Tích
truyện Pháp Cú
Thiền
viện Viên Chiếu
Nguyên tác: "Buddhist Legends",
Eugène Watson Burlingame
--- o0o ---
XVI. Phẩm
Hỷ Ái
1. Cha Mẹ Và
Con
Bỏ
mình theo thế tục ...
Câu chuyện này được kể lại khi đức Thế Tôn ở
tại Kỳ Viên, liên quan đến ba đệ tử.
Tại Xá-vệ, một gia đình nọ chỉ có một người
con trai. Công tử là niềm vui và tình thương đối với cha mẹ. Một ngày kia,
có vài vị Tỳ-kheo được mời đến nhà thọ trai. Sau khi ăn xong chư Tỳ-kheo
nói lời hồi hướng. Chàng thanh niên nghe những câu kệ tụng bỗng ao ước trở
thành Sa-môn và lập tức xin cha mẹ xuất gia. Hai ông bà từ chối. Chàng
trai nghĩ thầm: "Khi cha mẹ ta không để ý, ta sẽ trốn nhà đi tu".
Mỗi khi ông cha đi đâu, ông bảo vợ trông
chừng con trai:
- Hãy giữ nó cẩn thận.
Và khi người mẹ đi vắng, bà giao ông trông
chừng. Ngày nọ, sau khi người cha rời khỏi nhà, bà mẹ thầm nghĩ: "Ta sẽ
trông nom con ta chu đáo". Bà ngồi chắn ngang cửa ra vào, hai chân chặn
hai cánh cửa và bắt đầu dệt. Chàng trai nghĩ: "Ta sẽ lừa mẹ trốn đi", và
chàng nói:
- Mẹ yêu dấu, nhấc chân lên một chút, con
muốn đi ra ngoài.
Bà nhích chân và cậu đi ra. Cậu chạy như bay
đến tinh xá và xin phép các Tỳ-kheo cho mình xuất gia. Các Tỳ-kheo nhận
lời, cho cậu gia nhập Tăng chúng.
Người cha về đến nhà, hỏi vợ:
- Con đâu rồi?
- Nó vừa mới đây.
Ông cha tìm khắp nơi, nghĩ: "Con ta có thể
đi đâu?" Và khi không thấy con trai đâu, ông kết luận: "Chắc nó đã đến
tinh xá". Ông cha đi đến tinh xá, và thấy con trai đã khoác y vàng, ông
khóc lóc than thở:
- Con ơi, sao con nhẫn tâm với cha vậy?
Nhưng sau đó, ông suy nghĩ: "Bây giờ con ta
đã xuất gia, sao ta còn sống đời cư sĩ làm gì?" Ông bèn xin xuất gia làm
Sa-môn.
Bà mẹ ở nhà bắt đầu sốt ruột: "Sao thằng con
và ông già đi đâu lâu quá?". Tìm kiếm chán, thình lình bà chợt nhớ: "Chắc
chắn họ đã đi vào tinh xá và tu rồi". Bà chạy đến tinh xá, thấy hai cha
con trở thành Sa-môn, bà suy tính: "Họ đã xuất gia, mình còn sống ở thế
gian này làm gì?" Và bà đến tinh xá ni, xin xuất gia.
Nhưng dù cho cả ba đã từ bỏ thế gian và chấp
nhận đời sống tu sĩ, họ cũng không thể lìa xa nhau. Ngay ở tăng xá hay bên
nữ tu viện, cả ba đều ngồi chung với nhau và nói chuyện với nhau cả ngày.
Chư Tỳ-kheo chê trách thái độ ấy và bạch lên đức Phật. Thế Tôn cho gọi cả
ba và hỏi:
- Có phải các ngươi làm như thế, như thế?
Họ thưa vâng. Phật dạy:
- Vì sao các ngươi làm vậy? Ðó không phải
thái độ của người xuất gia.
- Nhưng, bạch Thế Tôn, chúng con không thể
sống xa nhau được.
