Tích
truyện Pháp Cú
Thiền
viện Viên Chiếu
Nguyên tác: "Buddhist Legends",
Eugène Watson Burlingame
--- o0o ---
XI. Phẩm
Già
1. Bạn Của
Tỳ-Sá-Khư Say Rượu
Cười
gì, hân hoan gì...
Vì chuyện những người bạn của bà Tỳ-xá-khư
nên Thế Tôn đã dạy câu trên tại Kỳ Viên.
Năm trăm thanh niên vọng tộc cho năm trăm bà
vợ theo đại cư sĩ nữ Tỳ-xá-khư, tin rằng với sự tốt lành như thế vợ của họ
sẽ sống đời chánh niệm. từ đó dù đến lạc viên hay tinh xá, các bà vợ luôn
luôn đi cùng với Tỳ-xá-khư. Nhân lễ hội uống rượu, các bà pha rượu cho
chồng chè chén suốt bảy ngày. Ðến ngày thứ tám trống báo hết lễ, các ông
chồng trở về đi làm bình thường.
Thấy rượu còn thừa, các bà muốn uống nên
giauá chồng lén đem rượu theo, rồi rủ Tỳ-xá-khư đến lạc viên. Họ uống rượu
vào, say ngất ngưởng, đi khắp khu vườn chơi. Trông dáng đi của các bà,
Tỳ-xá-khư biết họ đã uống rượu và say. Các ngoại đạo sẽ có dịp rêu rao nữ
cư sĩ của Sa-môn Cồ-đàm uống rượu, bà gọi các bà vợ đến quở trách:
- Này các bạn, các bạn đã phạm lỗi lầm to
tát, làm tôi cũng nhục lây. Chồng các bạn sẽ nổi giận. Các bạn phải tính
sao đây?
Họ lo lắng thưa:
- Thưa đức bà, chúng tôi sẽ cáo bệnh.
Về nhà, các ông chồng biết ngay họ đã uống
rượu thừa. Họ bị đánh đập nên rất buồn khổ.
Lễ hội năm sau, họ lại muốn uống rượu như
lần trước, nên rủ Tỳ-xá-khư đến vườn giải trí, nhưng bị bà từ chối. Họ bèn
bỏ ý định đó và rủ nhau đi đến tinh xá. Thế là họ sắp hương hoa vào thùng,
tay ôm bình đựng rượu, mặc áo choàng ấm, đến gặp Tỳ-xá-khư và cùng bà đến
tinh xá. Sau, các bà vợ ấy lẻn đi uống rượu, vứt bình rồi vào ngồi trong
Pháp đường, trước mặt đức Thế Tôn. Bà Tỳ-xá-khư bạch:
- Bạch Thế Tôn, xin Ngài giảng pháp cho các
bà này nghe.
Nhưng các bà kia say đến nỗi thân thể lắc lư
đảo qua đảo lại và bỗng họ nảy ý muốn múa hát. Một quyến thuộc của Ma
vương thấy thế liền bắt xác họ, làm cho họ có những cử chỉ lố lăng trước
mặt Phật. Ðức Phật quán sát thấy được nguyên nhân, bèn nghĩ:
- Ta sẽ không cho phép quyến thuộc Ma vương
tấn công. Bởi vì mục đích hoàn thành giác hạnh viên mãn của Ta chẳng phải
là để Ma vương được dịp hoành hành.
Ngài phóng một đạo hào quang màu xanh đậm từ
chặng mày. Lập tức trời đất tối đen. Mấy bà kia sợ chết đến nỗi rượu trong
người khô hết. Phật rời chỗ ngồi, bay lên đỉnh núi Tu-di, phóng hào quang
giữa chặng lông mày, lúc đó trời sáng như thể cả ngàn mặt trăng cùng mọc.
Và Ngài bảo các bà:
- Các ngươi đã đến và vào đây trong sự tán
tâm. Vì thế một quyến thuộc của Ma vương đã bắt xác các ngươi. Vào thời
điểm mà các ngươi không nên cười đùa hay có những cử chỉ không được nghiêm
chỉnh, nó đã bắt các ngươi cười cợt lố lăng. Từ đây về sau các ngươi phải
nỗ lực dập tắt lửa ái dục và tham ái.
