intelligence that derive from 
      one’s own experience. Man is the master of his destiny, since he can make 
      his life better or worse. If he tries his best to cultivate, he can become 
      a Buddha. ” 
      (II) Có hai tông phái Phật Giáo chính—There 
      are two main branches:
      
      1)      Nam 
      Tông: Theravada (skt)—Tiểu Thừa hay giáo pháp của hàng Trưởng Lão, xuất 
      phát từ Nam Ấn Độ, lan rộng đến Tích lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào và Cam 
      Bốt—The Southern or Theravada (Teachings of the Elders), also known as the 
      Hinayana, which arose in southern India, whence it spread to Ceylon, 
      Burma, Thailand,  Laos and Cambodia—For more information, please see 
      Hinayana in sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
      
      2)      Bắc 
      Tông: Mahayana (skt)—Đại Thừa, khởi động từ Bắc Ấn Độ đến Tây Tạng, Mông 
      Cổ, Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản. Không giống như Tiểu 
      Thừa có khuynh hướng bảo thủ và không uyển chuyển, Đại Thừa tự thích ứng 
      với các nhu cầu của các dân tộc có nền tảng chủng tộc và văn hóa khác 
      nhau, và có mức độ hiểu biết khác nhau—The Mahayana moved from northern 
      India to Tibet,  Mongolia, China, Vietnam, Korea, and Japan. Unlike 
      Southern Buddhism, which tended to remain conservative and doctrinaire, 
      the Mahayana adapted itself to the needs of peoples of diverse racial and 
      cultural backgrounds and varying levels of understanding—For more 
      information, please see Đại Thừa and Đại Thừa Tông. 
      
      Phật Giáo Ấn Độ: Trong các thế 
      kỷ thứ 1 và thứ 2 sau khi Đức Phật nhập diệt, thật khó mà phân biệt được 
      Phật giáo với nhiều giáo phái khổ hạnh khác. Rõ ràng là đến thời kỳ 
      Maurya, Phật giáo mới nổi lên thành một tôn giáo riêng biệt. Nhưng vào 
      thời nầy Phật giáo cũng chỉ giới hạn ở các vùng Ma Kiệt Đà, Kiều Tất La mà 
      thôi. Các cộng đồng tu sĩ nhỏ cũng có thể đã có mặt ở phía Tây tại Mathura 
      và Ujjayini. Trong thời gian diễn ra nghị hội thứ hai tại thành Tỳ Xá Ly 
      (Vaisali) khoảng một trăm năm sau Đức Phật, thư mời đã gửi đến các cộng 
      đồng tu sĩ ở những nơi xa như Patheya, Avanti, Kausambi, Sankasya và 
      Kanauji. Mathura đã trở thành một trung tâm Phật giáo quan trọng trong 
      những năm đầu của thời kỳ cực thịnh Maurya. Lịch sử Phật Giáo Ấn Độ trong 
      thời kỳ nầy xét theo bề ngoài thì không phải là thời kỳ yên tĩnh. Do sự 
      bành trướng dần dần của Phật giáo và vì thiếu thông tin thường xuyên giữa 
      những cộng đồng cách xa nhau nên giáo hội mất dần tính thống nhất. Các ảnh 
      hưởng địa phương từ từ tác động lên cách cư xử của các cộng đồng, uốn nắn 
      họ theo những kiểu khác nhau. Điều nầy cuối cùng đã làm nảy sinh ra nhiều 
      trường phái khác nhau. Dưới triều vua A Dục, giáo hội hẳn đã bộc lộ sự 
      phân hóa và các bia ký của vua A Dục cho thấy nhà vua đã áp dụng những 
      biện pháp đặc biệt để cứu vãn sự thống nhất của giáo hội. Theo Giáo sư 
      P.V. Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm Phật Giáo, sự bảo trợ của vua A Dục 
      tất nhiên đã góp phần truyền bá đạo Phật không chỉ trong vương quốc của 
      ông, mà còn đến tận những vùng đất xa xôi. Có thể hiểu được rằng sau sự 
      cải tổ Giáo Hội Ma Kiệt Đà tại nghị hội lần thứ ba và với sự hợp tác của 
      nhà vua, đã có những cố gắng truyền bá đạo Phật đến những quốc gia xa xôi. 
      Hoạt động truyền bá ban đầu có thể không thành công nhiều để gây sự chú ý 
      của nước ngoài nhưng các điều được ghi lại cùng các tượng đài Phật giáo 
      trong các thời kỳ sau vua A Dục đã chứng minh rõ ràng bên trong lãnh thổ 
      của Maurya các hoạt động ấy đã thành công lớn. Đến các đời vua Sunga thì 
      Phật giáo mất đi sự bảo trợ. Các tài liệu Phật giáo đều mô tả Pusyamitra 
      Sunga như là một người ngược đãi tín đồ Phật giáo. Tuy nhiên, sự phá hoại 
      Phật giáo nhất thời của Pusyamitra không đạt hiệu quả vì dân chúng vẫn 
      đứng về phía Phật giáo. Sức mạnh của quần chúng là nguồn gốc của sự tiến 
      triển lớn lao mà Phật giáo đã thực hiện được dưới thời Sunga-Kanva. Điều 
      nầy được thấy rõ qua số lượng cúng dường to lớn của tư nhân dành cho Phật 
      giáo được chép trên các đài kỷ niệm thời ấy. Một số công trình Phật giáo 
      nổi tiếng như bảo tháp Bharhut, hầm Karle và bảo tháp Sanchi đều thuộc vào 
      thời kỳ Sunga-Kanva và chứng minh cho sự phồn thịnh đáng kể mà Phật giáo 
      có được vào thời kỳ nầy. Phật giáo đã phát triển từ một tôn giáo của chùa 
      chiền thành một tôn giáo của toàn dân. Phật giáo đã trở thành một tôn giáo 
      thờ thần mà đối tượng thờ cúng là Đức Phật cùng xá lợi của Ngài. Chính vào 
      thời kỳ nầy, Phật giáo đã được những người Hy Lạp ở miền Bắc hưởng ứng. 
      Vua Menander là người vô cùng mộ đạo. Sau khi đặt kinh đô tại Sakala, ông 
      đã có nhiều hành động sùng mộ đạo Phật. Kể từ thời vua Menander, nhiều 
      người Hy Lạp ở Ấn Độ đã nhận đạo Phật làm tôn giáo của mình và sau đó họ 
      đã tham gia cúng dường các chùa chiền Phật giáo. Các văn bản Ba Li cho 
      thấy người Hy Lạp còn tham gia vào các hoạt động truyền giáo. Chúng ta 
      được biết rằng sau khi nước Yavana (Hy Lạp) theo đạo Phật thì tôn giả Mục 
      Kiền Liên Tư Đế Tu (Moggsliputra-Tissa) đã đến nước nầy và chọn được một 
      trưởng lão Hy Lạp là Dharmaraksita cho công việc truyền giáo. 
      Dharmaraksita sau đó được cử đến nước Aparantaka, ông thuyết giảng chánh 
      pháp thành công tại đây và đã hóa độ cho hàng ngàn người kể cả phụ nữ và 
      các nhà quý tộc. Người Hy Lạp tại Ấn Độ đã tạo nên một kiểu nghệ thuật 
      Phật giáo mới mẽ, được gọi là Ấn Độ-Hy Lạp (Indo-Greek), phát triển chủ 
      yếu tại Punjab và miền Tây Bắc Ấn Độ. Sự phát triển nhanh chóng của Phật 
      giáo dưới thời vua A Dục đến nhiều vùng đất khác nhau của Ấn Độ đã làm nảy 
      sinh nhiều hệ phái Phật giáo được ghi là lên đến 18 hệ phái. Sự phát sinh 
      ra các hệ phái nầy phần lớn không phải do sự khác biệt về giáo lý mà là do 
      yếu tố địa lý. Với sự lan rộng của đạo Phật, đã có nhiều cộng đồng được 
      thành lập tại nhiều nơi trong nước. Vì không có sự phối hợp nên  nhiều 
      cộng đồng đã nghĩ ra những cách riêng để duy trì giáo pháp. Trong vài 
      trường hợp, sự khác biệt giữa các trường phái thật không đáng kể. Đó là lý 
      do một số trường phái đã biến mất hoặc hòa lẫn vào các trường phái khác 
      chỉ sau một thời gian ngắn. Đại Chúng Bộ (Mahasanghika) trong thế kỷ thứ 
      hai sau ngày Đức Phật nhập diệt, đã nảy sinh ra tám trường phái khác nhau, 
      trong đó nổi bật nhất là là các trường phái Nhất Thuyết Bộ 
      (Ekavyavaharika), Thuyết Xuất Thế Bộ (Lokottaravada), Tây Sơn Trụ Bộ 
      (Aparasaila), Đông Sơn Trụ Bộ (Uttarasaila). Sự phân chia bắt đầu trong 
      phái Thượng Tọa Bộ (Sthaviravada) một thế kỷ sau đó. Sự phân phái đầu tiên 
      làm nảy sinh ra hai trường phái Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvastivada) và Tuyết 
      Sơn Bộ (Mula-Sthaviravada hay Haimavata). Từ khi thành hình tại Tỳ Xá Ly, 
      Đại Chúng Bộ chỉ giới hạn chủ yếu ở phía Đông rồi từ đó lan rộng ra, đặc 
      biệt là về phía Nam. Những tín đồ của trường phái nầy có lẽ đã không tạo 
      nên một cộng đồng lớn ở phía Bắc vì chỉ được nói đến trong hai câu ghi 
      khắc mà thôi. Đại chúng Bộ tạo nên một văn hệ riêng  và tự cho là đã duy 
      trì được truyền thống đích thực nhất của Phật giáo ban đầu, coi mình dòng 
      dõi của tôn giả Ca Diếp, người đã triệu tập nghị hội Phật Giáo lần thứ 
      nhất theo truyền thống. Sự hiện hữu của gần như tất cả các nhánh của Đại 
      Chúng Bộ tại vùng Dhanyakataka cho thấy rằng nơi đây đã trở thành thành 
      lũy quan trọng nhất. Đại Chúng Bộ dưới sự bảo trợ của Satavahanas và những 
      người kế vị ở thung lũng Krishna. Các trường phái nầy tiếp tục phồn thịnh 
      cho đến thế kỷ thứ 3 hoặc thứ 4 sau Tây Lịch. Các trường phái sinh ra từ 
      Thượng Tọa Bộ cũng đã để lại dấu ấn rõ rệt trong văn học  và bia ký từ 
      thời kỳ Sunga cho đến thời kỳ Kusana, và có thể nói là đã phát triển  từ 
      năm 200 trước Tây Lịch đến năm 200 sau Tây Lịch. Đại Chúng Bộ và các nhánh 
      của phái nầy phát triển mạnh chủ yếu ở phía Bắc. Trường phái nầy được đánh 
      giá cao tại các vùng Mathura đến Nagara và từ Taksasila đến Kashmir. Triều 
      đại Ca Sắc Nị Ca (Kanishka) cũng là một cột mốc quan trọng trong lịch sử 
      Phật giáo. Nhà vua không chỉ là một thí chủ lớn của tôn giáo nầy mà còn 
      được xem như một trong số các nhân vật quan quan trọng đã định ra phương 
      hướng cho Phật giáo trong các thời kỳ về sau. Chính trong giai đoạn nầy mà 
      nghệ thuật Phật giáo  trường phái Ấn Độ-Hy Lạp đã có sự phát triển to lớn 
      nhất. Các tu sĩ Phật giáo từ Ấn Độ đã đưa Phật giáo đến vùng Trung Á và 
      Trung Hoa. Phái Đại Thừa với ảnh hưởng rộng lớn cũng được thành hình vào 
      thời kỳ nầy. Vua Ca Sắc Nị Ca rõ ràng đã góp phần quan trọng vào sự phát 
      triển của Phật giáo. Đến triều đại Gupta Phật giáo lại nhận được một sức 
      đẩy mới. Mặc dù các vị hoàng đế  là người Bhagavata gắn bó với Bà La Môn, 
      nhưng họ có thiện cảm với đạo Phật. Theo tài liệu còn ghi lại, trong thời 
      gian đầu từ thế kỷ thứ 5 đến cuối thế kỷ thứ 6, đã có nhiều sự cúng dường 
      từ các tư nhân trong những vùng Kausambi, Sanchi, Bodh-Gaya và Mathura. 
      Một số lớn tài liệu do những người hành hương từ Trung Hoa đến Ấn Độ vào 
      thời kỳ nầy đã viết, đã cho thấy rõ tình hình Phật giáo ở nước nầy. Ngoài 
      ra, các công trình nghệ thuật của Phật giáo với những di tích còn lại ở 
      Mathura, Sarnath, Nalanda, AjantaBagh và Dhanyakataka đã nói lên một cách 
      hùng hồn về sự phồn thịnh của đạo Phật dưới triều đại Gupta. Tôn giả Pháp 
      Hiển, người đã đến Ấn Độ dưới triều đại Chandragupta II, xác nhận tình 
      hình phát triển của Phật giáo , đặc biệt là ở Uddiyana, Gandhara, Mathura, 
      Kanauji, Kosala, Magadha, và Tamralipti. Việc xây dựng các tu viện ở Na 
      Lan Đà cũng nhờ vào sự bảo trợ của các quan chức thời Gupta. Từ giữa thế 
      kỷ thứ 7 trở đi, qua các tư liệu, chúng ta lại thấy rõ về tình trạng Phật 
      giáo tại Ấn Độ. Phật giáo đã đạt đến đỉnh cao trong thời kỳ nầy, nhưng 
      cũng đã cho thấy một vài triệu chứng suy thoái. Mặc dù vậy, một số trung 
      tâm nghiên cứu Phật giáo lớn như Na Lan Đà và Valabhi vẫn còn tỏa sáng rực 
      rỡ. Vua Harshavardhana trong những ngày cuối đời đã trở thành tín đồ của 
      Phật giáo Đại Thừa. Ở phía Tây, các vua của triều đại Maitraka tại 
      Valabhi  đã trở thành những người bảo trợ cho đạo Phật từ giữa thế kỷ thứ 
      6. Nhiều di tích Phật giáo được tìm thấy ở Valabhi xác nhận sự hiện diện 
      của Phật giáo tại vùng nầy cho đến thế kỷ thứ 10. Thế kỷ sau triều đại 
      Harsha chứng kiến một tình trạng hỗn loạn không thuận lợi cho việc phát 
      triển một tôn giáo chùa chiền như đạo Phật, vốn lệ thuộc quá nhiều vào sự 
      bảo trợ của chính phủ. Phật giáo vẫn còn tồn tại tại Kashmir, thung lũng 
      Swat, Valabhi và các nơi ở phía Bắc trong tình trạng rất sa sút. Tuy 
      nhiên, trong khi Phật giáo đang biến mất dần dần tại nhiều nơi ở Ấn Độ, 
      thì tôn giáo nầy lại có sự hồi sinh đáng kể tại miền Đông Ấn với sự bảo 
      trợ của triều đại Pala. Hầu hết các quan chức của triều đại nầy đều là 
      những Phật tử sùng đạo. Họ là những nhà tài trợ mới cho tu viện Na Lan Đà 
      và cả cho việc xây dựng những tu viện mới như Vikramashila, Odantapuri và 
      Somapuri. Do đó, mặc dù một số trung tâm nghiên cứu Phật giáo lâu đời bị 
      xem nhẹ trước thời Gupta, nhưng dưới triều nầy lại có thêm những trung tâm 
      mới được thiết lập. Trong số đó, Kashmir là trung tâm nghiên cứu Phật giáo 
      nổi bật nhất. Sau đó, khi trung tâm Na Lan Đa được xây dựng thì trung tâm 
      công việc nghiên cứu được chuyển dần qua Đông Ấn. Na Lan Đa chiếm ưu thế 
      trong toàn bộ thế giới Phật giáo suốt gần ba thế kỷ, từ thế kỷ thứ 6 đến 
      thế kỷ thứ 9. Tuy được sự bảo trợ của các quan chức lớn trong dưới triều 
      đại Pala, Na Lan Đa vẫn sớm bị lấn át bởi Vikramashila và Odantapuri, được 
      thành lập dưới các triều vua Pala. Miền Đông Ấn với những viện nghiên cứu 
      mới lập đã giữ độc quyền nến văn hóa Phật giáo từ thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ 
      thứ 12—During the first and second centuries after the Nirvana of the 
      Buddha, Buddhism could hardly be distinguished from other ascetic 
      movements. It was evidently in the Maurya period that Buddhism emerged as 
      a distinct religion. But even at the beginning of this period, its 
      activities were mainly confined to Magadha and Kosala. Small communities 
      of the Sangha may have come into existence also in the West, in Mathura 
      and Ujjayini. At the time of the Second Council, which was held at Vaisali 
      about a hundred years after the Buddha, invitations were sent to 
      communities in distant places like Patheya, Avanti, Kausambi, Sankasya and 
      Kanauji. Mathura had become an important centre of Buddhism in the early 
      years of Maurya supremacy. The history of Buddhism in this period was not 
      an undisturbed one. Owing to the gradual expansion of Buddhism and for 
      want of regular communication between the distant communities, the Sangha 
      was gradually losing its unity. Local influences were slowly affecting the 
      conduct of the various communities and shaping them in different ways. 
      This ultimately gave rise to various schools. During the reign of Ashoka, 
      the Sangha must have shown symptoms of serious disintegration and the 
      inscriptions of Ashoka tell us that he took special measures to safeguard 
      its unity. According to Prof. P.V. Bapat in The Twenty-Five Hundred Years 
      of Buddhism, Ashoka’s patronage must have contributed to the spread of 
      Buddhism not only within the empire but also to distant lands even in his 
      lifetime. It is quite conceivable that after the reorganization of the 
      Magadhan Sangha at the Third Council and with the cooperation of the 
      emperor himself, efforts were made to carry Buddhism to distant countries. 
      The success of the first missionary activity might not have been very 
      great so far as foreign countries were concerned, but the epigraphic 
      records and Buddhist monuments of post-Ashokan times bear clear testimony 
      to the fact that within the Maurya empire such activities must have had 
      great success. With the advent of the Sungas, Buddhism lost official 
      patronage. The Buddhist accounts are unanimous in representing Pusyamitra 
      Sunga as a persecutor of Buddhists. The temporary undermining of Buddhism 
      by Pusyamitra, however, was ineffective, for the people had taken up the 
      cause of Buddhism. His popular support was at the root of the great 
      progress made by Buddhism during the Sunga-Kanva period. This is made 
      amply clear by the very large number of private donations recorded on the 
      Buddhist establishments like the Bharhut stupa, the Karle caves, and the 
      Sanchi stupa belong to the Sunga-Kanva period and testify to the great 
      prosperity which Buddhism enjoyed then. Buddhism had developed from a 
      monastic religion into a popular one. It had become a theistic religion 
      with the Buddha and his relics as cult objects. It was at this time that 
      Buddhism was adopted by the Greeks in the North. King Menander was a great 
      champion of the faith. After he had established his capital at Sakala, he 
      performed many acts of piety. From Menander’s time many Greeks in India 
      adopted Buddhism as their religion, and thereafter played the part of 
      donors to Buddhist establishments. The Pali texts represent the Greeks as 
      taking part even in missionary activities. We are told that after the 
      conversion of the Yavana (Greek) country to Buddhism, Moggaliputra-Tissa 
      went to that country and selected a Greek Elder, Dharmaraksita for 
      missionary work. Dharmaraksita was then sent to the country of Aparantaka 
      where he successfully preached the Law of the Buddha and converted 
      thousands of people including women and nobles. The Greeks in India were 
      also responsible for evolving a new style of Buddhist art, usually known 
      as Indo-Greek, which flourished  mostly in the Punjab and north-western 
      India. The rapid expansion of Buddhism during Ashoka’s time to various 
      parts of India resulted in the rise of Buddhist sects  whose number is 
      given as eighteen. The origin of these sects was not due so much to 
      doctrinal differences, except in certain cases, as to the geographical 
      factor. With the spread of Buddhism, communities were founded in various 
      parts of the country. As there was no coordinating organization, many of 
      the communities developed their own traditions for the preservation of the 
      ancient teachings. In some cases, the differences between the schools were 
      insignificant. That is why a number of them either disappeared or merged 
      with the others within a short time. The Mahasanghika during the second 
      century after the Nirvana of the Buddha gave rise to eight different 
      schools, among which the Ekavyavaharika, the Lokottaravada, the Aparasaila 
      and the Uttarasaila were prominent. Division started in the Sthaviravada 
      camp a century later. The first schism gave rise to two schools, the 
      Sarvastivada and the Mula-sthaviravada (also called the Haimavata). Since 
      its inception in Vaisali, the Mahasanghika was mostly confined to the East 
      from where it spread, especially to the South. The followers of this 
      school probably did not constitute a strong community in the North as they 
      are mentioned only in two inscriptions. The Mahasanghika developed a 
      literature of its own and in fact it claimed to have preserved the most 
      authentic tradition of early Buddhism In so far as it traced its lineage 
      from Mahakasyapa who was responsible for convoking the first Buddhist 
      Council, at which the Canon was recited for the first time according to 
      tradition. The existence of practically all the branches of the 
      Mahasanghika mentioned in literature in the region of Dhanyakataka shows 
      that it had become the most important stronghold of the Mahasanghika under 
      the patronage of the Sata-vahanas and their successors in the Krishna 
      valley. These schools continued to prosper till the 3rd or 4th century 
      A.D. The schools arising from other camp, the Sthaviravada, have also left 
      their definite mark in literature and epigraphy from the Sunga period 
      right up to the Kusana period and may be said to have flourished from 200 
      B.C. to 200 A.D. The Sarvastivada and its branches flourished  mostly in 
      the North. The Sarvastivada school was held in esteem in the entire 
      region  from Mathura to Nagara (Hara) and from Taksasila to Kashmir. 
      Kanishka’s reign is also a landmark in the history of Buddhism. Tradition 
      not only represents him as a great patron of the religion but also 
      associates him with a galaxy of Buddhist masters who shaped Buddhism in 
      later times. It was in this period that the Indo-Greek school of Buddhist 
      art achieved its greatest development. Buddhist monks from India carried 
      Buddhism to Central Asia and China. A new form of Buddhism , the Mahayana, 
      of far-reaching consequence, also came to be evolved at teh sthe time. 
      Kanishka must have contributed a good deal to the progress of Buddhism. 
      With the advent of the Gupta dynasty, Buddhism received a new impetus. 
      Although the Gupta emperors were Bhagavatas, the adherents of Brahmanical 
      faith, they were sympathetic towards the cause of Buddhism. We have a 
      number of important description recording gifts of private donors in the 
      regions of Kausambi, Sanchi, Bodh-Gaya, and Mathura from the beginning of 
      the 5th century A.D. till the end of the 6th . There is a large number of 
      records, written by the Chinese pilgrims who came to India in this period, 
      which throw light on the condition of Buddhism in this country. Moreover, 
      Buddhist art with its relics at Mathura, Sarnath, Nalanda, Ajanta, Bagh 
      and Dhanyakataka speaks eloquently of the prosperity that Buddhism enjoyed 
      in the Gupta period. Fa-Hsien, who came to India during the reign of 
      Chandragupta II, testifies to the flourishing condition of Buddhism, 
      especially in Uddiyana, Gandhara, Mathura, Kanauji, Kosala, Magadha and 
      Tamralipti. The foundation of the institutions at Nalanda was also due to 
      the patronage of the Gupta rulers. From the middle of the 7th century A.D. 
      again we have a number of records giving a clear picture of the condition 
      of Buddhism in India. So far as its extent is concerned, it had reached 
      its height in this period but it also showed certain symptoms of decay. 
      Nevertheless, some of the great centres of Buddhist study like Nalanda and 
      Valabhi were still keeping the light burning vigorously. King 
      Harshvardhana in his later days became a follower of Mahayana Buddhism. In 
      the West the rulers of the Maitraka dynasty at Valabhi had become patrons 
      of the Buddhist faith from the middle of the 6th century A.D. Numerous 
      Buddhist relics discovered at Valabhi testify to the existence of Buddhism 
      in that area up to the 10th century A.D. The century that followed 
      Harsha’s rule saw a state of unfavorable to the growth of a monastic 
      religion like Buddhism, which depended so much on the patronage of the 
      rulers. Buddhism still lingered in Kashmir, Swat Valley, Valabhi, and 
      other places in the North but its condition was far from prosperous. 
      However, while Buddhism was slowly disappearing from other parts of India, 
      it experienced another great revival in eastern India under the patronage 
      of the Pala  dynasty. Most of the rulers of this dynasty  were devout 
      Buddhists. They were responsible for new endowments to the Nalanda 
      monastery and also for the foundation of new monasteries, such as 
      Vikramashila, Odantapuri, and Somapuri. Although some of the old centres 
      of study had fallen into neglect before the rise of the Guptas, new and 
      more vigorous centres came into existence under them. These new centres 
      were numerous but, during the early Gupta period, Kashmir was the most 
      important and predominant centre of Buddhist studies. Later, after the 
      foundation of Nalanda the centre of  studies gradually shifted to eastern 
      India. Nalanda dominated the whole Buddhist world for nearly three 
      centuries, from the 6th to the 9th .  In spite of the patronage of the 
      great Pala rulers, however, Nalanda was soon eclipsed by two other 
      institutions. Vikramashila and Odantapuri which had been founded under the 
      Palas. Eastern India, with its new institutions, Vikramashila, Odantapuri, 
      Jagaddala, , Vikramapuri, etc., almost monopolized the commerce in 
      Buddhist culture from the 9th to the 12th centuries A.D.      
      
      Phật Giáo Bắc Tông: Mahayana 
      Buddhism or Northern school—See Mahayana, Đại Thừa and Đại Thừa Tông. 
      
      Phật Giáo Ca: Buddhist anthem.
      
