Tích
truyện Pháp Cú
Thiền
viện Viên Chiếu
Nguyên tác: "Buddhist Legends",
Eugène Watson Burlingame
--- o0o ---
XII. Phẩm
Tự Ngã
1. Hoàng Tử
Bồ Ðề Và Con Chim Thần
Nếu
biết yêu tự ngã ...
Khi ngụ tại
Bhesakalàvana, Thế Tôn đã dạy
câu trên liên quan đến hoàng tử Bồ-đề.
1A. Hoàng Tử, Người Xây
Nhà Và Con Chim Thần
Hoàng tử Bồ-đề xây dựng một cung điện tên là
Sen Ðỏ (Kokanađa) không
giống bất kỳ cung điện nào trên mặt đất này, giống như đang nổi lên trong
hư không.
Xong việc ông hỏi người xây nhà:
- Anh đã từng xây dựng một cung điện nào
giống như thế này ở nơi khác chưa, hay đây là công trình đầu tiên trong
đời anh vừa thực hiện xong?
Anh thợ đáp đó là đầu tiên. Ý của hoàng tử
là muốn cung điện của ông độc nhất vô nhị, do đó tốt nhất là giết chết anh
thợ, hoặc cắt cụt tay chân, hoặc móc mắt... Ông gặp người bạn thân nhất là
Sanjikàputta nói ý đó. Anh
bạn này báo cho anh thợ biết, vì không nỡ để một nghệ nhân có khiếu như
thế bị giết chết. Vì thế khi hoàng tử đến hỏi anh thợ đã hoàn tất chưa,
anh bảo chưa, và cần thêm một ít gỗ, loại gỗ đã khô hết nhựa, anh sẽ giam
mình trong phòng riêng để tập trung làm việc, không ai được phép lai vãng,
trừ vợ anh sẽ mang cơm trưa mà thôi. Hoàng tử bằng lòng.
Anh thợ bắt đầu đẽo thớ gỗ thành hình chim
Kim xí điểu, đủ rộng để chúa anh ta và vợ con. Anh dặn vợ bán hết đồ đạc,
quy ra bằng vàng đưa anh cất. Và khi tác phẩm hoàn tất, anh cùng vợ con
chui vào bụng chim, rồi chim cất cánh qua cửa sổ bay mất, mặc dù hoàng tử
đã cho lính bao vây kín mít. Anh thợ đến vùng đất ở Hy-mã-lạp-sơn, tạo ra
một đô thị bằng thần thông và cư ngụ ở đó. Người ta gọi anh là Vua Ngựa
Gỗ.
1B. Hoàng Tử Chiêu Ðãi
Ðức Phật
Hoàng tử quyết định mở hội ăn mừng ngày hoàn
tất cung điện và thỉnh mời Thế Tôn. Ông cho bôi trát lên vách đất sét trộn
với bốn loại hương thơm, trải đệm và thảm lên sàn nhà từ ngưỡng cửa. Hoàng
tử không có con. Trong khi trải đệm và thảm, ông nghĩ thầm rằng nếu ông sẽ
được có con trai hay con gái, Thế Tôn sẽ giẫm chân lên thảm. Nhưng sau khi
ông đảnh lễ và ba lần thỉnh Phật vào nhà, Ngài từ chối không vào, chỉ đưa
mắt nhìn Tôn giả A-nan. Trưởng lão A-nan hiểu ý, bảo cuốn thảm lên. Rồi
hoàng tử cung kính dâng Phật cháo và các thức ăn cứng, đảnh lễ Ngài xong
ngồi một bên thưa:
- Bạch Thế Tôn, con là người hầu trung tín
của Thế Tôn. Ðã ba lần con tìm nương tựa nơi Thế Tôn. Lần đầu trong thai
mẹ, lần thứ hai là đứa bé con, lần thứ ba khi đến tuổi có trí khôn. Vì sao
Thế Tôn không chịu bước chân lên đệm và thảm?
- Hoàng tử, ngươi nghĩ gì khi trải sàn nhà
với vải vóc kia?
- Bạch Thế Tôn, con nghĩ nếu số mạng con sẽ
có con trai hay con gái, Thế Tôn sẽ đi lên đó.
- Vì lẽ đó Ta đã từ chối không bước lên.
- Nhưng bạch Thế Tôn, phải chăng số mạng của
con là không bao giờ có con trai, con gái?
- Ðúng vậy, hoàng tử.
- Vì lý do gì, bạch Thế Tôn?
- Ở kiếp trước ngươi đã phạm lỗi vô ý, không
sáng suốt.