Và Ngài đọc Pháp Cú:
(146)
Cười gì, hân hoan gì,
Khi đời mãi bị thiêu?
Bị tối tăm bao trùm,
Sao không tìm ngọn đèn?
Biết họ đã vững niềm tin, không còn bị lay
chuyển nữa, Phật xuống núi Tu-di và ngồi vào tòa Như Lai. Lúc đó Tỳ-xá-khư
thưa:
- Rượu chính là điều ác, đã khiến hạng người
phẩm cách như các bà này, tuy ngồi trước mặt Thế Tôn, vẫn không đủ sức
kiểm soát hành động của mình, mà múa chân, vỗ tay, phát cười, phát ca hát,
nhảy nhót.
Phật bảo:
- Quả vậy, Tỳ-xá-khư! Rượu là điều ác, vì lẽ
đó vô số chúng sanh buồn khổ.
Nhưng bạch Thế Tôn, vào thời nào và nguyên
nhân nào xảy ra chuyện trên?
Thế Tôn bèn kể lại chuyện quá khứ trong Bổn
Sanh Kumbha.
2. Ðức Phật
Chữa Trị Một Tỳ Kheo Lụy Tình
Hãy
xem hình bóng đẹp...
Câu này Thế Tôn dạy ở
Veluvana, liên quan đến
Sirimà.
Sirimà
vốn là gái giang hồ hạng sang ở Vương Xá. Vào mùa mưa, cô lỡ xúc phạm
đến nữ cư sĩ Uttarà, vợ của
Sumana, con một phú gia, và
là chị của phú gia Punnaka.
Muốn nối lại quan hệ tốt, cô đến nhà nữ cư sĩ khi Thế Tôn và Tăng đoàn ở
đó. Khi đức Phật thọ thực xong, cô liền đến trước Ngài xin sám hối. Thế
Tôn đấng Thập lực đọc kệ sau cho
Sirimà nghe:
(223)
Lấy không giận thắng giận,
Lấy thiện thắng không thiện,
Lấy thí thắng xan tham,
Lấy chơn thắng hư ngụy.
Cuối bài kệ,
Sirimà chứng quả Dự lưu. (Ðây
chỉ là tóm lược toàn bộ câu chuyện nằm trong phần kinh luận bài kệ thuộc
phẩm Phẫn Nộ).
Sau đó cô thỉnh Thế Tôn đến thọ thực, và sau
dâng nhiều lễ vật. Từ đó cô đều đặn cúng dường tại nhà tám phần ăn. Cô múc
bơ lỏng và sữa đầy bát, phần cho một Tỳ-kheo đủ dùng ba cho đến bốn vị
Tỳ-kheo, và cô còn bố thí cho mỗi vị mười sáu đồng.
Có một Tỳ-kheo đến khất thực tại nhà
Sirimà, trở về ông dừng chân
tại tinh xá cách đó ba dặm. Các Tỳ-kheo hỏi thăm ông thọ thực ở đâu và như
thế nào? Ông thật thà kể đủ chi tiết, nào là món hảo hạng, một phần ăn ba
bốn vị dùng cũng đủ, đã thế thí chủ xinh xắn càng nhìn càng đẹp. Một
Tỳ-kheo khác nghe thế đem lòng yêu cô ta, và muốn đến nhìn mặt.
Hỏi được địa chỉ, sáng sớm vừa rạng đông.
Tỳ-kheo này lên đường đến phòng phát phiếu khất thực, tự nhận là trưởng
lão của hội chúng và nhận được một phiếu trong tám phần ăn tại nhà
Sirimà. Trước đó một ngày, tức
ngày Tỳ-kheo kia nhận thức ăn xong đi về, cô lâm bệnh, phải tháo hết nữ
trang nằm nghỉ trong phòng. Các Tỳ-kheo đến khất thực, cô không dậy nổi để
tự tay phục dịch, nên nhờ nô tỳ bưng dọn, không quên dặn họ phải chăm sóc
chu đáo, và xong xuôi dẫn cô đến đảnh lễ các Tỳ-kheo.