- Từ khi đã xuất gia, thái độ như thế là
không thích hợp. Chia lìa người thân hay bắt buộc phải gặp hoài người
không thân, cả hai đều gây đau khổ. Vì thế, ta không nên chấp nhặt là thân
hay không thân, dù đối với người hay là vật.
Phật nói kệ:
(209)
Bỏ mình theo thế tục,
Người không tròn phận tu,
Bỏ đích theo lòng dục,
Ganh tị bậc chuyên tu
(210)
Chớ gần gũi người yêu,
Trọn đời xa kẻ ghét.
Yêu không gặp là khổ,
Oán phải gặp cũng đau.
(211)
Do vậy chớ yêu ai,
Ái biệt ly là ác,
Nhưng ai không yêu ghét,
Không thể có buộc ràng.
2. Phật An
Ủi Người Phiền Muộn
Do ái
sinh sầu ưu ...
Câu chuyện này được kể lại khi đức Phật ở
tại Kỳ Viên, liên quan đến một đệ tử cư sĩ.
Một tín đồ nọ mất đứa con trai, ông ta buồn
đến nỗi mỗi ngày đều đi đến nơi hỏa táng than khóc khôn nguôi. Một buổi
sáng sớm, đức Phật quan sát căn cơ chúng sanh, Ngài nhận thấy ông ta có
khả năng chứng Thánh quả. Sáng hôm ấy, sau khi khất thực, Ngài mang theo
một vị Tỳ-kheo thị giả đi đến trước nhà ông ta. Nghe tin đức Phật đến nhà,
ông ta nghĩ thầm: "Chắc hẳn Thế Tôn muốn chúc sức khỏe theo phép lịch sự
như thường lệ". Ông ta mời Phật vào nhà, thỉnh ngồi, đảnh lễ Phật và kính
cẩn lui ngồi một bên.
Phật hỏi liền:
- Thiện nam, vì sao ông buồn?
- Con trai mới mất nên con buồn.
- Này thiện nam, chớ ưu bi! Cái chết không
dành riêng một nơi nào hoặc riêng cho ai, đó là quy luật chung cho tất cả
chúng sanh trên thế gian. Không có ngũ uẩn nào thường tại. Vì thế không
nên buồn rầu quá đáng, mà hãy có một cái nhìn hợp lý về cái chết, như
người ta thường nói: "Các pháp sanh diệt phải chịu sanh diệt, các vật biến
hoại phải chịu biến hoại".
Cư sĩ hỏi:
- Bạch Thế Tôn, ai đã làm được như thế?
Trong trường hợp nào? Xin Ngài dạy cho con!
Phật kể một chuyện quá khứ:
Như rắn lột bỏ da,
Người đi về cõi khác
Bỏ lại sau thân xác
Thân thể đã chết rồi
Ðâu còn biết buồn vui
Trong lúc ngọn lửa bốc
Thiêu rụi thân mình đó
Hắn đâu nghe tiếng khóc
Tiếng than của bà con
Vì thế ta đâu còn
Khổ buồn vì hắn chết
Hắn đã đi, và đến
Tới nơi hắn phải đi
Sau khi đức Phật kể lại đầy đủ chi tiết
chuyện tiền thân Uraga
(trong phẩm năm), Ngài nói tiếp: "Thời quá khứ, người trí không hành động
như ngươi khi con trai chết. Ngươi đã bỏ hết mọi việc, không thèm ăn uống,
mà phí thời giờ khóc than. Người trí thì không như vậy. Trái lại, họ
chuyên chú quan sát cái chết, không theo cơn phiền muộn, ăn uống như
thường, làm mọi công việc hàng ngày. Này, đừng buồn phiền vì ý nghĩ đứa
con trai thân yêu của mình đã chết. Có ưu bi sợ hãi chỉ vì ta thương một
kẻ nào đó.
Phật nói kệ:
(212)
Do ái sinh sầu ưu,
Do ái sinh sợ hãi,
Ai thoát khỏi tham ái,
Không sầu, đây sợ hãi.
3. Phật An
Ủi Kẻ Ưu Sầu
Ái
luyến sinh sầu ưu ...