- Vào lúc nào, bạch Thế Tôn?
Ðể trả lời, Phật kể:
Chuyện quá khứ
1C. Người Ăn Trứng Chim
Hàng trăm người ra biển bị đắm tàu. Tất cả
đều lần lượt chết hết, trừ hai vợ chồng bám được một mảnh ván, tấp vào một
đảo gần đó. Cả chồng lẫn vợ quá đói và không tìm được cái gì để ăn trong
khi chim chóc trên đảo nhiều vô số, nên họ ăn trứng chim luộc trên lò
than. Không đủ no, họ ăn luôn những con chim nhỏ. Họ đã ăn như thế từ lúc
trẻ, khi đứng tuổi, đến tuổi già. Cả cuộc đời, không một lúc nào họ được
sáng suốt.
(Hết
Chuyện Quá Khứ)
Thế Tôn chỉ cho hoàng tử thấy lỗi lầm trong
tiền kiếp rồi dạy tiếp:
- Hoàng tử, nếu một trong ba thời trẻ, trung
niên, già của kiếp trước, ngươi và vợ ngươi sáng suốt thì cũng được một
đứa con trai hoặc gái trong kiếp này. Hay ít nhất một trong hai người được
sáng suốt thì kiếp này các ngươi đã có con. Hoàng tử, nếu biết quí trọng
đời sống của mình, ta phải nhớ giữ sáng suốt cả ba thời trong đời mình.
Nếu quên, ít nhất cũng phải được một trong ba.
Và Ngài đọc Pháp Cú:
(157)
Nếu biết yêu tự ngã,
Phải khéo bảo vệ mình.
Người trí trong ba canh,
Phải luôn luôn tỉnh thức.
2. Một Tỳ
Kheo Tham Lam
Trước
hết tự đặt mình...
Tại Kỳ Viên, Thế Tôn đã dạy câu trên liên
quan đến Trưởng lão Upananda,
một hoàng tử dòng họ Thích-ca.
Trưởng lão vốn có biệt tài thuyết pháp.
Nhưng lạ thay sau khi đã nghe giảng về thiểu dục, ông thản nhiên nhận hết
y áo do các Tỳ-kheo khác, vì muốn giữ phạm hạnh, đã cúng cho mình, luôn cả
vật dụng họ để lại. Kịp mùa mưa đến sát bên, ông đi về vùng quê. Dừng chân
tại một tinh xá, ông thuyết pháp và rất được các Sa-di và tập sự xuất gia
ưa chuộng. Họ thỉnh ông ở lại đây suốt mùa mưa. Ông hỏi:
- Một Tỳ-kheo ở lại đây suốt mùa mưa sẽ thọ
nhận gì?
Họ đáp:
- Một cái áo khoác ngoài.
Trưởng lão không ừ hử, để lại đôi giày và đi
tiếp đến một tinh xá kế. Khi được mời ở lại, cũng câu hỏi cũ:
- Thọ nhận được gì?
Ðáp:
- Hai áo khoác.
Trưởng lão để lại đó cây gậy.
Ðến tinh xá thứ ba, hỏi:
- Thọ nhận được gì?
Ðáp:
- Ba áo khoác.
Ngài để lại bình đựng nước.
Ðến tinh xá thứ tư, hỏi:
- Ðược thọ nhận gì?
- Bốn áo khoác.
Ngài bèn đáp:
- Tốt lắm! Ta ngụ tại đây
Rồi Ngài thuyết pháp cho các cư sĩ và
Tỳ-kheo ở đó, hay đến nỗi họ dân cúng cho Ngài vô số y áo. Hết hạn lưu
trú, Ngài báo tin cho các tinh xá gửi cho Ngài các món đã bỏ lại. Và gom
hết tài sản xong, Ngài chất lên một chiếc xe bò lên đường.
Bấy giờ ở một tinh xá nọ, có hai Tỳ-kheo vừa
thọ nhận hai chiếc áo khoác và một cái mền, Cả hai không biết làm sao để
chia cho đúng, nên dừng lại bên đường cãi vã:
- Huynh lấy áo đi! Còn cái mền của tôi.
Trưởng lão chợt đi ngang, họ liền chận lại:
- Bạch Trưởng lão, xin Ngài chia giùm cho
đúng, và cho chúng tôi cái thích đáng.
Trưởng lão nghiêm mặt hỏi lại:
- Quý thầy có tôn trọng quyết định của tôi
không?
- Dạ vâng.
