Tích
truyện Pháp Cú
Thiền
viện Viên Chiếu
Nguyên tác: "Buddhist Legends",
Eugène Watson Burlingame
--- o0o ---
XX. Phẩm
Ðạo
1. Bát Chánh
Ðạo Là Ðường Tối Thượng
Bát
chánh, đường thù thắng ...
Câu chuyện xảy ra khi đức Phật ở Kỳ Viên,
liên quan đến năm trăm vị Tỳ-kheo.
Một hôm, đức Phật sau khi du hành khắp nước,
trở về Xá-vệ. Lúc ấy có năm trăm Tỳ-kheo bàn tán về những con đường đã đi
qua: "Con đường của làng này bằng phẳng, con đường của làng này gồ ghề,
con đường của làng này đầy sỏi đá, con đường của làng này không có sỏi...
"Ðức Phật nhận thấy các thầy đủ duyên để chứng quả A-la-hán, bèn đi đến
Pháp đường, hỏi:
- Các ông ngồi đây bàn tán việc gì?
Khi các thầy thưa xong, Ngài dạy:
- Này các Tỳ-kheo, những con đường đó chẳng
đáng cho chúng ta quan tâm. Một người là Tỳ-kheo phải đi theo con đường
Thánh Ðạo, chỉ có thế mới giải thoát mọi đau khổ.
Ngài nói kệ:
(273)
Bát chánh, đường thù thắng,
Tứ Ðế, lý thù thắng,
Ly tham, pháp thù thắng,
Giữa các loài hai chân,
Pháp nhãn, người thù thắng.
(274)
Ðường này, không đường khác,
Ðưa đến kiến thanh tịnh.
Nếu ngươi theo đường này,
Ma quân sẽ mê loạn.
(275)
Nếu ngươi theo đường này,
Ðau khổ được đoạn tận.
Ta dạy ngươi con đường,
Với trí, gai chướng diệt.
(276)
Ngươi hãy nhiệt tình làm,
Như lai chỉ thuyết dạy.
Người hành trì thiền định,
Thoát trói buộc ác ma.
2. Vô Thường
Tất
cả hành vô thường...
Câu chuyện xảy ra khi Thế Tôn ở Kỳ Viên,
liên quan đến năm trăm Thầy Tỳ-kheo.
Có năm trăm vị Tỳ-kheo nhận đề tài thiền
định từ đức Phật, và cố gắng nỗ lực tối đa ở trong rừng, nhưng không chứng
quả A-la- hán. Các vị trở lại xin Phật đề tài khác thích hợp hơn. Nhận
thấy rằng các Tỳ-kheo này, vào thời Phật Ca-diếp, đã chuyên chú thiền quán
trong hai ngàn năm về đề tài Vô Thường. Vậy Vô Thường là đề mục mà Ta sẽ
giảng. Nghĩ thế, Phật bèn dạy:
- Này các Tỳ-kheo, trong cõi này và cõi
khác, tất cả pháp hữu vi do không thật nên đều bị chi phối bởi vô thường.
(277)
Tất cả hành vô thường,
Với tuệ quán thấy vậy,
Ðau khổ được nhàm chán,
Chính con đường thanh tịnh.
3. Khổ
Tất
cả hành khổ đau ...
Chuyện này như chuyện trên, Phật dạy các
thầy quán sát về khổ.
- Này các Tỳ-kheo, tất cả các uẩn ép bức
chúng ta, đó là khổ.
Ngài nói kệ:
(278)
Tất cả hành khổ đau.
Với tuệ quán thấy vậy,
Ðau khổ được nhàm chán,
Chính con đường thanh tịnh.
4. Vô Ngã
Tất
cả pháp vô ngã ...
Cùng một câu chuyện trên, Phật nhận thấy các
thầy từng quán về Vô Ngã trong năm trăm kiếp, Ngài dạy:
- Này các Tỳ-kheo, các uẩn đều không cố
định, và đều không thực.
Ngài nói kệ:
(279)
Tất cả pháp vô ngã,
Với tuệ quán thấy vậy,
Ðau khổ được nhàm chán,
Chính con đường thanh tịnh.
5. Chớ Hẹn
Ngày Mai
Khi
cần, không nỗ lực...
Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở Kỳ Viên,
liên hệ đến Tôn giả Padhànakammika
Tissa.
Có năm trăm thanh niên thành Xá-vệ theo Phật
xuất gia, nhận đề tài thiền quán từ đức Bổn sư và đi vào rừng. Một người
trong bọn họ nhác tu, hẹn lần hồi, nhưng bốn trăm chín mươi chín người kia
nỗ lực thiền định và đắc quả A-la-hán. Bấy giờ, các thầy trở về bạch Phật
về thành quả đạt được. Khi đi khất thực qua một ngôi làng cách Xá-vệ một
dặm, một tín đồ trông thấy các thầy. Người ấy mời các vị về, cúng dường
cơm và thực phẩm, và sau khi nhận lời hồi hướng, tín đồ ấy mời các thầy
ngày mai đến thọ thực.