Câu chuyện này được kể lại khi đức Thế Tôn ở
Kỳ Viên, liên quan đến nữ thí chủ Tỳ-xá-khư.
Bà Tỳ-xá-khư thường nhờ cậy cô cháu gái tên
Dattà, chăm sóc các Tỳ-kheo
khi bà vắng nhà. Ít lâu sau Dattà
chết. Bà Tỳ-xá-khư hỏa táng thi hài cháu gái xong, quá buồn khổ bà đi đến
chỗ Phật đảnh lễ và lui ngồi một bên. Phật hỏi:
- Này Tỳ-xá-khư! Có việc gì ngươi ngồi đây
đầy vẻ buồn khổ, rơi nước mắt khóc than?
Tỳ-xá-khư kể chuyện:
- Bạch Thế Tôn, đứa cháu gái thân yêu rất
thật thà và trung tín của con vừa qua đời. Con sẽ không còn thấy lại nó.
- Này Tỳ-xá-khư, có bao nhiêu cư dân trong
thành Xá-vệ này?
- Bạch Thế Tôn, con có nghe Ngài nói khoảng
bảy mươi triệu.
- Giả sử tất cả những người này đều là người
thân yêu của ngươi như Dattà,
ngươi có thích không?
- Thưa vâng, thích.
- Có bao nhiêu người ở Xá-vệ chết trong một
ngày?
- Bạch Thế Tôn, rất nhiều.
- Trong trường hợp đó, chắc chắn ngươi sẽ
không đủ thời giờ than khóc, ngày đêm ngươi sẽ chẳng làm gì ngoài việc
khóc lóc, kể lể.
- Thưa Thế Tôn, đúng vậy. Con đã hiểu.
- Tốt lắm, đừng ưu sầu. Ưu sầu hay sợ hãi
chỉ khởi lên từ ái luyến.
Ngài nói kệ:
(213)
Yêu thương, ngục buồn phiền,
Ái luyến, xiềng sợ hãi.
Người lòng như hư không
Ngục xiềng nào khóa mãi?
4. Các Hoàng
Tử Lệ-Xá Và Kỹ Nữ
Hỷ ái
sinh sầu ưu ...
Câu chuyện này được kể lại khi đức Phật ở
tinh xá gần Vệ-xá-ly (Vesali),
liên hệ đến các hoàng thân dòng Lệ-xá.
Vào một ngày hội, các hoàng tử Lệ-xá trang
điểm đỏm dáng với đủ kiểu đồ trang sức, ra khỏi thành phố đến chỗ hội hè.
Khi Phật đi vào thành khất thực, gặp họ trên đường, Ngài chỉ cho các
Tỳ-kheo:
- Này các Tỳ-kheo! Hãy nhìn theo các hoàng
tử Lệ-xá! Ai chưa từng thấy chư thiên cõi trời Ba mươi ba, hãy nhìn những
hoàng tử này thì biết.
Trên đường đến chỗ lễ hội, các hoàng tử gặp
một kỹ nữ, và mang cô theo. Trước người đẹp, họ ganh tài nhau, đi đến đánh
nhau gây thương tích, máu chảy dường thành sông. Dân chúng phải xúm khiêng
các công tử về hoàng cung.
Ðức Phật và chư Tăng thọ trai xong, trở về
tinh xá, bắt gặp cảnh tượng đó. Các Tỳ-kheo bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Hồi sáng sớm, các hoàng tử
Lệ-xá rời thành lộng lẫy như chư thiên, vậy mà bây giờ chỉ vì một cô gái
họ trở nên thảm hại thế đấy.
Phật dạy:
- Này các Tỳ-kheo! Ở đâu có tham dục, ở đó
có buồn khổ, lo âu.
Ngài nói kệ:
(214)
Hỷ ái sinh sầu ưu,
Hỷ ái sinh sợ hãi,
Ai giải thoát hỷ ái,
Không sầu, đâu sợ hãi?
5. Cô Nương
Tử Kim
Tham
ái sinh sầu muộn ...