- Tốt lắm. Vậy thì cái mền này chỉ dành cho
người nào thuyết pháp đắp, còn hai thầy mỗi vị một cái áo.
Và trước vẻ mặt ngơ ngác của hai Tỳ-kheo
kia, Trưởng lão vác chiếc mền đắt tiền lên vai đi mất.
Ghê tởm và thất vọng, họ đến thưa chuyện với
Thế Tôn. Phật bảo không phải lần đầu tiên ông ta lấy đồ của các thầy và
làm cho các thầy ghê tởm thất vọng, ở kiếp trước ông ta cũng đã làm như
thế.
Và Ngài kể:
Chuyện Quá Khứ
2A. Rái Cá Và Chó Rừng
Xa xưa, có hai rái cá là
Anutìracàrì và
Gambhìracàrì bắt được một con
cá hồng to, nhưng khi chia chác thì lúng túng và lớn tiếng với nhau:
- Cái đầu cá của tôi, phần anh là đuôi cá.
Không thể chia đều và vừa ý cho cả hai, nên
thấy bóng một con chó rừng, chúng gọi đến nhờ giải quyết:
- Này bác, bác hãy chia con cá này theo bác
thấy đúng với lẽ phải, và bác sẽ được thưởng.
Chó rừng sửa bộ, ra vẻ trịnh trọng:
- Ta được vua chỉ định làm quan tòa. Ta đang
phải ngồi tòa xử án hằng mấy giờ liền. Ta ra đây chỉ để giãn chân, bây giờ
ta không có thời giờ làm việc đó.
- Bác ơi, đừng nói thế. Hãy chia phần và
được thưởng.
- Các ngươi có tôn trọng quyết định của ta
không?
- Có chứ, này bác, chúng tôi sẽ tuân theo.
- Tốt lắm, vậy thì trong hai bạn, ai bơi dọc
theo bờ (Anutìracàrì) sẽ có
cái đuôi, ai bơi trong nước sâu (Gambhìracàrì)
sẽ có cái đầu, còn khúc giữa thuộc về ta, vì ta là công lý.
Nói xong, chó rừng nhặt khúc giữa và chạy
biến. Còn bọn rái cá chỉ biết đứng nhìn theo lòng đầy ghê tởm và thất
vọng.
(Hết
Chuyện Quá Khứ)
Thế Tôn an ủi hai Tỳ-kheo, và quở trách
Upananda:
- Các Tỳ-kheo, người muốn dạy bảo người khác
trước hết phải điều phục mình cho hợp đạo.
Và Ngài đọc Pháp Cú:
(158)
Trước hết tự đặt mình,
Vào những gì thích đáng,
Sau mới giáo hóa người,
Người trí khỏi bị nhiễm.
3. Hãy Hành
Ðộng Theo Lời Nói
Hãy
tự làm cho mình...
Vì chuyện Trưởng lão
Padhànika Tissa, mà Thế Tôn
dạy câu trên tại Kỳ Viên.
Trưởng lão này được Phật cho đề mục thiền
quán, rồi dẫn năm trăm Tỳ-kheo vào rừng. Trước hết ông bảo họ:
- Này chư huynh! Nhận được đề mục từ đức
Phật tại thế rồi, tất cả phải chú tâm thiền quán.
Nói xong, ông nằm dài ra và ngủ. Còn các
Tỳ-kheo đi kinh hành suốt canh một, và giữa đêm thì vào tinh xá. Ngủ no
mắt, Trưởng lão thức dậy đi kiếm các Tỳ-kheo, hỏi họ:
- Có phải các ông về đây định để ngủ không?
Ra khỏi tinh xá tức khắc! Thiền quán đi!
Nói xong, ông lại về chỗ, nằm dài ra và ngủ.
Các Tỳ-kheo kia lại đi kinh hành suốt canh giữa, và đến canh cuối họ về
tinh xá. Trưởng lão thức dậy, đến kiếm họ, đuổi ra khỏi tinh xá và ông lại
trở về nằm ngủ tiếp. Vị Trưởng lão cứ theo nhắc nhở hoài như thế, các
Tỳ-kheo không thể nào chú tâm, dù tụng kinh hay thiền quán, đến nỗi họ
muốn quẩn trí. Rốt cuộc họ bảo nhau:
- Sư phụ của chúng ta quá nhiệt tình. Hãy
theo dõi ông ta xem sao!
Khám phá ra sự thật, họ chỉ biết lắc đầu bảo
nhau:
- Sư phụ của chúng ta hùng biện rỗng tuếch,
chúng ta đành thua thiệt.