Về đến Xá- vệ, các thầy xếp cất y bát, đến
đảnh lễ đức Phật. Ðức Thế Tôn tỏ lòng hoan hỷ và thăm hỏi thân mật các
thầy. Chỉ nhà thầy nhác tu thầm nghĩ: "Ðức Thế Tôn hết lời vui mừng chào
đón các thầy kia. Còn ta, vì chưa chứng quả nên Ngài không thèm nói một
lời. Ngay hôm nay ta phải chứng quả A-la-hán, có thế khi ta trở lại, Thế
Tôn mới nói chuyện với ta".
Các vị Sa-môn bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, trên đường về chúng con được
một thiện tín mời ngày mai thọ thực. Sáng mai chúng con sẽ đi.
Sa-môn chưa chứng quả, suốt đêm ấy đi tới đi
lui, rốt cuộc buồn ngủ quá thầy té nhằm một ghế đá, gãy chân, thầy kêu lên
đau đớn. Các Sa-môn khi nghe tiếng chạy đến, săn sóc cho thầy. Trời đã
sáng mà họ vẫn còn bận bịu chăm sóc cho thầy. Kết quả là năm trăm thầy
không rảnh được để đi thọ thực sáng hôm ấy.
Phật hỏi:
- Sao các ông không đi vào làng nhận vật
thực?
Các thầy thưa lại mọi chuyện. Phật bảo:
- Ðây không phải lần đầu tiên ông ấy ngăn
trở các ông nhận vật thực. Ðời quá khứ ông ấy cũng như vậy.
Ngài kể chuyện quá khứ
(Jàtaka 71), và kết luận:
- Này các Tỳ-kheo, người nào không trỗi dậy
đúng giờ, ý chí yếu ớt và lười biếng, người ấy không bao giờ phát triển
thiền định và chứng Thánh quả.
Ngài nói kệ:
(280)
Nỗ lực không nhằm nơi,
Tiêu trầm chí khí mạnh,
Tuổi hoa sớm biếng lười,
Mong gì đạo chánh thánh.
6. Con Quỷ
Ðầu Heo
Lời
nói được thận trọng...
Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Trúc
Lâm, liên quan đến một con quỷ đầu heo.
Một hôm, Tôn giả Mục-Kiền-Liên cùng Tôn giả
Lakkhana xuống núi
Kỳ-xà-quật. Ðến một chỗ nọ Tôn giả Mục-kiền-liên bỗng mỉm cười, Tôn giả
Lakkhana hỏi:
- Sao sư huynh cười?
- Lúc này không nên hỏi, hãy đợi đến lúc gặp
Thế Tôn.
Hai vị tiếp tục đi khất thực ở thành
Vương-xá. Xong trở về Trúc Lâm, đến trước Phật đảnh lễ lui ngồi một bên.
Và Tôn giả Lakkhana bèn hỏi
Tôn giả Mục-kiền-liên câu trước, lúc này Tôn giả mới trả lời:
- Tôi thấy một con quỷ to lớn thân hình cao
gần một dặm, dáng người nhưng đầu heo, trong miệng mọc ra một cái đuôi đầy
dòi bọ lúc nhúc. Tôi nghĩ thầm: "Thật ta chưa hề thấy một sinh vật nào như
thế". Vì thế tôi mỉm cười.
Ðức Phật xác nhận:
- Mục-kiền-liên quả là có mắt thấy. Ta cũng
từng thấy như thế khi ngồi dưới cây Bồ-đề, nhưng Ta nghĩ: "Nếu có ai chẳng
tin, thật là điều tai họa cho chúng". Và vì thương những kẻ đó nên Ta
không nói. Bây giờ có Mục-kiền-liên chứng kiến, Ta mới mạnh dạn nói sự
thật.
- Bạch Thế Tôn, con quỷ ấy kiếp trước đã làm
gì?
- Này các Tỳ-kheo, hãy lắng nghe.
Chuyện quá khứ
6A. Kẻ Phá Hoại Tình
Huynh Ðệ
Vào thời đức Phật Ca-diếp, có hai Tôn giả
sống hoà thuận với nhau trong một tu viện của làng nọ, người lớn sáu mươi
tuổi, người nhỏ năm mươi chín tuổi. Tôn giả ít tuổi hơn thường mang y bát
giùm cho vị lớn và đi theo sau, làm tròn mọi bổn phận như một chú tiểu hầu
huynh trưởng. Giống như hai anh em cùng cha mẹ, họ sống trong hoà thuận,
an lạc.
Một ngày kia, có một giảng sư đến chỗ họ ở.
Ngày ấy là ngày nghe pháp, cả hai Tôn giả khoản đãi vị sư khách và nói:
- Ðại đức, xin giảng pháp cho chúng tôi.