Câu chuyện được kể lại khi đức Thế Tôn ở tại
Kỳ Viên, liên hệ đến Anitthigandha
Kumàra.
Kumara
từ cõi trời Phạm thiên tái sanh xuống Xá-vệ, trong một gia đình quyền quý.
Từ lúc chào đời, chàng không thích gần phụ nữ, nếu có bà vú nào ẵm bồng
chàng khóc thét lên, muốn cho bú bà vú phải kê một cái gối trước ngực
mình. Khi đến tuổi trưởng thành, song thân chàng bảo:
- Này con! Ba má muốn cưới vợ cho con.
Chàng trả lời:
- Con không cần vợ.
Sau đó cha mẹ hỏi nhiều lần chàng đều từ
chối. Cuối cùng, chàng cho mời năm trăm người thợ kim hoàn đến, trao cho
họ ngàn lượng vàng khối, bảo họ đúc một tượng thiếu nữ thật xinh đẹp.
Một lần nữa, khi song thân chàng bảo:
- Này con, nếu con không chịu kết hôn, dòng
dõi nhà ta sẽ tuyệt tự. Hãy để cha mẹ cưới vợ cho con.
Chàng chỉ pho tượng vàng:
- Thưa, nếu cha mẹ tìm được cho con một cô
gái y như pho tượng này, con sẽ vâng lời.
Song thân chàng mời một vài người Bà-la-môn
đến nói:
- Con trai chúng tôi đáng giá ngàn vàng, cần
có một người tương xứng với nó. Hãy mang pho tượng này đi theo, và khi tìm
được cô gái nào giống như thế thì đưa về.
Các Bà-la-môn nhận lời, họ khởi sự đi tìm,
từ thành này đến thành kia, cho tới khi đến thành
Sagala thuộc vương quốc
Madda. Trong thành này có một
thiếu nữ độ tuổi trăng tròn rất xinh đẹp, cha mẹ nàng để nàng ở trên tầng
lầu thứ bảy. Các thầy Bà-la-môn đặt pho tượng vàng bên đường đi đến hồ
tắm, và ngồi tại đó nghĩ thầm: "Nếu có thiếu nữ đẹp như pho tượng này, dân
cư ở đây trông thấy sẽ bảo nhau, pho tượng này đẹp như con gái nhà nọ nhà
kia".
Bấy giờ, bà vú của cô gái đi đến hồ tắm,
thấy pho tượng tưởng là cô chủ mình, bèn đi đến rầy rà:
- Cô hư lắm nhé! Tôi vừa tắm cho cô xong, ra
khỏi nhà là cô đã đến đây trước tôi!
Vừa nói vừa đập nhẹ pho tượng, bà bỗng thấy
mình chạm phải cái gì đó cứng ngắt, bà lẩm bẩm:
- Tôi tưởng đây là cô tiểu chủ, sao lại thế
này?
Các Bà-la-môn thấy thế bèn hỏi:
- Này bà, cô chủ của bà có giống bức tượng
này không?
- Cô chủ tôi hả? Tượng này không bằng một
góc!
- Ðược rồi, hãy đưa chúng tôi đến gặp. Bà
vú dẫn các Bà-la-môn về nhà, thuật lại câu chuyện cho cha mẹ cô. Họ tiếp
đón các thầy nồng hậu và cho cô gái xuống đứng gần bức tượng. Cô xinh đẹp
đến nỗi lu mờ cả pho tượng. Các Bà-la-môn trao pho tượng cho cha mẹ cô,
được phép dẫn cô đi, đồng thời liền báo tin cho cha mẹ
Kumara. Họ rất vui mừng, ra
lệnh đón cô lập tức, kèm theo nhiều lễ vật.
Khi
Kumara nghe tin có một thiếu nữ đẹp hơn cả tượng vàng, nỗi ước
muốn dâng lên, chàng mong mau được gặp cô gái. Cô gái lên xe đi, nhưng cô
quá đỗi mảnh mai, đoạn đường dằn xóc làm cô ngã bệnh và chết. Còn
Kumara cứ hỏi chừng:
- Nàng đến chưa? Ðến chưa?