Cô đến trước mặt các Tỳ-kheo đảnh lễ, toàn
thân run rẩy. Tỳ-kheo này thấy cô hồn phi phách tán, đang bệnh mà còn đẹp
như thế, nếu khỏe mạnh, trang điểm và đeo đồ trang sức nữa thì còn đẹp đến
đâu! Sau đó tham ái đã tích lũy từ hàng triệu năm nay nổi dậy trong lòng.
Ông không còn biết gì mọi vật xung quanh và không thể thọ thực được. Ông
bưng bát trở về tinh xá, đậy bát lại để qua một bên, nới y ra và nằm dài.
Tỳ-kheo đi chung năn nỉ, nhưng ông không nuốt nổi một thứ gì.
Ngay tối ngày hôm đó
Sirimà qua đời. Thế Tôn hay
tin, bảo vua quàng xác để trong nhà thiêu, chớ có hỏa táng, và canh giữ
đừng để quạ chó mổ ăn thịt. Ngày qua ngày, đến ngày thứ tư xác của
Sirimà trương lên, giống như
đống thịt lở loét, từ chín lỗ dòi bò ra chẳng khác gì nồi nấu cơm vỡ nứt.
Vua cho đánh trống rao khắp thành bắt mọi người phải đến xem xác
Sirimà, ai không đến xem phạt
tám tiền. Thế Tôn cùng với Tăng đoàn đến xem.
Bấy giờ Tỳ-kheo tương tư này đã bỏ ăn bốn
ngày, không đếm xỉa gì đến lời khuyên của các bạn đồng tu. Cơm trong bát
đã thối rữa, bình bát thì lên mốc, Nhưng khi nghe tin Thế Tôn sắp đi xem
xác Sirimà, đang nằm liệt
giường ông tức tốc nhỏm dậy. Và khi có người hỏi ông đi không, ông đáp
không cần suy nghĩ: "Chắc chắn là tôi đi". Rồi ông hắt bỏ cơm thiu rữa và
cất bát trong giỏ lưới xong ra đi.
Thế Tôn và chúng Tỳ-kheo tăng đứng một bên
thi thể. Chúng Tỳ Kheo Ni và đoàn tùy tùng của vua với nam nư cư sĩ đứng
bên kia. Thế Tôn hỏi vua:
- Ðại vương, người đàn bà này là ai?
- Bạch Thế Tôn,
Sirimà, em của
Jìvaka.
- Sirimà
à?
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
- Vậy thì hãy đánh trống loan hết phố thành
ai bỏ ra một ngàn đồng sẽ được sở hữu cô ta.
Chẳng có ai "ừ hử" gì cả. Phật bảo vua hạ
giá xuống thấp. Từ trăm xuống đến chục, rồi đến xu, một phần hai xu, một
phần tư xu, một phần tám xu, cũng chẳng ai muốn lãnh nàng dù là cho không.
Phật liền dạy:
- Các Tỳ-kheo! Các ông thấy rõ giá trị của
một người đàn bà dưới mắt dân chúng chứ. Trong thành này, trước đây người
ta dám bỏ cả ngàn đồng để hân hạnh qua một đêm với người đàn bà này. Nhưng
bây giờ không ai chịu lãnh nàng dù được cho không, vì lẽ sắc đẹp đã tàn
tạ, không còn nữa. Nhìn xem, các Tỳ-kheo, thi thể này tàn rụi và thối rữa.
Và Phật đọc Pháp Cú:
(147)
Hãy xem hình bóng đẹp,
Chỗ chất chứa vết thương,
Bệnh hoạn nhiều suy tư,
Thật không gì trường cửu.
3. Bà Ni Già
Thân
này bị suy già ...
Phật dạy câu trên tại Kỳ Viên, liên quan đến
ni cô Uttarà.
Ni cô vẫn tiếp tục hành hương khất thực cho
đến một trăm hai mươi tuổi. Một hôm, gặp một Tỳ-kheo, bà dâng hết thức ăn
trong bát, không chừa lại gì cho mình. Ngày thứ hai và tiếp ngày thứ ba,
Uttarà cũng lại gặp và dâng
cúng cho vị Tỳ-kheo đó tại chỗ cũ.