Vị này giảng dạy pháp lý cho cả hai, họ rất
vui mừng. Ngày hôm sau, hai Tôn giả đưa khách vào làng khất thực. Sau khi
ăn xong, họ lại thỉnh:
- Tôn huynh, xin hãy giảng tiếp đoạn pháp
hôm qua.
Và hai thầy thỉnh giảng sư thuyết pháp luôn
cho dân chúng. Nghe xong, Phật tử mời giảng sư xin đến vào ngày mai. Cứ
như vậy các vị đi khất thực khắp các làng lân cận, hai thầy đưa giảng sư
đến những nhà quen.
Giảng sư nghĩ thầm: "Hai thầy này rất nhẹ
dạ. Ta sẽ tìm cách khiến họ rời nơi đây và chiếm tư viện này". Buổi chiều,
ông đến chăm sóc hai Tôn giả lớn tuổi. Khi đến giờ đi nghỉ, ông đến chỗ vị
lớn tuổi, nói:
- Tôn giả, tôi có việc muốn nói với Ngài.
- Xin cứ nói.
Giảng sư ngần ngừ rồi nói:
- Ðiều tôi nói ra có nhiều tai hại.
Xong ông im lặng bỏ đi, đến chỗ vị nhỏ tuổi
cũng làm như vậy.
Ngày thứ hai, ông cũng đóng kịch như vậy,
ngày thứ ba, cả hai Tôn giả đều bị kích động. Giảng sư đến chỗ Tôn giả lớn
tuổi, nói:
- Thưa Ngài, tôi có chuyện muốn nói nhưng
không dám thốt ra trước mặt Ngài.
Vị này nài ép:
- Không sao, tôn huynh cứ nói.
- Nhưng, Tôn giả nhỏ kia có liên quan gì với
Ngài không?
- Ngài bảo sao? Chúng tôi như anh em một mẹ,
người này nhận cái gì thì người kia cũng nhận thế ấy, tôi chưa bao giờ
thấy thầy ấy có lỗi.
- Thật vậy à?
- Thật chứ?
- Thưa Tôn giả, đây là điều Tôn giả nhỏ tuổi
nói với tôi: "Thưa Ngài, Ngài thuộc dòng cao quí, nhưng còn Tôn giả lớn
tuổi này, nếu Ngài có định quan hệ với ông ấy, và tưởng rằng ông ấy trung
hậu và dễ mến, thì hãy coi chừng". Thầy lặp đi lặp lại với tôi như thế
ngay từ hôm tôi mới đến tới giờ.
Nghe nói xong, Tôn giả lớn tuổi cảm thấy
giận vô cùng, cõi lòng tan nát như một lọ gốm bị đập. Giảng sư đến chỗ
thầy nhỏ tuổi, cũng nói y như trên, và thầy cũng cảm thấy đổ vỡ như sư
huynh mình, hai vị thường đi khất thực với nhau, ngày đó Tôn giả trẻ đi
vào làng một mình, đi trước sư huynh của mình và dừng bước nơi thọ thực,
Tôn giả lớn tuổi đến sau.
Khi thấy sư huynh mình, Tôn giả trẻ nghĩ
thầm: "Ta có nên mang y bát của Ngài hay không? Không, ta không mang".
Nhưng sau đó: "Khoan! Chẳng bao giờ ta xử sự như thế này, ta không thể
thiếu sót bổn phận". Và mềm lòng, thầy đến chỗ vị lớn tuổi:
- Thưa Tôn giả, hãy đưa y bát cho con.
Trưởng lão từ chối:
- Chú hãy đi đi, người giả dối. Chú không
xứng đáng mang y bát cho tôi.
Vừa nói Ngài vừa xua tay khinh rẻ.
- Phải, tôi cũng nghĩ tôi không mang y bát
cho Ngài.
- Này chú, chú tưởng tôi luyến tiếc tu viện
này hay sao?
- Tôi cũng không cần ở tu viện. Tu viện
Ngài, Ngài cứ ở.
Nói xong, thầy ôm y bát bỏ đi. Trưởng lão
cũng ra đi, và thay vì đi chung với nhau như mọi lần, bây giờ một người đi
hướng Ðông, một người đi hướng Tây. Giảng sư nói với họ:
- Ðừng làm thế.
Hai Trưởng lão bảo:
- Thôi, Ðại đức ở lại.
Và giảng sư làm chủ tu viện. Hôm sau, giảng
sư đi vào làng kế cận, dân chúng hỏi thăm:
- Thưa Ðại Ðức, các vị kia đâu?
- Ðừng hỏi tôi. Hai thầy ấy gây gổ nhau và
ra khỏi tu viện hôm qua. Tôi can hết sức mà không được.