Lòng khao khát chờ đợi của chàng biểu lộ quá
mãnh liệt khiến họ không báo tin ngay, cứ nay hứa mai hẹn. Sau đó họ mới
nói sự thật, chàng kêu lên:
- Trời ơi! Ta đã mất đi người vợ xinh đẹp!
Nỗi buồn rầu đè nặng lấy chàng như cả tảng
núi đá.
Ðức Phật thấy chàng có khả năng chứng quả,
nên trên đường khất thực, Ngài dừng lại trước cửa nhà
Kumara. Song thân chàng mời
Phật vào nhà, cúng dường trọng hậu. Thọ trai xong, Phật hỏi:
- Còn
Kumara đâu?
- Bạch Thế Tôn, nó chẳng chịu ăn uống, cứ ở
lỳ trong phòng.
- Hãy gọi ra đây.
Kumara
đi ra, đảnh lễ Phật và lui ngồi một bên.
Phật bảo:
- Trông con có vẻ thảm sầu quá!
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn, một người vợ xinh
đẹp chưa cưới của con đã chết trên xe hoa, tin ấy làm con buồn đến mức
không thể ăn được gì.
- Nhưng con có biết nguyên nhân nỗi khổ ấy
không?
- Bạch Thế Tôn, không.
- Này,
Kumara! Vì ái sinh sầu muộn, sầu muộn và sợ hãi phát sinh từ
ái.
Ngài nói kệ:
(215)
Dục ái sinh sầu ưu,
Dục ái sinh sợ hãi,
Ai thoát khỏi dục ái,
Không sầu, đâu sợ hãi.
Nghe xong,
Kumàra chứng quả Tu-đà-hoàn.
6. Ðừng Ðể
Tâm Vào Của Cải Thế Gian
Tham
ái sinh sầu ưu ...
Câu chuyện này được đức Phật nói đến khi
Ngài ở Kỳ Viên, liên quan tới một người Bà-la-môn.
Một người Bà-la-môn tà kiến ngày đi dọn cỏ
ruộng bên bờ sông. Ðức Phật nhận thấy ông ta có khả năng chứng quả, bèn đi
đến chỗ ông làm ruộng. Bà-la-môn, mặc dù thấy Phật, không hề tỏ dấu cung
kính, chỉ im lặng, Phật mở lời:
- Này Bà-la-môn! Ông đang làm gì thế?
- Tôi đang dọn đất, Cồ-đàm!
Phật không hỏi thêm, đi qua. Ngày hôm sau,
ông đi cày. Phật cũng đến hỏi:
- Bà-la-môn, ông đang làm gì đấy?
- Tôi đang cày ruộng, Cồ-đàm!
Phật nghe xong, tiếp tục đi qua. Mỗi ngày,
Ngài đều đến chỗ Bà-la-môn và hỏi như thế. Tùy mỗi lúc, Bà-la-môn trả lời:
- Tôi đang gieo mạ, tôi đang nhổ cỏ, tôi
đang canh nước..
Phật cũng lại đi. Một ngày nọ, Bà-la-môn nói
với Phật:
- Cồ-đàm, ông đã đến đây từ khi tôi mới dọn
đất, khi nào lúa chín tôi sẽ chia cho ông. Tôi không muốn ăn một mình. Từ
đây ông là bạn của tôi.
Thời gian trôi qua, lúa chín. Bà-la-môn tự
nhủ: "Lúa đã chín, ngày mai ta đi kêu thợ gặt". Và ông chuẩn bị gặt hái.
Nhưng đêm đó một trận mưa bão khốc liệt nổi lên làm tan nát cả ruộng, cánh
đồng trơ trụi như được gặt sạch. Tuy vậy, đức Phật đã dự biết trước vụ gặt
không thành. Sáng sớm hôm sau, Bà-la-môn nhủ thầm: "Ta sẽ đi thăm ruộng".