Quá mệt nhọc vì mất ngủ, không một Tỳ-kheo
nào chứng quả.
Hết thời hạn ở rừng, mọi người trở về gặp
Phật. Sau lời chào mừng thân hữu, Thế Tôn hỏi họ:
- Này các Tỳ-kheo! Các ông có chú tâm thiền
quán hay không? Hành thiền miên mật không?
Họ đành kể hết tự sự. Phật bảo:
- Này các Tỳ-kheo! Ðây không phải là lần đầu
Trưởng lão làm nỗ lực tu tập của các ông thất bại. Trước đây ông ta cũng
làm như thế.
Và thuận theo lời yêu cầu của các Tỳ-kheo
Ngài kể chuyện bổn sanh
Akàlaràvikukkuta:
Chẳng được mẹ cha nuôi
dưỡng,
Chẳng được dạy dỗ bởi thầy.
Gà ta không sao gáy được,
Ðúng thời, đúng giờ, đúng giấc.
Ở kiếp đó, con gà chính là Trưởng lão
Padhànika Tissa, năm trăm
Tỳ-kheo lúc đó chính là các Sa-di này, và vị thầy nổi tiếng chính là Ta.
Phật dạy tiếp:
- Này các Tỳ-kheo! Nếu một người răn bảo kẻ
khác, trước hết hãy tự điều phục, và tự điều phục mình thì có thể điều
phục kẻ khác.
Và Ngài đọc Pháp Cú:
(159)
Hãy tự làm cho mình,
Như điều mình dạy người,
Khéo tự điều, điều người,
Khó thay, tự điều phục!
4. Ðừng Ghét
Bỏ Cha Mẹ Mình
Tự
mình y chỉ mình...
Câu này Phật dạy tại Kỳ Viên, liên quan đến
bà mẹ của Trưởng lão Kumàra Kassapa.
4A. Kumaara Kassapa Chào
Ðời
Con gái của chưởng khố thành Vương Xá trước
khi đến tuổi khôn lớn đã xin phép đi tu nhiều lần, nhưng không được. Ðến
tuổi cặp kê bà thành hôn, về sống bên nhà chồng là một gia chủ, làm người
vợ trung thành. Chẳng bao lâu bà có mang, nhưng bà và cả người chồng đều
không hay biết. Bà xin xuất gia, lần này được chồng thuận, và cũng chính
ông dẫn bà đến Ni chúng. Bà được gia nhập Tăng đoàn Ni chúng thuộc phái
Ðề-bà-đạt-đa.
Sau một thời gian Ni chúng thấy bà mang thai
nên hỏi:
- Việc này nghĩa là sao?
Bà đáp:
- Thưa quý Ni, con không hiểu ra sao. Nhưng
con biết chắc là con vẫn giữ phạm hạnh trong sạch.
Họ dẫn bà đến Ðề-bà-đạt-đa, và vì sợ bị quở
trách, ông ra lệnh trục xuất. Bà liền van xin chư ni:
- Quý sư tỷ! Ðừng hủy hoại đời con! Con xuất
gia không phải theo đề nghị của Tôn giả Ðề-bà-đạt-đa. Xin dẫn con đến Thế
Tôn ở Kỳ Viên.
Thế Tôn biết bà đã mang thai khi còn ở thế
gian, và để phản chứng lời buộc tội sai lầm, Ngài triệu tập vua Ba-tư-nặc,
Ðại và Tiểu Cấp Cô Ðộc, cư sĩ Tỳ-xá-khư và các nhân vật tai mắt khác,
truyền lệnh cho Trưởng lão Ưu-ba-ly:
- Ông hãy đến giữa tứ chúng biện hộ cho
người đàn bà bị kết tội này.
Trưởng lão gọi bà Tỳ-xá-khư đến trước mặt
vua giao trách nhiệm. Bà cho treo màn chung quanh thiếu phụ, và khám từ
tay, chân, rốn, bụng, đến phần dưới. Rồi đếm tính số tháng và ngày, bà
nhận xét thiếu phụ đã có thai khi còn ở thế gian, liền báo tin cho Trưởng
lão. Trước tứ chúng Ngài tuyên bố thiếu phụ vô tội và một đứa bé ra đời,
mạnh khỏe và to lớn như bà đã cầu xin dưới chân đức Phật
Padumuttara.
Ngày kia nhà vua đi ngang qua chỗ Ni chúng,
nghe tiếng trẻ khóc, dừng chân hỏi chuyện biết được liền mang đứa trẻ về
hoàng cung giao các công chúa nuôi nấng. Ðến ngày lễ đặt tên, họ đặt là
Kassapa, vì được hoàng gia
dưỡng dục, nên mọi người gọi là hoàng tử
Kassapa,
Kumàra Kassapa.