Nghe thế, một số người khờ khạo tin liền,
nhưng những người khôn ngoan bảo nhau:
- Trong suốt thời gian ở đây, chúng ta không
thấy hai Tôn giả bất hòa với nhau. Nếu các vị sợ hãi bỏ đi, chắc tại ông
thầy mới đến.
Và họ rất buồn.
Về phần hai Tôn giả, cả hai đều bất an.
Trưởng lão nghĩ thầm: "Ôi! Thiệt là chú nhỏ rất lầm lỗi", khi thấy khách
chú đã bảo "đừng liên hệ với ta". Và Tôn giả trẻ tuổi cũng nghĩ như thế.
Cả hai đều bực bội, không thể đọc kinh hay tọa thiền.
Một trăm năm trôi qua, tình cờ cả hai Tôn
giả cùng đến một tu viện miền Tây và cùng nhận chung một phòng. Khi Trưởng
lão già vừa bước vào phòng và ngồi lên giường, Tôn giả trẻ cũng vừa đến.
Thấy nhau, họ không cầm được nước mắt. Thầy trẻ suy nghĩ: "Ta có nên nói
hay không? Chuyện đó không đáng tin". Và thầy đến chào vị Trưởng lão, nói:
- Bạch Ngài, trong suốt thời gian con mang y
bát theo Ngài, Ngài có thấy con có gì sơ sót trong tư tưởng, lời nói và
hành động?
- Không, ta không thấy.
- Thế thì tại sao Ngài bảo với vị sư khách
rằng đừng dính dáng gì với con?
- Này chú, ta không nên nói như thế, mà trái
lại ta được nghe chú nói như vậy về ta.
- Thưa Ngài, con cũng không hề nói như thế
bao giờ.
Lúc ấy, cả hai mới nhận ra rằng, ông giảng
sư nọ nói như vậy chỉ vì muốn chia rẽ huynh đệ, và cả hai đều nhận lỗi của
mình. Sau thời gian một trăm năm bất an, cả hai vị giảng hoà với nhau. Và
hai Tôn giả trở về tu viện cũ để mời sư thầy lắm chuyện ra khỏi cửa.
Giảng sư thấy hai vị trở về, vội đến trước
đỡ lấy y bát. Nhưng hai Trưởng lão điểm mặt thầy:
- Ông không xứng đáng ở trong tu viện.
Không dám nán lại giây phút, giảng sư lập
tức rời tu viện. Sau khi chết, giảng sư nói rơi vào địa ngục A tỳ, trong
thời gian giữa hai đức Phật chịu hình phạt ở địa ngục, và bâuy giờ mang
thân quỷ khổ sở như đã nói trên.
Sau khi nói xong, đức Phật dạy:
Ngài nói Pháp cú:
(281)
Lời nói được thận trọng,
Tâm tư khéo hộ phòng,
Thân chớ làm điều ác,
Hãy giữ ba nghiệp tịnh,
Chứng đạo thánh nhân dạy.
7. Pothila,
Ông Sư Rỗng
Tu
thiền trí tuệ sinh ...
Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ
Viên, liên quan đến Tôn giả Pothila.
Trưởng lão
Pothila, thông thuộc Tam tạng
trong thời đại của bảy đức Phật, là người tuyên đọc giáo lý cho một nhóm
năm trăm Tỳ-kheo. Một ngày nọ, đức Phật nhủ thầm: "Nếu có dịp, ta sẽ
khuyến khích Trưởng lão này chấm dứt lậu hoặc". Và từ đó, mỗi khi Tôn giả
đến bên Thế Tôn, Ngài thường gọi;
- Hãy đến đây,
Pothila rỗng!
Hoặc:
- Chào ông
Pothila rỗng.
- Ngồi xuống,
Pothila rỗng.
- Hãy đi,
Pothila rỗng.
Và khi Trưởng lão ra đi, Ngài còn nói theo:
-
Pothila rỗng đã đi.
Trưởng lão
Pothila tự nghĩ: "Ta thông
thuộc Tam tạng và đọc suốt chú giải, ta là giáo thọ của năm trăm Tỳ-kheo,
mười tám hội chúng. Vậy mà đức Thế Tôn luôn luôn gọi ta là
Pothila rỗng. Chắc chắn vì ta
chưa phát triển Chánh định nên Ngài gọi ta như vậy". Rất kích động, Trưởng
lão quyết định vào rừng, thiền định. Chiều hôm ấy, Ngài sắp xếp y bát, và
vào chập tối, đi lẫn trong hàng người nghe kinh. Các Tỳ-kheo đang tụng
kinh không để ý đó là thầy của mình.
Pothila
đi một khoảng đường một trăm hai mươi dặm, cuối cùng đến khu rừng có
ba nươi vị Tỳ-kheo đang ẩn cư. Ðến nơi, Ngài chào vị trưởng chúng và nói:
- Bạch Trưởng lão, xin hãy chỉ giáo cho tôi.