Khi đến nơi thấy cánh đồng bị quét sạch, ông đau đớn nghĩ thầm: "Thầy
Cồ-đàm đã đến thăm cánh đồng này từ khi ta mới dọn đất, ta có hứa sẽ chia
lúa cho ông khi mùa gặt đến. Nhưng ước mong của ta không thành tựu". Ông
buồn quá nên không ăn uống gì và nằm dài trên giường.
Bấy giờ, đức Phật dừng chân trước cửa nhà
ông. Nghe tin, ông bảo:
- Hãy mời ông bạn của ta vào nhà và mời
ngồi!
Phật ngồi xong, hỏi:
- Người Bà-la-môn ở đâu?
- Thưa đang nằm trong phòng.
- Hãy mời ông ra.
Ông Bà-la-môn ra ngồi một bên. Phật hỏi:
- Có chuyện gì thế?
- Thưa Cồ-đàm, ông đã đến thăm tôi từ ngày
tôi mới dỡ miếng ruộng, và tôi có hứa chia lúa cho ông. Nhưng hy vọng của
tôi không thành, nên tôi buồn khổ, không còn muốn ăn uống gì.
- Nhưng này! Ông có biết nguyên nhân nào
khiến ông buồn khổ không?
- Thưa, không. Nhưng Ngài biết.
Phật xác nhận:
- Ðúng thế! Này Bà-la-môn, khi nào có ước
mong sẽ có sợ hãi và sầu khổ.
Ngài nói kệ:
(216)
Tham ái sinh sầu ưu,
Tham ái sinh sợ hãi,
Ai thoát khỏi tham ái
Không sầu, đây sợ hãi.
7. Ngài Ca
Diếp Ðược Cúng Bánh
Ðủ
giới đức, chánh kiến ...
Câu chuyện được kể lại thời gian đức Phật ở
tại Trúc Lâm, khi Ngài đang trên đường đi, liên quan đến năm mươi thanh
niên.
Một hôm vào dịp lễ hội, đức Thế Tôn cùng với
tám mươi vị Trưởng lão thượng thủ và năm trăm Tỳ-kheo tùy tùng vào thành
Vương Xá khất thực. Trên đường, Ngài gặp năm trăm thanh niên vai mang túi
bánh đi đến chỗ hội. Khi gặp Phật, họ chỉ khẽ chào và tiếp tục đi, không
hề mời một vị Tỳ-kheo nào ăn bánh.
Họ đi rồi, Phật hỏi các Tỳ-kheo:
- Các ông có muốn ăn bánh không?
- Bạch Thế Tôn, bánh ấy ở đâu?
- Các ông có thấy các thanh niên vừa đi
ngang, vai mang túi bánh chứ?
- Nhưng bạch Thế Tôn, họ chẳng cúng cho ai
chiếc bánh nào?
- Này các Tỳ-kheo, mặc dù họ không mời Ta
hay các ông ăn bánh, nhưng có một Tỳ-kheo đi phía sau sẽ được cúng số bánh
ấy, các ông sẽ được ăn bánh trước khi đi.
Ðức Thế Tôn không hề nghĩ xấu hoặc ghét ai
nên Ngài nói như thế. Và Ngài ngồi dưới một cội cây cùng các Tỳ-kheo.
Khi các thanh niên thấy Tôn giả Ca-diếp đi
sau, lập tức sanh lòng kính mến, nỗi vui sướng tràn ngập toàn thân khi họ
vừa thấy Tôn giả. Họ để giỏ bánh xuống, đảnh lễ Tôn giả, xong dâng hết
bánh cho Ngài:
- Xin mời Ngài dùng bánh.
Tôn giả nói:
- Ðức Thế Tôn và chư Tăng đang ngồi dưới gốc
cây đằng kia. Hãy đem bánh đến cúng dường.
- Thưa vâng, bạch Tôn giả!
Họ đi đến Phật và chư Tăng dâng bánh. Ðến
lượt Tôn giả, họ dâng bánh rồi đứng chờ một bên, đợi Ngài dùng xong, đưa
nước rửa tay.