      
      Phật Giáo Cam Bốt: Theo Giáo Sư 
      P.V. Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm Phật Giáo, nhiều phát hiện khảo cổ 
      học và Biên Niên Sử Trung Hoa cho thấy rằng từ cuối thế kỷ thứ 5, Phật 
      giáo đã phát triển tại Cam Bốt, dù rằng chưa chiếm được một địa vị nổi 
      bật, vì ít được biết đến so với một số hệ phái Bà La Môn. Đại đế 
      Yasovarman trị vì vào cuối thế kỷ thứ 9 đã cho xây một đại tịnh thất 
      (Saugatasrama) dành riêng cho các tu sĩ Phật giáo và ban hành những qui 
      định tỉ mỉ về việc điều hành tịnh thất nầy.   Vua Jayavarman II 
      (1181-1220) là một Phật tử sùng đạo và đã được truy phong danh hiệu 
      Mahaparamasaugata sau khi qua đời. Tài liệu ghi chép về triều đại của ông 
      thể hiện một cách đẹp đẽ nhân sinh quan điển hình của đạo Phật. Sự đóng 
      góp của ông trong việc xây dựng các công trình tôn giáo vô cùng to lớn. 
      Một tài liệu khác bằng tiếng Phạn về vua Jayavarman VII, cho ta chi tiết 
      thú vị về tâm đạo của vợ ông. Theo lời kể thì Jayavarman lần đầu tiên đi 
      đến Chiêm Thành, hoàng hậu là Jayarajadevi đã tỏ lòng chung thủy của mình 
      bằng trải qua khổ hạnh nhiều ngày. Bà liền được chị mình khai tâm đạo 
      Phật. Bà đã cử hành một buổi lễ, qua đó bà có thể nhìn thấy ảnh chồng mình 
      hiện ra trước mặt. Đến khi nhà vua trở về, bà càng gia tăng các công việc 
      từ thiện và lòng mộ đạo. Phật giáo tiếp tục phát triển ở Cam Bốt trong thế 
      kỷ 13. Tuy nhiên, cần nhớ rằng mãi cho đến thời điểm đó, mặc dù đạo Phật 
      có điều kiện thuận lợi để phát triển nhưng vẫn không trở thành quốc giáo 
      và thậm chí cũng không là một tôn giáo chiếm ưu thế tại đất nước nầy. 
      Không có chi tiết chính xác là Phật giáo đã đạt tới địa vị nầy vào lúc 
      nào. Nhưng sự thay đổi nầy chắc chắn là do ảnh hưởng của người Thái Lan, 
      vốn là những tín đồ Phật giáo cuồng nhiệt và họ đã xâm chiếm một phần lớn 
      đất đai của Cam Bốt. Trong khi vào lúc đầu thì Thái Lan chịu ảnh hưởng 
      Phật giáo Cam Bốt, thì nay vai trò đã đảo ngược lại, người Cam Bốt dưới 
      ảnh hưởng của người Thái Lan đã chuyển tín ngưỡng gần như toàn bộ theo đạo 
      Phật. Ngay cả các vị Thần trong các đền lớn như Đế Thiên Đế Thích (Angkor 
      Vat) cũng được thay thế bằng những tượng Phật. Chúng ta không thể tìm thấy 
      bằng chứng đích xác về các giai đoạn của sự chuyển đạo nầy, nhưng Phật 
      giáo đã dần dần trở thành một tôn giáo chiếm ưu thế ở Cam Bốt, và ngày nay 
      chúng ta khó tìm thấy một dấu tích nào về đạo Bà La Môn trên đất nước nầy, 
      ngoại trừ một số sinh hoạt lễ hội của dân chúng—According to Prof. P.V. 
      Bapata in The Twenty-Five Hundred Years of Buddhism, the archaeological 
      finds and the Chinese Chronicles prove that from the end of the fifth 
      century A.D., Buddhism flourished in Cambodia, though it did not occupy a 
      dominant position, as it was less popular than some forms of Brahmanical 
      religion. The great emperor, Yasovarman, who ruled at the end of the ninth 
      century A.D., established a Saugatasrama which was specially meant for 
      Buddhist monks, and elaborate regulations were laid down for the guidance 
      of this asrama or hermitage. King Jayavarman VII (1181-1220) was a devout 
      Buddhist and received the posthumous title, Mahaparamasaugata. The records 
      of his reign express beautifully the typical Buddhist view of life, 
      particularly the feelings of charity and compassion towards the whole 
      universe. His role in the founding of religious institutions was 
      magnificent. A Sanskrit inscription of Jayavarman VII gives us interesting 
      information about the religious mood of his queen. It is said that when 
      Jayavarman first went to Champa, his wife, Jayarajadevi, showed her 
      conjugal fidelity by undergoing austerities of diverse types and of long 
      duration. She was then initiated to Buddhism by her elder sister. It is 
      said that she performed a ceremony by which she could see before her the 
      image of her absent husband. When her husband returned, she increased her 
      pious and charitable works. These included a dramatic performance, the 
      plot of which was drawn from the Jatakas and which was acted by a body of 
      nuns recruited from among castaway girls. Buddhism continued to flourish 
      in Cambodia in the thirteenth century A.D. It must be remembered, however, 
      that up to this time, although Buddhism was in a flourishing condition, it 
      was neither the State religion, nor even the dominating religious sect in 
      the country. There is no definite information as to when Buddhism attained 
      this position. But the change was undoubtedly due to the influence of the 
      Thais, who were ardent Buddhists, and had conquered a large part of 
      Cambodia. Whereas, in the earlier period, Thailand was influenced by 
      Cambodia, the role was now reversed, and Cambodia, under the influence of 
      the Thais, was converted, almost the whole country, to Buddhism. Even the 
      Brahmanical gods in the great sanctuaries like Angkor Vat were replaced by 
      Buddhist images. We cannot trace the exact stages of this conversion, but, 
      gradually, Buddhism became the dominant creed in Cambodia and totally 
      there is hardly any trace of the Brahmanical religion in the country, 
      except in some of the ceremonies and festivities of the people.           
      
      Phật Giáo Chiêm Thành: Theo 
      Giáo Sư P.V. Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm Phật Giáo, miền Trung và 
      Nam Việt Nam ngày nay xưa kia là đất nước Chiêm Thành. Việc cho rằng Phật 
      Giáo đã đặt được nền tảng trên vùng nầy trước thế kỷ thứ ba được suy ra từ 
      việc tìm thấy một bức tượng Phật bằng đồng tinh xảo thuộc trường phái 
      Amaravati vốn đã có từ thời ấy. Đọc Biên Niên Sử Trung Hoa, chúng ta được 
      biết rằng người Trung Hoa chiếm thủ đô của Chiêm Thành vào năm 605, họ đã 
      mang đi 1.350 tác phẩm Phật giáo. Từ lời xác nhận quan trọng nầy, có thể 
      suy ra rằng Phật giáo đã phát triển trên vùng đất nầy trong một thời gian 
      dài cho đến thế kỷ thứ bảy. Nghĩa Tịnh đã xác nhận rằng ở Chiêm Thành, các 
      tín đồ thường thuộc trường phái Hữu Lượng Bộ (Aryasamitiya) và một ít 
      thuộc phái Hữu Bộ (Sarvastivada). Điều nầy cho thấy sự lấn át của trường 
      phái Thanh Văn Thừa (Sravakayana), nhưng qua các tài liệu ghi khắc ở thế 
      kỷ thứ 8 thì hầu như Phật giáo Đại Thừa đang thịnh hành ở Chiêm Thành vào 
      khoảng đó. Đôi khi Phật giáo lại có được sự bảo trợ của các vua chúa hay 
      quan chức cao cấp và chúng ta còn tìm thấy các tàn tích của một công trình 
      xây cất vĩ đại của Phật giáo tại Đồng Dương, gồm một ngôi đền và một tu 
      viện do vua Jaya Indravarman  cho xây năm 875. Phật giáo Đại Thừa tiếp tục 
      thịnh hành ở Chiêm Thành  cho đến thế kỷ thứ 15, khi người Việt từ phía 
      Bắc tràn vào. Do đó trường phái Phật giáo Trung Hoa  và cùng đi theo đó là 
      đạo Hồi, đã thay thế cho tôn giáo trước đây ở Chiêm Thành—According to 
      Prof. P.V. Bapat in The Twenty-Five Hundred Years of Buddhism, the 
      southern part of the territory lying on the eastern coast of the 
      Indo-Chinese Peninsula, now Vietnam, was formerly known as Champa. That 
      Buddhism had obtained a footing in the country before the third century 
      A.D. may be inferred from the discovery of a fine bronze Buddha image of 
      the Amaravati school which may be dated about that period. We learn from a 
      Chinese chronicle that when the Chinese captures the capital city of 
      Champa in 605 A.D., they carried away 1,350 Buddhist works. From this 
      important statement, it can be inferred that Buddhism must have flourished 
      in the country for a considerable period before the seventh century A.D. 
      I-Tsing remarks that in Champa the Buddhists generally belong to the 
      Aryasammitiya school and that there are a few followers of the 
      Sarvastivada school also. This would mean the prevalence of the 
      Sravakayana sect, but it appears from inscriptions of the eighth century 
      A.D. or thereabouts, that the Mahayana sect of Buddhism was powerful in 
      Champa. Occasionally, Buddhism there enjoyed the patronage of kings and 
      high officials, and we have the ruins of great Buddhist establishment and 
      a monastery built by King Jaya Indravarman in 875 A.D. Buddhism of the 
      Mahayana form continued as a living force in Champa right up to the 
      fifteenth century A.D., when the country was overrun by the Vietnamese 
      people from the North. The Vietnamese people formerly lived in Tonkin and 
      derived their culture from China. So the Chinese form of Buddhism, along 
      with Islam, replaced the old religion in Champa.  
      
      Phật Giáo Đại Thừa: Mahayana 
      Buddhism—See Đại Thừa, and Đại Thừa Tông.  
      
      Phật Giáo Hóa Đệ Tử: Người phàm 
      mắt thịt chúng ta thường không thể hiểu được lòng giáo hóa đại bi vô lượng 
      của chư Phật và chư Bồ Tát. Có khi các Ngài dùng lời thuyết giáo để hóa 
      độ, nhưng lắm khi các Ngài dùng gương sống hằng ngày như lui về tự tịnh 
      hay nghiêm trì giới luật để khuyến khích người khác tu hành—It is 
      difficult for ordinary people like us to understand the teaching with 
      infinite compassion of Buddhas and Bodhisattvas. Sometimes, they uses 
      their speech to preach the dharma, but a lot of times they use their way 
      of life such as retreating in peace, strictly following the precepts to 
      show and inspire others to cultivate the way.   
      
      Phật Giáo Hòa Hảo: Hoa-Hao 
      Buddhism—Phật Giáo Hòa Hảo được Đức Ngài Huỳnh Phú Sổ sáng lập vào năm 
      1939. Những giáo lý chính—Hoa-Hao Buddhism was founded in 1939 by Prophet 
      Huynh Phu So. The main teachings emphasizes on the followings: 
      
      (A)  Tứ Ân 
      Hiếu Nghĩa—The Four Debts of Gratitude:
      
      1)      Ân Tổ 
      Tiên Cha Mẹ: Be thankful to our ancestors and parents.
      
      2)      Ân Đất 
      Nước: Be thankful to our country.
      
      3)      Ân Tam 
      Bảo (Phật, Pháp, Tăng): Be thankful to the Three Treasures (Buddha, 
      Buddha-Law, Sangha). 
      
      4)      Ân 
      Đồng Bào và Chúng Sanh: Be thankful to our fellow-countrymen and all other 
      sentient beings. 
      
      (B)  Tam 
      Nghiệp Thân Khẩu Ý—The Three Karmas of the body, the mouth and the mind:
      
      1)      Thân 
      Nghiệp—The karmas of the body or physical karma:
      
      a)      Không 
      sát sanh: Not to kill.
      
      b)      Không 
      trộm cắp: Not to steal.
      
      c)      Không 
      tà dâm: Not to commit adultery.
      
      d)      Không 
      lạm dụng quyền thế: Not to abuse power.
      
      2)      Khẩu 
      Nghiệp—The karma of the mouth or verbal karma:
      
      a)      Không 
      nói lưỡi hai chiều: Not to speak double tongue.
      
      b)      Không 
      nói lời phỉ báng: Not to speak vicious tongue or not to defame others.
      
      c)      Không 
      nói lời giả dối: Not to tell lie.
      
      3)      Ý 
      Nghiệp—The karma of the mind or Mental Karma:
      
      a)      Không 
      Tham: Not be greedy.
      
      b)      Không 
      Sân: Not be angry.
      
      c)      Không 
      Si Mê: Not be ignorant.
      
      (C)  Bát Chánh 
      Đạo (giống như Bát Chánh Đạo Trong Phật Giáo): The Teachings on the Noble 
      Eightfold Paths (which are similar to that of the Buddhism)—See Bát Chánh 
      Đạo.
      
      (D)  Thờ 
      Phượng—Worshipping:
      
      1)      Không 
      phỉ báng lối thờ phượng tại các chùa viện, nhưng không cần tạo thêm hình 
      tượng tại nhà. Nhà nào đã có tượng Phật vẫn được; tuy nhiên, những ảnh 
      Phật bằng giấy nên đốt đi: Not trying to defame the worshipping in the 
      temples or pagodas; however, there is no need to create any more statues 
      or images at home. For those who have Buddha’s statues in the house, it is 
      alright to keep it that way; however, paper images of Buddhas should not 
      be kept and should be burned.   
      
      2)      Niềm 
      tin xuất phát tự tâm chứ không bằng những hình thức bên ngoài: The belief 
      comes from the heart, not from outside appearances.
      
      3)      Bàn 
      thờ chỉ cần một lá cờ nâu, biểu hiện cho sự phối hợp của mọi chủng tộc, 
      không có sự phân biệt chủng tộc hay cá nhân, vì màu nâu là sự phối hợp của 
      mọi màu: The inside altar only needs a Brown-coloured flag, symbol of 
      mankind harmony without distinction of races or individuals because brown 
      color is the association of all other colours.
      
      4)      Nếu 
      bên trong không đủ rộng để lập bàn thờ thì bàn “Ông Thiên” với một lư 
      hương cũng là đủ: If there is no room for decorating an altar inside the 
      house, a “Heaven Altar” with an incense-brazier should be sufficient. 
      
      5)      Phật 
      giáo Hòa Hảo nhấn mạnh đến sự “tự cải thiện” hơn là hình thức thờ phượng: 
      Hoa-Hao Buddhism emphasizes in improving onself rather than in apparent 
      worshipping.   
      
      6)      Cúng 
      Phật chỉ nên dùng nước lã, hoa và nhang, vì nước lã tượng trưng cho sự 
      thanh khiết, hoa tượng trưng cho sự thanh tịnh, và nhang làm tươi mát 
      không khí. Về thực phẩm thì tín đồ có thể dùng bất cứ thực phẩm nào mà họ 
      có để cúng tổ tiên: As regards the way of worshipping Buddha, only fresh 
      water, flowers and incense sticks should be used. For fresh water 
      represents “cleanliness,” flowers represent “purity,” and incense is used 
      to freshen the air. As for offering of food, they can use any available 
      food for the worshipping of their ancestors.   
      
      7)      Bên 
      cạnh bàn thờ Phật, tín đồ Phật giáo Hòa Hảo có thể đặt bàn thờ cha mẹ, tổ 
      tiên hay anh hùng dân tộc, chứ không nên thờ bất cứ quỷ thần nào mà mình 
      không biết rõ: Beside the altar of the Buddha, followers of Hoa-Hao 
      Buddhism can place altars of parents or ancestors, or any national heores; 
      however, they should not worship any spirit whose origins they do not know 
      well.  
      
      (E)   Hành 
      Lễ—Religion Performance:
      
      1)      Tín đồ 
      Phật giáo Hòa Hảo chỉ lạy Phật, tổ tiên, cha mẹ, và những vị anh hùng dân 
      tộc, ngoài ra không lạy những người sống khác. Với các vị thầy chỉ nên xá 
      chứ không lạy: Followers of Hoa-Hao Buddhism only prostates themselves 
      before the Buddhas, ancestors, parents, and national heroes, no prostation 
      before any living beings. Even to the master, they only bow, not 
      prostating. 
      
      2)      Tín đồ 
      Phật giáo Hòa Hảo không nên chỉ lệ thuộc vào sự giúp đở của Thần Thánh: 
      Followers of Hoa-Hao Buddhism should not merely rely on the help of saints 
      and gods.
      
      3)      Tín đồ 
      Phật giáo Hòa Hảo không nên chỉ lệ thuộc vào sự yểm trợ của vị Thầy: 
      Followers of Hoa-Hao Buddhism should not merely depend on the support of 
      their master.
      
      4)      Tín đồ 
      Phật giáo Hòa Hảo không bao giờ trách trời, oán Phật, giận Thầy vì những 
      bậc nầy không cứu độ hay ban phước cho họ. Họ luôn nhớ luật “Nhân Quả,” hễ 
      nhân tốt thì quả lành: Followers of Hoa-Hao Buddhism should never blame 
      the Buddhas, gods or masters for not having saved or blessed them. They 
      always remember the Buddha’s Law of “Cause and Effect,” if the cause is 
      good, the effect is then good too. 
      
      5)      Tín đồ 
      Phật giáo Hòa Hảo luôn sáng suốt nhận hiểu những nguyên tắc tôn giáo và 
      những lời dạy dỗ của thầy, chứ không mù quáng lệ thuộc vào niềm tin: 
      Followers of Hoa-Hao Buddhism should always clearly understand the 
      religion’s principles and the teachings of Prophet Huynh, and not blindly 
      rely on belief.  
      
      (F)   Tang 
      Lễ—Funeral:
      
      1)      Tang 
      lễ vẫn cử hành như truyền thống cổ truyền; tuy nhiên, không nên kèn trống 
      rình rang: Funeral ceremony will be kept as ancient mourning customs; 
      however, not to perform any surplus and unnecessary ceremonies.
      
      2)      Không 
      đốt giấy tiền vàng mã, vì đây chỉ là phí phạm tiền của: Not to burn votive 
      paper because this is only a waste of money.
      
      3)      Tín đồ 
      Phật giáo Hòa Hảo phải nên luôn nhớ rằng thân xác tan hoại, phải được chôn 
      cất thận trọng, chứ không nên để lâu mà có hại cho sức khỏe của những 
      người còn sống: Followers of Hoa-Hao Buddhism should always remember that 
      the body is destructible and it should be buried discreetly without 
      letting it decompose because this is harmful to the living. 
      
      4)      Chỉ 
      nên thiết lập một bàn thờ giữa nhà hay ngoài trời để cầu nguyện cho người 
      chết rồi tiến hành nhanh chóng việc chôn cất: Only set up an altar in the 
      middle of the house or in the open air for the praying and so on burying 
      the dead (speedily and discreetly). 
      
      5)      Có thể 
      dùng bất cứ thực vật có sẳn nào để cúng người chết, nhưng không nên phí 
      phạm tiền bạc: As regards to offerings of food, one can offer anything 
      available, but try to keep the funeral simple and not money wasting. 
      
      6)      Hàng 
      xóm láng giềng có thể tới giúp nhau trong việc tống táng, nhưng đây không 
      phải là dịp để đờn ca xướng hát: Neighbors can come to help out with the 
      funeral services, but this is not a chance for playing or enjoying musics.
      
      (G)  Hôn 
      Nhân—Marriage:
      
      1)      Bổn 
      phận của cha mẹ là phải chọn lựa người phối ngẫu thích hợp cho con cái 
      bằng cách quan sát kỹ lưỡng tánh tình đôi trẻ: The parents’ duty is to 
      choose a suitable spouse for their child by careful observation of the 
      couple’s character. 
      
      2)      Nên 
      dẹp bỏ việc đòi của hồi môn từ gia đình chú rể: The custom of demanding 
      matrimonial dowry deposit from the bridegroom’s family should be wiped 
      off. 
      
      3)      Cha mẹ 
      hai bên không nên làm khó dễ nhau trong vấn đề nghi thức hôn nhân: The 
      parents of the two parties should not act difficult towards each other 
      regarding the wedding ceremonies.   
      
      4)      Hôn lễ 
      nên càng đơn giản càng tốt, chứ không nên rườm rà tốn kém: Try to keep the 
      wedding ceremony the simpler the better, not to waste money. 
      
      (H)  Những Đều 
      cấm kỵ của các tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo—Things followers should avoid:
      
      1)      Không 
      uống rượu: Tuy nhiên, trong những ngày hội hè không nhằm ngày chay lạt, 
      tín đồ có thể uống một ít rượu lễ thật nhẹ. Nên nhớ rằng uống rượu say là 
      phạm tội đối với tín đồ Phật giáo Hòa Hảo: Not to drink; however, during 
      some special events which do not fall on fast days, one can have a little 
      of a very light liquor. Remember that to become drunk is equal to 
      committing a sin. 
      
      2)      Không 
      hút thuốc phiện: Chỉ có người bịnh có toa bác sĩ dùng chung với các loại 
      thuốc khác là ngoại lệ—Not to smoke opium—Exception to only sick people 
      advised by physicians may take a little in combination with other 
      medicines.
      
      3)      Không 
      bài bạc: Không có ngoại lệ!!!—Not to gambling. No exception!!! 
      
      (I)     Thái 
      Độ đối với các thầy, các chùa viện và các tôn giáo hay cá nhân 
      khác—Behaviour towards monks, temples or pagodas, other religions and 
      individuals:
      
      1)      Thái 
      độ đối với sư sãi—Behaviour towards monks and nuns:
      
      a)      Tín đồ 
      Phật giáo Hòa Hảo phải luôn kính trọng những sư sãi chân chính: All 
      followers of Hoa Hao Buddhism should always respect decent monks and nuns.
      
      b)      Phải 
      luôn lắng nghe và tuân theo những lời dạy dỗ đúng theo chánh pháp: 
      Followers of Hoa-Hao Buddhism should always listen and obey right things 
      taught by the monks and nuns.
      
      c)      Với 
      những sư sãi sai trái, tín đồ Phật giáo Hòa Hảo có nhiệm vụ phải cảnh tỉnh 
      và khuyên họ trở về Chánh Đạo Phật Giáo. Nếu như họ vẫn tiếp tục con đường 
      sai trái, tín đồ Phật giáo Hòa Hảo nên tích cực giải thích cho dân chúng 
      và Phật giáo đồ trong vùng biết để lánh xa: For those who known to be 
      false monks and nuns, followers of Hoa-Hao Buddhism should warn and advise 
      them to return to the right path of Buddhism. If they continue with their 
      evils, followers of Hoa Hao Buddhism shouls take a positive action by 
      explaining to the people as well as to the local Buddhists so that they 
      could stay away from those wizards. 
      
      2)      Thái 
      độ đối với chùa viện—Behavious towards temples and pagodas:
      
      a)      Phật 
      giáo Hòa Hảo không cấm đoán tín đồ đi chùa lễ Phật, đặc biệt là vào những 
      ngày lễ lớn như Phật Đản hay Vu Lan Bồn: Hoa Hao Buddhism does not 
      prohibit its followers from going to temples or pagodas to worship 
      Buddhas, especially on important Buddhist events such as the Buddha’s 
      Birthday (on the 15th of the Vesak month) or the Ullambana Basins (on the 
      15 of the seventh lunar month). 
      
      b)      Phật 
      giáo Hòa Hảo không nhấn mạnh hay đồng ý vấn đề thờ phượng hình tượng, 
      nhưng Phật giáo Hòa Hảo không cho phép tín đồ chê trách hay phỉ báng việc 
      thờ phượng nầy tại các chùa: Hoa Hao Buddhism does not agree or emphasize 
      on the worshipping of statues or images; however, it prohibits its 
      followers to defame this form of worship in any way. 
      
      3)      Thái 
      độ của tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo đối với các tôn giáo khác—Behaviour of 
      followers towards other religions:
      
      a)      Tín đồ 
      Phật giáo Hòa Hảo luôn kính trọng và không bao giờ đề cập đến việc thờ 
      phượng của các tôn giáo khác: Followers of Hoa-Hao Buddhism always 
      respect, and not talk about the way of worshipping of other religions.
      
      b)      Tín đồ 
      Phật giáo Hòa Hảo không bao giờ nói xấu về giáo lý của các tôn giáo khác: 
      Followers of Hoa-Hao Buddhism never speak ill about the teachings of other 
      religions.
      
      c)      Dù các 
      tôn giáo khác có làm gì sai với Phật giáo Hòa Hảo, tín đồ Phật giáo Hòa 
      Hảo vẫn không đối trả sai trái lại: Followers of Hoa-Hao Buddhism should 
      always behave correctly towards other religions even if they do wrong to 
      Hoa-Hao Buddhism.
      4)      
      Thái độ đối với những cá nhân khác—Behaviour towards other 
      individuals:
      
      a)      Phải 
      luôn đối xử tốt để phát triển sự cảm thông hỗ tương: Followers of Hoa-Hao 
      Buddhism should always be on good terms with others so that mutual 
      sympathy may be strongly developed.
      
      b)      Khi họ 
      cần nên tỏ lộ săn sóc thương yêu: Followers of Hoa-Hao Buddhism always 
      show love and care for others whenever they are in need. 
      
      c)      Phải 
      cố gắng hết mình giúp đở người xung quanh: Followers of Hoa-Hao Buddhism 
      should always try their best to help neighbors.  
      
      (J)    Để tóc 
      dài—Letting the hair growing long:
      
      1)      Đức 
      Thầy để tóc dài là để tỏ lộ lòng tưởng nhớ đến tục lệ cổ truyền của tổ 
      tiên và cho chúng ta thấy Ngài không bị ảnh hưởng của văn minh Tây phương, 
      chứ không phải là sự thể hiện của đời sống tôn giáo: The Master Huynh Phu 
      So let his hair growing long because he tried to keep a remembrance of our 
      ancestors’ ancient custom and to show us that he is not influenced by the 
      western civilization, not a means of leading a religious life
      
      2)      Đức 
      Thầy không bắt buộc mà cũng không cấm tín đồ Phật giáo Hòa Hảo để tóc dài: 
      The Master Huynh did not compel nor prohibit his followers to grow their 
      hair long. 
      
      3)      Để tóc 
      dài mà không cải thiện tự thân, thì không phải là tín hữu Phật Giáo Hòa 
      Hảo: If one grows long hair without improving oneself, one is in no way a 
      follower of Hoa-Hao Buddhism.
      
      4)      Đức 
      Thầy cho phép tín đồ Phật giáo Hòa Hảo cải cách sao cho thích hợp với sự 
      tiến hóa của đất nước và thuận theo phong cách của dân tộc: Master Huyng 
      allowed his followers to make reforms according to the contemporary 
      evolution of the country so as to be in accord with the people.     
      
      (K) Giáo Dục 
      và Phật Giáo Hòa Hảo—Education and Hoa Hao Buddhism:
      
      1)      Đức 
      Thầy luôn nhấn mạnh đến giáo dục để mở mang kiến thức về khoa học và xã 
      hội: Master Huynh always emphasized that education would help wider our 
      knowledge in science and sociology.
      
      2)      Giáo 
      dục giúp ta tránh những lỗi lầm và phá tan mê tín: Education helps us 
      prevent errors and wipe out superstitions. 
      
      3)      Giáo 
      dục giúp ta hiểu thêm về Phật pháp: Education helps us study Buddhism more 
      efficiently.
      
      4)      Giáo 
      dục không phải là một chướng ngại của đạo lý hay đời sống tôn giáo: 
      Education is not a hindrance to  morality or religious life. 
      
      (L)   Phật 
      Giáo Hòa Hảo và Thương Nghiệp—Hoa Hao Buddhism and Business—Đức Thầy 
      khuyến khích tín đồ Phật giáo Hòa Hảo làm thương nghiệp để phát triển kinh 
      tế gia đình, xã hội và đất nước với những điều kiện sau đây—Master Huynh 
      Phu So encouraged his followers to do business to enrich the family 
      economy and to strengthen the society as well as the country with the 
      following conditions:
      
      1)      Tất cả 
      tín đồ Phật giáo Hòa Hảo luôn vâng giữ Bát Chánh Đạo: All followers of 
      Hoa-Hao Buddhism should always comply with the rules as outlined in the 
      “Noble Eightfold Path.”
      
      2)      Tận 
      diệt nghiệp bất thiện, không cân non, không tráo hàng, không buôn lậu, 
      không buôn bán rượu và thuốc phiện: Get rid of dishonest deeds by not 
      performing weight cheating, bushel substituting, smuggling, liquor 
      trading, and sales of opium.
      
      3)    Hành 
      nghề lương thiện bằng cách không lường gạt và từ bỏ những thói xấu: 
      Exercise honest professions without cheating anyone, get rid of dishonest 
      habits.  
      
      (M)Quan Niệm của Phật Giáo Hòa Hảo về thức ăn và nhà cửa—Concepts of 
      Hoa-Hao Buddhism on Food and Housing:
      
      1)      Ăn 
      uống điều độ: Eat and drink moderately.
      
      2)      Tránh 
      những thức ăn ngon nhưng lại có hại cho sức khỏe và có thể đưa đến bệnh 
      hoạn: Avoid good food prepared with ingredients that are bad for our body 
      and which may cause us illness. 
      
      3)      Luôn 
      giữ gìn thân thể sạch sẽ vệ sinh: Always keep our body clean and observe 
      the rules of hygiene.
      
      4)      Loại 
      bỏ lối sống bệnh hoạn, vì thân thể dơ dái, thì tâm không thể nào phát 
      triển được: Get rid of the habit of living in unhealthy conditions because 
      when the body is dirty, the mind cannot develop.
      