- Tôn giả, Ngài là giảng sư, chúng tôi còn
phải học với Ngài, sao Ngài nói thế?
- Thưa Ngài, xin đừng từ chối, hãy chỉ dạy
tôi.
Thật ra, tất cả các Tỳ-kheo này đều chứng
quả A-la-hán. Vị trưởng lão đệ nhất nghĩ thầm: "Vị Tỳ-kheo này, vì học
rộng chắc sẽ cao ngạo". Và vì thế, đưa
Pothila sang vị thứ hai, người
thứ hai lại đưa xuống cho người thứ ba. Và cứ thế, họ đẩy
Pothila đến người trẻ nhất
trong nhóm, một chú Sa-di bãy tuổi đang ngồi vá y. Như thế kiêu khí của
Pothila đã giảm rất nhiều.
Pothila
đến bên chú Sa-di, chấp tay cung kính:
- Ðại đức, xin chỉ giáo cho tôi.
- Ơ kìa! Giáo sư, Ngài nói gì thế? Ngài hơn
tôi về tuổi tác và học vấn, tôi còn phải học với Ngài.
- Ðại đức, xin đừng từ chối, hãy chỉ dạy cho
tôi.
- Thưa Tôn giả, nếu Ngài kiên nhẫn, tôi sẽ
chỉ cho.
- Tôi sẽ kiên nhẫn, nếu Ngài bảo tôi nhảy
vào lửa tôi cũng nhảy.
Chú Sadi chỉ một cái ao cách đó không xa,
bảo Pothila:
- Ngài hãy xuống ao, để cả y áo.
Chú biết rằng
Pothila mặc y đẹp, đắt giá,
nói thử như vậy để xem Pothila
có dễ dạy không. Vừa nói xong, Pothila
đã nhảy xuống ao, y áo ướt sũng. Chú Sa-di kêu lên:
- Hãy đến đây!
Lập tức,
Pothila leo lên và đến gần
chú. Chú bảo:
- Này Tôn giả, giả sử ở đây có một cái hang
với sáu cửa, một con tắc kè chui vào hang, người nào muốn bắt nó, phải bít
năm cửa hang, chừa lại một cửa là sẽ tóm được tắc kè. Như thế Ngài nên
đóng hết đóng hết năm căn, và tập trung vào ý căn.
Với một người thông minh như
Pothila, câu nói của chú Sa-di
đã soi sáng vấn đề.
- Như thế đã đủ, Ðại đức.
Pothila
tập trung tư tưởng, quán sát thân mình, và bắt đầu thiền định. Ðức
Phật ở cách xa một trăm hai mươi dặm, biết rằng Tôn giả sẽ trở nên bậc đại
trí tuệ Ngài hoá hiện trước Tôn giả, nói kệ:
(282)
Tu thiền, trí tuệ sanh,
Bỏ thiền, trí tuệ diệt.
Biết con đường hai ngả,
Ðưa đến hữu, phi hữu.
Hãy tự mình nỗ lực,
Khiến trí tuệ tăng trưởng.
Nghe xong,
Pothila đắc quả A-la-hán.
8. Các lão
Tỳ Kheo Và Lão Bà
Ðốn
rừng, không đốn cây ...
Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ
Viên, liên quan đến một số các Tỳ-kheo già.
Tại Xá-vệ, có một số đại phú gia quyền thế,
và lớn tuổi, họ kết thân với nhau, cùng làm nhiều việc thiện. Khi nghe đức
Thế Tôn giảng dạy, họ bảo nhau:
- Chúng ta đều già cả, sao còn ở lại gia
đình làm cư sĩ.
Họ bèn đến xin Phật xuất gia, gia nhập Tăng
đoàn, theo nếp sống Sa-môn. Vì lớn tuổi không thể học thuộc kinh kệ, họ
cất một thảo am ngoài vòng tu viện, và ở chung với nhau. Mỗi khi khất
thực, họ về nhà vợ con nhận thức ăn. Trong số đó, có một thầy Tỳ-kheo già,
vợ cũ của thầy tên Madhurapàcikà,
rất tử tế với các thầy. Các thầy thường mang vật thực nhận được đến nhà bà
thọ thực, bà Madhurapàcikà
vẫn hay dâng cúng nước xốt và càri. Ít lâu sau, bà lâm bệnh rồi qua đời.
Các Tỳ-kheo già hay tin ôm cổ nhau than khóc kể lễ, người này té vào người
kia:
- Ôi! Nữ thí chủ
Madhurapàcikà đã chết.
Nghe kêu khóc rền rĩ, các Tỳ-kheo khác chạy
đến, hỏi han:
- Các huynh, việc gì vậy?
Các Sa-môn già trả lời:
- Bà vợ của một người bạn chúng tôi mới
chết. Bà ấy là một thí chủ tốt bụng nhất. Chúng tôi biết tìm đâu ra một
người như vậy. Vì thế nên kêu khóc.