Ðến ngày thứ tư,
Uttarà đang đi khất thực như
thường lệ thì gặp Phật ở nơi thật đông người. Bà bước lui, lá y bà bị
tuột, bà giẫm chân lên, vướng víu nên té ngã. Thế Tôn đến gần bà và bảo:
- Sư muội, thân của ngươi suy yếu theo tuổi
già, không còn bao lâu sẽ hoại diệt.
Và Phật đọc Pháp Cú:
(148)
Thân này bị suy già,
Ổ tật bệnh mỏng manh,
Nhóm bất tịnh đổ vỡ,
Chết, chấm dứt mạng sống.
4. Nhóm Tỳ
Kheo Cả Tin
Như
trái bầu mùa thu...
Phật đã nói tại Kỳ Viên câu trên liên quan
đến nhóm Tỳ-kheo cả tin.
Năm trăm Tỳ-kheo nhận đề mục thiền quán từ
Thế Tôn, rút vào rừng nỗ lực phấn đấu thiền định. Nghĩ rằng mình không còn
tham ái và đã hoàn thành tu tập, họ ra khỏi rừng đến báo với Thế Tôn đã
chứng đắc. Họ vừa đến ngoài cổng tinh xá, Thế Tôn vội bảo Trưởng lão A-nan
rằng họ chưa có duyên gặp Phật, xin đến lò thiêu trước rồi trở lại sau.
Thay vì thắc mắc tại sao, các Tỳ-kheo bảo
nhau "Ðức Phật là bậc đại trí, chắc chắn Ngài có ý". Họ tuân hành đến lò
thiêu và trông thấy các thi thể. Với các thi thể để lâu đến một hai ngày
thì họ thấy ghê tởm, các thi thể mới chết còn tươi rói lại kích động lòng
dục của họ. Lúc đó họ mới nhận ra tham ái vẫn còn trong lòng. Thế Tôn ngồi
trong hương thất phóng quang ảnh đến đối diện với các Tỳ-kheo bảo:
- Này các Tỳ-kheo, thấy nguyên bộ xương mà
các ông thích thú tham đắm xấu xa thì có hợp lẽ không?
Rồi Ngài đọc Pháp Cú:
(149)
Như trái bầu mùa thu
Bị vất bỏ quăng đi,
Nhóm xương trắng bồ câu,
Thấy chúng còn vui gì?
5. Ni Cô Và
Bóng Sắc
Thành
này làm bằng xương...
Phật đã dạy như thế tại Kỳ Viên, liên quan
đến ni cô Janapada-Kalyànì Rùpanandà
Cô nghĩ rằng: "Anh cả của ta đã từ bỏ vinh
quang của quyền uy, trở thành Tỳ-kheo, và giờ đây là người siêu việt ở thế
gian, là Phật. Con Ngài là Ràhula
Kumàra, cũng là tăng sĩ. Chồng ta là tăng và cả mẹ ta cũng là
ni. Cả gia quyến đều sống đời xuất gia, tại sao ta vẫn kéo dài đời tại
gia?" Do đó cô muốn đi tu, gia nhập Ni chúng, không phải với lòng tin mà
vì lòng thương gia quyến. Vì có vẻ đẹp tuyệt trần nên cô có tên
Rùpa.
Một hôm nghe Thế Tôn giảng: "Cái đẹp của sắc
là vô thường, hệ lụy với khổ đau, phi thực; thọ, tưởng, hành, thức cũng
đều như thế". Cô cho rằng Thế Tôn đã nhìn thấy cái xấu trên thân xác của
mình, dù rất đẹp để nhìn rất xinh để ngắm. Do đó cô không thích diện kiến
Thế Tôn nữa.
Dân cư ở Xá-vệ thường cúng dường sáng sớm,
tiếp tục bổn phận của ngày Bát quan trai. Buổi chiều ăn mặc sạch sẽ tươm
tất, tay cầm hương hoa, họ tụ tập tại tinh xá để nghe pháp, Ni chúng cũng
thế. Nghe pháp xong, họ vào thành ca tụng công đức của Thế Tôn.