      Phật Giáo Mã Lai: Theo Giáo sư 
      P.V. Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm Phật Giáo, một số lớn các tài liệu 
      ghi khắc được tìm thấy tại nhiều nơi khác nhau trên bán đảo Mã Lai được 
      viết bằng tiếng Phạn và mẫu tự Ấn Độ của thế kỷ thứ 4 hoặc thứ 5. Có ít 
      nhất là ba tài liệu nói đến Phật giáo một cách rõ ràng, qua đó chứng tỏ có 
      sự truyền bá đạo Phật đến vùng nầy. Nhưng di tích quan trọng nhất được tìm 
      thấy ở Nakhon Sri Tammarat. Chính một nhóm di dân Phật giáo đã xây nên 
      ngọn tháp cao nhất, hiện vẫn còn tồn tại nơi đây. Một phần trong số 50 
      ngôi đền xung quanh ngọn tháp có lẽ cũng thuộc về một thời kỳ rất xưa. 
      Phật giáo Đại Thừa đã thịnh hành trong vùng nầy vào khoảng thế kỷ thứ 6, 
      nếu không nói là sớm hơn. Điều nầy được chứng minh qua một phiến đất sét 
      có khắc chữ được tìm thấy gần Keddah mà người ta cho là có thể thuộc thế 
      kỷ thứ 6, qua việc nghiên cứu cổ tự. Phiến đất sét nầy chứa đựng những câu 
      kệ tiếng Phạn thể hiện một số chủ thuyết triết học hệ phái Đại Thừa. Hai 
      trong ba bài kệ nầy đã được tìm thấy lại trong bản dịch chữ Hán của các 
      đoạn thuộc Trung Luận tông (Madhyamika), và cả ba bài đều cũng được tìm 
      thấy trong bản dịch chữ Hán của bộ Sagaramati-pariprccha. Phật giáo Đại 
      Thừa tiếp tục thịnh hành ở vùng nầy cho đến thế kỷ thứ 8 và có thể còn lâu 
      hơn. Một bản chữ khắc tìm thấy ở Ligor có nói đến việc xây dựng ba ngôi 
      đền bằng gạch để thờ các vị thần Phật giáo và năm ngọn bảo tháp do nhà vua 
      cùng các tu sĩ thực hiện . Các bảo tháp được xây vào năm 697 theo lịch 
      Saka (775 sau Tây Lịch)—According to Prof. P.V. Bapat in The Twenty-Five 
      Hundred Years of Buddhism, a large number of inscriptions discovered in 
      different parts of the Malay Peninsula are written in Sanskrit and in the 
      Indian alphabets of the fourth or fifth century A.D. At least three of 
      these definitely refer to the Buddhist creed and thus prove the spread of 
      Buddhism in that region. But the most important of all the remains are 
      found at Nakhon Sri Tammarat (Ligor). It was an essential Buddhist colony 
      that constructed the great stupa, which is still to be found there. Part 
      of the fifty temples which surround the stupa also probably belong to a 
      very early period. Mahayana Buddhism flourished in this region in the 
      sixth century A.D., if not earlier. This is proved by an inscribed clay 
      tablet found near Keddah which may be assigned to the sixth century A.D. 
      on palaeographical grounds.  It contains the Sanskrit verses embodying 
      some philosophical doctrines of the Mahayana school. Two of these three 
      verses have been traced in the Chinese translations a number of texts of 
      Madhyamika school, and all the three are found together in a Chinese 
      translation of the Sagaramati-pariprccha. Mahayana Buddhism continued to 
      flourish in this region till the eighth century A.D. and possibly much 
      later. An inscription found at Ligor refers to the construction of three 
      brick temples for Buddhist gods and of five stupas by the king and 
      priests. The stupas were built in the Saka year 697 which is equivalent to 
      775 A.D.  
      
      Phật Giáo Mật Tông: Vajrayana 
      Buddhism—See Vajrayana, and Mật Giáo and Phật Giáo Tây Tạng.  
      
      Phật Giáo Miến Điện: Phật giáo 
      phát triển tại Miến Điện rất sớm. Theo Giáo sư P.V. Bapat trong Hai Ngàn 
      Năm Trăm Năm Phật Giáo, theo biên niên sử Tích Lan thì có hai tu sĩ Phật 
      giáo tên là Sona và Uttara đã được vua A Dục cử đi thuyết giảng đạo Phật 
      tại Suvarnabhumi là nơi mà nhiều người cho là Miến Điện ngày nay. Tuy 
      nhiên, chưa có bằng chứng nào cho thấy vua A Dục đã cử hai người nầy đến 
      đây với nhiệm vụ truyền giáo, và vị trí của Suvarnabhumi vẫn còn đang được 
      tranh cãi. Vì trong khi một số người cho nó là Miến Điện thì một số người 
      khác lại cho rằng đó là Thái Lan hay Đông Dương. Ngoài câu chuyện Sona và 
      Uttara ra thì không còn có bằng chứng nào khác về sự phát triển của Phật 
      giáo tại Miến Điện trước thế kỷ thứ năm. Xét về sự tiếp giáp giữa Miến 
      Điện với Ấn Độ và sự có sẳn những con đường bộ không khó đi lắm giữa hai 
      nước nầy, ngay cả trước Tây Lịch, không thể loại trừ khả năng là Phật giáo 
      đã phát triển tại Miến Điện từ trước thế kỷ thứ 5, cũng có thể trước đó 
      rất lâu. Nhưng từ thế kỷ thứ 5 trở về sau, có những tài liệu chắc chắn cho 
      thấy không chỉ sự hiện hữu mà cả sự thịnh hành của Phật giáo Nguyên Thủy 
      tại vương quốc Pyus xưa kia, có tên là Sriksetra với kinh đô gần Prome mà 
      những tàn tích vẫn còn tại Hmawza ngày nay. Các di tích khảo cổ học tại 
      Hmawza, cách Prome khoảng năm dặm và các tài liệu mô tả của người Trung 
      Hoa, cho thấy chắc chắn rằng hình thức Phật giáo Nguyên Thủy với kinh điển 
      bằng tiếng Ba Li đã được đưa đến khu vực quanh Prome vào trước thế kỷ thứ 
      5 bởi các nhà truyền giáo từ Ấn Độ đến đây từ mạn phía Đông cao nguyên Đề 
      Căng và miền Nam Ấn Độ. Nhưng đồng thời, người ta cũng tìm thấy những dấu 
      vết của hệ phái Mula-sarvastivada và phái Đại Thừa (Mahayanism) có lẽ đã 
      từ phía Đông Ấn Độ đến đây. Có cơ sở chắn chắn để giả thiết rằng Phật giáo 
      Nguyên Thủy cũng đã thịnh hành trong số những người Mons hay Talaings theo 
      Ấn Độ giáo định cư tại Pegu (Hamsavati), Thaton (Sudhammavati) và các vùng 
      lân cận khác được gọi chung là Ramannadesa. Trước thế kỷ thứ 5 ít lâu, 
      Thaton đã trở thành một trung tâm rất lớn của tôn giáo nầy. Trước đó, 
      những người Mramma, một bộ tộc Tây Tạng, Dravdian, đã lập nên một vương 
      quốc hùng mạnh, kinh đô đặt tại Pagan và họ đã lấy tên của mình mà đặt cho 
      toàn bộ xứ nầy. Người Mramma là một dân tộc cổ sơ , không có chữ viết và 
      đã có một dạng Phật giáo Mật Tông lệch lạc, thịnh hành. Năm 1044, vua 
      Anawratha (Aniruddha) mới lên ngôi tại Paga, được hóa độ theo Phật giáo 
      Nguyên Thủy bởi một tu sĩ Talaing ở Thaton, có tên là Arhan và cũng được 
      gọi là Dharma-darsi. Đức vua này, với sự giúp sức của Arhan và một số tu 
      sĩ khác từ Thaton tới, đã tảo thanh các hệ phái lệch lạc để theít lập Phật 
      giáo Nguyên Thủy trên một nền tảng vững chắc. Tuy nhiên, họ rất thiếu kinh 
      sách giáo điển. Aniruddha cử các sứ giả đến gặp Manuha, vua của nước 
      Thaton, để xin các phó bản đầy đủ của bộ Tam Tạng. Manuha từ chối, 
      Aniruddha bèn cất quân chiếm lấy Thaton. Aniruddha chiến thắng trở về, 
      mang theo không chỉ vua Manuha bị bắt mà còn tất cả các tu sĩ và kinh 
      sách, di vật của Phật giáo, chở đầy trên ba mươi hai thớt voi. Chưa bao 
      giờ một kẻ chiến thắng lại bị chinh phục hoàn toàn bởi nền văn minh của kẻ 
      bại trận đến thế. Những người dân Miến Điện ở Pagan đã rập theo tôn giáo, 
      ngôn ngữ, văn học và kinh sách của các tu sĩ. Vua Aniruddha và những người 
      kế vị đã trở thành những người nhiệt tình ủng hộ Phật Giáo Nguyên Thủy, và 
      được sự bảo trợ của họ, đạo nầy đã phát triển khắp nước Miến Điện. Đạo Bà 
      La Môn trước đã thịnh hành tại đây phải nhường chỗ dần dần cho đạo Phật. 
      Với sự nhiệt tình của một tín đồ mới, vua Aniruddha đã cho xây nhiều chùa 
      và tu viện. Những người kế vị  cũng noi theo gương của ông. Nhà vua còn 
      cho mang những bản sao đầy đủ của bộ Tam Tạng lấy từ Tích Lan về cho Arhan 
      đối chiếu với bản lấy từ Thaton. Kyanzittha, con trai của vua Aniruddha, 
      theo gương cha mình đã xây dựng ngôi đền Ananda nổi tiếng ở Pagan. Một sự 
      kiện quan trọng trong lịch sử Phật giáo Miến Điện là sự thành lập một Tăng 
      Đoàn Simhala (Tích Lan) vào năm 1181-1182 bởi Capata, người đã được thọ 
      giới tại Tích Lan. Các tu sĩ Tích Lan không xem sự thọ giới của các tu sĩ 
      Miến Điện là có giá trị, và đây cũng là ý nghĩ của Capata cùng các môn đệ 
      của ông. Sự đối địch giữa Tăng đoàn Simhala và Tăng đoàn Mramma cứ tiếp 
      diễn suốt ba thế kỷ và đã kết thúc bằng chiến thắng cuối cùng của phe 
      Simhala—Buddhism flourished in Burma from a very early period. According 
      to Prof. P.V. Bapat in The Twenty-Five Hundred Years of Buddhism, 
      according to the tradition preserved in the Ceylonese Chronicles, two 
      Buddhist monks, named Sona and Uttara, were sent by Emperor Ashoka to 
      preach Buddhism in Suvarnabhumi which is generally identified with Burma. 
      There is, however, no reliable evidence to show that Sona and Uttara were 
      actually sent as missionaries by Ashoka, and the location of Suvarnabhumi  
      is also not beyond dispute. For, while some identify it with Burma, others 
      place it in Siam or take it to denote broadly the whole of Indo-China. 
      Beside the story of Sona and Uttara there is no other evidence that 
      Buddhism flourished in Burma before the fifth century A.D. Considering the 
      close proximity of Burma to India, and the existence of not too difficult 
      land routes between the two even before the Christian era, the possibility 
      is not altogether excluded that Buddhism found it way to Burma even 
      before, perhaps long before, the fifth century A.D. But from this period 
      onwards there are definite records to prove not only the existence but 
      also the flourishing state of Theravada Buddhism in the old kingdom of the 
      Pyus known as Sriksetra with its capital near Prome, the ruins of which 
      lie in modern Hmawza. The archaeological  remains at Hmawza, about five 
      miles from modern Prome, and the Chinese accounts leave no doubt that 
      Theravada form of Buddhism with Pali canonical texts was introduced in the 
      region round Prome earlier than the fifth century A.D. by Indian 
      missionaries who came from the eastern coast of the Deccan and south 
      India. But side by side we also find traces of Mula-sarvastivada and 
      Mahayanism which probably came from eastern India. There are good grounds 
      for supporting that the Theravada form of Buddhism also flourished among 
      the Hinduized Mons or Talaings settled  in  Pegu (Hamsavati), Thaton 
      (Sudhammavati) and other neighboring regions collectively known as 
      Ramannadesa. Some time before the the eleventh century A.D., Thaton became 
      a very important centre of this religion. Earlier still, the Mrammas, a 
      Tibeto-Dravdian tribe, had established a powerful kingdom with its capital 
      at Pagan and given their name to the whole country. The Mrammas were a 
      rude, unlettered people and a debased form of Tantric Buddhism flourished 
      among them. In 1044 A.D., a new king, Anawratha (Aniruddha), ascended the 
      throne of Pagan and was converted to the pure Theravada form by a Talaing 
      monk of Thaton named Arhan, also known as Dharma-darsi. He new king, with 
      the help of Arhan and a few other monks from Thaton, led a crusade against 
      the debased religion and established Theravada on a firm footing. There 
      was, however, great need of canonical texts. Aniruddha sent messengers to 
      Manuha, the king of Thaton, asking for complete copies of the tripitaka. 
      Manuha having refused, Aniruddha marched with his army and captured 
      Thaton. He returned in triump and brought back with him not only king 
      Manuha captive, but all the monks, and the Buddhist scriptures and relics 
      which were carried by thirty-two elephants. Never was a victor more 
      completely captivated by the culture of the vanquished. The Burmese of 
      Pagan adopted the religion, language, literature and script of the Monks. 
      Aniruddha and his successors became the great champions of the Theravada 
      form of Buddhism, and along with their political authority it extended 
      over the whole of Burma. The Brahmanical religion that had prevailed there 
      gradually yielded to Buddhism, which even now flourishes over the whole 
      country without any rival. With the zeal of a new convert, Aniruddha built 
      numerous pagodas or temples and monasteries, and his example was followed 
      by his successors. He also brought complete copies of the Tripitaka from 
      Ceylon and Arhan collated these  with the texts from Thaton. Aniruddha’s 
      son, Kyanzittha, followed in the footsteps of his father and built the 
      famous Ananda temple at Pagan. An important episode in the history of 
      Buddhism in Burma was the establishment in 1181-1182 A.D. of a Simhalese 
      order of monks founded by Capata who received his ordination in Ceylon. 
      The Ceylonese monks did not consider those of Burma as validly ordained 
      and this feeling was shared by Capata and his followers. The rivalry 
      between the Simhala Sangha and the Mramma Sangha continued for three 
      centuries and ended in the final triumph of the former.          
      
      Phật Giáo Nam Dương: Theo nhà 
      hành hương Pháp Hiển của Trung Hoa thì cho đến đầu thế kỷ thứ 5, Phật giáo 
      có rất ít ảnh hưởng đến người dân trên đảo Java. Ngài Pháp Hiển khi đến 
      đảo quốc nầy vào khoảng năm 414 sau Tây lịch, nhận xét rằng trong khi các 
      tôn giáo khác, đặc biệt là Bà La Môn, phát triển mạnh trên mảnh đất nầy, 
      thì Phật giáo không được phát triển. Tuy nhiên, theo Giáo sư P.V. Bapat 
      trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm Phật Giáo, do sự tận tụy truyền giáo của 
      Gunavarman, một Tăng sĩ Ấn Độ, mà chỉ không đầy một phần tư thế kỷ sau 
      cuộc viếng thăm của Pháp Hiển, Phật giáo không những đã được đưa vào Java, 
      mà còn có một chỗ đứng vững chắc trên đảo quốc nầy. Phật giáo đã sớm được 
      du nhập vào hòn đảo Sumatra, đặc biệt là trên vương quốc Sri-vijaya, được 
      xem là Palembang ngày nay. Qua một vài tài liệu ghi khắc tìm được trong 
      vùng nầy thì dường như vị vua cai trị Sri-vijaya vào năm 683-684 là một 
      tín đồ Phật giáo. Một nhà hành hương nổi tiếng của Trung Quốc là Nghĩa 
      Tịnh, đã đến viếng Ấn Độ vào cuối thế kỷ thứ 7, nói rằng vua nước 
      Sri-vijaya cũng như vua các nước láng giềng, rất yêu chuộng đạo Phật, và 
      Sri-vijaya là một trung tâm nghiên cứu Phật giáo rất lớn trong các hòn đảo 
      ở vùng Nam Á. Số tu sĩ Phật giáo ở Sri-vijaya lên đến hơn một ngàn người 
      và họ nghiên cứu tất cả các vấn đề Ấn Độ. Ngài Nghĩa Tịnh ở lại Sri-vijaya 
      một thời gian để nghiên cứu các kinh sách và ngài đã để lại một bản tường 
      thuật rất đáng chú ý về sự phổ thông của Phật giáo trên các hòn đảo ở Nam 
      Hải gồm hơn mười nước trong thời kỳ nầy. Ngài đã lập thành một danh sách 
      mười nước nầy và nói rằng: “Tất cả các đảo nầy và các đảo nhỏ hơn đều theo 
      đạo Phật, hầu hết đều thuộc phái Tiểu Thừa, ngoại trừ ở Sri-vijaya, nơi có 
      một số ít theo Đại Thừa. Nam Dương được xem là một trung tâm Phật giáo 
      quan trọng kể từ thế kỷ thứ 7 cho đến thế kỷ thứ 11. Điều nầy còn được 
      chứng minh qua các sự kiện khác. Dharmapala, một vị Tăng nổi tiếng của 
      viện Đại học Na Lan Đà, đã đến thăm Suvarna-dvipa, tên gọi Nam Dương thời 
      ấy. Tu sĩ và học giả lừng danh A Để Sa Dipankara, vào thế kỷ thứ 11, người 
      sau nầy là viện trưởng viện Đại học Vikramasila, và đã mở ra một thời kỳ 
      Phật giáo thứ hai tại Tây Tạng, khi còn trẻ đã đến Nam Dương để nghiên cứu 
      Phật giáo dưới sự hướng dẫn của Đại sư Candrakirti. Phái Đại Thừa được sự 
      hỗ trợ mạnh mẽ của  triều đại Sailendra, ông vua cai trị khắp bán đảo Mã 
      Lai và phần lớn Nam Dương. Các vị vua thuộc dòng dõi Sailendra đều là 
      những nhà bảo trợ lớn cho Phật giáo Đại Thừa, và đã dựng nên nhiều tượng 
      đài kỷ niệm như các tượng đài Borobudur, Kalnasan và Mendut ở Java. Qua 
      các tài liệu ghi khắc thì dường như một ông vua dưới triều đại Sailendra 
      đã có một vị Thầy từ xứ Bengal đến. Chắc chắn rằng các vị vua Pala ở 
      Bengal và Chola về phía Nam đã có ảnh hưởng lớn đến Java về các vấn đề tôn 
      giáo trong thời kỳ Sailendra. Các vị vua Sailendra đã dựng nên các tu viện 
      ở Na Lan Đà và Nagapattinam, còn các hoàng đế Pala và Chola đã ban cấp cho 
      nhiều làng để bảo dưỡng các tu viện nầy. Dưới ảnh hưởng của các vua triều 
      Sailendra, Phật giáo Đại Thừa đã thịnh hành ở Java và Sumatra trong suốt 
      một thời gian dài. Nhưng ảnh hưởng của Bengal dường như đã gây ra do sự du 
      nhập các dạng Phật giáo Mật tông lệch lạc ở cả Java lẫn Sumatra. Chúng ta 
      có được bản mô tả khá chi tiết về một số vị vua sau đó của cả hai nước đã 
      đi theo những hệ phái nầy, qua hai bộ Sang-hyang-Kamahayana Mantrayana và 
      Sang-hyang-Kamahayanikan, cho ta sự hiểu biết đúng đắn về các quan niệm 
      chủ đạo của phái Đại Thừa tại Java. Ngoài ra, Java và Sumatra còn có bằng 
      chứng chắc chắn về sự du nhập của đạo Phật vào các hòn đảo của Mã Lai và 
      Nam Dương, nhất là Bali và Borneo. Tuy nhiên, tại đây đã có sự lấn át của 
      đạo Bà La Môn và Phật giáo đã dần dần biến mất—According to the Chinese 
      pilgrim, Fa-Hsien, Buddhism had very little hold on people of the island 
      of Jave at the beginning of the fifth century A.D. Fa-Hsien, who visited 
      this island around 414 A.D., observed that while other religions, 
      particularly Brahmanism, flourished in this island, Buddhism did not. 
      However, according to Prof. P.V. Bapat in The Twenty-Five Hundred Years of 
      Buddhism, thanks to the missionary zeal of Gunavarman, an Indian monk, 
      Buddhism was not only introduced but obtained a stronghold on the island 
      in less than a quarter of a century after Fa-Hsien’s visit. Buddhism was 
      also introduced early in the island of Sumatra, particularly in the 
      kingdom of Sri-vijaya, which is usually identified with Palembang. It 
      appears from some inscriptions found in this region that the King who 
      ruled Sri-vijaya in the year 683-684 A.D. was a Buddhist. The famous 
      Chinese pilgrim, I-Tsing, who visited India in the last quarter of the 
      seventh century A.D., says that the king of Sri-vijaya, as well as the 
      rulers of neighboring states, favoured Buddhism, and that Sri-vijaya was a 
      very important center of Buddhist learning in the islands of southern 
      Asia. The Buddhist monks in Sri-vijaya numbered more than a thousand and 
      they studied all the subjects in India. I-Tsing spent some time in 
      Sri-vijaya to study Buddhist scriptures and he has left a very interesting 
      account of the popularity of Buddhism in the islands of the Southern Sea, 
      consisting of more than ten countries. He gives a list of these ten 
      countries and states that Buddhism is embaced in all these and other 
      smaller islands, and mostly the system of Hinayana is adopted except in 
      Sri-vijaya where there are a few who belong to the Mahayana.  The 
      importance of Indonesia as a great center of Buddhism from the seventh 
      till the eleventh century A.D. is also proved by other facts. Dharmapala, 
      a famous professor of Nalanda University, visited Suvarna-dvipa, which was 
      a general designation of Indonesia, in the seventh century A.D. The famous 
      monk and scholar Atisa Dipankara in the eleventh century A.D., who became 
      the head of Vikramasila University and inaugurated the second period of 
      Buddhism in Tibet, went in his early life to Suvarna-dvipa in order to 
      study Buddhism under the guidance of its High Monk, Candrakirti. A strong 
      impetus to the Mahayana was given by the Sailendra dynasty, who ruled over 
      the Malay Peninsula and a large part of Indonesia. The Sailendra kings 
      were great patrons of this form of Buddhism and erected monumental 
      structures like Borobudur, Kalasan and Mendut in Java. It appears from 
      epigraphic records that one of the Sailendra kings had a guru (preceptor) 
      from the Gauda country (Bengal). There is hardly any doubt that the Pala 
      kings of Bengal and the Chola rulers of the South exercised great 
      influence upon Java in religious matters during the Sailendra period. The 
      Sailendra kings established monasteries at Nalanda and Nagapattinam and 
      the Pala and the Chola emperors granted villages for their maintenance. 
      Under the influence of the Sailendras, Mahayanism flourished in Java and 
      Sumatra for a long period. But the influence of Bengal seems also to have 
      been responsible for the introduction of the debased Tantric forms of 
      Buddhism both in Java and Sumatra. We have a fairly detailed account of 
      some later kings of both these countries who were followers of these 
      cults. We had also two important Mahayana texts, the Sang-hyang 
      Kamahayanan Mantrayana and the Sang hyang Kamahayanikan, which give us a 
      fair insight into the leading conceptions of Mahayanism in Java. Besides 
      Sumatra and Java, we have positive evidence of the introduction of 
      Buddhism in other islands of Malaysia and Indonesia, particularly Bali and 
      Borneo. The Brahmanical religion, however, dominated and Buddhism 
      gradually disappeared in these regions.          
      
      Phật Giáo Nam Tông: Theravada 
      Buddhism or Southern school—See Hinayana.  
      
      Phật Giáo Népal: Népal chiếm 
      một vị trí đặc biệt trong số các quốc gia Phật giáo. Thái Tử Cồ Đàm, một 
      vị thái tử của dòng họ Thích Ca, được sanh ra năm 554 trước Tây Lịch tại 
      vườn Lâm Tì Ni, nay thuộc xứ Népal, cách kinh thành của xứ Ca Tỳ La Vệ 
      chừng khoảng 15 dặm. Theo Biên niên sử Ấn Độ, vào thế kỷ thứ 3 trước Tây 
      Lịch, vua A Dục khi còn là Hoàng tử đã dẹp yên cuộc nổi loạn của một trong 
      các chủng tộc ở Népal. Cuộc viếng thăm Lâm Tì Ni của vua A Dục sau đó và 
      việc dựng một cột đá khắc chữ tại đây để kỷ niệm thánh tích đản sanh của 
      Đức Phật là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử Ấn Độ. Sau đó con vua A 
      Dục là công chúa Carumati đã kết hôn với một nhà quý tộc Népal và xây 
      nhiều bảo tháp, tu viện tại Népal, một số đến nay vẫn còn di tích. Trong 
      các thế kỷ đầu Tây Lịch, các giới luật áp dụng cho các tu sĩ thuộc trường 
      phái Mula-sarvastivada của Phật giáo tại Népal đã có một vài nhân nhượng 
      đặc biệt do các điều kiện khí hậu khắc nghiệt của vùng nầy, điều nầy cho 
      thấy sự thịnh hành của đời sống tu hành theo Phật giáo ở nước nầy. Triết 
      gia nổi tiếng Phật giáo vào thế kỷ thứ 4 là ngài Thế Thân, cũng đã đến 
      viếng Népal và truyền bá chủ thuyết của ông. Népal dường như đã thực sự 
      trở thành một nước hỗ trợ và tuyên truyền mạnh mẽ cho đạo Phật kể từ thời 
      vua Amsuvarman vào thế kỷ thứ 7. Nhà vua đã gã con gái mình cho ông vua 
      quyền uy đầu tiên của Tây Tạng là Sronbtsam-sgam-po, và là trong số các 
      nhà tiên phong đảm trách việc dịch thuật các cuốn sách Phật giáo bằng 
      tiếng Phạn ra tiếng Tây Tạng dưới thời vua Sron-btsam-sgam-po, người ta đã 
      nhắc đến học giả Silamanju. Trong thời đại Santaraksita, khoảng thế kỷ thứ 
      8 và 9 sau Tây Lịch, dường như đã có sự gắn bó chặt chẽ về mặt tôn giáo và 
      văn hóa giữa hai nước. Trong các thế kỷ tiếp theo, khi người Hồi giáo xâm 
      chiếm Bihar và Bengal thì các tu sĩ Phật giáo đã đến lánh nạn tại Népal. 
      Họ mang theo một số lớn các bản thảo có giá trị, một trong số các bản thảo 
      nầy cũng đã được đưa qua các tu viện ở Tây Tạng, giữ gìn cẩn thận cho đến 
      ngày nay. Trong các thế kỷ trước đó, có lẽ Népal đã tạo được mối quan hệ 
      văn hóa và chính trị chặt chẽ hơn với các phần phía Tây của Tây Tạng, 
      nhưng giai đoạn lịch sử nầy chưa được nghiên cứu kỹ. Trong nhiều thế kỷ, 
      Népal đã từng là chiếc cầu nối văn hóa cho các vùng đất nằm bên phần giữa 
      Hy Mã Lạp Sơn. Cho đến gần đầy, con đường liên lạc thông thương giữa Ấn Độ 
      và Tây Tạng vẫn đi ngang qua Népal. Sau khi Phật giáo bị thu hẹp ở Ấn Độ 
      thì dạng Phật giáo thông thường ở Népal đã dần dần mất đi một số đặc điểm  
      cơ bản của nó như sự sống trong tu viện, sự chống phân biệt giai cấp, sự 
      bài bác mọi điều huyền bí về tôn giáo, do đó không còn là một sức mạnh 
      tinh thần đáng kể nữa. Cho đến gần đây có bốn hệ phái triết học Phật giáo 
      chính đã được thấy rõ: (1) Svabhavika, nhấn mạnh rằng mọi thứ trên thế 
      gian đều có đặc tính cơ bản của chúng được bộc lộ theo hai cách, có chuyển 
      biến (Pravrtti) và không chuyển biến (nirrtti); (2) Aisvarika, đặt niềm 
      tin vào linh hồn tự hữu, vốn hoàn hảo và vô biên; (3) Karmika, tin tưởng 
      vào sự nỗ lực đạo đức có ý hức, vì cho rằng các hiện tượng thế gian  mà có 
      là do ở vô minh; (4) Yatrika, tin vào sự hiện hữu của yếu tố nhận thức tự 
      nguyện. Điều nầy cho thấy một sự hòa nhập hoàn toàn của các khuynh hướng 
      triết học khác nhau phát sinh tại Ấn Độ và Tây Tạng dưới ảnh hưởng của Ấn 
      Độ giáo và Phật giáo—Népal occupied a unique position among the Buddhist 
      countries of the world. Gautama, a Sakyan prince, was born  in 554 B.C. at 
      Lumbini, in present day Népal, about 15 miles from his father’s capital, 
      Kapilavastu. According to the Indian Chronicles, in the third century 
      B.C., Ashoka, while yet a prince, is reported to have successfully quelled 
      a rebellion among one of the races of Népal and restored peace and order. 
      His later visit to Lumbini and the erction of an inscribed pillar to 
      commemorate the sacred birth-place of the Buddha is an important landmark 
      in the history of Buddhism. Thereafter, his daughter, Carumati, is said to 
      have married a Nepalese nobleman, and built several stupas and monasteries 
      in Népal, of which there are still remnants. In the early centuries of the 
      Christian era, the disciplinary rules applicable to the monks in the 
      Mula-sarvastivada school of Buddhism in Népal reveal certain special 
      concessions in view of the rigid climatic conditions of that region, which 
      is indicative of the wide prevalence of Buddhist monastic life in this 
      country. The great Buddhist philosopher of the fourth century A.D., Acarya 
      Vasubandhu, is also said to have visited in order to propagate his own 
      doctrine.   Népal seems to have attained real prominence as a strong 
      supporter and propagator of the Buddhist faith from the days of king 
      Amsuvarman in the seventh century A.D. He gave his daughter in marriage to 
      the first powerful king of Tibet, Sron-btsam-sgam-po, and among the batch 
      of pioneers who undertook to translate Sanskrit Buddhist works into 
      Tibetan under the latter’s patronage, the name of a Nepalese pandita, 
      Silamanju, is mentioned. In the age of Santaraksita (8th or 9th century 
      A.D.) strong ties of religious and cultural friendship appear to have 
      developed between these two countries. In the succeeding countries, when 
      the Muslims invaded Bihar and Bengal, Buddhist monks took refuge in Népal. 
      They took with them a large number of valuable manuscripts some of which 
      also found their ways to the monasteries in Tibet, where they are 
      carefully preserved to this day. In the intervening centuries, Népal 
      probably developed still closer cultural and even political ties with the 
      western parts of Tibet, but this period of history has not yet been 
      sufficiently explored. For centuries Népal has served as a cultural link 
      between the regions lying on both sides of the mid-Himalayan range, and 
      until recently the normal road of communication between India and Tibet 
      led through Népal, via Kyirong. After Buddhism had dwindled in India, the 
      popular form of Nepalese Buddhism gradually shed some of its original 
      characteristics, such as monastic life, opposition to caste distinctions, 
      and discouragement of all religious mysteries, thus becoming affect as a 
      distinct force. Until recently, four main sects of Buddhist philosophy, 
      each with several sub-sects, having been prominent, namely: (1) 
      Svabhavika, which emphasizes that all things in the world have their own 
      ultimate characteristics which is expressed in two ways, evolution 
      (pravrtti) and involution (nirvrtti); (2) Aisvarika, which put its faith 
      in a self-existent God, who is perfect and infinite; (3) Karmika, which 
      believes in a conscious moral effort through the world-phenomenon is 
      developed  on the fundamental basis of Avidya; (4) Yatrika, which believes 
      in the existence of conscious intellectual agency and free will. This 
      represents an almost complete fusion of various philosophical trends which 
      originated in India and Tibet under the influence of both Hinduism and 
      Buddhism.    
      