Các Tỳ-kheo bàn tán việc này tại Pháp đường,
đức Thế Tôn đi đến hỏi:
- Các ông tụ tập ở đây bàn việc gì?
Khi các Tỳ-kheo thuật lại câu chuyện, Phật
dạy:
- Ðây không phải lần đầu họ làm như vậy. Ðời
quá khứ cũng đã xảy ra chuyện này.
Chuyện quá khứ
8A.
Jatakakàka
Trong thời quá khứ, họ là một đàn quạ. Và bà
nữ thí chủ là một con quạ cái, khi bay qua bờ biển nó bị sóng cuốn và nhận
chìm, cả đàn kêu khóc, và tìm cách dùng mỏ tát nước biển để cứu bà quạ.
Rốt cuộc cả đàn đều mệt mỏi vô ích.
Kể chuyện quá khứ, Phật dạy tiếp:
- Này các Tỳ-kheo? Khi nào còn rừng rậm
tham, sân, si, các ông còn chịu đau khổ. Hãy đốn ngã rừng cây ấy các ông
mới được giải thoát.
Ngài nói kệ:
(283)
Ðốn rừng, không đốn cây
Từ rừng, sinh sợ hãi.
Ðốn rừng và ái dục
Tỳ-kheo, hãy tịch tịnh.
(284)
Khi nào chưa cắt tiệt,
Ái dục giữa gái trai
Tâm ý vẫn buộc ràng
Như bò con bú mẹ.
9. Cỏ Úa,
Hoa Phai
Tự
cắt dây ái dục...
Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ
VIên, liên quan đến một thầy Tỳ-kheo đệ tử ngài Xá-lợi-phất.
Có một thanh niên khôi ngô, con nhà thợ bạc,
từ bỏ gia đình, xuất gia tu học với Ngài Xá-lợi-phất. Tôn giả nghĩ thầm:
"Ðồ đệ ta còn trẻ, tham dục rất mạnh". Ðể giúp thầy Sa-môn trẻ chống đỡ
lại dục nhiễm, Tôn giả dạy thầy phép quán Bất tịnh. Nhưng đề mục ấy không
thích hợp, nên mặc dù thầy đã rút vào rừng, nỗ lực phấn đấu trên một
tháng, thầy vẫn không sao tập trung tư tưởng.
Thầy trở lại, Tôn giả hỏi:
- Con đã nắm vững đề mục thiền quán chưa?
Thầy trình bày sự thất bại của mình. Tôn giả
bảo:
- Một người không bao giờ nói rằng: "Tôi
không đạt được đề mục thiền quán".
Tôn giả chỉ dạy cẩn thận thêm về đề tài ấy.
Thầy cũng không tiến bộ bao nhiêu, phải trở lại trình với thầy. Lần thứ
ba, Tôn giả cũng dạy đề mục đó, chỉ dạy cặn kẽ về lý do, nguyên nhân và
các ảo tưởng tương tự. Một lần nữa thầy lại thất bại trong công phu thiền
quán.
Tôn giả Xá-lợi-phất nghĩ thầm: "Một Sa-môn
bén nhạy, khi tham dục hiện hữu thầy biết nó hiện hữu. Khi tham dục không
hiện hữu biết rằng chúng không hiện hữu. Sa-môn này bén nhạy, không trì
độn, vững vàng trong đạo chưa lay chuyển. Tuy thế ta lại không thể hiểu
được tư tưởng và khuynh hướng của thầy. Chắc chắn thầy sẽ thuần phục lời
dạy của Phật".
Vào buổi chiều, Tôn giả dẫn đồ đệ đến chỗ
Phật, và kể hết câu chuyện:
- Bạch Thế Tôn, đây là đệ tử con, con đã dạy
y như thế...
Phật dạy:
- Biết được tư tưởng và khuynh hướng là
quyền năng riêng của Phật, là bậc Toàn Giác có trí quán chiếu thông suốt,
khiến cho mười ngàn thế giới ngợi khen.
Ðức Phật quán sát gia thế của thầy Sa-môn
trẻ, biết rằng không những đời này thầy sanh trong nhà thợ bạc, mà đã năm
trăm kiếp sanh trong nhà đó. Và trải qua thời gian lâu xa làm thợ kim
hoàn, chuyên chạm trổ các hoa sen, hoa ca-nị-sắc bằng vàng ròng, nên thiên
quán về đề tài nhờm gớm và tẻ nhạt, chắc chắn không thích hợp với thầy,
chỉ có đề mục vui tươi mới thích hợp. Phật bảo Tôn giả:
- Này Xá-lợi-phất! Với Sa-môn mà ông chỉ
định đề mục thiền quán vừa trải qua bốn tháng mệt nhọc vô ích, ông sẽ thấy
y chứng A-la-hán ngay hôm nay, ông hãy đi nơi khác.