Các Tỳ-kheo đều mích lòng, nói:
- Mấy thanh niên này thiên vị khi cúng
dường, họ chẳng dâng cúng lên Thế Tôn hoặc chư vị Trưởng lão thượng thủ,
mà chỉ cúng cho Tôn giả Ðại Ca-diếp.
- Này các Tỳ-kheo, một Tỳ-kheo như Ðại
Ca-diếp rất được trời người kính mến, đối với vị như vậy họ rất hân hạnh
được dâng cúng tứ sự.
Và Ngài nói kệ:
(217)
Ðủ giới đức, chánh kiến,
Trú pháp, chứng chân lý,
Tự làm công việc mình
Ðược quần chúng ái kính.
8. Tôn Giả
Chứng Quả A Na Hàm
Ước
vọng pháp ly ngôn ...
Câu chuyện này xảy ra khi Phật ở tại Kỳ
Viên, liên quan đến một vị Trưởng lão đắc quả A-na-hàm.
Một ngày kia, các đệ tử của vị Trưởng lão
hỏi thầy mình như sau:
- Bạch thầy, thầy đã đạt Thánh quả chưa?
Vị Trưởng lão nghĩ: "Ngay cả hàng tục gia cư
sĩ cũng có thể chứng Tam quả. Ðể đợi khi ta chứng Tứ quả rồi sẽ nói với
chúng". Và vì ngượng, thầy không nói chi. Không bao lâu, thầy viên tịch và
tái sanh lên cõi trời Ngũ Na-hàm. Các đệ tử của thầy khóc lóc than thở, đi
đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy lui ngồi một bên, cũng còn than khóc. Phật hỏi:
- Vì sao các ông khóc?
- Thầy chúng con đã mất, bạch Thế Tôn!
- Không sao cả, các ông chớ buồn, đó là luật
vô thường.
- Thưa vâng, chúng con biết điều ấy. Nhưng
chúng con đã hỏi người chứng quả hay chưa, mà người mất, không trả lời
chúng con. Vì thế chúng con buồn.
- Này các Tỳ-kheo, các ông chớ lo lắng, thầy
các ông đã chứng Tam quả và nghĩ rằng: "Ngay cả hàng tục gia cư sĩ cũng có
thể chứng Tam quả. Khi nào chứng Tứ quả, ta sẽ nói với chúng". Vì ngượng
nên ông ấy không nói. Khi mất, ông ấy tái sinh vào cõi Ngũ Na-hàm thiên.
Các ông hãy vui mừng, thầy các ông đã thoát ngũ dục.
Phật nói kệ:
(218)
Ước vọng pháp ly ngôn (Niết-bàn)
Ý cảm xúc thượng quả,
Tâm thoát ly các dục,
Xứng gọi bậc Thượng Lưu.
9.
Nandiya Ðược Sanh Thiên
Khách
lâu ngày ly hương ...
Câu chuyện này được kể lại khi Phật ở tại
Lộc Uyển (Chư thiên đọa xứ) liên quan đến
Nandiya.
Tại Ba-la-nại, có một thanh niên tên
Nandiya, con của một gia đình
Phật tử thuần thành. Nandiya
có nhiều đức tính tốt nên song thân chàng để chàng làm thị giả trung
tín của chư Tăng. Ðến tuổi trưởng thành, song thân chàng muốn chàng kết
hôn với Revatì, bà con cô
cậu ở nhà đối diện. Nhưng Revatì
không tin Phật nên chẳng biết cúng dường, vì thế
Nandiya không muốn kết hôn.
Mẹ
Nandiya bảo Revatì:
- Này con, hãy quét dọn nhà, lau chùi sạch
sẽ chỗ các Sa-môn sẽ ngồi, chuẩn bị chỗ ngồi, để đồ gác chân vào đúng chỗ
cho các Ngài. Khi các Ngài đến, đỡ lấy bát, mời ngồi, dâng nước lọc sạch.
Khi các Ngài thọ trai xong, hãy rửa bát. Nếu làm được như vậy con sẽ chiếm
được tình cảm của nó.
Revatì
làm y lời, và mẹ của Nandiya
bảo chàng:
- Bây giờ
Revatì đã thuần hậu.