      Phật Giáo Nguyên Thủy: 
      Theravada Buddhism—Trường phái mà giáo lý dựa và Kinh A Hàm. Giáo lý nầy 
      cho rằng bản ngã không có tự tánh, những yếu tố hay chư pháp là thật, và 
      Niết bàn không là hoại diệt hoàn toàn—Teaching corresponds to the Agama 
      Sutras. These teachings generally hold that the self is without substance, 
      the separate elements (dharmas) are real, and Nirvana is neither total 
      annihilation. 
      
      Phật Giáo Nhật Bản: Japanese 
      Buddhism—See Tông Phái Nhật Bản. 
      
      Phật Giáo Tây Tạng: Tibetan 
      Buddhism.
      
      (I)      Thời 
      kỳ tiền Sron-btsan-sgam-po—Pre Sron-btsan-sgam-po period: Có lẽ không nơi 
      nào mà đạo Phật được tiếp nhận lại có thể dấy lên một ý thức lịch sử mới 
      mẽ và mãnh liệt trong lòng người dân như ở Tây Tạng. Theo Giáo sư P.V. 
      Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm Phật Giáo, giống như lịch sử Ấn Độ bắt 
      đầu được ghi bằng chữ viết từ thời vị vua hâm mộ Phật giáo, A Dục, lịch sử 
      Tây Tạng cũng bắt đầu được viết ra từ triều đại vị hoàng đế tài hoa 
      Sron-btsan-sgam-po (sinh năm 617 sau Tây Lịch), người đầu tiên có ý tưởng 
      đưa ngôn ngữ nói của Tây Tạng vào một hệ thống văn viết xử dụng các chữ 
      cái nhằm giúp cho Phật giáo từ Ấn Độ dễ dàng đi vào đất nước của ông. Tuy 
      nhiên, những tiếp xúc về văn hóa giữa Tây Tạng với thế giới Phật giáo 
      chung quanh như Ấn Độ, Khotan, Mông Cổ, Trung Hoa, Miến Điện, vân vân, có 
      lẽ đã có ít ra từ hai thế kỷ trước đó—That the teachings of Buddhism, 
      wherever they spread, were able to arouse a new historical consciousness 
      in the people’s minds is nowhere seen so vividly as in Tibet. According to 
      Prof. P.V. Bapat in The Twenty-Five Hundred Years of Buddhism, just as 
      Indian history begins to be recorded in writing from the days of the great 
      Buddhist emperor, Ashoka, Tibetan history, too, begins to be written down 
      from the reign of Tibet’s most gifted ruler, Sron-ctsan-sgam-po (born in 
      617 A.D.), who first conceived the idea of reducing spoken Tibetan to a 
      system of alphabetic writing to facilitate the coming of Buddhism from 
      India into his own country. Although cultural contacts of Tibet with the 
      Buddhist world surrounding her, namely, India, Khotan, Mongolia, China, 
      and Burma must have been established at least two centuries before the 
      time of king Sron; however, the king felt isolation and inferiority for 
      the backwardness of his people. 
      
      (II)  Thời kỳ 
      Sron-btsan-sgam-po: The period of Sron-btsan-sgam-po: 
      
      1)      Vị vua 
      trẻ tuổi Sron-btsan cảm thấy đau lòng trước sự cô lập và thua kém của sự 
      lạc hậu của dân tộc mình. Ngay sau khi lên ngôi, nhà vua đã chọn một nhân 
      vật xuất sắc trong triều tên là Thon-mi-Sam-bho-ta cùng mười sáu học giả 
      lỗi lạc khác đi đến miền Nam Ấn Độ để nghiên cứu văn học chạm khắc, ngữ âm 
      và văn phạm Ấn Độ. Sau khi nắm được các vấn đề nầy, họ sẽ nghĩ ra cách ghi 
      mẫu tự dùng cho tiếng Tây Tạng cùng cấu trúc văn phạm của nó. Thon-mi hoàn 
      thành nhiệm vụ được giao phó một cách tuyệt vời đến nỗi ngoài việc thảo ra 
      tám bản luận văn giá trị về cách viết và văn phạm tiếng Tây Tạng, ông còn 
      thực hiện một số bản dịch đầu tiên  bằng tiếng Tây Tạng các tác phẩm Phật 
      giáo từ tiếng Phạn (Sanskrit), do đó, cho đến ngày nay, ông vẫn được xem 
      như là cha đẻ của văn học Tây Tạng: Right after he ascended the throne, 
      the king selected a brilliant Tibetan of his court, Thon-mi-Sam-bho-ta, 
      with sixteen famous scholars, to go down to the famous seats of learning 
      in Southern India to study Indian epigraphy, phonetics and grammar, and 
      after having mastered these subjects to invent an alphabetic script for 
      the Tibetan language, and established its grammatical structure. Thon-mi 
      fulfilled the task entrusted to him so well that besides composing eight 
      independent treatises on Tibetan writing and grammar, he also prepared the 
      first Tibetan translation of certain Sanskrit Buddhist works, so that he 
      came to be recognized for all time as the father of Tibetan literature.
      
      
      2)      Trong 
      đời mình, Sron-btsan đã ban hành các luật lệ cho phù hợp với Thập Giới 
      (Ten Virtues) của đạo Phật. Ông cho xây các ngôi chùa nổi tiếng Ramoche và 
      Jokhang ở Lhasa, và công trình kiến trúc vĩ đại là lâu đài 11 tầng có tên 
      là Potala, vẫn còn duy trì đến ngày nay những di tích của cấu trúc ban 
      đầu:  During his time, king Sron-btsan promulgated laws to harmonize with 
      the Ten Virtues prescribed by Buddhism. He built the famous temples of 
      Ramoche and Jokhang in Lhasa, and the grand architecture of the 
      eleven-storeyed palace, called the Potala, also preserved to this day the 
      remains of an original smaller structure. 
      
      3)      Mặc dù 
      Phật giáo đã đến Tây Tạng dưới sự che chở thuận lợi như vậy, nhưng nó 
      không mọc rễ được trên vùng đất lạ nầy một cách dễ dàng và mau chóng như 
      mong muốn của vua Sron-btsan. Đạo nầy phải bước vào một cuộc chiến không 
      khoan nhượng trong khoảng ba thế kỷ với các tín ngưỡng Phon của người bản 
      xứ. Đạo Phật phải đánh tan những điều mê tín dị đoan, phải có những thỏa 
      hiệp, phải thích nghi giáo lý của mình với những cổ tục kỳ lạ đã được lưu 
      truyền từ thuở xa xưa trên vùng đất nầy, và phải chấp nhận những thất bại, 
      mãi cho đến thời kỳ của Đại sư A Để Sa vào thế kỷ thứ 11, cuối cùng Phật 
      giáo có thể nói là trở thành quốc giáo của Tây Tạng: Although Buddhism had 
      come to Tibet under such favorable auspices, it did not take root in a 
      foreign soil as easily or quickly as Sron-btsan might have wished, It had 
      to wage an incessant and arduous struggle for over three centuries against 
      indigenous Phon beliefs. It had also to remove old superstitions make 
      compromises, adapt its own doctrines to the strange customs and traditions 
      which had come down from time immemorial and suffer setbacks and 
      banishment until the days of the great monk Atisa in the eleventh century, 
      when at last Buddhism may be said to have become the national religion of 
      Tibet. 
      
      (III)           
      Thời kỳ Hậu Sron-btsan—The period after king Sron-btsan: 
      
      1)      Sau 
      thời Sron-btsan, việc nhìn nhận Phật giáo là một quốc giáo chỉ xãy ra dưới 
      thời Khri-Sron-ide-btsan (755-797), người kế vị thứ năm sau Sron-btsan: 
      After Sron-btsan, the establishment of Buddhism as a State religion 
      occurred in the reign of his fifth successor, Khri-Sron-Ide-btsan (755-797 
      A.D.).
      
      2)      
      Khri-Sron-Ide-btsan đã chỉ định con trai nhỏ của mình là Ral-pa-chen nối 
      ngôi chứ không phải là con trai trưởng, Glan-dar-ma. Người dân Tây Tạng 
      còn nhắc đến Ral-pa-chen là một ông vua bảo trợ Phật giáo vĩ đại thứ ba 
      trong thời hoàng kim của tôn giáo nầy. Ông ta sùng đạo đến nổi đã cho con 
      trai út của mình đi tu, ban nhiều đặc quyền cho giới tu sĩ, thậm chí ông 
      còn cho phép xử dụng mớ tóc dài của ông làm gối nệm cho các tu viện trưởng 
      ngồi cạnh ông thuyết pháp. Vua Ral-pa-chen mở rộng biên giới vương quốc và 
      cuốn lịch sử đầu tiên của Tây Tạng được viết dưới sự bảo trợ của ông: King 
      Khri-Sron-Ide-btsan named his younger son Ral-pa-chen (816-838), his own 
      successor, in preference to his elder son, Glan-dar-ma. Ral-pa-chen is 
      remembered by his people as the third great royal protector of religion in 
      the golden age of Tibetan Buddhism. His devotion to Buddhism was so 
      extraordinary that he made his young son take monastic vows, gave various 
      kinds of privileges and authority to the monks and even allowed his long 
      locks of hair to be used as a mat for Buddhist abbots sitting around him 
      to deliver religious sermons. Ral-pa-chen extended the boundaries of his 
      kingdom and the first history of Tibet came to be written under his 
      patronage. 
      
      3)      Sự 
      phát triển của đạo Phật vào lúc nầy bỗng bị trở ngại vì vua Ral-pa-chen bị 
      sát hại bởi những người ủng hộ người anh thất sủng là Glan-dar-ma. Ông nầy 
      lên ngôi và trở thành kẻ thù công khai của Phật giáo Tây Tạng. Các tượng 
      Phật bị đem chôn, các tu viện bị đóng cửa, các lễ nghi tôn giáo bị ngăn 
      cấm và các tu sĩ bị buộc phải hoàn tục hay bị trục xuất ra khỏi nước. Tuy 
      nhiên, ông nầy bị một tu sĩ giết chết vào năm 841: The development of 
      Buddhism in Tibet suffered a setback when king Ral-pa-chen was murdered in 
      838 A.D.  by the supporters of his superseded elder brother, Glan-dar-ma. 
      The latter then came to the throne as a strong enemy of Buddhism in Tibet. 
      Buddhist images were buried, monasteries closed, religious ceremonies 
      banned and monks forced to return to the life of laymen or banished from 
      the country. However, Glan-dar-ma was killed by a priest in 841 A.D. 
      
      4)      Việc 
      triệt hạ đạo Phật một cách tàn nhẫn của Glan-dar-ma đã đánh dấu một thời 
      kỳ quyết định trong lịch sử chánh trị của Tây Tạng vì nó gióng lên hồi 
      chuông báo tử cho nền quân chủ tại đây. Giới Tăng lữ bị trục xuất quay trở 
      về Tây Tạng và trở nên mạnh mẽ hơn lúc nào hết. Những người kế vị của 
      Glan-dar-ma thì ngày càng bạc nhược. Cuối cùng, người con trai của vị vua 
      cuối của Lhasa là Dpal-hkhor-btsan (906-923) đã từ giả kinh đô để đi về 
      miền Tây, tại đây ông tự phong là vị vua độc lập. Ông gom ba quận Ladakh, 
      Spurang, và Guge dưới quyền cai trị của mình và sau đó chia ba quận nầy 
      cho ba người con trai. Trong số những người kế vị ba nhánh hoàng gia nầy, 
      người ta thấy có những người lỗi lạc, đã bảo trợ cho Phật giáo tại miền 
      Tây bằng cách bảo trợ cho các tu sĩ, cử học giả Tây Tạng đến Kashmir 
      nghiên cứu những phát triển mới của giáo lý, đẩy mạnh việc dịch thuật các 
      văn bản Phạn ra tiếng Tây Tạng: Glan-dar-ma’s ruthless suppression of 
      Budhism, which resulted in this violent outburst of public feeling, marks 
      a decisive period in the annals of Tibetan politics, inasmuch as it 
      sounded the death knell of monarchical rule in Tibet. The banished monks 
      returned to central Tibet and became more powerful than ever. The 
      successors of Glan-dar-ma became weaker and weaker. Finally, the son of 
      the last king of LhasaDpal-hkhor-btsan (906-923 A.D.) bade farewell to the 
      capital and migrated to Western Tibet, where he established himself as an 
      independent ruler. He brought the three districts  of Ladakh, Spurang and 
      Guge under his control and later distributed them among his three sons. 
      Among the successors of these three royal branches, we find several 
      distinguished rulers who patronized learned monks, sent Tibetan scholars 
      to Kashmir to study the latest development  in Buddhist doctrine, and 
      furthered the translations of important Sanskrit Buddhist texts into 
      Tibetan.   
      
      (IV)           
      Thời đại Đại sư A Để Sa—The period of the great monk Atisa: Một trong 
      những hoàng tử của vua Dpal-hkhor-btsan tên là Trí Quang (Jnanaprabha) đã 
      nhường ngôi lại cho em trai mình để trở thành tu sĩ . Ông đã cùng với hai 
      người con trai đã có công rất lớn trong việc thuyết phục đại sư A Để Sa 
      đến Tây Tạng—One of the most distinguished among the princes was 
      Jnanaprabha. He renounced his throne in favour of his younger brother to 
      become a monk along with his two sons, and played an important part in 
      persuading the great Acarya Atisa to come and live as a teacher of 
      Buddhism in Tibet.
      
      1)      Trong 
      thế kỷ thứ 11, có thể nói là A Để Sa đã mang từ Ấn Độ sang Tây Tạng một 
      sức đẩy tinh thần rất lớn, giúp cho Phật giáo bắt rễ sâu xa trên mảnh đất 
      nầy, rồi từ đó phát triển thành một nếp nghĩ đại giáo và giáo lý của người 
      dân bản xứ: In the 11th century A.D., Atisa may be said to have brought 
      the last great spiritual impetus from India, with the result that Buddhism 
      struck deep roots in Tibetan soil and thence forward flourished as an 
      indigenous mode of religious and philosophical thought.
      
      2)      Cuộc 
      sống và công việc của A Để Sa tại Tây Tạng thật vô cùng quan trọng đối với 
      Phật giáo Tây tạng—The life and work of Atisa in Tibet are too important 
      to the Tibetan Buddhism (See A Để Sa).    
      
      (V)  Hệ Phái 
      Bkah-gdams-pa—Bkah-gdams-pa sect: Như trên đã nói, cuộc sống và công việc 
      của ngài A Để Sa tại Tây Tạng rất quan trọng cho sự phát triển Phật giáo 
      tại nước nầy. Từ khi ông đến Tây Tạng thì Phật giáo nước nầy đã phát triển 
      thành nhiều trường phái bản địa khác nhau. trong số nầy hình thức Phật 
      giáo hỗn tạp và chưa cải cách ban đầu được gọi là Rnin-ma-pa hay là trường 
      phái Cũ với bốn tiểu phái chính. Các tín đồ của trường phái nầy thờ cúng 
      Padmasambhava, xem đây là người sáng lập và là đạo sư của họ, họ tin tưởng 
      vào sự ứng nghiệm của thần linh ma quỷ, họ thường được nhận biết qua chiếc 
      mũ màu đỏ. Các giáo lý cải cách của A Để Sa, dựa trên truyền thống Du Già 
      do Di Lặc và Vô trước sáng lập, dẫn đến sự hình thành của trường phái 
      Bkah-gdams-pa bởi người đệ tử  người Tây Tạng của ông là Hbrom-ston. 
      Trường phái nầy có quan điểm tổng hợp của cả Tiểu Thừa lẫn Đại Thừa, buộc 
      các tu sĩ phải sống độc thân và không khuyến chuyện phù phép. Chính trên 
      cơ sở của giáo lý nầy mà nhà cải cách vĩ đại của Tây Tạng là Tông Khách 
      Ba  vào thế kỷ thứ 14, đã lập nên trường phái Dge-lugs-pa, qua sự gạn lọc 
      những nghi thức cầu kỳ của Bkah-gdams-pa và đang chiếm ưu thế trong Phật 
      giáo Tây Tạng ngày nay cả về thế tục lẫn tâm linh, qua sự kế vị của các vị 
      Đạt Lai Lạt Ma (Dalai Lamas): The life and work of Atisa in Tibet are very 
      important for the development of Tibetan Buddhism. From the time he came 
      to Tibet, Tibetan Buddhism developed into different indigenous schools. In 
      relation to these, the earlier heterogenous and unreformed type of 
      Buddhism came to be called Rnin-ma-pa or the old school with four main 
      sub-sects. The followers of this school worship Padmasambhava as their 
      founder and Guru, believe in the fulfilment of both the divine and the 
      demoniacal, and are generally recognized as such by their red caps. 
      Atisa’s reformed teachings, based upon the Yogacara traditions founded by 
      Maitreya and Asanga, led to the establishment of the Bkah-gdams-pa school 
      by his Tibetan disciple, Hbrom-ston. It took a synthetic view of the 
      teachings of both Hinayana and Mahayana, enforced celibacy upon the monks 
      and discouraged magic practices. It was on the authoritative basis of this 
      doctrine that the great Tibetan reformer, Tson-kha-pa, founded in the 14th 
      century A.D. the Dge-lugs-pa sect, which purified the Bkah-gdams-pa of 
      much of its elaborate ritualism and today dominates Tibetan Buddhism both 
      temporarily and spiritually, through the religious succession of the Dalai 
      Lamas, of whom the fourteenth is now the head of this theocracy.   
      
      (VI)           
      Phái Chủ Nghĩa Truyền Thống Bằng Lời—The Bkah-rgyud-pa (the oral 
      traditionalism) founded in the late eleventh century A.D.: Trường phái chủ 
      nghĩa truyền thống bằng lời được thành lập bởi Lạt Ma Mar-pa, người Tây 
      Tạng, đạo hữu của A Để Sa và là môn đệ của đạo sư Mật tông người Ấn tên 
      Naropa thuộc viện Đại học Na Lan Đà. Trường phái nầy có nhiều tương đồng 
      với trường phái Thiền, trường phái của hầu hết những Phật tử ở Nhật Bản và 
      Trung Hoa hiện nay. Trong số những người đại diện nổi bật của trường phái 
      nầy có Mi-la-ras-pa, nhà thơ ẩn sĩ vĩ đại của Tây Tạng, người được chính 
      Mar-pa khai tâm về những bí mật của phép thần thông—The Bkah-rgyud-pa was 
      founded by the Tibetan Lama Mar-pa, a friend of Atisa, and a disciple of 
      the Indian Tantrist, Naropa, of Nalanda University. It has some affinities 
      with the Dhyana school, to which most of the Northern Buddhists of Japan 
      and China belong at present, and among its distinguished representatives 
      is Mi-la-ras-pa, the great hermit poet of Tibet, who was initiated in the 
      mysteries of supernatural powers by Mar-pa himself.
      
      1)      
      Bkah-rgyud-pa về sau tự phân chia ra làm nhiều tiểu phái mà hai trong đó 
      là, Karma-pa và Hbrug-pa là đáng nói hơn cả. Vị lãnh đạo thứ ba của tiểu 
      phái Karma-pa tên là Ran-byun-rdo-rje, từ lúc sinh ra đã được công nhận là 
      người kế thừa cho vị lãnh đạo thứ hai là Karma-bak-si đã chết hai năm 
      trước đó. Từ khi có sự kiện nầy thì tục lệ kế vị tinh thần đã trở nên 
      thịnh hành. Như vậy trong việc lựa chọn Đạt Lai Lạt Ma, Ban Thiền Lạt Ma 
      và những vị khác thì một hiện thân được công nhận sẽ là người kế vị để 
      lãnh đạo chứ không phải là người nối dõi ông cha hay môn đệ. Phái Karma-pa 
      rất mạnh ở Sikkim và những tín đồ của phái nầy ở Népal được gọi là 
      Karmika: The Bkah-rgyud-pa later divided itself into several sub-sects, 
      two of which, namely Karma-pa and Hbrug-pa, may be specially mentioned. 
      The third Head of the Karma-pa, called Ran-byun-rdo-rje, was recognized at 
      his birth as the spiritual successor of the second Head of the sect, 
      called Karma-bak-si, who had died two years earlier. Since this incident 
      the practice of spiritual succession came into vogue. Thus, in the 
      selection of the Dalai Lama, the Panchen Lama and others, a recognized 
      incarnation succeeds to the office instead of a hereditary successor or 
      discipline. The Karma-pa is particularly strong in Sikkim and its 
      followers in Nepal are called the Karmika.
      
      2)      Tiểu 
      phái thứ hai  là Thần Sấm (Hbrug-pa), truyền bá giáo lý của mình tại 
      Bhutan mạnh đến nỗi nước nầy đã dùng cái tên Tây Tạng của tiểu phái để gọi 
      dân chúng nước họ: The second sub-sect, Hbrug-pa, or the Thunderer, spread 
      its doctrines so vigorrously in Bhutan  that the country adopted its 
      Tibetan name for its own people. 
      
      (VII)         
      Trường phái Đất Xám (Sa-skya-pa), lấy tên từ màu đất ở nơi tu viện đầu 
      tiên của trường phái trước đây xây dựng vào năm 1071, hiện nay là Sa-skya. 
      Phái Sa-skya-pa lại càng gần gũi  với trường phái cổ Rnin-ma-pa hơn là 
      Bkah-rgyud-pa, các tu sĩ của giáo phái nầy không còn độc thân nữa. Giáo 
      phái nầy là sự tổng hợp giữa Mật tông cũ và mới, trên cơ sở triết lý Trung 
      Luận của ngài Long Thọ và đã phát triển thành một hệ phái mạnh mẽ trước 
      khi có sự nổi lên của trường phái Tông Khách Ba: The school of “Grey 
      Earth” or the Sa-skya-pa, derives its name from the colour of the soil 
      where its first monastery  was built in 1071 A.D. on the site  of the 
      present Sa-skya. The Sa-skya-pa was even more closely related with the old 
      Rnin-ma-pa school than the Bkah-rgyud-pa and the monks of this sect were 
      not celibate either. They sought a synthesis between the old and the new 
      Tantrism on the basis of Nagarjuna’s Madhyamika philosophy and had already 
      developed into a powerful hierachy before the rise of the great 
      Tson-kha-pa.
      
      1)      Những 
      người Sa-skya rất say mê học hỏi và đã tỏ ra là những nhà hoằng pháp tài 
      ba khi họ có dịp tiếp xúc với các hoàng đế Mông Cổ trong thế kỷ thứ 13. 
      Một trong những đạo sư tài giỏi của sa-skya là Hphags-pa đã trở thành 
      người bảo trợ tinh thần của hoàng tử Khubilai nước Mông Cổ. Ông hoàng nầy 
      lên ngôi hoàng đế Trung Hoa, bèn trao chủ quyền của miền trung Tây Tạng 
      cho vị Đại Tăng của Sa-skya (1270). Đây là sự mở đầu cho một kỷ nguyên cai 
      trị bằng thần quyền ở Tây Tạng: Sa-skya followers, greatly devoted to 
      learning, proved themselves excellent proselytizers when they came into 
      contact with the Mongol emperors in the thirteenth century A.D. One of the 
      distinguished Sa-skya hierarchs, called Hphags-pa, became the spiritual  
      teacher of Prince Khubilai of Mongolia, who, on coming to the throne as 
      the first Mongol emperor of China, conferred the sovereignty of central 
      Tibet upon the High Priest of Sa-skya (1270 A.D.). This was the beginning 
      of a new era of theocratic rule in Tibet. 
      
      2)      
      Bu-ston (1290-1364) , một nhà bình giải nổi tiếng đối với các luận thư căn 
      bản Phật giáo, một sử gia uy tín, một nhà sưu tập các bản dịch Tây Tạng về 
      những tác phẩm Phật học. Ông sắp xếp các tác phẩm nầy một cách có hệ thống 
      thành hai nhóm bao quát gọi là “Lời Của Đức Phật” gồm 100 cuốn và Luận 
      Thuyết gồm 225 cuốn. Đây là bộ kinh điển Phật giáo còn lưu lại cho chúng 
      ta đến ngày nay: Bu-ston (1290-1364 A.D.), a renowned commentator of 
      fundamental Buddhist treatises, an authoritative historian, and the first 
      collector of all existing Tibetan translations of Buddhist works. He 
      arranged them systematically into two comprehensive groups, called the 
      Word of the Buddha (Bkah-hygur) in 100 volumes, and the Treatises 
      (Bstan-hygur) in 225 volumes. These have come down to us as the Tibetan 
      Buddhist Canon. 
      
      3)      
      Taranatha, sinh năm 1573, sử gia và là tác giả Tây Tạng, cũng thuộc về một 
      hệ phái có tên là Jonang vốn là một chi nhánh của phái Sa-skya-pa: 
      Taranatha (1573-?), the Tibetan historian and author, also belonged to a 
      sect called Jonang, which was an offshoot of the Sa-skya-pa. 
      
      (VIII)      
      Phái Mũ Vàng—The Yellow Hats (Dge-lugs-pa): 
      
      1)      Với sự 
      xuất hiện của nhà cải cách vĩ đại Tông Khách Ba, sinh năm 1358 tại tỉnh 
      Amdo, có thể nói đây là một kỷ nguyên mới của Phật giáo Tây Tạng. Với tài 
      tổ chức xuất sắc và trí thông minh tuyệt vời, ông đã tự đặt ra cho mình 
      nhiệm vụ xóa bỏ tất cả mọi điều lệch lạc và mê tín dị đoan, xây dựng một 
      Tăng đoàn mạnh mẽ, dựa trên một tri thức vững vàng, giới luật và sự độc 
      thân, những người nầy đã được mang tên là “Trường Phái Đạo Đức” 
      (Dge-lugs-pa), theo cách gọi của dân chúng là phái Mũ Vàng. Năm 1408, ông 
      dựng lập tu viện Ganden ở một nơi không xa Lhasa, ông làm việc tại đây và 
      qua đời năm 1419: With the rise of the great reformer, Tson-kha-pa, born 
      in the province of Amdo in 1358 A.D., the modern age of Tibetan Buddhism 
      may be said to have begun. With striking powers of organization and 
      comprehensive intelligence, he set himself the task of removing all 
      deviations and superstitious beliefs and establishing a strong order of 
      Buddhist monks, based on sound learning, discipline and celibacy, which 
      came to be recognized as the school of the Virtuous (Dge-lugs-pa), 
      popularly described as the Yellow Hats. In 1408, he founded not far from 
      Lhasa, the Ganden monastery, where he   worked for some years and died in 
      1419 A.D.
      