Sau khi đuổi Tôn giả đi, Phật dùng thần
thông tạo ra một hoa sen bằng vàng to bằng bánh xe, cọng lá tươi tắn y như
thật, đưa cho thầy Sa-môn bảo:
- Này Tỳ-kheo, hãy cầm lấy hoa sen này ra
phía ngoài tinh xá, cắm nó trên đỉnh cát, và ngồi kiết già trước nó, ở
giai đoạn sơ khởi, hãy lặp lại câu "Ðỏ thắm! Ðỏ thắm!"
Ngay khi nhận hoa sen từ bàn tay Thế Tôn,
thầy Sa-môn trở nên bình an. Thầy làm theo lời Phật dạy, làm một đống cát
ngoài rào tinh xá, cắm hoa sen lên, ngồi kiết già trước mặt nó, và lẩm
nhẩm "Ðỏ thắm! Ðỏ thắm!" Ngay khi ấy, các triền cái bị tiêu diệt, thầy bắt
đầu nhập định, phát triển Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền. Cả
toàn thân thầy chìm sâu trong thiền định. Ðức Phật dự biết thầy đạt được
định, tự hỏi "Sa-môn này có thể tự mình phát triển Thánh quả đến tận cùng
không?" Thấy rằng thầy không thể tự đạt, Ngài ra lệnh "Hoa sen hãy héo!"
Lập tức đóa sen thiền quán của thầy ngã màu, nhợt úa như bị vò nát.
Thầy Tỳ-kheo xuất định, thấy thế, tự nghĩ:
"Bằng cách gì mà bông sen này trở nên già úa? Nếu những vật như thế không
bị lệ thuộc vào giới thông tục mà còn bị chế phục bởi tuổi già, không có
gì nghi ngại chuyện chúng sanh đắm luyến thế gian đều sẽ bị chế phục tương
tự. "Thế là, thầy thấu rõ lẽ vô thường. Ðồng thời, thầy thấu luôn cả lý
khổ và vô ngã. Ba pháp ấn hiện rõ rệt với thầy như lửa rực cháy, hay như
sợi dây cột quanh cổ.
Lúc ấy có một lũ trẻ con chơi gần đấy, lội
xuống hồ bẻ bông sen chất thành đống trên bờ. Thầy Tỳ-kheo nhìn những đóa
hoa dưới nước và hoa trên bờ. Những hoa dưới nước tươi xinh đẹp, còn hoa
trên bờ héo úa, tàn rũ. Thầy lại tự nhủ: "Nếu tuổi già đã đánh bại những
vật không bị lệ thuộc vào thế gian, có lý nào lại không đánh bại chúng
sanh đắm luyến thế gian?"
Và thầy càng thấu rõ lý vô thương, khổ, vô
ngã.
Ðức Thế Tôn thấy rằng các đề mục thiền định
đã hoàn toàn chinh phục thầy. Ngài bèn hóa hiện đến trước mặt thầy.
- Cái gì thế kia?
Thầy Tỳ-kheo ngạc nhiên nhìn lên thấy dường
như đức Phật đến đứng trước mặt. Thầy lật đật đứng lên, chấp tay cung
kính.
Ðức Thế Tôn nói kệ:
(285)
Tự cắt dây ái dục,
Như tay bẻ sen thu,
Hãy tu đạo tịch tịnh,
Niết-bàn, Thiện Thệ dạy.
Nghe xong thầy chứng A-la-hán.
10. Chắc
Chắn Sẽ Chết
Mùa
mưa ta ở đây...
Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ
Viên, liên quan đến đại phú thương
Mahàdhana.
Mahàdhana
cùng đoàn xe năm trăm chiếc chất đầy vải mhuộm đỏ, từ thành Ba-la-nại đem
đi bán. Khi về Xá-vệ, ông dừng lại bên bờ sông và nhủ thầm: "Ngày mai ta
sẽ qua sông". Ông dừng xe, ngủ lại bên bờ. Suốt đêm ấy, một trận bão kéo
đến và mưa như trút. Suốt bảy ngày nước sông dâng cao và dâng chúng lại
nghỉ lễ bảy ngày. Mahàdhana
không có dịp bán số vải của mình, ông tự nhủ: "Ta đã đi xa, nếu quay về sẽ
tốn công, ta sẽ ở lại đây mùa mưa, mùa đông và mùa hè sang năm, để bán hết
số vải".
Khi Thế Tôn đi khất thực, Ngài nhận ra dự
tính của Mahàdhana và mỉm
cười. Tôn giả A-nan hỏi lý do. Ngài bảo:
- Này A-nan, ông có thấy đại phú gia
Mahàdhana chăng?
- Bạch Thế Tôn, có ạ.
- Ông ấy không biết mình sắp chết, và dự
định ở lại đây suốt năm để bán hàng.
_ Bạch Thế Tôn, ông ấy sắp chết sao?