Trên sân chơi, một hôm, đứa bé đánh mấy trẻ
kia. Chúng la lên:
- Tên không cha không mẹ đánh chúng tôi!
Kassapa
lập tức chạy đến vua hỏi:
- Tâu bệ hạ, chúng nó nói con không cha
không mẹ, ai là mẹ của con xin nói cho con biết.
Vua chỉ các công chúa bảo:
- Các bà mẹ của con đó!
Kassapa
không chịu cằn nhằn:
- Con không có nhiều mẹ như vậy, đúng ra con
chỉ có một mẹ thôi, ai vậy?
Vua biết không thể dối gạt, nên nói hết sự
thật. Kassapa xúc động vô
cùng, xin xuất gia ngay. Vua hoan hỷ dẫn đến gặp Phật, và thọ giới xong,
chú trở thành Trưởng lão Kassapa.
Nhận đề mục thiền quán từ Thế Tôn,
Kassapa rút vào rừng. Nhưng nỗ lực hết sức mình vẫn không chứng
quả, nên Ngài nghĩ cần trở về để xin Phật đổi đề mục, sau đó đến trú trong
núi Andha.
(Bấy giờ một Tỳ-kheo từ thời Phật Ca-diếp tự
thiền định và chứng Tam quả. Ông tái sanh trên cõi trời Phạm thiên rồi trở
lại thế gian, hỏi Kumàra Kassapa
mười lăm câu hỏi, với lời nhắn nhủ "không ai khác ngoài Thế Tôn có thể
giải đáp câu hỏi này, hãy đi gặp Thế Tôn".
Kassapa nghe theo, và khi các
câu hỏi được trả lời xong, Trưởng lão chứng A-la-hán).
4B. Ðừng Ghét Bỏ Cha Mẹ
Mình
Suốt mười hai năm, kể từ ngày
Kassapa lìa bỏ thế tục, bà mẹ
ni cô vẫn khóc hết nước mắt vì quá đau khổ xa con. Một hôm đi khất thực,
bà thấy Trưởng lão trên đường bèn mừng quá la lên:
- Con tôi! Con tôi!
Bà chạy đến và té sấp xuống chân Ngài, lăn
vòng dưới đất. Sữa từ trong ngực chảy ra ướt hết áo khi bà đứng lên ôm
Trưởng lão. Nghĩ rằng nếu nói lời ngọt sẽ không giúp ích gì được cho bà,
Kassapa lớn tiếng với bà:
- Bà muốn gì đây? Bà không bỏ được tình cảm
thế tục sao?
Bà mẹ chới với, không ngờ con mình nói với
mình như một tên cướp. Bà nén lòng hỏi thêm:
- Con yêu quí, con nói gì vậy?
Nhưng
Kassapa vẫn chỉ lặp lại những lời cộc cằn tàn nhẫn. Sau đó bà
hiểu ra rằng chỉ tại vì nó mà bà đã không ngăn được giọt lệ suốt mười hai
năm. Nhưng nó quá cứng cỏi đối với bà, tại sao bà còn thương tưởng nó làm
gì? Ngay lúc ấy bà cắt đứt cội rễ luyến ái đứa con và chứng quả A-la-hán.
Về sau các Tỳ-kheo bàn tán trong Pháp đường:
- Ðề-bà-đạt-đa muốn trừ khử
Kumàra Kassapa, người có khả
năng chứng quả Dự-lưu và cả ni cô mẹ Ngài. Nhưng Thế Tôn đã che chở họ.
Lòng từ bi của Phật đối với chúng sanh to lớn biết bao!
Phật nghe được liền dạy:
- Này các Tỳ-kheo! Ðây không phải là lần đầu
tiên Ta là chỗ dựa và bênh vực họ. Ở kiếp trước cũng đã như thế.
Và Phật kể chuyện Bổn Sanh
Nigrodha:
Ðừng theo nai rẽ đàn
Theo nai chúa mà đi.
Thà chết bên nai chúa,
Hơn sống cạnh nai kia.
Ngài đồng nhất các nhân vật như sau:
- Ở kiếp đó con nai rẽ đàn dẫn đầu một nhánh
phái là Ðề-bà-đạt-đa, những con nai trong nhánh phái là đồng nhóm của
Ðề-bà-đạt-đa, con nai cái đã đạt được sở nguyện là ni cô, con nai tơ là
Kumàra Kassapa, và con nai đầu
đàn, nai chúa, đã hy sinh mạng sống vì con nai cái và nai tơ, chính là Ta.