      2)      Phái 
      Mũ Vàng (Dge-lugs-pa) được các tù trưởng Mông Cổ quý trọng, xem như những 
      vị lãnh đạo tinh thần, và sau đó, như là những viên chức cầm quyền thế tục 
      tại Tây Tạng. Khi  vua Mông Cổ là Altan Khan gặp người đứng đầu thứ ba của 
      giáo phái nầy là Bsod-nams-rgya-mtso (1546-1587) thì nhà vua tin chắc rằng 
      cả hai người họ vốn đã từng là đạo sư Hphags-pa và đệ tử của ông là hoàng 
      đế Khubilai Khan, theo thứ tự trong tiền kiếp, nên nhà vua đã lập tức công 
      nhận Bsod-nams-rgya-mtso đích thực là vị Đạt Lai. Từ đó về sau , tất cả 
      các vị đứng đầu giáo phái nầy đều được công nhận là Đạt Lai Lạt Ma: The 
      Dge-lugs-pa came to be favoured by the powerful Mongol chieftans as 
      spiritual leaders and later as temporal rulers of Tibet. When king of 
      Mongol Altan Khan met with the third hierarch, Bsod-nams-rgya-mtso 
      (1546-1587 A.D.), he became convinced that both of them were respectively 
      the teacher Hphags-pa and his disciple, emperor Khubilai Khan, in their 
      former births and the king immediately recognized the former as the 
      veritable Talr, i.e., Dalai. Thenceforth, all the hierarchs came to be 
      recognized as Dalai Lamas.     
      
      Phật Giáo Thái Lan: Phật Giáo 
      phát triển tại Thái Lan từ một thời kỳ rất sớm, khoảng thế kỷ thứ nhất hay 
      thứ nhì sau Tây Lịch, nếu không muốn nói là sớm hơn. Theo Giáo sư P.V. 
      Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm Phật Giáo, thì điều nầy được chứng minh 
      bởi các phát hiện khảo cổ tại Pong Tuk và Phra Pathom. Phra Pathom cách 
      Băng Cốc khoảng 30 dậm về phía Tây, còn Pong Tuk nằm xa hơn  về phía Tây 
      20 dặm nữa. Các di tích về cấu trúc tôn giáo, các tượng Phật, các đồ đất 
      nung có khắc chữ và những biểu tượng rõ ràng  của đạo Phật, có lẽ thuộc 
      thế kỷ thứ 1 hoặc thứ 2 đã được tìm thấy tại các nơi nầy. Một số lớn đền 
      đài đã bị đổ nát và các tác phẩm điêu khắc mang nặng ảnh hưởng thời Gupta. 
      Những thứ nầy được xem là thuộc trường phái Dvaravati. Dvaravati là một 
      vương quốc phồn thịnh vào thời của ngài Huyền Trang, nghĩa là vào đầu thế 
      kỷ thứ 7. Trong khoảng thế kỷ thứ 8 và thứ 9, cả Xiêm La và Lào là một 
      phần của Cam Bốt về mặt chánh trị và chịu ảnh hưởng của nước nầy về mặt 
      tôn giáo. Chúng ta có thể thấy cả đạo Phật và Bà La Môn cùng phát triển 
      bên nhau tại các vùng đất nầy. Khoảng giữa thế kỷ thứ 13 thì người Thái 
      nắm được chủ quyền cho cả nước Xiêm và Lào, chấm dứt ưu thế chính trị của 
      người Cam Bốt. Dưới ảnh hưởng của các vua Thái, Phật giáo thuộc trường 
      phái Nguyên Thủy và ngôn ngữ Ba Li thịnh hành khắp Thái Lan và Lào. Vua 
      Sri Suryavamsa Rama Maha-Dharmikarajadhiraja không chỉ là một nhà bảo trợ 
      lớn cho đạo Phật mà chính ông cũng sống cuộc đời một tu sĩ Phật giáo và đi 
      thuyết giảng đạo Phật ở khắp mọi nơi trong vương quốc của mình. Vào năm 
      1361, ông cử một số Tỳ Kheo và học giả uyên bác qua Tích Lan để mời đại 
      Tăng Mahasami Sangharaja đến Thái. Với sự gợi ý của vị Đại Tăng cùng những 
      nỗ lực của nhà vua, Phật giáo và văn học Ba Li không chỉ có được một nền 
      tảng vững chắc mà còn lan sang một số nước nhỏ theo Ấn Độ giáo như là Lào 
      quốc, Alavirastra, Khmerrastra, Suvarnagrama, Unmarga-sila, Yonakarastra, 
      và Haripunjaya. Phần lớn các nơi nầy hiện còn giữ biên niên sử địa phương 
      viết bằng tiếng Ba Li. Từ đó trở đi, Phật giáo đã thịnh hành trên đất Thái 
      và các vùng lân cận, còn đạo Bà La Môn thì đã sa sút cho đến khi gần như 
      biến mất, chỉ còn lưu lại một ít dấu vết trong các nghi lễ và phong tục 
      của quần chúng—Buddhism flourished in Thailand, used to be Siam, from a 
      very early period, about the first or second century A.D., if not earlier. 
      According to Prof. P.V. Bapat in The Twenty-Five Hundred Years of 
      Buddhism, this is proved by archaeological findings at  Pong Tuk and Phra 
      Pathom. Phra Pathom is about 30 miles west of Bangkok, and Pong Tuk lies 
      about 20 miles farther to the west. Remains of a religious structure, the 
      images of the Buddha, inscribed terracottas and definite symbols of 
      Buddhism like the dharmacakra, belonging probably to the first or second 
      century A.D., have been found in these places. To a somewhat later period 
      belong to the large number of ruined sanctuaries and some fine sculptures 
      which indicate the strong influence of the Gupta period. These have been 
      referred to the Dvaravati school. Dvaravati was a flourishing kingdom at 
      the time of Hsuan-Tsang in the first half of the seventh century A.D. 
      About the eighth or ninth century A.D., both Siam and Laos formed part of 
      Cambodia politically and influenced by religious condition of that 
      country. So both Brahmanical religion and Buddhism can be found 
      flourishing side by side in all these regions. About the middle of the 
      thirteenth century A.D., the Thais made themselves masters of Siam and 
      Laos and put an end to the political supremacy of the Cambodians over 
      them. Under the influence of the Thai rulers, Buddhism of the Theravada 
      school and the Pali language flourished all over Siam and Laos. The Thai 
      king Sri Suryavamsa Rama Maha-Dharmikarajadhiraja was not only a great 
      patron of Buddhism, but himself adopted the life of a Buddhist monk, 
      preaching the doctrines of the Buddha all over his kingdom. About 1361 
      A.D., he sent some learned bhikkhus and scholars to Ceylon and induced the 
      great monk called Mahasami Sangharaja to come to Siam. Under his 
      inspirationand the active efforts of the king, Buddhism and Pali 
      literature not only obtained a firm footing, but also spread to a number 
      of small Hinduized states in the territory now called Laos, such as 
      Alavirastra, Khmerrastra, Suvarnagrama, Unmarga-sila, Yonakarastra, and 
      Haripunjaya. Many of these still possess their local chronicles written in 
      Pali. From this time onwards, Buddhism flourished in Siam and the 
      neighboring regions, and Brahmanism declined until it almost disappeared, 
      leaving only a few traces in public ceremonies and customs.  
      
      Phật Giáo Tích Lan: Theo truyền 
      thuyết còn ghi lại trong Biên Niên Sử Tích Lan thì đại đế A Dục (273-236 
      B.C.) đã tổ chức một đoàn truyền giáo để đi thuyết giảng đạo Phật tại Ấn 
      và các nước khác. Nhà vua đã cử con trai của mình là trưởng lão Ma Thẩn 
      Đà, cùng với bốn người khác đến Sri Lanka. Họ đã giảng đạo cho vua Tích 
      Lan là Devanampilya Tissa và các thuộc hạ ở đây. Nhà vua và dân chúng Tích 
      Lan cảm kích sâu xa trước giáo lý nầy và chấp nhận đạo Phật. Chính vua 
      Devanampilya Tissa đã cho xây tu viện Mahavihara, nơi nhà vua cho trồng 
      lại nhánh cây Bồ Đề do Ma Thẩn Đà và em gái mang sang. Tu viện nầy trong 
      nhiều thế kỷ vẫn là trung tâm của Phật Giáo Nguyên Thủy. Đạo Phật đã phát 
      triển một cách hiếm thấy tại nơi nầy. Hàng trăm ngàn người, cả nam lẫn nữ, 
      theo tôn giáo mới nầy, hàng ngàn người gia nhập Tăng đoàn, sống đời tu khổ 
      hạnh. Các tu viện mọc lên khắp nơi, có nhiều sự cúng dường hậu hỷ, dùng 
      vào việc tu sửa tu viện. Hoàng hậu Anula cùng nhiều phụ nữ khác bày tỏ 
      lòng mong muốn được xuất gia và gia nhập Giáo đoàn. Nhưng không một vị 
      Tăng nào được phép giải quyết chuyện nầy, họ phải báo cho vua A Dục để nhà 
      vua cử các Tôn Ni cao cấp đến giúp họ. Do đó mà Tăng Già Mật Đa, em gái 
      vua A Dục, người đã thọ giới, được cử đến Tích Lan. Hai sự kiện lớn trong 
      thời gian đầu của lịch sử Phật giáo Tích Lan đã để lại dấu ấn sâu đậm, vẫn 
      còn gợi lại trong tâm khảm hàng triệu tín đồ sự say sưa nồng nhiệt. Thứ 
      nhất là việc đem trồng tại đây một chồi cây Bồ Đề lấy tại nơi Đức Phật 
      ngồi đắc đạo. Đây chẳng những là ý tưởng cao đẹp của vua A Dục, mà còn là 
      nguồn cảm hứng đối với những người mới theo đạo Phật. Thứ hai là việc đem 
      từ Ấn Độ đến Tích Lan một chiếc răng của Đức Phật, đã hơn năm thế kỷ sau 
      khi ngài nhập diệt. Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, toàn bộ đảo Tích 
      Lan đã trở thành một thành trì của Phật giáo, một vai trò mà đảo nầy vẫn 
      duy trì được trong một thời gian dài trên hai ngàn năm. Đại bảo tháp được 
      xây dựng dưới triều vua Dutthagamani (101-77 trước Tây Lịch) và được tôn 
      phong trước một đại hội lớn các tu sĩ Phật giáo đến từ các tu viện nổi 
      tiếng của Ấn Độ. Triều đại Vattagamani (29-17 trước Tây Lịch) là một cột 
      mốc quan trọng trong lịch sử Phật giáo Tích Lan. Cho đến thời gian nầy, 
      các kinh sách Phật giáo qua lời truyền giảng  ban đầu của tôn giả Ma Thẩn 
      Đà, chỉ được phó thác cho trí nhớ và chỉ được lưu giữ lại dưới dạng truyền 
      khẩu. Đến triều đại vua Vattagamani, bắt đầu được sắp xếp lại để viết 
      thành kinh sách. Kết quả là bộ Tam Tạng bằng tiếng Ba Li ra đời, và hiện 
      vẫn còn được lưu giữ như một kinh điển thiêng liêng trong khi bản gốc tại 
      Ấn Độ đã mất từ lâu không còn một dấu tích nào. Tuy không thể cho là đã 
      đánh giá quá cao ảnh hưởng của Phật giáo tại Tích Lan, song trên thực tế 
      thì toàn bộ  nền văn hóa văn minh của Tích Lan đều từ đó mà ra. Tiếng Ba 
      Li đã trở thành ngôn ngữ văn học của Tích Lan và cho đến nay vẫn không 
      thay đổi. Văn học Tích Lan là một hệ nhánh của văn học Ấn Độ, và nghệ 
      thuật kiến trúc, điêu khắc nổi tiếng của Tích Lan đều bắt nguồn từ Ấn Độ. 
      Các mẫu tự Tích Lan cũng lấy từ mẫu tự Ấn Độ. Về sau nầy, các trường phái 
      khác  cũng đã phát triển mạnh  và đôi khi còn chống đối nhau quyết liệt. 
      Nhiều vị vua đã dẹp yên bằng cách triệu tập hội nghị hay ngược đãi. Những 
      đối thủ chính là các sư thuộc phái Mahavihara và các sư Abhayagirihara và 
      Jetavanavihara. Những nhà sư sau nầy chịu ảnh hưởng của Ấn Độ. Người ta 
      cũng thấy dấu vết của Phật Giáo Đại Thừa và Mật Tông tại đây. Thế nhưng, 
      Phật giáo Nguyên Thủy đã chiến thắng với sự đóng góp rất quan trọng của 
      Buddhaghosa, mà những tác phẩm cho đến nay vẫn còn thấm sâu vào toàn bộ 
      Phật Giáo Tích Lan. Tuy nhiên, sự chia rẽ nầy bỗng nhiên chấm dứt vào thế 
      kỷ thứ 12 khi vua Parakambahu I triệu tập hội nghị tôn giáo để buộc tất cả 
      các trường phái đối nghịch với Mahavihara phải tuân theo những qui tắc của 
      nó. Vào thế kỷ thứ 16, người Bồ Đào Nha đến Tích Lan, rồi thế kỷ thứ 17, 
      người Hòa Lan. Họ đã cố gắng dùng sức mạnh để áp đặt Gia Tô Giáo vào Tích 
      Lan. Tình hình nầy đã làm thức tỉnh ý thức dân tộc và đổi mới Phật giáo đã 
      từng bị rơi vào cảnh hoang phế. Một vài vị vua Tích Lan đã áp dụng những 
      biện pháp nhằm đem lại một đà phát triển mới cho Phât Giáo. Họ đã gửi các 
      phái đoàn sang Miến Điện và Thái Lan vào cuối thế kỷ thứ 18  để tìm chỗ 
      dựa. Do những sáng kiến đó, các sư Miến Điện đến thực hiện hiện một vài 
      cải cách trong nội bộ Tăng Già Tích Lan; trong khi các sư Thái Lan đến 
      phục hồi lại Tăng Già Tích Lan và đưa vào quan niệm tuyển chọn giới thuợng 
      lưu, dù bị một vài tầng lớp dân cư phản ứng, nhưng quan niệm nầy trở thành 
      một trong những đặc trưng chính của Phật giáo Tích Lan. Năm 1802, một 
      nhánh thứ hai của Tăng Già được thành lập gọi là Amarapura, với những 
      thành viên xuất thân từ các giới bình dân. Sự kiện nầy cho thấy ảnh hưởng 
      của các sư Miến Điện hiện nay vẫn còn, dù ảnh hưởng của Thái Lan vẫn chiếm 
      ưu thế. Thời kỳ gần đây có sự ra đời của trào lưu thứ ba có nguồn gốc từ 
      Miến Điện, với đặc điểm là tính nghiêm khắc của các qui tắc. Phật giáo 
      Tích Lan bị sa sút nặng vào thế kỷ thứ 19; những Phật tử Tây phương đã góp 
      phần lớn vào sự khôi phục nó bằng cách lập ra những trung tâm mới và những 
      tổ chức mới như Mahabodhi Society. Năm 1948, Phật giáo đã trở thành sức 
      mạnh năng động của nền văn hóa xứ nầy đã giúp giành lại độc lập. Cho mãi 
      đến nay, nó vẫn có ảnh hưởng quan trọng tới các nước Âu Á. Mặt khác, thế 
      giới Phật giáo cũng mang ơn Tích Lan rất nhiều. Bộ giáo điển bằng tiếng Ba 
      Li đã được giữ gìn nguyên vẹn tại Tích Lan đã có một ảnh hưởng rất lớn đối 
      với Miến Điện, Thái Lan, Lào, và Cam Bốt. Ngoài ra, Tích Lan không chỉ là 
      nơi lưu giữ Thánh điển, mà còn có công phát triển đạo Phật qua các cuốn 
      luận giải nổi tiếng—According to the tradition preserved in the Ceylonese 
      Chronicles, the great emperor Ashoka (273-236 B.C.) organized a missionary 
      to preach the gospel of the Buddha in and outside India. He sent his son 
      Thera Mahendra, together with four others, to Sri Lanka, and they preached 
      the teachings of the Buddha to king Devanampiyatissa (247-107 B.C.) and 
      his attendants. The king and the people of Ceylon were deeply impressed by 
      the new gospel and accepted Buddhism. King Devanampilya Tissa the 
      Mahavihara Monastery, where he preserved the branch of the Bodhi tree that 
      Mahinda and his sister had brought. This monastery remained for many 
      centuries the center of the Theravada Buddhism. Its progress was 
      phenomenal. Hundreds of thousands of men and women embraced the new faith 
      and thousands entered the Sangha and adopted the life of Bhikkhus. 
      Monasteries were erected on all sides and rich endowments were made for 
      their upkeep. Queen Anula and a number of women also expressed the desire 
      to receive the ordination and enter the Sangha. But, as no monk was 
      allowed to do this for them emissaries were went to Emperor Ashoka to send 
      some distinguished nuns to help them. So Sanghamitra, the sister of 
      Mahendra, who had received ordination, was sent to Ceylon. Two great 
      events in the early history of Buddhism in Ceylon left a deep impression 
      and still evoke pious enthusiasm among millions of its devotees. The 
      transplantation of a branch of the Bodhi tree under which the Buddha 
      attained Buddhahood was a happy idea of Ashoka. This served as an 
      inspiration to the people who had recently embraced the Buddhist religion. 
      The second event was the bringing of the Buddha’s tooth from India more 
      than 500 years later. Thus, within a short time, the whole of the island 
      of Ceylon became a stronghold of Buddhism, a position which she still 
      retains after a lapse of more than two thousand years. The great stupa was 
      built during the reign of Dutthagamani (101-77 B.C.) and consecrated 
      before a large assembly of Buddhist monks who had come from well-known 
      monasteries in India. The reign of Vatthagamani (29-17 B.C.) is an 
      important landmark in the history of Buddhism in Ceylon. Up to this time 
      the sacred scriptures of Buddhism, as originally recited by Mahendra, were 
      committed to memory and preserved as oral traditions. Arrangements were 
      now made to commit them to writing. The Pali Tripitaka were completed, 
      still survices as the sacred canon of which the original disappeared long 
      ago from India without leaving any trace. It is impossible to overrate the 
      influence exercised by Buddhism in Ceylon. Practically her whole culture 
      and civilization were derived from it. Pali became the literary language 
      of ceylon and still holds that position. Ceylonese literature was an 
      offshoot of Indian literature, and the art of Ceylon architecture, 
      sculpture and painting was dervied from India. The Ceylonese alphabet also 
      came from India. Later, in the course of time various schools were formed. 
      There was sometimes very vehement rivalry among them. A number of kings 
      tried to end these disputes by convoking synods or by persecution of 
      certain schools. The main antagonists were the monks of Mahavihara on one 
      side and those of the Abhayagirihara and Jetavanavihara on the other. The 
      latter party was under the influence of Indian schools; traces of Mahayana 
      and Buddhist Tantrism can also be documented. The Theravada gained the 
      upper hand, to which result Buddhaghosha, one of the great scholars of the 
      Theravada, decisively contributed. His work marks Singhalese Buddhism to 
      this day. However, the many sidedness of Buddhism in Ceylon met a bitter 
      end in the twelfth century, when king Parakambahu I convoked a synod and 
      forced all hostile schols to adopt the Buddhism of Mahavihara. The arrival 
      of the Portuguese in Ceylon in the sixteenth century and the Dutch in the 
      seventeenth century. They tried to introduce Catholism by force. This 
      situation aroused national feeling and had a strengthening effect on 
      Buddhism, which had been in the process of deterioration. Several 
      Singhalese kings undertook measures to give new impetus to Buddhism. They 
      sent delegations to Burma in the end of the seventeenth century and 
      Thailand in the eighteenth century in order to gain support. As a result 
      of this contact with foreign monks Burmese and Thai tendencies began to 
      make themselves felt in the Sangha in Ceylon. Thai monks introduced an 
      aristocratic principle of selection, which aroused resistance in other 
      strata of the population but established, in spite of this, one of the 
      main enduring tendencies of Singhalese Buddhism. In 1802, a Burmese branch 
      of the Sangha emerged, Amarapura, the members of which came from the 
      ordinary classes of the people. Both tendencies remain today, the 
      Thai-inspired being the stronger. More recently, a third developed which 
      is of Burmese origin and is characterized by particular strictness. In the 
      19th century the Buddhism in Ceylon was at its nadir; Western Buddhists, 
      who formed new centers and organizations, i.e., Mahabodhi Society, 
      contributed decisively to its revival. By 1948 Buddhism was again a 
      driving force in Singhalese culture and played a role in the achievement 
      of national independence in that year. Today Singhalese Buddhism is 
      influential in other Asian and European countries. On the other hand, the 
      Buddhist world owes a great debt to Ceylon. The Pali canon has been 
      preserved in its entirety in this island and Ceylonese Buddhism had great 
      influence upon Burma, Thailand, Laos, and Cambodia, the only countries 
      where Theravada Buddhism flourishs today. Ceylon was not, however, merely 
      a passive recipient; it contributed to the development of Buddhism through 
      its Commentaries.               
      
      Phật Giáo Triều Tiên: Korean 
      Buddhism—Triều Tiên là một trong những quốc Phật Giáo quan trọng ở Viễn 
      Đông. Phật giáo đã được du nhập vào đất nước nầy từ thế kỷ thứ 4 sau Tây 
      Lịch. Theo Giáo sư P.V. Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm Phật Giáo, vào 
      thế kỷ thứ tư Triều Tiên được chia làm ba vùng, đó là Koguryu ở phía Bắc, 
      Pakche ở phía Tây Nam, và Silla ở Đông Nam. Lịch sử Phật giáo trong ba 
      vùng nầy không giống nhau. Phật giáo được đưa vào Koguryu đầu tiên vào năm 
      372 bởi một tu sĩ Trung Hoa. Mười hai năm sau, Phật giáo mới đến Pakche 
      qua trung gian của một tu sĩ người Trung Á tên là Marananda. Silla là vùng 
      đất cuối cùng đến với Phật giáo gần 30 năm sau so với Koguryu. Ý nghĩa 
      quan trọng nhất của Phật giáo Triều Tiên là nó giữ vai trò trung gian giữa 
      trung Hoa và Nhật Bản, vì dù rằng được sự bảo trợ của hoàng gia trong suốt 
      quá trình lịch sử Phật giáo tại đây, nhưng tôn giáo nầy chẳng có sự phát 
      triển đáng kể nào về mặt giáo lý. Phật giáo Triều Tiên đã đạt được đỉnh 
      cao vào thế kỷ 11, trong thời gian trị vì của triều Wang. Trước thời nầy, 
      Phật giáo đã được truyền bá dưới ảnh hưởng của các vị vua triều đại Silla. 
      Thời đó có nhiều học giả nổi tiếng đi đến Trung Quốc để nghiên cứu giáo lý 
      đạo Phật. Trong số nầy được biết đến nhiều nhất là Yuan-Ts’o (613-683) của 
      hệ phái Pháp Tướng, Yuan Hiao (617-670) và Yi-Siang (625-702) của hệ phái 
      Hoa Nghiêm. Sau thế kỷ 11, Phật giáo cho đến bây giờ vốn là tôn giáo của 
      tầng lớp quí tộc thuộc triều đại Silla, đã trở thành một tôn giáo của toàn 
      thể dân chúng, phần lớn là nhờ những nỗ lực của Yi-T’ien, P’u-Chao cùng 
      một số tu sĩ khác. Yi-T’ien, một học giả nổi tiếng vì bản chú giải bộ Tam 
      Tạng chữ Hán, gọi là Yi-T’ien-Lu, đã nghiên cứu Phật giáo ở Trung Hoa, rồi 
      sau đó truyền bá giáo lý của hệ phái Hoa Nghiêm và Thiên Thai tại Triều 
      Tiên. Tuy nhiên, P’u-Chao mới là người làm cho Triều Tiên tiếp xúc được 
      với Phật Giáo Thiền Tông, môn nầy về sau đã trở thành một phần quan trọng 
      trong lịch sử Phật giáo Triều Tiên. Trong thời Mông Cổ chiếm lấy quyền lực 
      từ Vua Wang thì Phật giáo Triều Tiên chịu nhiều ảnh hưởng của phái Lạt Ma 
      (Lamaism). Sau khi đế quốc Mông Cổ sụp đổ thì triều đại Rhee của Chosen 
      lấy Khổng giáo làm nguyên tắc chủ đạo, do đó đẩy lùi Phật Giáo ra khỏi vị 
      thế danh dự. Dù không còn sự bảo trợ của hoàng gia, Phật giáo Triều Tiên 
      vẫn tiếp tục phát triển như một tôn giáo quần chúng. Thực ra Phật giáo ở 
      Triều Tiên hiện nay là một phái Phật giáo Thiền đượm niềm tin vào Phật A 
      Di Đà hoặc Di Lặc Bồ Tát—Korea, one of the important Buddhist countries in 
      the Far East, Buddhism was introduced to this country early in the fourth 
      century A.D. According to Prof. P.V. Bapat in The Twenty-Five Hundred 
      Years of Buddhism, in those days (4th century A.D.), the Korean peninsula 
      was divided into three parts, namely, Koguryu in the North, Pakche in the 
      South-West, and Silla in the South-East. The history of Buddhism in these 
      three parts of Korea is therefore not identical. Buddhism was first 
      brought to Koguryu by a Chinese monk in 372 A.D. It was twelve years later 
      that Buddhism came to Pakche through the agency of a Central Asian monk 
      named Marananda. Silla was the last to embrace Buddhism which came nearly 
      30 years after it had been introduced in Koguryu. The chief significance 
      of Korean Buddhism lies in the role it played as an intermediary between 
      China and Japan, for, although Buddhism received royal patronage almost 
      throughout its history in Korea, there was no notable development in its 
      doctrine. Korean Buddhism was at its peak in the 11th century A.D. during 
      the rule of the Wangdynasty of Korea. Before this period, Buddhism had 
      been spreading under the influence of the kings of the Silla dynasty. At 
      this time, several famous scholars went to China to study the Buddhist 
      doctrines. Of these, Yuan-Ts’o (613-683 A.D.) of the Fa-Hsiang sect, 
      Yuan-Hiao (617-670 A.D.) and Yi-Siang (625-702 A.D.) of the Hua-Yen sect 
      are best known. After the 11th century A.D., Buddhism, which had been the 
      religion of the aristocracy related to the Silla dynasty, became the faith 
      of the common people, owing largely to the efforts of Yi-T’ien, P’u-Chao 
      and a number of other monks. Yi-T’ien, a schlar famous for his editing of 
      the Catalogue of the Chinese Tripitaka, called Yi-T’ien-Lu, studied 
      Buddhism in China and then propagated the doctrine of both the Hua-Yen and 
      T’ien-T’ai scts in Korea. He also wrote articles on Buddhism in the Korean 
      language. However, it was P’u-Chao who introduced Korea to Zen Buddhism 
      which, in later days, was to play such an important part in its history. 
      During the period when the Yuan dynasty of the Mongolian Empire had gained 
      sovereignty over the Wang dynasty, Korean Buddhism was much influenced by 
      Lamaism. After the decline of the Mongolian Empire, the Rhee dynasty of 
      Korea accepted Confucianism as the leading principle of its culture and 
      thus dislodged Buddhism from its place of honour. Nevertheless, even 
      though it lost royal patronage in Korea, Buddhism continued to flourish as 
      the religion of the masses. Modern Korean Buddhism is, in fact, Zen 
      Buddhism tinged with a belief in Amitabha Buddha or Maitreya Bodhisattva.  
           