Nandiya
đồng ý, họ làm lễ thành hôn. Nandiya
bảo vợ:
- Nếu em chăm sóc các vị Tỳ-kheo chu đáo, và
chăm sóc cha mẹ cũng thế, em có đặc quyền ở trong nhà này, em nên lưu ý.
- Thưa vâng.
Revatì
hứa làm theo lời chồng. Trong vài hôm, nàng học cách đối xử như một
phật tử thuần thành. Nàng luôn vâng lời chồng, và sau đó sanh hai con
trai. Khi cha mẹ chồng mất nàng trở thành nữ chủ và
Nandiya được hưởng gia sản trở
nên giàu có. Chàng cúng dường Tăng chúng thường xuyên, và cho để vật thực
ở cửa, đều đặn cung cấp cho người nghèo và khách lữ hành. Ít lâu sau, nghe
Phật thuyết pháp, chàng bèn khởi công cất một tinh xá tứ giác có bốn
phòng, tại đại tinh xá ở Lộc Uyển. Sau khi sắm đủ giường ghế, chàng dâng
cúng cho chư Tăng, thiết lễ ngọ trai và xối nước cúng dâng vào tay mặt Thế
Tôn. Khi dòng nước vừa xối vào tay đức Phật, trên tầng trời Ba mươi ba mọc
lên một tòa lâu đài lộng lẫy rộng mười hai dặm, cao một trăm dặm, làm bằng
thất bảo với vô số thiên nữ trong ấy.
Khi Tôn giả Ðại Mục-liên du hành lên cõi
trời, Ngài dừng lại trước cung điện này và hỏi:
- Ai là chủ nhân đầy phước đức của cung điện
với vô số thiên nữ này?
Chư thiên thuật lại công đức chủ nhân:
- Thưa Tôn giả, ngài
Nandiya, con trai của một gia
chủ đã xây cất tinh xá cúng dường đức Phật, do công đức ấy, cung điện này
hiện ra.
Các thiên nữ bạch với Tôn giả:
- Thưa Tôn giả, chúng tôi là nô lệ của
Nandiya. Mặc dù được sinh ở
đây, chúng tôi rất buồn vì không gặp chủ nhân. Xin Ngài nói với
Nandiya lên đây, cởi bỏ thân
người làm thân trời, giống như đập vỡ bình gốm để lấy bình vàng.
Tôn giả trở về bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, có đúng là người nào hiện
tại tạo nhiều phước lành ở cõi người sẽ gặt nhiều vinh dự ở cõi trời.
- Này Mục-kiền-liên, chính mắt ông thấy
những thành quả trên cõi trời Ba mươi ba mà
Nandiya đạt được, sao ông lại
hỏi Ta câu ấy?
- Như vậy là đúng sự thật, bạch Thế Tôn.
- Này Mục-kiền-liên, sao ông nói vậy? Nếu có
người con hay anh em đi vắng lâu nay trở về, những người đứng ở cổng làng
trông thấy vội vã về báo tin cho thân quyến. Họ sẽ vui mừng hân hoan, mau
mau đi đón nói: "Con thân yêu, thế là con đã về". Cũng thế, khi thiện nam
hay thiện nữ đã tạo nhiều công đức ở đây, rời bỏ cõi đời này sang cõi
khác, chư thiên mang nhiều phẩm vật tranh nhau đi đón và nói: "Hãy để tôi
đến trước! Tôi đến trước".
Và Phật nói kệ:
(219)
Khách lâu ngày ly hương,
An toàn từ xa về,
Bà con cùng thân hữu
Hân hoan đón chào mừng.
(220)
Cũng vậy các phước nghiệp,
Ðón chào người làm lành,
Ðời này đến đời kia,
Như thân nhân đón chào.
Trong chú giải
Vimàna-vatthu kể tiếp rằng sau
khi Nandiya sanh thiên,
Revatì thôi không cúng dường
chúng Tăng, mắng chửi Tỳ-kheo và bị ném vào địa ngục lúc còn sống.