Sau khi ca tụng ni cô đã cắt ái với con
mình, lấy chính mình làm nơi an trú cho mình, Thế Tôn đã dạy thêm:
- Này các Tỳ-kheo, bởi vì khi một người đạt
được cứu cánh cõi trời hay đạo quả, thì thành quả ấy không thể trở thành
sở hữu của người khác, do đó chính mình là nơi nương tựa của mình. Làm sao
một người có thể làm nơi nương tựa cho người khác được?
Và Ngài đọc Pháp Cú:
(160)
Tự mình y chỉ mình,
Nào có y chỉ khác.
Nhờ khéo điều phục mình,
Ðược y chỉ khó được.
5. Maha Kàla
Bị Giết
Ðiều
ác tự mình làm...
Phật dạy câu trên tại Kỳ Viên liên quan đến
một cư sĩ tên là Mahà Kàla
đã đắc quả Dự lưu.
Vào ngày thứ tám trong tháng,
Mahà Kàla tự mình thọ trì bát
quan trai giới, và ở lại tinh xá suốt đêm nghe pháp. Có vài tên trộm sau
khi ăn hàng, khua vang đồ đạc làm chủ nhà thức dậy rượt đuổi. Chúng ném
hết của đã lấy rồi phân tán mạnh ai nấy chạy. Một tên lọt vào tinh xá vào
lúc sáng sớm, ném món đồ trước mặt
Mahà Kàla đang rửa mặt bên bờ ao, rồi chạy mất. Chủ nhà chẳng
thấy tên trộm đâu, chỉ thấy cư sĩ với tang vật, hét vào mặt anh:
- Té ra anh là người xông vào nhà tôi ăn
trộm đấy hẳn! Vậy mà anh làm như suốt đêm đã nghe pháp đấy!
Anh không kịp thốt lời nào đã bị đánh tới
tấp đến chết. Họ bỏ xác anh trên đường rồi đi mất.
Sáng sớm các Tỳ-kheo trẻ và Sa-di ôm bình
rời tinh xá đi lấy nước, thì phát hiện xác chết của cư sĩ. Họ đến thưa
chuyện với Thế Tôn:
- Cư sĩ đã ở lại suốt đêm để nghe pháp và bị
chết thảm như thế, thật ngược với công lao của anh!
Phật bảo:
- Quả đúng như vậy, này các Tỳ-kheo! Cái
chết của Mahà Kàla không
chính đáng nếu chỉ xét kiếp hiện tại này. Nhưng so với các nghiệp ác đã
gây ở kiếp trước thì không oan uổng.
Và Ngài kể:
Chuyện quá khứ
5A. Người Lính Và Người
Có Cô Vợ Ðẹp
Thật xa xưa ở một làng ven biên giới thuộc
xứ của vua Ba-la-nại, một băng trộm thường phục kích khách đi đường tại
lối vào rừng. Vua phải chốt một người lính tại đó, và tùy thời người lính
sẽ hộ tống khách vào rừng rồi trở ra.
Ngày kia có hai vợ chồng vào rừng trên chiếc
xe nhỏ. Người lính thấy cô vợ quá đẹp nên lọt vào lưới tình. Khi họ xin
được hộ tống thì người lính bảo đã quá muộn, phải chờ sáng mai. Khách nài
nỉ vì mùa này trời tốt nên xin được đi ngay, nhưng người lính nhất quyết
không chịu. Anh ra dấu cho người phụ tá quay đầu xe dù khách phản đối. Rốt
cuộc khách phải ở lại trong nhà người lính.
Hừng đông người lính gây tiếng động làm như
trộm vào nhà. Ngay sau đó viên phụ tá của anh đến báo cáo viên ngọc quí
của anh bị trộm mất. Anh tức tốc ra lệnh cho người gác cổng làng khám xét
mọi người ra vào. Sáng sớm khách thắng xe đi ra, bị khám và bị bắt quả
tang viên ngọc giấu trong xe, viên ngọc do anh lính lén bỏ vào xe để vu
oan. Họ mắng chửi khách không tiếc lời và tặng thêm một trận đòn nên thân,
xong dẫn tới xã trưởng. Khách bị xử đánh đến chết, xác bị ném ra xa.
Ðó là việc làm của cư sĩ kiếp trước. Mạng
chung anh bị đọa địa ngục A-tỳ, chịu cực hình khổ sở rất lâu, nhưng vì ác
báo chưa dứt nên anh vẫn bị đánh như thế liên tiếp một trăm kiếp.