      
      Phật Giáo Trung Á: Buddhism in 
      Central Asia—Mặc dù không biết chính xác thời điểm nào đạo Phật được đưa 
      vào Trung Á, nhưng theo Giáo sư P.V. Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm 
      Phật Giáo, các bộ lạc du mục Sakas và Kishanas, cũng như các thương nhân 
      Ấn Độ đã đưa nền văn hóa Ấn Độ cùng với đạo Phật đến nhiều nơi khắp miền 
      Trung Á ít nhất là một thế kỷ trước kỷ nguyên Cơ Đốc. Các thực dân Ấn là 
      những người đầu tiên đưa Phật giáo đến miền nầy. Ngày nay người ta tìm 
      thấy một thổ ngữ tương đương với thổ ngữ của miền Tây Bắc Ấn Độ  được dùng 
      như ngôn ngữ chính thức tại một số bang thuộc miền Trung Á. Truyền thuyết 
      xứ Khotan nói rằng một người con trai của vua A Dục tên là Kustana đã lập 
      ra vương quốc nầy 234 năm sau ngày Đức Phật nhập diệt, nghĩa là khoảng năm 
      240 trước Tây lịch, và người cháu gọi Kustana bằng ông đã đem Phật giáo 
      đến vùng nầy. Trong thời kỳ cực thịnh, Phật giáo đã có tại Khotan gần 
      4.000 cơ sở, gồm các tu viện, đền chùa. Các đoàn hành hương Trung Hoa đến 
      đây như Pháp Hiển, Tống Vân và Huyền Trang đã chứng minh cho sự phồn thịnh 
      của Phật giáo tại Khotan cho đến khoảng thế kỷ thứ 8 sau Tây lịch, Khotan 
      vẫn là điểm phát tán đạo Phật đến các vùng phía nam như Niya, Calmadana 
      (Chekchen), Kroraina (Loulan), và cả Cokkuka (Kashgar)—Although we do not 
      know the definite time of the introduction of Buddhism to Central Asia, 
      however, according to Prof. P.V. Bapat in The Twenty-Five Hundred Years of 
      Buddhism, the nomadic tribes such as the Sakas and Kushanas, as well as 
      Indian merchants had carried elements of Indian culture with Buddhism to 
      the different states of Eastern Turkestan at least a century before the 
      Christian era.  The Indian colonists were the first to carry Buddhism to 
      this region. Nowadays, an Indian dialect, similar to that of north-western 
      India, was the official language in some of these states. Ancient 
      Khotanese traditions claim that a son of Ashoka named Kustana founded the 
      kingdom 234 years after the Nirvana, about 240 B.C., and a grandson of 
      Kustana, named Vijayasambhava, introduced Buddhism in Khotan.  In its 
      heyday, Buddhism had in Khotan nearly four thousand establishments, 
      including monasteries, temples and stupas. Chinese pilgrims such as 
      Fa-Hsien, Song-Yun and Hsuan-Tsang, testify to the flourishing condition 
      of Buddhism in Khotan until about the eighth century A.D. Khotan became 
      the place of the dissemination of Buddhism to other states in the South, 
      such as Niya, Calmadana, Kroraina and also to Cokkuka.     
      
      Phật Giáo Trung Hoa: Chinese 
      Buddhism. 
      
      (I)     Trung 
      Quốc là xứ sở mà Phật giáo đã tìm đường đến vào thế kỷ đầu Tây Lịch. Nhưng 
      theo Giáo sư P.V. Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm Phật Giáo, thì Trung 
      Hoa đã tiếp nhận đạo Phật từ những bộ tộc du mục của miền Đông Turkestan 
      vào cuối thế kỷ thứ nhất trước Tây Lịch. Nhiều tông phái khác nhau đã định 
      chế kỷ càng một số hình thái Phật pháp thích hợp dưới những ảnh hưởng của 
      Lão Giáo, Khổng Giáo, và các hình thái văn hóa khác của Trung Hoa. Lịch sử 
      truyền bá Phật giáo tại Trung Hoa bao quát trong khoảng 1.200 năm từ năm 
      67 đến 1.271 sau Tây Lịch, và trên thực tế, được đồng nhất với lịch sự 
      phiên dịch Phật điển Trung Hoa. Trong khoảng thời gian nầy có khoảng 173 
      vị sư Ấn Độ và Trung Hoa đã dâng hiến trọn đời cho công cuộc phiên dịch, 
      và kết quả là bộ Hán Tạng vẫn còn lưu truyền cho đến hôm nay—China is a 
      country in which Buddhism found its way in the first century. However, 
      according to Prof. P.V. Bapat in The Twenty-Five Hundred Years of 
      Buddhism, China received Buddhism from the nomadic tribes of Eastern 
      Turkestan towards the end of the first century B.C. Various sects arose 
      which elaborated certain aspects of Buddha’s Dharma in preference to 
      others under the influence of Taoism, Confucianism, and other forms of 
      Chinese culture. The history of Buddhist activities in China covers about 
      1,200 years, from 67 to 1,271 A.D., and is practically identical with the 
      history of Chinese translation of Buddhist scriptures. During those years 
      about 173 Indian and Chinese monks devoted themselves to the laborious 
      work of translation, and the result was the great literature of Chinese 
      Tripitaka.
      (II)  Những tông phái chính ở Trung Quốc hiện nay—Chief sects in China 
      in current time:
      
      1)       Thiên 
      Thai Tông: T’ien-T’ai Sect—See Thiên Thai Tông.
      
      2)       Tịnh 
      Độ Tông: The Pure Land Sect—See Pure Land in English-Vietnamese Section.
      
      3)       Thiền 
      Tông: The Zen Sect (Ch’an)—See Thiền, and Thiền Đốn Ngộ. 
      
      4)       Chân 
      Tông: Chân Ngôn Tông hay Mật Giáo—Shingon Sect or Esoteric Sect—See Mật 
      Giáo.    
      
      (II)  Sự thành 
      lập và hoàn thành các tông phái Trung Hoa—Foundation and completion of 
      Buddhist sects in China: Theo Giáo Sư Junjiro Takakusu trong Cương Yếu 
      Triết Học và Những Tông Phái Phật Giáo, có 14 tông phái chính được thành 
      lập tại Trung Quốc, nhưng chỉ có tám tông phái được hoàn thành mà 
      thôi—According to Professor Junjiro Takakusu in The Essentials of Buddhist 
      Philosophy, and Chief Buddhist Sects, there were 14 sects founded in 
      China, but only eight of them completed.
      
      (A)  Thời kỳ 
      thành lập trước đời nhà Tùy và nhà Đường từ nằm 67 đến năm 581 
      A.D.—Foundation period, before Sui and T’ang dynasties from 67 to 581 A.D.
      
      1)      Thời 
      Tây Tấn (khoảng từ những năm 265 đến 317 sau Tây Lịch)—Western Tsin 
      Dynasty (265-317 A.D.): Tỳ Đàm Tông (P’i-T’an Tsung): Abhidharma 
      (skt)—Giáo lý của Tỳ Đàm Tông căn cứ trên bộ luận do Ngài Tăng Già Đề Bà 
      dịch  khoảng những năm 383 đến 390. Bộ luận nầy nói về hai phái Tiểu Thừa 
      và Hữu Tông—The doctrine of Abhidharma sect was based on the Abhidharma 
      Sastra translated by Sanghadeva from 383 to 390 A.D.  This sastra mentions 
      about the Hinayana and the Formalistic.
      
      2)      Thời 
      Đông Tấn (khoảng từ những năm 317 đến 420 sau Tây Lịch)—Eastern Tsin 
      Dynasty (about 317-420 A.D.): Thành Thật Tông (Ch’êng-Shih Tsung): 
      Satyasiddhi (skt)—Giáo lý của Thành Thật tông căn cứ trên bộ luận do Cưu 
      Ma La Thập dịch khoảng những năm 417-418 sau Tây Lịch. Bộ luận nầy nói về 
      Tiểu Thừa Kinh bộ và Không tông—The doctrine of this sect was based on the 
      Satyasiddhi Sastra, translated by Kumarajiva in about 417 or 418 A.D. This 
      sastra mentions about Hinayana Sautranta and Nihilistic.
      
      a)      Tam 
      Luận Tông (San-Lun Tsung): Madhyamika (skt)—Tam Luận tông do đệ tử của 
      Ngài Cưu Ma La Thập là Tăng Triệu sáng lập, giáo lý căn cứ trên bộ Trung 
      Quán Luận do chính Tăng Triệu dịch khoảng những năm 384 đến 414 sau Tây 
      Lịch. Bộ luận nầy nói về Đại Thừa và Không Tông—San-Lun Tsung was founded 
      by Sêng-Chao, a disciple of Kumarajiva. The doctrine of this sect was 
      based on the Madhyamika Sastra, translated by Sêng-Chao in about 384-414 
      A.D. This sastra mentions about the Mahayana and Negativistic.  
      
      b)      Luật 
      Tông (Lu-Tsung): Vinaya (skt)—Luật Tông do ngài Huệ Quang, đệ tử của Ngài 
      Cưu Ma La Thập sáng lập. Giáo lý của tông phái nầy dựa trên bộ Luật được 
      Ngài Cưu Ma La Thập dịch khoảng những năm 402-412 sau Tây Lịch. Bộ Luật 
      nầy nói về Luật và Tiểu Thừa—Vinaya sect was founded by Hui-Kuang, a 
      disciple of Kumarajiva. The doctrine of this sect was based on the Vinaya, 
      translated into Chinese by Kumarajiva in about 402-412 A.D. This Vinaya 
      mentions about Hinayana and Disciplinary.
      
      3)      Thời 
      Bắc Lương (khoảng những năm 397 đến 439 sau Tây Lịch)—Northern Liang 
      Dynasty (about 397 to 439 A.D.): Niết Bàn Tông (Nieh-P’an Tsung): Nirvana 
      (skt)—Tông Niết Bàn được ngài Đàm Ma Lạc Xoa sáng lập. Giáo lý của tông 
      phái nầy căn cứ trên bộ Kinh Niết Bàn do chính ngài Đàm Ma Lạc Xoa dịch 
      khoàng năm 423. Bộ kinh nói về Niết Bàn và Bản Thể luận thuyết—Nirvana 
      sect was founded by Dharmaraksa. The doctrine of this sect was based on 
      the Nirvana Sutra, also translated by Dharmaraksa in about 423 A.D. The 
      sutra emphasizes on Mahayana and Noumenological theories.  
      
      4)      Thời 
      Bắc Ngụy (vào khoảng những năm 386 đến 535 sau Tây Lịch), và Đông Ngụy 
      (vào khoảng những năm 386 đến 535 sau Tây Lịch)—Northern Wei Dynasty 
      (386-535 A.D.), and Eastern Wei (386-550 A.D.): Địa Luận Tông 
      (Ti-Lun-Tsung)—Dasabhumi (skt)—Tông Địa Luận do Ngài Bồ Đề Lưu Chi sáng 
      lập. Giáo thuyết  của tông phái nầy căn cứ trên bộ Địa Luận do chính ngài 
      Bồ Đề Lưu Chi dịch khoảng năm 508 sau Tây Lịch. Bộ Luận nói về Đại Thừa và 
      Duy Thức—Dasabhumi Sect was founded by Bodhiruci; its doctrine was based 
      on the Dasabhumi Sastra, translated by Bodhiruci in 508 A.D., which 
      mentioned about Mahayana and Idealistic. 
      
      5)      Thời 
      Tây Ngụy và Đông Ngụy (vào khoảng những năm 535 đến 557 sau Tây 
      Lịch)—Western and Eastern Wei Dynasty (535-557 A.D.): 
      
      a)      Tịnh 
      Độ Tông (Ching-T’u Tsung): Sukhavati (skt)—Tịnh Độ Tông do ngài Đàm Loan 
      Đại Sư sáng lập. Giáo thuyết của tông phái nầy căn cứ trên bộ Kinh Tịnh Độ 
      do ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch khoảng những năm 476-524 sau Tây Lịch. Bộ kinh 
      nói về Đại Thừa và tha lực giải thoát luận thuyết—Sukhavati Sect was 
      founded by T’an-Luan Great Master. The doctrine of this sect was based on 
      the Sukhavati Sutra, translated by Bodhiruci  from 476 to 524 A.D. The 
      sutra mentions about Mahayana and Liberation from the pietic power (power 
      of others). 
      
      b)      Thiên 
      Thai Tông (T’ien-T’ai Tsung): Pundarika (skt)—Do ngài Trí Khải thành lập 
      vào khoảng những năm từ 531 sau Tây Lịch, giáo thuyết dựa vào bộ kinh Pháp 
      Hoa, nói về Đại Thừa và Hiện Tượng Luận thuyết—T’ien-T’ai Tsung was 
      founded by Chih-I. The doctrine was based on the Lotus Sutra. The sutra 
      basically mentions about Mahayana and Phenomenological commentaries. The 
      Phenomenology completed by Chih-I in about 531 A.D.   
      
      6)      Thời 
      Nam Lương (vào khoảng những năm 502 đến 557 sau Tây Lịch)—Southern Liang 
      Dynasty (502-557 A.D.): Thiền Tông (Ch’an Tsung): Dhyana (skt)—Thiền Tông 
      do Tổ Bồ Đề Đạt Ma sáng lập vào khoảng những năm 470 đến năm 534 sau Tây 
      Lịch. Thiền tông nhấn mạnh về Đại Thừa và tịnh lự—Ch’an Tsung was founded 
      by Bodhidharma from 470 to 534 A.D. Ch’an Tsung emphasizes on Mahayana and 
      Contemplation. 
      
      7)      Thời 
      nhà Trần (vào khoảng những năm 557-589 sau Tây Lịch)—Ch’ên Dynasty 
      (557-589 A.D.):
      
      a)      Nhiếp 
      Luận Tông (Shê-Lun-Tsung): Mahayana-samparigraha (skt)—Nhiếp Luận Tông do 
      ngài Chân Đế sáng lập. Giáo thuyết của tông phái nầy căn cứ trên bộ Nhiếp 
      Luận cũng do chính Ngài Chân Đế dịch vào khoảng năm 563 sau Tây Lịch. Bộ 
      luận nói về Đại Thừa và Duy Thức—Mahayana-samparigraha Sect was founded by 
      Paramartha. The doctrine was based on the Mahayana-samparigraha sastra, 
      translated by Paramartha in about 563 A.D. The sastra mentioned about 
      Mahayana and Idealistic. 
      
      b)      Câu Xá 
      Tông (Chu-Shê tsung): Abhidharmakosa (skt)—Câu Xá Tông do ngài Chân Đế 
      sáng lập, giáo thuyết dựa trên bộ Luận A Tỳ Đạt Ma Câu Xá cũng do ngài 
      Chân Đế dịch trong khoảng những năm 563 đến 567 sau Tây Lịch. Bộ luận nói 
      về Tiểu Thừa và Thực Tại luận—Abhidharmakosa sect was founded by 
      Paramartha. The doctrine was based on the Abhidharmakosa sastra, 
      translated by Paramartha from 563-567 A.D. The sastra mentioned about 
      Hinayana and Realistic. 
      
      8)      Thời 
      nhà Đường (vào khoảng những năm 590-774 sau Tây Lịch)—T’ang Dynasty 
      (590-774 A.D.):
      
      a)      Pháp 
      Tướng Tông (Fa-Hsiang Tsung): Vijnaptimatrata (skt)—Pháp Tướng tông do 
      ngài Khuy Cơ (632-682), đệ tử của ngài Huyền Trang thành lập. Giáo thuyết 
      dựa vào bộ Luận Duy Thức do ngài  Huyền Trang (596-664) dịch. Bộ luận nói 
      về Đại Thừa Tiệm Giáo và Duy Thức Luận—Vijnaptimatrata Sect was founded by 
      K’uei-Chi (632-682 A.D.), a disciple of Hsuan-Tsang. The doctrine was 
      based on the Idealism sastra translated and completed by Hsuan-Tsang 
      (596-664 A.D.). The sastra mentioned about the Quasi-Mahayana and 
      Idealistic.  
      
      b)      Hoa 
      Nghiêm Tông (Hua-Yen Tsung): Avatamsaka (skt)—Tông Hoa Nghiêm được Ngài 
      Pháp Tạng thành lập vào khoảng những năm 643-712 sau Tây Lịch. Giáo thuyết 
      của tông phái nầy dựa vào bộ Kinh Hoa Nghiêm, chủ yếu nói về Đại Thừa, 
      Duyên Khởi luận thuyết, và Pháp Giới Trùng Trùng Duyên Khởi luận 
      thuyết—The Avatamsaka Sect was founded by Fa-Tsang in about 643 to 712 
      A.D. The doctrine was based on the Avatamsaka Sutra, and Totalism 
      Commentaries completed by Fa-Tsang from about 643 to 712 A.D.. The 
      commentaries mentioned about Mahayana and Totalistic. 
      
      c)      Chân 
      Ngôn Tông (Chên-Yen Tsung): Matrayana (skt)—Tông Chân Ngôn được ngài Thiện 
      Vô Úy, Kim Cương Trí, và Bất Không thành lập, giáo thuyết về Đại Thừa Mật 
      Giáo—The Mantrayana Sect (about Mahayana and Mystic) was founded by 
      Subhakarasimha (637-735 A.D.), Vajrabodhi (663-723 A.D.), and Amoghavajra 
      (705-723 A.D.).  
      
      (B)  Thời kỳ 
      hoàn thành từ đời nhà Tùy đến đời nhà Đường (vào khoảng những năm từ 67 
      đến 907 sau Tây Lịch)—Final completion Period from the Sui Dynasty to the 
      T’ang Dynasty (from 67 to 907 A.D.):
      
      1)      Tam 
      Luận Tông (San-Lun Tsung): Madhyamika (skt)—Ngài Cát Tạng lập thành hệ 
      thống Không tông vào khoảng những năm 549 đến 623 sau Tây Lịch—Negativism 
      systematized by Chi-Tsang from 549-623 A.D.
      
      2)      Câu Xá 
      Tông (Chu-Shê Tsung): Bộ Câu Xá Thực Tại Luận do ngài Huyền Trang soạn và 
      truyền thụ, và đệ tử là Khuy Cơ hoàn tất—Kosa Realism transmitted by 
      Hsuan-Tsang (596-664 A.D.) and completed by Kuei-Chi (632-682 A.D.).  
      
      3)      Luật 
      Tông (Lu-Tsung): Viyana (skt)—Ngài Đạo Tuyên hoàn thành bộ Luật Đàm Vô 
      Đức  vào khoảng những năm 596-667 sau Tây Lịch—Dharmagupta Discipline 
      completed by Tao-Hsuan from 596-667 A.D.
      
      4)      Thiên 
      Thai Tông: Bộ Hiện Tượng Luận do ngài Trí Khải hoàn thành—Phenomenology 
      completed by Chih-I—See (A) (e) (8).
      
      5)      Thiền 
      Tông (Ch’an Tsung): Hệ thống Thiền hưng thịnh vào thời Lục Tổ Huệ Năng 
      (638-713) Nam phái và Thần Tú (605-706) Bắc phái—The system of meditation 
      flourished under Hui-Nêng (638-713 A.D.), Southern school; and Shên-Hsiu 
      (605-706 A.D.), Northern school.  
      
      6)      Tịnh 
      Độ Tông và Tha Lực Giải Thoát Luận được ngài Thiện Đạo hoàn tất trước năm 
      681 sau Tây Lịch: Sukhavati Sect and Amitabha Pietism Commentaries 
      completed by Shan-Tao before 681 A.D. 
      
      7)      Hoa 
      Nghiêm Tông: Bộ Pháp Giới Trùng Trùng Duyên Khởi Luận do ngài Pháp Tạng 
      hoàn thành—The Totalism completed by Fa-Tsang—See (A) (h) (13). 
      
      8)      Pháp 
      Tướng Tông (Fa-Hsiang Tsung): Bộ Duy Thức Học do Huyền Trang và đệ tử là 
      Khuy Cơ dịch và hoàn tất—Idealism translated and completed by Hsuan-Tsang 
      and his disciple Kuei-Chi—See (A) (h) (12). 
      
      Phật Giáo Việt Nam: Phật giáo 
      có lẽ đã được đưa vào Việt Nam bằng đường biển vào đầu thế kỷ thứ nhất. 
      Vào khoảng thế kỷ thứ hai thì tại Giao Chỉ đã có những vị Tăng nổi tiếng, 
      điển hình là ngài Khương Tăng Hội (see Khương Tăng Hội). Tuy nhiên, Phật 
      giáo Việt Nam chưa được phát triển mạnh cho mãi đến năm 580 khi Thiền sư 
      Tỳ Ni Đa Lưu Chi, một vị sư Ấn Độ, là đệ tử của Tam Tổ Tăng Xán, trước khi 
      dòng Thiền Trung Hoa bị chia làm hai, Bắc và Nam tông, đã đến Việt Nam và 
      sáng lập dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Tổ truyền của dòng Thiền đầu tiên 
      nầy chấm dứt sau khi tổ thứ 28 của nó thị tịch vào năm 1216. Tuy nhiên, 
      ảnh hưởng của nó còn rất mạnh ở phía Bắc. Dòng Thiền thứ hai tại Việt Nam 
      được phát khởi bởi một nhà sư Trung Hoa tên là Vô Ngôn Thông, một đệ tử 
      của Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải. Tổ truyền của dòng Thiền nầy chấm dứt 
      vào thế kỷ thứ 13, dù dòng Thiền nầy vẫn tồn tại. Mặc dù hai dòng Thiền 
      nầy không còn tồn tại như những dòng truyền thừa, nhưng chính hai dòng 
      Thiền nầy  đã đặt nền móng vững chắc cho Phật giáo Việt Nam. Dưới thời nhà 
      Đinh (969-981), vua Đinh Tiên Hoàng đã đặt ra Tăng Già Việt Nam được nhà 
      vua bảo trợ và bổ nhiệm những vị sư nổi tiếng vào các chức vụ trong triều, 
      những chức vụ mà trước kia đều do các học giả Khổng Nho đảm nhiệm. Dưới 
      thời nhà Tiền Lê (981-1009), bộ Đại Tạng bằng Hán văn đầu tiên đã được 
      thỉnh về từ Trung Quốc, làm căn bản giáo điển cho Phật giáo Việt Nam. Thời 
      nhà Lý là thời hoàng kim của nền tự chủ Việt Nam. Năm 1069, vua Lý Thánh 
      Tôn phát động chiến dịch Nam tiến chống lại Chiêm Thành, trong chiến dịch 
      nầy trong số hàng trăm ngàn tù binh bắt được, có một tù binh rất đặc biệt 
      được đưa về kinh đô Thăng Long, một nhà sư Trung Hoa tên Thảo Đường. Với 
      sự hổ trợ mạnh mẽ của vua Lý Thánh Tôn, dòng Thiền Thảo Đường đã được khai 
      sáng (see Thảo Đường Thiền Sư). Về sau nầy tông phái Tịnh Độ được du nhập 
      vào Việt Nam từ Trung Quốc chiếm vị thế khá mạnh và tồn tại cho đến ngày 
      nay. Ngoài ra, hầu hết những tông phái Phật giáo Trung Hoa đều được truyền 
      bá và tồn tại tại Việt Nam—Buddhism may have been introduced to Vietnam by 
      sea as early as the first century. By the second century, Tongkin already 
      had several famous monks, especially Sanghapala. However, Vietnamese 
      Buddhism had not developed until 580 when Vinitaruci, an Indian monk, a 
      disciple of the Third Patriarch Seng-Ts’an, long before its split into 
      northern and southern schools. The first lineage of Vietnamese Zen Masters 
      ended with the death of its twenty-eighth patriarch in 1216, however, its 
      influence continued to be prominent in the north (see Tỳ Ni Đa Lưu Chi). 
      The second Zen lineage in Vietnam was initiated by the Chinese monk named 
      Wu-Yun-T’ung, a disciple of Pai-Zhang. This lineage of Zen Masters also 
      died out in the thirteenth century, though the school itself survives. 
      Although the first two lineages of Zen did not survive as lineages, they 
      did lay the solid foundations for future Vietnamese Buddhism. In the Đinh 
      dynasty (969-981), king Đinh Tiên Hoàng established a State-sponsored 
      Vietnamese Sangha and initiated the pactice of appointing eminent monks to 
      advisory positions at court, offices formerly filled exclusively by 
      Confucian scholars. In the Early Le dynasty (981-1009), the first complete 
      Chinese Tripitaka was imported from China, establishing the scriptural 
      basis of Vietnamese Buddhism. The Ly dynasty spanned the golden age of 
      Vietnamese independence. In 1069, the Ly dynasty’s campaign of southward 
      expansion against Champa reached its farthest extent, the seventeenth 
      parallel. In the course of this campaign, a very significant prisoner of 
      war was brought to Thang Long Capital from captured Champa territory. This 
      prisoner was the Chinese monk Ts’ao-Tang. With the strong support of king 
      Lý Thánh Tôn (1054-1072), Ts’ao-Tang established the Ts’ao-Tang Zen 
      lineage (see Thảo Đường).  Later, the Pure Land sect (from China) 
      gradually became prominent in  Vietnam and it maintains to the present 
      day. Besides, most of Chinese Buddhist sects were propagated and survived 
      in Vietnam.        
      
      Phật Giới: 
      
      1)      Phật 
      giới đối lại với chúng sanh giới—The Buddha realm, in contrast with the 
      realm of all living beings (Chúng sanh giới
      
      2)      Phật 
      quả: The state of Buddhahood.
      
      3)      Một 
      trong thập giới gồm lục đạo cùng với Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát và Phật 
      thừa—One of the ten realms which consist of the six gati together with the 
      realms of Buddhas, Bodhisattvas, Pratyeka-buddhas, and Sravakas.
      
      4)      Giới 
      luật mà Phật đã đặt ra cho Phật tử tuân theo sau nầy: The moral 
      commandments of the Buddha—The laws of reality observed by all Buddhas.
      
      
      Phật Hải: Buddha’s ocean—Phật 
      giới vô tận như biển cả—The realm of Buddha boundless as the sea.  
      
      Phật Hải Đức Quang Minh: 
      Sea-Vast Virtue’s Radiance Buddha.  
      
      Phật Hải Trí: The ocean of 
      Buddha-knowledge. 
      
      Phật Hàng Phục Chúng Ma Vương: 
      King Demon-Horde-Subduer Buddha. 
      
      Phật Hậu Phổ Hiền: 
      
      1)      Ý nói 
      Đức Phật sau khi đã thành Phật quả, vẫn tiếp tục ban phước và cứu độ chúng 
      sanh: After having attained Buddhahood still continue the work of blessing 
      and saving other beings
      
      2)      Ngài 
      Phổ Hiền tiếp tục công việc hoằng hóa của Phật: P’u-Hsien, or 
      Samantabhadra, as continuing the Buddha’s work. 
      
      Phật Hiền Thiện Thủ: Worthy and 
      Wholesome Leader Buddha.
      
      Phật Hiện Vô Ngu: Manifesting 
      Without Delusion Buddha. 
      
      Phật Hoa Quang Như Lai: 
      Padmaprabha Buddha (skt)—See Xá Lợi Phất.  
      
      Phật Hoan Hỷ Nhật: Ngày rằm 
      tháng bảy, ngày cuối cùng của mùa kiết hạ an cư—The Buddhist Joy-day (The 
      15th of the 7th month, the last day of retreat). 
      
      Phật Hoan Hỷ Tạng Ma Ni Bảo Tích: 
      Treasury of Happiness and Accumulation of Mani Jewels Buddha. 
      
      Phật Học: Buddhist study.
      
      Phật Học Chỉ Nam: Commentary 
      Guide to Buddhism. 
      
      Phật Hộ: Buddhapalita 
      (skt)—Phật Hộ sanh vào giữa thế kỷ thứ sáu, đồ đệ nhiệt thành của Ngài 
      Long Thọ. Ông đã viết quyển Trung Quán Chú Giải, mục đích chú giải cho bộ 
      Trung Quán Luận của Ngài Long Thọ. Nguyên bản bộ Trung Quán Chú Giải nay 
      đã bị thất lạc, chỉ còn lại bản dịch bằng Tạng văn. Chúng ta có thể nói 
      rằng Phật Hộ là một trong những đại diện quan trọng nhứt của chủ thuyết Vô 
      Ngã được Long Thọ đề xướng vào thế kỷ thứ 5. Phật Hộ là vị đã sáng lập ra 
      trường phái Prasangika, áp dụng một phương pháp lý luận, trong đó một 
      người muốn khẳng định địa vị của mình phải đặt ra cho đối thủ những câu 
      hỏi sao cho có thể hoàn toàn đánh bại đối thủ và làm cho vai trò của người 
      đó trở thành lố bịch—Buddhapalita was born in the middle of the sixth 
      century, an ardent disciple of Nagarjuna. He wrote a commentary called 
      Madhyamakavrtti on the Madhyamaka-Sastra of Nagarjuna. The original is 
      lost. It is available only in Tibetan translation.  He was one of the most 
      important exponents of the Sunyavada doctrine propounded by Nagarjuna in 
      the fifth century. Buddhapalita was the founder of the school of logical 
      thinking known as the Prasangika, which attempts to develop a method of 
      reasoning in which an individual in order to establish his position must 
      put such questions to his adversary as would defeat him completely and 
      make his position absurd. 
      
      Phật Hống: Tiếng thuyết pháp 
      của Phật hùng hồn như tiếng sư tử hống—Buddha’s nada, or roar—Buddha’s 
      preaching compared to a lion’s roar, i.e. authoritative. 
      
      Phật Hồng Diệm Đế Tràng Vương: 
      King Blazing Red Imperial Banner Buddha. 
      