- Này A-nan, trong bảy hôm nữa, ông ấy sẽ bị
cá nuốt.
Ngài nói kệ:
Hãy hăng say làm việc
Làm những gì nên làm ngày hôm nay.
Ai biết thần chết sẽ viếng ngày mai.
Chẳng phải chúng ta vẫn hằng vật lộn
Mỗi ngày cùng thần chết?
Ðây là lời hiền nhân ca ngợi:
Hạnh phúc thay, kẻ sống nhiệt tình
Ngày và đêm, không mệt mỏi
Dù chỉ một đêm y được sống.
- Bạch Thế Tôn, con sẽ nói với ông ấy.
- Ðược rồi, cứ đi.
Tôn giả đi đến chỗ
Mahàdhana khất thực, ông ta
cung kính cúng dường Tôn giả. Tôn giả hỏi:
- Ông dự định ở lại đây bao lâu?
- Thưa Tôn giả, tôi đã đến từ xa xôi, nếu
trở về chắc sẽ trễ nãi. Tôi sẽ ở lại suốt năm để bán hàng rồi mới tiếp tục
đi.
- Này cư sĩ, người ta dù cái chết gần kề
cũng khó biết được. Nên cẩn thận điều này.
- Sao, con sắp chết ư?
- Phải đấy cư sĩ, chỉ trong bảy ngày nữa
thôi.
Mahàdhana
rất xúc động khi nghe Tôn giả bảo như thế, và ông mời Phật cùng chư Tăng
đến cúng dường trong bảy ngày, vào ngày cuối, ông xin Phật chúc phước cho
mình. Phật dạy:
- Này cư sĩ, người khôn ngoan không bao giờ
nên nghĩ rằng: "Ta sẽ ở lại đây suốt mùa mưa, qua đông đến hạ, ta sẽ làm
việc này, việc nọ...". Tốt hơn, người ấy cần quán tưởng về cái chết của
mình.
Ngài nói kệ:
(286)
Mùa mưa ta ở đây,
Ðông, hạ cũng ở đây,
Người ngu tâm tưởng vậy,
Không tự giác hiểm nguy.
Nghe xong,
Mahàdhana chứng quả Dự-lưu,
chúng hội cũng được lợi ích. Ông tiễn chân các chư tăng một quãng đường
rồi quay lại. Ông cảm thấy nhức đầu và đi nằm. Chẳng bao lâu ông chết, và
tái sinh lên trời Ðâu-suất.
11. Người Mẹ
Mất Con Và Những Hạt Cải
Người
tâm ý đắm say...
Câu chuyện xảy ra khi đức Phật ở tại Kỳ
Viên, liên hệ đến ngài Kisà Gotami.
Câu chuyện của Tỳ-kheo-ni
Kisà Gotami, như đã kể ở Pháp
Cú 114, phẩm Ngàn. Khi ấy, đức Phật hỏi:
- Này
Kisà Gotami, có tìm thấy hột cải trắng?
- Thưa, con không tìm thấy, trong làng người
chết còn nhiều hơn người sống.
- Không phải chỉ có ngươi bị mất con. Ðó là
luật chung cho mọi sinh vật. Thần chết như một dòng nước lũ dữ, cuốn
phăng, giật đi và ném mọi loài vào biển hoại diệt, trong khi chúng sống
chưa thỏa thích.
Ngài nói kệ:
(287)
Người tâm ý đắm say,
Con cái và súc vật,
Tử thần bắt người ấy,
Như lụt trôi làng ngủ.
Nghe xong bà chứng quả Dự-lưu, hội chúng
cũng được lợi.
12. Người
Ðàn Bà Mất Hết Thân Quyến
Không
có con che chở...
Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ
Viên, liên quan đến bà Patàcàrà.
Câu chuyện của Tỳ-kheo ni Patàcàrà
như đã kể ở phẩm Ngàn, Pháp Cú 113.
Ngày nọ, đức Thế Tôn biết bà đã vơi cơn sầu
khổ, bèn bảo:
- Này
Patàcàrà, người nào khi rời bỏ thế gian, không có con cái hay
cha mẹ, họ hàng có thể bảo trợ, che chở hay cho ẩn trú. Cho nên, dù những
người ấy đang sống đó, cũng như không có. Người khôn ngoan nên có đạo đức
thanh tịnh để dẹp sạch đường đến Niết-bàn.
Ngài nói kệ:
(288)
Một khi tử thần đến,
Không có con,che chở,
Không cha, không bà con,
Không thân thích che chở.
(289)
Biết rõ ý nghĩa này,
Bậc trí lo trì giới,
Mau lẹ làm thanh tịnh,
Con đường đến Niết-bàn.
Nghe xong bà
Patàcàrà chứng quả Dự-lưu, hội
chúng có người chứng Dự-lưu, Nhị quả và Tam quả.