(Hết
Chuyện Quá Khứ)
Thế Tôn dạy tiếp:
- Này các Tỳ-kheo! Trên thế gian này chỉ có
chúng sanh phạm điều ác mới bị dày vò khổ não trong bốn kiếp.
Và Ngài đọc Pháp Cú:
(161)
Ðiều ác tự mình làm,
Tự mình sanh mình tạo,
Nghiền nát kẻ ngu si,
Như kim cương ngọc báu.
6. Ðề Bà Ðạt
Ða Tìm Cách Giết Phật
Phá
giới quá trầm trọng...
Thế Tôn đã dạy như thế ở Trúc Lâm, liên quan
đến Ðề-bà-đạt-đa.
Các Tỳ-kheo bàn tán trong Pháp đường:
- Chư huynh, Ðề-bà-đạt-đa tập khí độc hại,
tánh tình xấu ác, ý muốn quá tàn bạo. Chỉ vì hiểm độc như thế nên luồn cúi
ân sủng của A-xà-thế, dâng tặng nhiều lễ vật cho ông ta, xúi giục ông ta
giết cha, rồi cùng âm mưu sát hại Phật.
Thế Tôn nghe được liền bảo:
- Ðây không phải là lần đầu, ở kiếp trước
ông ta đã từng như vậy.
Rồi Ngài kể chuyện
Kurùga Miga và chuyện khác
trong Bổn Sanh, xong dạy tiếp:
- Này các Tỳ-kheo! Khi một người phó mặc
tính ác độc của mình thắng lướt mọi ranh giới, để cho ý muốn xấu ác nảy
sanh từ tánh ác độc, giống như dây leo bám quanh cây Sa-la, cuối cùng sẽ
làm cho cây héo chết, người đó sẽ bị tống vào địa ngục hoặc một cõi giới
khổ não nào đó.
Và Phật đọc Pháp Cú:
(162)
Phá giới quá trầm trọng,
Như dây leo bám cây,
Gieo hại cho tự thân,
Như kẻ thù mong ước.
7.
Ðề-Bà-Ðạt-Ða Gây Chia Rẽ Trong Tăng Ðoàn
Dễ
làm các điều ác...
Câu giáo lý này Phật dạy tại Trúc Lâm, do
chuyện Ðề-bà-đạt-đa.
Tôn giả A-nan một hôm bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, sáng nay trên đường vào
thành Vương Xá khất thực. Ðề-bà-đạt-đa gặp con bảo rằng "Kể từ nay, sư đệ
A-nan, tôi sẽ trai giới và điều hành công việc của Tăng chúng, độc lập với
Tăng đoàn và Thế Tôn". Hôm nay y sẽ tách Tăng đoàn ra làm hai, tự trai
giới và điều hành công việc của Tăng chúng.
Nghe vậy, Thế Tôn đọc bài kệ:
Ðiều thiện thật dễ làm
Ðối với người hiền thiện
Người ác không thể kham
Những việc làm phước thiện
Ðiều ác thật dễ làm
Ðối với người dữ ác
Người hiền chẳng thể cam
Xuống tay làm điều ác.
Rồi Ngài bảo:
- Này A-nan! Người ta dễ làm điều ác, khó
làm điều thiện.
Và đọc tiếp Pháp Cú:
(163)
Dễ làm các điều ác,
Dễ làm tự hại mình,
Còn việc lành, việc tốt,
Thật tối thượng khó làm.
8. Vị Tỳ
Kheo Ðố Kỵ
Kẻ
ngu si miệt thị ...
Do chuyện Trưởng lão
Kàla, Phật đã dạy câu trên tại
Kỳ Viên.
Ở Xá-vệ có một phụ nữ thường hay giúp đỡ
Trưởng lão Kàla với lòng
tốt của bà mẹ đối với con. Sau khi nghe lời tán tụng đức Phật thuyết pháp
thật là vi diệu, thật là thích thú, từ cửa miệng một gia đình láng giềng,
bà nói với Trưởng lão cũng muốn đi nghe. Nhưng ông ngăn cản. Lý do thật dễ
hiểu, vì ông sợ nghe đức Phật thuyết rồi bà sẽ không cần ông nữa. Nhưng
một sáng tinh sương, điểm tâm xong bà tự thọ bát quan trai giới rồi đi đến
tinh xá, không quên dặn con gái ráng lo cho Trưởng lão.