      Phật Huệ: Buddha-wisdom.
      
      Phật Huệ Cự Chiếu: Wisdom 
      Torches’ Shinning Buddha. 
      
      Phật Huệ Oai Đăng Vương: King 
      Awesome Lamp Of Wisdom. 
      
      Phật Huệ Tràng Thắng Vương: 
      Victorious King Wisdom-Banner Buddha.
      
      Phật Hư Không Bảo Hoa Quang: 
      Light of Precious Flowers in Space Buddha. 
      
      Phật Hương Quang: Fragrant 
      Light Buddha.
      
      Phật Hương Thượng: 
      Superior-Fragrant Buddha. 
      
      Phật Hướng Đạo, Là Những Vị Thầy, Còn 
      Chúng Sanh Phải Quyết Định Con Đường Tu Tập Của Chính Mình; Giác Ngộ Hay 
      Mê Lầm, Hạnh Phúc Hay Khổ Đau Đều Do Bởi Chính Ta: The Buddhas 
      offer their guidance, they are only teachers; living beings themselves 
      must determine their way of practice (cultivation); enlightenment or 
      stupidity, happiness or suffering, etc. all depend on ourselves.   
      
      Phật Hữu Nhật Nguyệt Đăng: 
      Sun-Moon-Lamp Buddha.
      
      Phật Khẩu Tâm Xà: Good words 
      but wicked heart. 
      
      Phật Kiên Đức: Firm Virtue 
      Buddha.
      
      Phật Kiến: The correct views of 
      the Buddha—Buddha doctrine. 
      
      Phật Kiến Nhứt Thiết Nghĩa: 
      Vision-Of-All-Meaning Buddha. 
      
      Phật Kim Cang Bất Hoại: 
      Vajra-Indestructible Buddha. 
      
      Phật Kim Cang Lao Cường Phổ Tán 
      
      
      Phật Kim Hải Quang: Golden Sea 
      Of Light Buddha.  
      
      Phật Kim Hoa Quang: Golden 
      Flowers’ Light Buddha. 
      
      Phật Kim Quang: Vajra-Firm And 
      Shedding Golden Light Everywhere Buddha.  
      
      Phật Kinh: Phật Kinh bao gồm 
      hình tượng và kinh điển Phật—Buddhist canonical literature, including 
      Buddha’s images and Buddhist sutras.
      
      Phật Ký: Phật thọ ký hay nói 
      trước một cách chắn chắn về sự thành tựu của các vị đệ tử trong tương 
      lai—Buddha’s prediction—Buddha’s foretelling of the future of his 
      disciples.
      
      Phật Lạp Nhựt: 
      
      1)      Ngày 
      cuối trong năm:The Buddhist last day of the old year.
      
      2)      Ngày 
      cuối mùa kiết hạ an cư: The last day of the summer retreat—See Hạ Lạp. 
      
      Phật Lập Tam Muội: Mức định 
      trong đó Phật hiện đến với thiền giả—A degree of samadhi in which the 
      Buddhas appear to the meditator.
      
      Phật Lật Trì Tác Thảng Na: 
      Urddhasthana, or Urdvasthana, or Vardhasthana, or Vrjisthana (skt)—Theo 
      Eitel trong Trung Anh Phật Giáo Từ Điển, đây là một vương quốc cổ, tên 
      Vardaks, vùng gần Cabool bây giờ—According to Eitel in the Dictionary of 
      Chinese Buddhist Terms, this was an ancient kingdom, the country of the 
      Vardaks, the Ortospana of Ptolemy, the region about Cabool.
      
      Phật Liên Hoa Quang Du Hí Thần Thông: 
      Lotus-Flower Light, Roaming In Spiritual Power Buddha. 
      
      Phật Long Chủng Thượng Tôn Vương: 
      Supreme And Venerable Dragon-King Buddha. 
      
      Phật Long Tôn Vương: Venerable 
      Dragon-King Buddha.
      
      Phật Lô Xá Na: Nishyanda 
      Buddha.
      
      Phật Luận: Budhology—Theo Phật 
      giáo Nguyên Thủy, Đức Phật chỉ đơn giản là một người tự mình nỗ lực để 
      giác ngộ và trở thành một bậc Thánh giả. Theo phái Đại Thừa thì Đức Phật 
      là hóa thân của chính sự thánh thiện trong vũ trụ mà Ngài giáng trần, như 
      là một sứ mệnh để truyền dạy giáo nghĩa tối cao về thân phận con người và 
      sự giải thoát tối hậu—According to Hinayana, the Buddha was simply a human 
      being who by his own effort became enlightened and divine. In Mahayana, it 
      is divinity itself that incarnates itself in a Buddha and descends to 
      earth to impart the highest teaching about man’s destiny and the ultimate 
      liberation. 
      
      Phật Luật: Laws of Buddha’s 
      Teachings—Buddhist laws.
      
      Phật Lũng: 
      
      1)      Tên 
      của một ngọn núi ở góc tây nam núi Thiên Thai: Name of a peak at the 
      south-west corner of T’ien-T’ai.
      
      2)      Tên 
      của đại sư Trí Giả núi Thiên Thai: Name for Chih-I.
      
      Phật Lực: The power of Buddha.
      
      Phật Lưu Ly Trang Nghiêm Vương: 
      King Adorned With Lapus Lazuli Buddha. 
      
      Phật Ly Cấu: Apart From 
      Defilement Buddha. 
      
      Phật Ma Ni Tràng: Mani Banner 
      Buddha. 
      
      Phật Ma Ni Tràng Đăng Quang: 
      Mani Banner and Lamps’ Light Buddha.   
      
      Phật Ma Pháp Ma: Những người 
      theo chủ nghĩa lý tưởng thường bị vướng mắc bởi hai danh từ Phật và 
      Pháp—Idealists who are always disturbed by the concept of “Buddha” and 
      “Dharma.”
      
      Phật Mẫu: 
      
      1)      Hoàng 
      hậu Ma Da là mẹ của Phật:  The mother of the Buddha—Maha Maya.
      
      2)      Bà Ma 
      ha Ba Xà Ba Đề là kế mẫu và cũng là dì của Phật: Mahapajapatti—His aunt 
      who was also his foster-mother.
      
      3)      Giáo 
      pháp đã sanh ra Phật: The Dharma or law which produced him.
      
      4)      Bát 
      Nhã Ba La Mật Đa, mẹ của chư Phật: The Prajna-paramita, mother of begetter 
      of all Buddhas.
      **   For more information, 
      please see Giác 
             Mẫu.
      
      Phật Mẫu Chơn Tam Muội: The 
      samadhi, meditation or trance by means of which the Buddhas, past, 
      present, and future, become incarnate.
      
      Phật Na La Diên: Narayan 
      Buddha.
      
      Phật Nan Trở: Hard-To-Injure 
      Buddha.
      
      Phật Ngũ Tánh (Tính): Năm họ 
      của Đức Phật trước khi Ngài xuất gia thành đạo—The five surnames of Buddha 
      before he became enlightened: 
      
      1)      Cồ 
      Đàm, một nhánh của dòng Thích Ca: Gautama, a branch of Sakya clan.
      
      2)      Cam 
      Giá, một trong những họ tổ tiên của Phật: Iksvaku, one of Buddha’s 
      ancestors.
      
      3)      Nhật 
      Chủng: Suryavamsa, of the sun race.
      
      4)      Xá Di: 
      Saka.
      
      5)      Thích 
      Ca: Name of Buddha’s clan.    
      
      Phật Nguyện: Lời nguyện của 
      Phật là cứu độ hết thảy chúng sanh—The vow of Buddha to save all beings.
      
      
      Phật Nguyệt: Phật đang được soi 
      rọi trong tâm chúng sanh giống như mặt trăng soi trong nước trong—The 
      Buddha-moon—Buddha being mirrored in the human heart like the moon in the 
      pure water. 
      
      Phật Ngữ: The words or sayings 
      of Buddha.
      
      Phật Ngữ Tâm: The 
      Bhutatathata—Chân Như hay nơi tàng trữ tất cả lời giảng dạy của chư 
      Phật—The mind or storehouse of Buddha’s words.
      
      Phật Nhãn: Mắt của Phật hay mắt 
      của bậc giác ngộ nhìn thấu rõ thực tướng của chư pháp—The eye of 
      Buddha—The enlightened one who sees all and is omniscient. 
      
      Phật Nhãn Thiền Sư: See Long 
      Môn Thanh Viễn. 
      
      Phật Nhãn Tôn: Nhất Thiết Phật 
      Nhãn Đại Kim Cương Cát Tường Nhất Thiết Phật Mẫu, hay Phật Nhãn Bộ Mẫu, 
      hay Phật Mẫu Tôn, là tên của một vị tôn do Mật Giáo đặt ra—A term of the 
      esoteric cult for the source or mother of all wisdom.
      
      Phật Nhân: Nhân đưa tới Phật 
      quả, như là những phước đức thiện nghiệp và công đức Phật—Buddha-cause—The 
      cause which leads to Buddhahood, i.e. the merit of planting roots of 
      goodness and Buddha-virtue. 
      
      Phật Nhật: 
      
      1)      Đức 
      Phật hay giáo pháp của Ngài như ánh sáng mặt trời xua tan bóng tối vô minh 
      (Phật có thể xua tan những tăm tối ngu dốt của chúng sanh, giáo hóa cho 
      tâm trí họ trở nên sáng suốt, giống như mặt trời chiếu tới đâu thì chỗ ấy 
      trở nên sáng rõ): The Buddha-sun which drives away the darkness of 
      ignorance.
      
      2)      Ngày 
      của Phật: The day of Buddha. 
      
      Phật Nhứt Thiết Pháp Thường Mãn Vương: 
      Forever Replete In All Dharmas Buddha. 
      
      Phật Nhứt Thiết Thế Gian Nhạo Kiến
      Thượng Đại Tinh Tấn: Supreme 
      Great Vigor  That All Worlds Delight To See Buddha. 
      
      Phật Nhựt: 
      
      1)      Ánh 
      sáng Phật Pháp xua tan bóng tối si mê—The Buddha-sun which drives away the 
      darkness of ignorance.
      
      2)      Ngày 
      Phật Đản: The day of Buddha (birth).  
      
      Phật Nhựt Nguyệt Quang: Light 
      Of Sun And Moon Buddha.
      
      Phật Nhựt Nguyệt Châu Quang: 
      Pearl-Light Of  Sun And Moon Buddha.  
      
      Phật Nhựt Sanh: Sun-Birth 
      Buddha.
      
      Phật Niết Bàn: See Niết Bàn.
      
      
      Phật Ô: Buddhaghosa (skt)—Theo 
      Rhys Davids, Phật Ô là một vị luận sư nổi tiếng của Tiểu Thừa và kinh Tạng 
      Pali. Ông sanh gần Bồ Đề Đạo Tràng, và đến Tích Lan vào khoảng năm 430 sau 
      Tây Lịch. Hầu như tất cả những kinh điển Pali đều được người ta cho là của 
      ông viết ra—According to Rhys Davids, Buddhaghosa was a famous 
      commentator  and writer of the Hinayana School and of the Pali canon. He 
      was born near the Bo-Tree, at Buddha-Gaya, and came to Ceylon about 430 
      A.D. Almost all the commentaries now existing in Pali are ascribed to him.
      
      
      Phật Phàm Nhứt Thể: Phật và 
      phàm phu là một, tất cả đều có Phật tánh—Buddha and the common people are 
      one, i.e. all are of Buddha-nature. 
      
      Phật Phạm Âm: Pure-Sound 
      Buddha.
      
      Phật Pháp: Buddha-dharma 
      (skt)—Những giáo pháp được Phật giảng dạy, mà thực hành theo đó sẽ dẫn đến 
      giác ngộ—Buddha Dharma or Buddha Teachings, or Law of Buddhist—Buddhist 
      law—Buddhist Method—The Buddha law preached by the Buddha—Methods of 
      cultivation taught by the Buddha leading beings to enlightenment.
      
      Phật Pháp Bất Ly Thế Gian Pháp: 
      The enlightenment of the Buddhist dharma is inseparable from that of the 
      secular world. 
      
      Phật Pháp Chỉ Có Một Vị, Đó Là Vị Giải 
      Thoát: The Buddha’s teaching has only one flavour: the flavour 
      of liberation. 
      
      Phật Pháp Giới Tạng Thân A Di Đà: 
      Amitabha Buddha, Whose Body Is The Treasury Of The Dharma Realm.
      
      Phật Pháp Tạng: The storehouse 
      of Buddha-law—The Bhutatathata as the source of all things. 
      
      Phật Pháp Tăng: The Buddhist 
      Trinity—See Phật Bảo, Pháp bảo, Tăng bảo.  
      
      Phật Pháp Thắng Vương: 
      Dharma-Victory Buddha. 
      
      Phật Pháp Thọ Mệnh: The life or 
      extent of a period of Buddhism. 
      
      Phật Pháp Tinh Yếu: The essence 
      of Buddhist doctrine: “Đừng làm các việc ác, làm các việc lành, giữ cho 
      tâm ý thanh sạch, đó là tất cả những gì Phật dạy.”—“Do not get involved in 
      evil deeds, do whatever benefits others, always keep the mind pure, that 
      is all the Buddha’s teaching.”
      
      Phật Pháp Tràng: Dharma-Curtain 
      Buddha. 
      
      Phật Phật Tổ Tổ: From Buddha to 
      Buddha, from Patriarch to Patriarch. 
      
      Phật Phổ Hiện Sắc Thân Quang: 
      Form-Body’s Light Appearing Everywhere Buddha. 
      
      Phật Phổ Minh: Universal 
      Understanding Buddha.
      
      Phật Phổ Quang: Universal Light 
      Buddha. 
      
      Phật Phổ Tịnh: Universal Purity 
      Buddha.
      
      Phật Quả: Buddhaphala (skt)—Quả 
      vị Phật—Buddhahood—The Buddha fruit—The state of Buddhahood.  
      
      Phật Quả Viên Ngộ: See Khắc Cần 
      Phật Quả. 
      
      Phật Quan Thế Đăng: Lamp That 
      Contemplates The World Buddha. 
      
      Phật Quang: Hào quang hay ánh 
      sáng giác ngộ của Phật—The true light of  the Buddha—Spiritual 
      enlightenment—The light of the Buddha—Halo—Glory.
      
      Phật Quang Diệm Vương: The 
      royal Buddha of shining flames, or flaming brightness (Amitabha with his 
      virtues).
      
      Phật Quang Đức: Bright Virtue 
      Buddha.
      
      Phật Quang Minh: 
      Rasmiprabhasa—Mahakasyapa (Ma ha ca diếp) is to be reborn in the kingdom 
      of light and glorious virtue as a Buddha. 
      
      Phật Quảng Trang Nghiêm Vương: 
      King Vast Adornment Buddha. 
      
      Phật Quốc: 
      
      1)      Phật 
      Độ—Buddhaksetra (skt)—Phật Hột Sai Đảm La (Buddha realm, land or 
      country)—Danh từ Phật Sát, Phật Độ hay Phật Quốc không có trong Phật Giáo 
      Tiểu Thừa. Theo Đại Thừa, thì đây là quốc độ đạt đến của vị đã hoàn toàn 
      giác ngộ, nơi đó Phật hướng dẫn giúp chúng sanh chuẩn bị giác ngộ—The term 
      is absent from Hinayana. In Mahayana it is spiritual realm acquired by one 
      who reaches perfect enlightenment, where he instructs all beings born 
      there , preparing them for enlightenment.  
      2)   Xứ sở nơi Phật Đản sanh: The country of 
      the Buddha’s birth.
      3)  Nơi ngự trị của chư Phật: A country        being transformed by a 
      Buddha or         one already transformed—The land or realm of Buddha. 
      
      Phật Quốc Ký: Tập ký của Ngài 
      Pháp Hiển về những quốc gia theo đạo Phật—Fa-Hsien’s record of Buddhist 
      countries.
      
      Phật Sanh Nhựt: See Phật Đản.
      
      
      Phật Sát: Buddhaksetra (skt)—Có 
      hai loại Phật Sát—There are two classes of Buddha-ksetra:
      
      1)      Đông 
      Độ Cực Lạc: The Eastern Paradise—In the Vairocana Schools, regarded as the 
      regions of progress for the righteous after death.
      
      2)      Tây 
      Phương Tịnh Độ: The Western Pure Land—In the Amitabha Schools, regarded as 
      the Pure Land  
      For more information, 
      please see Phật Quốc.
      
      Phật Sắc: Mệnh lệnh hay giáo 
      pháp của Phật—Buddha’s sasana or orders—Buddha’s teaching.
      
      Phật Sở Hành Tán Kinh: 
      Buddhacarita-kavya-sutra (skt)—Kinh nói về cuộc đời của Phật Thích Ca, 
      được viết theo thể loại thơ sáng tác bởi Mã Minh Bồ Tát, vị tổ thứ 12—A 
      poetic narrative of the life of Sakyamuni written by Asvaghosa (Mã Minh Bồ 
      Tát), the twelfth patriarch.  
      
      Phật Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương: 
      King Wisdom Like Mountains And Seas And Self-Mastery’s Penetrations 
      Buddha. 
      
      Phật Sư Tử: Lion Buddha.
      
      Phật Sư Tử Hẩu Tự Tại Lực Vương: 
      King Lion’s Roar And Power Of Self-Mastery Buddha. 
      
      Phật Sứ: Sứ giả của đấng Như 
      Lai—A  messenger of the Tathagata. 
      
      Phật Sự: 
      
      1)      Công 
      việc hoằng hóa Phật pháp là cứu độ và chuyển hóa chúng sanh: Buddha’s 
      affairs—The work of salvation and transforming all beings.
      
      2)      Làm 
      việc Phật, như cầu nguyện hay thờ phượng: Doing Buddha-work, i.e. prayers 
      and worship. 
      
      3)      Theo 
      Kinh Duy Ma Cật, phẩm mười một, Phẩm Hạnh Bồ Tát, vào giờ cơm trưa nhân 
      lúc Văn Thù Sư Lợi đến thăm bệnh ông, trưởng giả Duy Ma Cật xin cơm thừa 
      của Phật ở nước Chúng Hương đem về ăn nơi nhà ông, nên tất cả lổ chân lông 
      đều toát ra mùi hương như thế.”—According to the Vimalakirti Sutra, 
      chapter eleven, the Bodhisattva Conduct, at lunch time when Manjusri 
      Bodhisattva and other Buddha’s disciples called on to enquire after 
      Vimalakirti’s health, Upasaka Vimalakirti obtained what was left over from 
      the Buddha’s meal in the Fragrant Land, and those who ate it at his abode 
      give out this fragrance from their pores.” 
      
      ·        
      A Nan hỏi ông Duy Ma Cật 
      rằng:  “Mùi hương đó còn được bao lâu?”—Ananda then asked Vimalakirti: 
      “How long does this fragrance last?”
      
      ·        
      Duy Ma Cật nói: “Đến khi cơm 
      đó tiêu hết.”—Vimalakirti replied: “It lasts until the rice has been 
      digested.” 
      
      ·        
      A Nan hỏi: “Cơm đó bao lâu 
      mới tiêu?”—Ananda asked: “How long does this take?”
      
      ·        
      Duy Ma Cật đáp: “Thế lực cơm 
      đó đến bảy ngày mới tiêu. Lại nữa ông A Nan! Những Thanh Văn chưa vào 
      chánh vị, ăn cơm đó đến khi vào chánh vị rồi mới tiêu. Đã vào chánh vị, ăn 
      cơm đó đến khi tâm giải thoát rồi mới tiêu. Chưa phát tâm Đại Thừa ăn cơm 
      đó đến khi phát tâm Đại thừa rồi mới tiêu; đã phát tâm Đại thừa ăn cơm đó 
      khi được vô sanh nhẫn rồi mới tiêu. Đã được vô sanh nhẫn ăn cơm đó đến khi 
      được nhứt sanh bổ xứ rồi mới tiêu. Ví như có món thuốc tên là thượng vị, 
      người uống vào trừ hết các độc trong thân rồi mới tiêu. Cơm nầy cũng vậy, 
      khi trừ hết tất cả độc phiền não rồi mới tiêu.”—Vimalakirti replied: “It 
      will be digested after a week.  Ananda, Sravakas who have not reached the 
      right position (nirvana) will attain it after taking this rice which will 
      then be digestible, and those who have attained nirvana will realize 
      liberation of their minds (from the subtle conception of nirvana) and then 
      the rice will be digested.  Those who have not developed the Mahayana mind 
      will develop it and then the rice will be digested.  Those who have 
      developed it and take this rice will achieve the patient endurance of the 
      uncreate, and the rice will then be digestible.  Those who have achieved 
      the patient endurance of the uncreate and take this rice will reincarnate 
      once more for final development into Buddhahood and the rice will be 
      digested.  Like an efficacious medicine which cures an ailment before 
      wasting away, this rice will be digestible after it has killed all 
      troubles and afflictions (klesa).”
      
      ·        
      A Nan bạch Phật: “Bạch Thế 
      Tôn! Thật chưa từng có! Như món cơm thơm ấy có thể làm Phật sự.”—Ananda 
      said to the Buddha: “World Honoured One, it is indeed a rare thing that 
      this fragrant rice performs the Buddha work of salvation.” 
      
      ·        
      Phật nói: “Đúng thế! A 
      Nan!”—The Buddha said:  “It is so, Ananda, it is so.
      
      a)      
      Hoặc có cõi Phật lấy ánh sáng của Phật mà làm Phật sự—There are 
      Buddha lands where the Buddha light performs the work of salvation; 
      
      
      b)      
      Có cõi lấy Bồ Tát mà làm Phật sự—Where the Bodhisattvas perform it;
      
      
      c)      
      Có cõi lấy người của Phật hóa ra mà làm Phật sự—Where illusory men 
      created by the Buddha do it; 
      
      d)      
      Có cõi lấy cây Bồ Đề mà làm Phật sự—Where the Bodhi-trees do it;
      
      
      e)      
      Có cõi lấy y phục ngọa cụ của Phật mà làm Phật sự—Where the 
      Buddha’s robe and bedding do it; 
      
      f)       
      Có cõi lấy cơm mà làm Phật sự—Where the rice taken by the Buddha 
      does it; 
      
      g)      
      Có cõi lấy vườn cây đền miếu mà làm Phật sự—Where parks and temples 
      do it; 
      
      h)      
      Có cõi lấy 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp mà làm Phật sự—Where (the 
      Buddha’s) thirty-two physical marks and their eighty notable 
      characteristics do it; 
      
      i)        
      Có cõi lấy thân Phật mà làm Phật sự—Where the Buddha’s body 
      (rupa-kaya) does it; 
      
      j)        
      Có cõi lấy hư không mà làm Phật sự—Where empty space does it;
      
      
      k)      
      Chúng sanh theo duyên đó mà vào luật nghi. Có cõi lấy mộng, huyễn, 
      bóng, vang, tượng trong gương, trăng dưới nước, ánh nắng dợn, các thí dụ 
      như thế mà làm Phật sự. Có cõi lại lấy tiếng tăm, lời nói, văn tự mà làm 
      Phật sự—Living beings practice discipline with success because of these 
      causes. Also used for the same purpose are dream, illusion, shadow echo, 
      the image in a mirror, the moon reflected in water, the flame of a fire, 
      sound, voice, word, speech and writing,
      
      l)        
      Hoặc có cõi lấy Phật thanh tịnh vắng lặng, không nói một lời nào, 
      không chỉ không biết, không tạo không tác mà làm Phật sự. Như thế A Nan! 
      Những oai nghi tấn chỉ, các việc thi vi của chư Phật đều là Phật sự cả—The 
      pure and clean Buddha land, silence with neither word nor speech, neither 
      pointing, discerning, action nor activity. Thus, Ananda, whatever the 
      Buddhas do by either revealing or concealing their awe-inspiring majesty, 
      is the work of salvation.
      
      Phật Ta La Thọ Vương: Sala-King 
      Buddha.
      
      Phật Ta Lưu Na: Ta-Liu-Na 
      Buddha.
      
      Phật Tài Công Đức: Wealthy In 
      Merit And Virtue Buddha. 
      
      Phật Tài Quang: Gifted And 
      Bright Buddha. 
      
      Phật Tài Quang Minh: Gifted And 
      Brillant Buddha. 
      
      Phật Tạng: Tạng kinh điển của 
      Phật—The sutras of the Buddha’s preaching—The teaching of Buddha—Buddha 
      thesaurus.
      
      Phật Tánh: Buddhata or 
      Buddhitattva (skt)—Bản thể toàn hảo, hoàn bị vốn có nơi sự sống hữu tình 
      và vô tình—Buddha-Nature, True Nature, or Wisdom Faculty (the substratum 
      of perfection, of completeness, intrinsic to both sentient and insentient 
      life).  
      
      (A)  Nghĩa của 
      Phật Tánh—The meanings of Buddhata: Phật tánh trong mỗi chúng sanh đồng 
      đẳng với chư Phật. Chủng tử tĩnh thức và giác ngộ nơi mọi người tiêu biểu 
      cho khả năng tĩnh thức và thành Phật. Bản thể toàn hảo và hoàn bị sẳn có 
      mỗi chúng sanh. Phật tánh ấy sẳn có trong mỗi chúng sanh, tất cả đều có 
      khả năng giác ngộ; tuy nhiên, nó đòi hỏi sự tu tập tinh chuyên để gặt được 
      quả Phật. Lý do của Phật tánh gồm trong sự đoạn trừ hai thứ phiền não (see 
      Nhị Phiền Não)—Buddha nature—The Buddha-nature within (oneself) all beings 
      which is the same as in all Buddhas. Potential bodhi remains in every 
      gati, all have the capacity for enlightenment; however, it requires to be 
      cultivated in order to produce its ripe fruit—The potential for Buddhahood 
      inherent in all beings—The original nature—Self-Nature—True-Nature—True 
      Mark—True Mind—Dharma Nature—All have the capacity for enlightenment—The 
      seed of mindfulness and enlightenment in every person, representing our 
      potential to become fully awakened and eventually a Buddha. The substratum 
      of perfection, of completeness, intrinsic to both sentient and insentient 
      life.  The reason of Buddhahood consists in the destruction of the twofold 
      klesa or evil passions. 
      
      (B)  Tánh đặc 
      thù của Phật Tánh—The characteristics of Buddha-nature: 
      
      1)      Cát 
      sông Hằng luôn nằm dọc theo dòng nước, Phật tánh cũng như thế, luôn phù 
      hợp theo dòng Niết Bàn—As the sands the Ganges which always arrange 
      themselves along the stream, so does the essence of Buddhahood, always 
      conform itself to the stream of Nirvana.  
      
      2)      Mọi 
      chúng sanh đều có Phật Tánh, nhưng do bởi tham, sân, si, họ không thể làm 
      cho Phật Tánh nầy hiển lộ được—All living beings have the Buddha-Nature, 
      but they are unable to make this nature appear because of their desires, 
      hatred, and ignorance.  
      
      (C)  Hai Loại 
      Phật Tánh—This nature takes two forms:
      
      1)      Lý 
      Phật Tánh: Mang nghĩa tuyệt đối, bất sanh bất diệt—Noumenal, in the 
      absolute sense, unproduced and immortal.
      
      2)      Hành 
      Phật Tánh: Sự hay hiện tượng—Phenomenal, in action. 
      
      Phật Tánh Bất Thọ La: Phật tánh 
      không nhận hình phạt của địa ngục vì nó là hư không, nó không có hình 
      tướng, chỉ có những thứ có hình tướng mới chịu thọ hình nơi địa ngục—The 
      Buddha-nature does not receive punishment  in the hells because it is void 
      of form, or spiritual or above the formal or material (only things with 
      forms can enter the hells).
      
      Phật Tánh Chơn Như: Phật tánh 
      hằng hữu—The Buddha-nature, the absolute, as eternally existent, i.e.   
      the Bhutatathata. 
      
      Phật Tánh Giới: Giới luật khởi 
      lên từ Phật tánh trong chúng sanh mọi loài hay giới luật làm hiển lộ Phật 
      tánh—The moral law which arises out of the Buddha-nature in all beings; 
      the law which reveals or evolves the Buddha-nature. 
      
      Phật Tánh Và Pháp Tánh: Phật 
      tánh chỉ cho các loài hữu tình, và Pháp Tánh chỉ chung cho vạn hữu; tuy 
      nhiên, trên thực tế cũng chỉ là một, như là trạng thái của giác ngộ (nói 
      theo quả) hay là khả năng giác ngộ (nói theo nhân)—Buddha-nature, which 
      refers to living beings, and Dharma-nature, which concerns  chiefly things 
      in general, are practically one as either the state  of enlightenment (as 
      a result) or the potentiality of becoming enlightened (as a cause). 
      