Nghe tin bà đã ra đi, lửa sân phựt lên dữ
dội, thiêu đốt cả tâm can ông. Không quên nổi ý nghĩ bà đã cắt đứt với
mình, ông đi thẳng ngay đến tinh xá, thấy bà ngồi trước mặt Phật, ông liền
thưa:
- Bạch Thế Tôn! Người đàn bà ngu dốt này
không thể hiểu nổi bài pháp thâm diệu của Ngài. Chỉ nên giảng cho bà ta
bổn phận bố thí cúng dường và trí giới.
Nhưng Thế Tôn biết rõ động cơ thúc đẩy ông,
nên bảo:
- Ðừng tự phụ! Vì ác kiến, ông đã phỉ báng
giáo pháp của chư Phật. Nhưng như thế ông chỉ tự làm tổn hại mình thôi.
Và Ngài đọc Pháp Cú:
(164)
Kẻ ngu si miệt thị,
Giáo pháp bậc La-hán,
Bậc Thánh, bậc Chánh mạng.
Chính do ác kiến này,
Như quả loại cây lau,
Mang quả tự hoại diệt.
9. Cô Gái
Giang Hồ Cứu Mạng Một Cư Sĩ
Tự
mình làm điều ác ...
Vì chuyện
Culla Kàla, Phật dạy câu trên
tại Kỳ Viên.
Cũng trong câu chuyện về
Mahà Kàla, lúc đó
Culla Kàla cũng ở lại suốt đêm
nghe pháp, và cũng bị bắt vì gói đồ tên trộm đã liệng trước mặt. Họ cũng
túm lấy cư sĩ định đánh, nhưng vài cô gái giang hồ hạng sang đi tắm sông
thấy thế, xác nhận cư sĩ này không lấy và xin tha mạng cho ông.
Culla Kàla được thả ra, bèn
đến tinh xá kể chuyện cho các Tỳ-kheo. Các vị này kể lại cho Phật nghe, và
được Phật dạy:
- Này các Tỳ-kheo! Cư sĩ
Culla Kàla được cứu mạng nhờ
cả hai mặt, sự can thiệp của các cô gái giang hồ và chính ông ta vô tội.
Chúng sanh ở thế gian này do ác nghiệp gây nên, tự mình chịu khổ não ở địa
ngục hay cõi giới khở sở khác. Nhưng người làm điều thiện thì tự mình cứu
độ, được lên cõi trời hay Niết-bàn.
Và Ngài đọc Pháp Cú:
(165)
Tự mình, điều ác làm,
Tự mình làm ô nhiễm.
Tự mình ác không làm,
Tự mình làm thanh tịnh.
Tịnh, không tịnh, tự mình,
Không ai thanh tịnh ai.
10. Tu Tập
Chân Chánh Ðể Tôn Quý Thế Tôn
Dầu
lợi người bao nhiêu ...
Phật đã dạy câu trên tại Kỳ Viên, liên quan
đến Trưởng lão Attadattha.
Sắp nhập Niết-bàn, Phật bảo đệ tử:
- Này các Tỳ-kheo, bốn tháng nữa Ta sẽ nhập
Niết-bàn.
Bảy trăm Tỳ-kheo chưa chứng quả Dự lưu, quá
đỗi xúc động, không hề rời xa Thế Tôn, và thì thầm với nhau không biết nên
làm gì. Nhưng Trưởng lão Attadattha
thì tự nhủ Phật sắp nhập diệt mà mình chưa hết tham ái, vậy phải phấn đấu
hết sức để chứng quả A-la-hán trong khi Phật còn tại thế. Các Tỳ-kheo ngạc
nhiên thấy Trưởng lão tách rời họ, gần như không nói chuyện với họ nữa. Họ
không hiểu tại sao nên thưa chuyện với Thế Tôn. Ngài hỏi lại Trưởng lão,
biết được sở nguyện nên tán dương ông và dạy các Tỳ-kheo:
- Này các Tỳ-kheo! Người nào thành thật quý
trọng Ta thì phải như Trưởng lão
Attadattha mới được. Thực sự tôn quý Ta không phải là lễ kính
Ta với hương hoa. Chỉ có người hành trì theo pháp từ bậc thấp đến bậc cao
nhất mới đúng là tôn quý Ta. Do đó các ông nên theo gương Trưởng lão
Attadattha.
Và Ngài đọc Pháp Cú:
(166)
Dầu lợi người bao nhiêu,
Chớ quên phần tự lợi.
Nhờ thắng trí tự lợi,
Hãy chuyên tâm lợi mình.