      Phật Tánh Thường Trụ: Phật tánh 
      thường trụ, bất sanh bất diệt, bất biến—The eternity of the 
      Buddha-nature—The Buddha-nature is immortal and immutable. 
      
      Phật Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân: 
      Varicolored-Jewels-And-Floer-Adornment Buddha.
      
      Phật Tâm: Tâm của Phật—The mind 
      of Buddha:
      
      1)      Tâm 
      giác ngộ của Phật: The spiritually enlightened heart.
      
      2)      Tâm 
      đại bi: A heart of great mercy.
      
      3)      Tâm 
      nhìn sự vật như thật, chứ không như hình tướng bên ngoài: A heart abiding 
      in the real, not the seeming.
      
      4)      Tâm 
      không luyến chấp (thiện ác): A heart detaching from good and evil and 
      other such contrasts.
      
      Phật Tâm Ấn: 
      
      1)      Dấu ấn 
      phổ quát tâm Phật trong mọi chúng sanh—Buddha mind seal—Mind-seal of the 
      Buddha (the full lotus posture)—The stamp of universal Buddha-heart in 
      every one.
      
      2)      Chữ 
      “Vạn” trên ngực của Phật: The seal on a Buddha’s heart, or breast; the 
      Svastika.
      
      Phật Tâm Thiên Tử: Tâm Phật nơi 
      vị con trời, một danh hiệu của Lương Võ Đế 502-549 sau Tây Lịch—The son of 
      Heaven of the Buddha-heart, a name given to Wu-Ti of the Liang dynasty, 
      502-549 A.D.
      
      Phật Tâm Tông: Tông phái Phật 
      Tâm, thí dụ như Thiền Tông của Tổ Bồ Đề Đạt Ma, cho rằng mỗi cá nhân có 
      thể trực tiếp đi vào cõi Phật qua thiền định—The sect of the Buddha-heart, 
      i.e. the Ch’an (Zen) or Intuitive sect of Bodhidharma, holding that each 
      individual has direct access to Buddha through meditation—See Tâm Tông and 
      Thiền Tông. 
      
      Phật Tâm Và Niệm Phật: 
      Buddha-Mind-Buddha Recitation—See Niệm Phật (V).  
      
      Phật Thanh Tịnh: Purity Buddha.
      
      
      Phật Thanh Tịnh Thí: Courageous 
      Giving Buddha. 
      
      Phật Thặng: Cổ xe đưa người đến 
      Phật quả—The Buddha Conveyance or Vehicle—See Phật Thừa. 
      
      Phật Thân: Buddhakaya—Threefold 
      embodiment of Buddha.
      
      Phật Thế: Thời đại lúc Đức Phật 
      còn tại thế—Buddha-age, especially the age when Buddha was on earth. 
      
      Phật Thế Giới: A Buddha-realm.
      
      
      1)      Tịnh 
      Phật Giới: Pure or Passionless world.
      
      2)      Bất 
      Tịnh Phật Giới: Impure or Passion world.
      
      Phật Thế Tịnh Quang: Pure Light 
      For The World Buddha. 
      
      Phật Thế Tôn: Buddha, the World 
      Honoured One—The Honoured of the World. 
      
      Phật Thích Ca: Sakyamuni 
      Buddha—See Phật.
      
      Phật Thích Ca Đản Sanh: 
      Celebration of Sakyamuni Buddha’s Birthday (the 8th day of the fourth 
      month Lunar calendar).
      
      Phật Thích Ca Mâu Ni Nói Pháp: 
      Theo Kinh Duy Ma Cật, phẩm mười, Phật Hương Tích, cư sĩ Duy Ma Cật đã nói 
      với chư Bồ Tát nước Chúng Hương về Phật Thích Ca Mâu Ni nói pháp như 
      sau—According to the Vimalakirti Sutra, chapter ten, the Buddha of the 
      Fragrant Land, Upasaka Vimalakirti told Bodhisattvas (from the Fragrant 
      Land) about what the Buddha taught as follows: 
      
      ·        
      Các Bồ Tát nước Chúng Hương 
      hỏi ông Duy Ma Cật rằng: “Còn Phật Thích Ca Mâu Ni lấy gì để nói 
      pháp?”—These Bodhisattvas from the Fragrant Land then asked Vimalakirti: 
      “How does the World Honoured One, Sakyamuni Buddha, preach the Dharma?”
      
      
      ·        
      Ông Duy Ma Cật nói: “Chúng 
      sanh cõi nầy cang cường khó giáo hóa, cho nên Phật nói những lời cang 
      cường để điều phục họ. Nói đó là địa ngục; đó là súc sanh; đó là ngạ quỷ; 
      đó là chỗ nạn; đó là chổ người ngu sanh; đó là thân làm việc tà, đó là quả 
      báo của thân làm việc tà; đó là miệng làm việc tà, đó là quả báu của miệng 
      làm việc tà; đó là ý làm việc tà, đó là quả báo của ý làm việc tà; đó là 
      sát sanh, đó là quả báu của sát sanh; đó là không cho mà lấy, đó là quả 
      báu của không cho mà lấy; đó là tà dâm, đó là quả báo của tà dâm; đó là 
      vọng ngữ, đó là quả quả báo của vọng ngữ; đó là hai lưỡi, đó là quả báo 
      cũa hai lưỡi; đó là lời nói ác độc, đó là quả báo của lời nói ác độc; đó 
      là lời nói vô nghĩa, đó là quả báo của lời nói vô nghĩa; đó là tham lam, 
      ganh ghét, đó là quả báu của tham lam ganh ghét; đó tức là giận, đó là quả 
      báu của tức giận; đó là tà kiến, đó là quả báo của tà kiến; đó là bỏn xẻn, 
      đó là quả báo của bỏn xẻn; đó là phá giới, đó là quả báu của phá giới; đó 
      là giận hờn, đó là quả báo của giận hờn; đó là lười biếng, đó là quả báo 
      của lưỡi biếng; đó là ý tán loạn, đó là quả báu của ý tán loạn; đó là ngu 
      si, đó là ngu si, đó là quả báo của ngu si; đó là kiết giới; đó là giữ 
      giới; đó là phạm giới; đó là nên làm;  đó là không nên làm; đó là chướng 
      ngại; đó là không chướng ngại; đó là mắc tội; đó là khỏi tội; đó là tịnh; 
      đó là dơ; đó là hữu lậu; đó là vô lậu; đó là tà đạo; đó là chánh đạo; đó 
      là hữu vi; đó là vô vi; đó là thế gian; đó là Niết Bàn, vì những người  
      khó giáo hóa lòng như khỉ vượn, nên dùng bao nhiêu pháp để chế ngự lòng 
      họ, mới có thể điều phục được. Ví như voi, ngựa, ngang trái  không diều 
      được, phải thêm đánh đập dữ tợn cho đến thấu xương rồi mới  điều phục 
      được. Chúng sanh cang cường, khó giáo hóa cũng thế, nên phải dùng tất cả 
      những lời khổ thiết mới có thể đưa họ vào khuôn khổ luật hạnh 
      được—Vimalakirti replied: “Living beings of this world are pig-headed and 
      difficult to convert; hence the Buddha uses strong language to tame them.  
      He speaks of hells, animals and hungry ghosts in their planes of 
      suffering; of the places of rebirth for stupid men as retribution for 
      perverse deeds words and thoughts, i.e. for killing, stealing, carnality, 
      lying, double tongue, coarse language, affected speech, covetousness, 
      anger, perverted views (which are the ten evils); for stinginess, breaking 
      the precepts, anger, remissness, confused thoughts and stupidity (i.e. the 
      six hindrances to the six paramitas); for accepting, observing and 
      breaking the prohibitions; for things that should and should not be done; 
      for obstructions and non-obstructions; for what is sinful and what is not; 
      for purity and filthiness; for the worldly and holy states; for heterodoxy 
      and orthodoxy; for activity and non-activity; and for samsara and 
      nirvana.  Since the minds of those who are difficult to convert are like 
      monkeys, various methods of preaching are devised to check them so that 
      they can be entirely tamed.  Like elephants and horses which cannot be 
      tamed without whipping them until they feel pain and become easily 
      managed, the stubborn of this world can be disciplined only with bitter 
      and eager worlds.”
      
      ·        
      Các Bồ Tát nước Chúng Hương 
      kia nghe rồi nói rằng: “Thật chưa từng có! Như Phật Thích Ca Mâu Ni Thế 
      Tôn ẩn cái sức tự tại  vô lượng của Ngài mà dùng những phương pháp sở 
      thích của người nghèo hèn để độ thoát chúng sanh. Các Bồ Tát đây cũng chịu 
      khổ sở, nhún nhường, dùng lòng đại bi  vô lượng để sanh vào cõi Phật 
      nầy.”—After hearing this, the visiting Bodhisattvas said:  “We have never 
      heard of the World Honoured One, Sakyamuni Buddha, who conceals his 
      boundless sovereign power to appear as a beggar to mix with those who are 
      poor in order to win their confidence (for the purpose of liberating them) 
      and of the Bodhisattvas here who are indefatigable and so humble and whose 
      boundless compassion caused their rebirth in this Buddha land.”
       Phật 
      Thích Ca Nhập Niết Bàn: Sakyamuni Buddha’s Entering Nirvana Day 
      (ngày 15 tháng hai âm lịch—the 15th of the second month Lunar calendar).
      
      Phật Thích Ca Thành Đạo: 
      Anniversary of Sakyamuni Buddha’s Enlightenment Day (ngày 14 tháng chạp âm 
      lịch—the 14th day of the 12th month Lunar calendar).
      
      Phật Thích Ca Xuất Gia: 
      Sakyamuni Buddha’s Leaving Home Day (ngày mồng tám tháng hai âm lịch—the 
      8th day of the second month Lunar calendar).
      
      Phật Thiên: 
      
      1)      Phật 
      và chư Thiên: Buddha and the devas.
      
      2)      Phật 
      như cõi Thiên: Buddha as Heaven. 
      
      Phật Thiện Danh Xưng Công Đức: 
      Merit And Virtue And Good Renown Buddha. 
      
      Phật Thiện Du Bộ: Skillful 
      Traveling Buddha.
      
      Phật Thiện Du Bộ Công Đức: 
      Skillful Travel And Merit And Virtue Buddha.
      
      Phật Thiện Tịch Nguyệt Âm Diệu Tôn Trí 
      Vương: King Well-Stilled Moon-Sound And Wonderful Venerable 
      Wisdom Buddha. 
      
      Phật Thiện Ý: Wholesome Mind 
      Buddha. 
      
      Phật Thọ: Tuổi thọ của 
      Phật—Buddha’s life or age. 
      
      1)      Trong 
      khi Ngài chỉ trụ thế chỉ có 80 năm, nhưng ứng thân của Ngài là bất 
      diệt—Buddha’s life or age—While he only lived to eighty as a man, in his 
      Sambhogakaya he is without end. 
      
      2)      Cây Bồ 
      Đề: Bodhidruma (skt)—Cây Bồ Đề mà dưới gốc đó Đức Thích Ca Mâu Ni đã giác 
      ngộ hay thành Phật—The Bodhi-tree under which Sakyamuni obtained 
      enlightenment or became Buddha.
      **   For more information, 
      please see Nguyên 
             Cát Thụ and Bồ Đề 
      Thọ.  
      
      Phật Thọ Ký: Lời tiên đoán của 
      Phật về tương lai của các đệ tử của Ngài—Buddha’s prediction—Buddha’s 
      foretelling of the future of his disciples. 
      
      Phật Thụ: See Nguyên Cát Thụ 
      and Bồ Đề Thọ. 
      
      Phật Thủy Thiên: Water-Deva 
      Buddha.
      
      Phật Thuyết: Phật thuyết kinh. 
      Kinh Phật gồm trên 150 bộ, tất cả đều bắt đầu bằng hai chữ nầy—Buddha’s 
      preaching—The Buddha said—The Buddha’s utterance of the sutras. There are 
      over 150 sutras of which the title begin with these two words 
      
      Phật Thuyết A Di Đà Kinh: The 
      Buddha speaks of Amitabha Sutra.
      
      Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh: 
      Aparimitayus Sutra (skt)—The Buddha speaks of Infinite Life Sutra. 
      
      Phật Thừa: Cỗ xe đưa chúng sanh 
      đến quả vị Phật. Giáo thuyết Nhất Phật Thừa của tông Hoa Nghiêm cho rằng 
      tất cả mọi chúng sanh đều có thể thành Phật. Phật tử trong tông phái nầy 
      gọi giáo thuyết nầy là “Viên Giáo.” Giáo thuyết nầy cũng được gọi là “Pháp 
      Hoa Nhất Phật Thừa—Buddhayana—Buddha Vehicle or Conveyance—Buddhism as the 
      vehicle of salvation for all beings. The doctrine of the Hua-Yen school 
      that all may become Buddha, which is called “The One Vehicle,” the 
      followers of this school calling it the “Complete or perfect Doctrine.” 
      This doctrine is also styled in The Lotus One Buddha-Vehicle.  
      
      Phật Thừa Giới: Những giới luật 
      cứu độ và đưa chúng sanh đến quả vị Phật—The rules and commandments 
      conveying beings to salvation. 
      
      Phật Thường Quang Tràng: Banner 
      Of Eternal Light Buddha. 
      
      Phật Tích: Buddha’s relic—Any 
      trace of Buddha
      
      Phật Tích Tòng Lâm: Tên của một 
      ngôi chùa tân lập tọa lạc trong làng Phước An, huyện Long Thành, tỉnh Biên 
      Hòa. Chùa được Hòa Thượng Thích Nhật Minh khai sáng vào năm 1962 trên một 
      khu đất diện tích hai mẫu. Từ cổng chùa vào khoảng 200 mét là một hồ sen, 
      giữa có đặt bảo tượng Bồ Tát Quán Âm tay cầm nhành dương, tượng cao 12 
      mét, được thực hiện năm 1963. Sau hồ sen là ngôi chánh điện Phật Tích Tòng 
      Lâm, được xây năm 1963 theo kiến trúc Ấn Hồi. Theo tài liệu của chùa thì 
      cánh thợ của ông Nguyễn Văn Ba ở Sóc Trăng sau khi xây chùa Tây An ở Châu 
      Đốc năm 1958, dưới thời Hòa Thượng Thế Mật trụ trì, đã tiếp tục về Biên 
      Hòa xây dựng ngôi Phật Tích Tòng Lâm. Chánh điện thờ Tam Thế Phật Thích 
      Ca, Văn Thù và Phổ Hiền. Giữa chánh điện có đặt bảo tượng Quán Âm ngàn tay 
      ngàn mắt, được đúc tại chùa Giác Hải, thành phố Sài Gòn. Chùa cũng có tháp 
      Tam Bảo cao 27 mét do nhóm thợ Ba Miên ở Sóc Trăng lên xây để cốt của 
      những vị Phật tử thuần thành—Name of a recently built pagoda, located in 
      Phước An village, Long Thành district, Biên Hòa province, South Vietnam. 
      It was built in 1962 by Most Venerable Thích Nhật Minh, on the land of 
      more than two hectares in area. Most Venerable Nhật Minh entered the 
      monkhood at Linh Sơn Pagoda in Saigon City. The statue of Avalokitesvara 
      Bodhisattva with a willow branch  in one hand, 12 meters high, built in 
      1963, placed in the center of a lotus pond, 200 meters from the 
      three-entrance gate. Behind the lotus pond is the Main Hall of Phật Tích 
      Tòng Lâm, built in 1963, following the Hindu-Islam architectural style. 
      According to the documents of the pagoda, the group of skill-maisons whose 
      chief was Nguyễn Văn Ba living in Sóc Trăng province continued to build 
      Phật Tích Pagoda after building Tây An Pagoda in Châu Đốc in 1958 when 
      Most Venerable Thế Mật headed the pagoda. The statue of Sakyamuni Buddha, 
      Manjusri Bodhisattva are worshipped in the Main Hall. In the center of the 
      Main Hall stands the precious statue of one-thousand-arm and 
      one-thousand-eye Avalokitesvara Bodhisattva, the statue was cast in Giác 
      Hải Pagoda in Saigon City. There is also the trinity stupa for Buddhist 
      devotees, built by Master Ba from Sóc Trăng province. The stupa is 27 
      meters high, located on the left side of the pagoda. 
      
      Phật Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư: 
      Medicine Master Buddha who dispels calamities and lengthens life.
      
      Phật Tinh Tấn Hỷ: Vigor And Joy 
      Buddha.
      
      Phật Tinh Tấn Quân: Vigor’s 
      Army Buddha. 
      
      Phật Tịnh Độ: Buddha’s 
      Pureland—See Tịnh Độ. 
      
      Phật Tịnh Quang: Pure-Light 
      Buddha.
      
      Phật Tịnh Vương: Pure King 
      Buddha—Tịnh Vương Tôn Phật: Supreme Pure King Buddha—Di Lặc Tôn Phật: 
      Supreme Maitrya Buddha.
      
      Phật Toàn Giác: A samma 
      Sambuddha.
      
      Phật Tối Thắng: Most-Victorious 
      Buddha.
      
      Phật Tổ: 
      
      1)      Phật 
      Tổ Thích Ca Mâu Ni: Sakyamuni Buddha.
      
      2)      Phật 
      và những vị Tổ Phật giáo: The Buddha and other founders of cults or 
      Buddhist Patriarchs. 
      
      Phật Tôn: Buddha (skt)—The 
      World-Honoured—Honoured of the World. 
      
      Phật Tông: Buddhism—Principles 
      of the Buddha Law or dharma.
      
      Phật Tri Kiến: Cái thấy biết 
      của Phật, khả năng thấy thấu suốt của trí tuệ Phật—The Buddha’s vision—The 
      penetrative power of Buddha’s wisdom. 
      
      Phật Trí: 
      Anuttara-samyak-sambodhi (skt)—Buddha wisdom—Perfect knowledge—Universal 
      gnosis, awareness or intelligence—Omniscience. 
      
      Phật Trí Huệ Thắng: Wisdom 
      Victory Buddha. 
      
      Phật Trì Pháp: 
      Dharma-Maintaining Buddha. 
      
      Phật Tu Di Đăng: Sumeru-Lamp 
      Buddha.
      
      Phật Tu Di Quang: Sumeru Light 
      Buddha. 
      
      Phật Tu Di Sơn: Mount Sumeru 
      Buddha.
      
      Phật Tu Di Tướng: Sumeru 
      Appearance Buddha.
      
      Phật Tu Ma Na Hoa Quang: Sumana 
      Flower Light Buddha. 
      
      Phật Tú Vương: King-Of-Stars 
      Buddha.
      
      Phật Tuệ: Đại trí tuệ bình đẳng 
      của Đức Phật (Nhất Thiết Chủng Trí)—Buddha-wisdom. 
      
      Phật Từ Lực Vương: King of 
      Kindness and Strength Buddha. 
      
      Phật Từ Tạng: Treasury of 
      Kindness Buddha. 
      
      Phật Tử: 
      
      1)      Con 
      Phật: Son of Buddha. 
      
      2)      Vị Bồ 
      Tát: A  Bodhisattva. 
      
      3)      Tín đồ 
      Phật giáo: Người tin nơi Phật giáo, tu học và thọ trì những giới luật Phật 
      pháp căn bản. Muốn trở thành một Phật tử phải làm những điều sau đây: 
      Buddhist—Buddhist followers—Buddhist believers—A believer in 
      Buddhism—Buddhists—One who accepts Buddhism as his religion—One who 
      studies, disseminates and endeavors to live the fundamental principles of 
      the Buddha-dharma. To become a Buddhist, one should do the following:
      a)      
      Quy-Y Tam Bảo: To take refuge in the Three Gems.
      b)      
      Biết cứu cánh chính của Đạo Phật: To know the main purpose of 
      Buddhism.
      
      ·        
      Chư ác mạc tác: Not committing any evils.
      
      ·        
      Chúng thiện phụng hành: Doing all good.
      
      ·        
      Tự tịnh kỳ ý: Purifying the mind. 
      
      ·        
      Là lời chư Phật dạy: Those are Buddhas’ teachings. 
      c)      
      Thật hiểu con đường đưa đến cứu cánh nầy: To understand the path to 
      that goal.
      d)      
      Thực hành đúng đắn những lời dạy của Đức Phật: To practice the 
      Buddha’s teachings correctly. 
      e)      
      Người Phật tử—A Buddhist:
      
      ·        
      Có lỗi phải biết sám hối, có tội phải biết dứt trừ: Must be 
      willing to change and repent when mistakes are made.
      
      ·        
      Phải bỏ sự dong ruổi nơi tình trần: Must be willing to 
      abandon the tendencies to chase constantly after worldly matters. 
      
      ·        
      Phải quay tâm về hướng giác: Must be willing to return to 
      follow the Way of enlightenment. 
      
      ·        
      Phải y theo lời Phật dạy mà tu hành: Must practice just as 
      the Buddha taught. 
      
      4)      Chúng 
      sanh mọi loài, vì mọi loài đều có Phật tánh: The term applied to all 
      beings, because all are of Buddha-nature.
      
      5)      Nhị 
      chủng Phật tử—Two kinds of Buddhists:
      
      a)      Ưu Bà 
      Tắc: Upasaka (skt)—Cận sự nam—See Ưu Bà Tắc.
      
      b)      Ưu Bà 
      Di: Upasika (skt)—Cận sự nữ—See Ưu Bà Di. 
      
      6)      Tứ 
      chủng Phật tử—Four kinds of Buddhists—See Tứ Chúng.
      **    For more 
      information, please see Tam 
              Chủng Phật Tử, and 
      Tam Quy-Y in 
              Vietnamese-English 
      Section.     
      
      Phật Tử Chân Chánh: True 
      Buddhists
      
      Phật Tử Có Lòng Lo Cho Đạo: 
      True Buddhist who have the interests of the dharma at heart.  
      
      Phật Tử Thuần Thành: 
      Devotees—True disciple—Genuine and sincere Buddhists.
      
      Phật Tướng Trí: See Phật Trí.
      
      
      Phật Tượng: Pratima (skt)—Tượng 
      Phật—Vào thế kỷ thứ năm thì những tượng Phật bên Trung Quốc đều có dáng vẻ 
      Ấn Độ, môi dầy, mũi cao, mắt dài, cằm đầy, nhưng đến đời nhà Đường thì 
      những hình tượng trở nên “nữ hóa hơn.”—Buddha’s image—There is a statement 
      that in the fifth century A.D. the images in China were of Indian 
      features, thick lips, high nose, long eyes, full jaws, etc…, but that 
      after the T’ang dynasty, the form became “more effeminate.”
      
      Phật Tỳ Lô Giá Na: Vairocana 
      Buddha—Phật Tỳ Lô Giá Na tiêu biểu cho Pháp thân của Phật Thích Ca Mâu Ni 
      và chư Phật. Trú xứ của Ngài trùm khắp vũ trụ—The Primordial Buddha. 
      Represents the Dharma Body of Buddha Sakyamuni and all Buddhas. His pure 
      Land is the entire cosmos. 
      
      Phật Tỳ Lô Giá Na Đại Quang Minh: 
      The Vairocana Buddha of Great Vows of the Illuminator. 
      
      Phật Ưu Đàm Bát La Hoa Thù Thắng Vương: 
      King Rare As The Udumbara Flower Buddha. 
      
      Phật Vi Đà: Buddhaveda 
      (skt)—Kinh Tạng Phật Giáo—The Tripitaka, the Veda of Buddhism. 
      
      Phật Vị: Quả vị Phật—The state 
      of Buddhahood. 
      
      Phật Vị Tam Muội: A degree of 
      samadhi in which the Buddhas appear to the meditator. 
      
      Phật Vị Thắng Quang Thiên Tử Thuyết Vương 
      Pháp Kinh: See Vương Pháp Kinh and Vương Pháp. 
      
      Phật Võng Minh: Net-Brightness 
      Buddha.
      
      Phật Vô Cấu: Undefiled Buddha.
      
      
      Phật Vô Lượng Âm Thinh Vương: 
      King Infinite Voices Buddha. 
      
      Phật Vô Lượng Cúc Quang: 
      Infinite Handfuls Of Light Buddha. 
      
      Phật Vô Lượng Thọ: 
      Measureless-Life Buddha.
      
      Phật Vô Lượng Tinh Tấn: 
      Measureless-Vigor Buddha. 
      
      Phật Vô Lượng Tràng: 
      Measureless-Curtain Buddha.
      
      Phật Vô Lượng Tướng: 
      Measureless-Appearance Buddha. 
      
      Phật Vô Ngại Huệ: Trí tuệ của 
      Phật là vô biên và không chướng ngại—Unhindered, infinite Buddha wisdom. 
      
      
      Phật Vô Sai Biệt: Sự giống nhau 
      của chư Phật về phương pháp và mục đích giác ngộ của các Ngài. Một trong 
      tam vô sai biệt là Phật vô sai biệt, tâm vô sai biệt, và chúng sanh vô sai 
      biệt—The identity of all Buddhas and of their methods and purposes of 
      enlightenment. One of the three identities of all Buddhas, of all mind, 
      and of all beings. 
      
      Phật Vô Ưu Đức: Virtue Free Of 
      Worry Buddha. 
      
      Phật Xá: Buddhist temple.
      
      Phật Xá Lợi: Xá lợi sau lễ trà 
      tỳ của Phật—Buddha’s sarira—Relics or ashes left after Buddha’s 
      cremation.  
      
      Phật Ý Linh Nhạc: Zen Master 
      Phật Ý Linh Nhạc (1725-1821)—Thiền sư Việt Nam, có lẽ quê ở Trấn Biên, bây 
      giờ là Bà Rịa. Ngài thọ cụ túc giới với Hòa Thượng Thành Đẳng Minh Lương 
      tại chùa Đại Giác tại Biên Hòa. Vào năm 1752, ngài trùng tu chùa Đại Giác 
      và đổi tên là “Từ Ân.” Người ta nói rằng Chúa Nguyễn Vương đã từng trú ngụ 
      tại chùa nầy. Năm 1822, vua Minh Mạng ban tặng bản “Sắc Tứ Từ Ân Tự.” Ngài 
      Phật Ý đã sống phần lớn cuộc đời ngài chấn hưng và hoằng hóa Phật Giáo tại 
      miền Nam Việt Nam. Ngài thị tịch năm 1821—A Vietnamese Zen master, 
      probably from Trấn Biên (now Bà Rịa). He received precepts with Most 
      Venerable Thành Đẳng Minh Lương at Đại Giác Temple in Biên Hòa. In 1752, 
      he rebuilt Đại Giác small temple and renamed it “Từ Ân.” It is said that 
      Lord Nguyễn Vương stayed at this temple. In 1822, King Minh Mạng offered 
      it a board entitled “Royal Recognized Từ Ân Temple.” He spent most of his 
      life in the South to revive and expand Buddhism. He passed away in 1821. 
      
      
      ---o0o---
      
       
      
            
            Mục Lục Tự điển Phật Học 
      Việt-Anh
      
            
      |
            A
            |
            Ba |
            Be | 
            Bi | 
            Bo | 
            Bu
            | Ca 
            
            | Ch
            
            
            | Co | 
            Cu
            | 
            D 
            
            | 
            
            Đa 
            
            | Đe | 
            Đi | 
            Đo | 
            Đu
            |
      
            
            | E 
            
            | 
            G
            |
            Ha | 
            He | 
            Hi | 
            Ho | 
            Hy
            | 
            I 
            
            | K
            | La | 
            Le | 
            Li | 
            Lo | 
            Lu | 
            Ly
            | 
      
            
            | 
            Ma 
            
            | Me | 
            Mi | 
            Mo | 
            Mu, My
            |Na 
            
            | Ne | 
      Ng | 
      Nh
      
            
            
            | Ni
            | No
            
            
            | Nu
            |
      
            
             | O
            | Pha |
      Phe
      | Phi |
      Pho |
      Phu
            | Q
            | R
            | S
            | Ta |
      Te |Tha 
      | Thă, Thâ | 
      
            
            | The |
      Thi |
      Tho |
      Thu |
      Ti |
      To |
      Tr |
      Tu |
      Ty
            |  U
            | V
            | X
            | Y|
            
             
      
      ---o0o---
      
      
      Mục Lục | 
      Việt-Anh | Anh -Việt |
      Phạn/Pali-Việt
      | Phụ Lục
      
      ---o0o---
      
Trình bày: Nhị 
Tường
Cập nhật: 1-4-2006