Có bốn tiêu chuẩn để người ta phán đoán về
Như Lai và lấy làm mãn nguyện:
1. Trên điều họ thấy được là thân kim sắc
của Phật, trang nghiêm với ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp.
2. Trên điều họ nghe được về đức hạnh của
Phật qua biết bao trăm kiếp, và nghe Phật âm gồm có Bát Diệu khi Ngài
thuyết pháp.
3. Trên sự khổ hạnh của Phật.
4. Trên sự nhận xét về Ngài là chính trực,
có thập lực, có trí, an tĩnh, Phật là bậc độc tôn không ai sánh bằng.
Rùpanandà
nghe Ni chúng và nữ cư sĩ kể lại lời ca tụng Như Lai, nhưng cô cho rằng họ
xứng tán quá lố đối với anh mình. Nếu như Ngài định chỉ trích sắc đẹp của
cô trong chỉ một ngày thôi, Ngài sẽ nói nhiều đến đâu trong khoảng thời
gian ấy? Rồi cô có ý định đi nghe pháp, nhìn Thế Tôn rồi trở về mà không
muốn cho ai thấy mình. Ni chúng vui sướng dẫn
Rùpanandà cùng đi, vì từ lâu
cô không muốn đến hầu Phật, có cô Ngài sẽ thuyết pháp với nhiều chi tiết
phong phú hơn.
Thế Tôn biết trước hôm nay
Rùpanandà đến đảnh lễ. Và để
dạy dỗ người quá đắm trước thân mình, để làm tiêu tan lòng kiêu hãnh của
nàng vì ỷ có sắc đẹp, Ngài sẽ dùng chính sắc đẹp thân thể làm phương tiện,
giống như phải dùng gai lễ gai. Thế Tôn liền hiển thần thông: một thiếu nữ
mười sáu xuân xanh, đẹp chưa từng thấy mặc bộ y phục đỏ thẫm, trang điểm
với tất cả món trang sức, đứng trước Thế Tôn, cầm quạt phe phẩy. Chỉ có
Phật và Rùpanandà trông
thấy cô gái.
Rùpanandà
vào tinh xá với Ni chúng. Cô đứng phía sau, năm vóc gieo xuống đảnh lễ
Phật và ngồi xuống chỗ Ni chúng. Rồi cô quan sát Thế Tôn từ đầu đến chân.
Rực rỡ xán lạn với ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, hào quang bao
quanh tỏa rộng đến hai mét. Rồi cô thấy cô gái đứng cạnh Phật và cô quan
sát gương mặt sáng rực như trăng rằm của cô gái. Ngắm lại thân mình, cô
thấy mình chẳng khác gì con quạ đang đứng trước con ngỗng chúa thân kim
sắc. Cô trợn tròn mắt vì mái tóc thiếu nữ, ôi thật thanh tú. Cô say mê
từng bộ phận trên người thiếu nữ, và nóng lòng muốn mình cũng được như
thế. Thế Tôn biết được ý tưởng của cô nên bắt đầu thuyết cho cô bài pháp
sau. Thế Tôn hóa hiện thiếu nữ từ mười sáu tuổi lên hai mươi tuổi.
Rùpanandà nhận ra ngay bóng
sắc này không bằng trước đây. Rồi thiếu nữ thành thiếu phụ một con, đến
trung tuần và cuối cùng là một lão bà già khụ.
Rùpanandà theo dõi từng giai
đoạn biến hóa, mỗi lúc vẻ đẹp chỗ này mất, sắc tươi chỗ kia hết. và khi
đứng đó là bà lão răng rụng, tóc bạc, lưng còng, oằn xuống như chiếc rui
nhà hình chữ nhân, phải tựa lên gậy, tay chân run rẩy.
Rùpanandà không khỏi ghê tởm.
Phần cuối bài thuyết pháp của Phật là bà lão
lâm bệnh. Ném gậy và quạt đi, bà kêu thét lên, té xuống đất, lăn qua lăn
lại trên đống phân và nước tiểu của mình.
Rùpanandà nhìn và muốn lợm
giọng. Rồi đức Phật cho thấy cái chết của bà lão. Liền đó thi thể bà
trương phồng, từ chín lỗ mủ chảy ra có dạng như bấc đèn và có cả giun sán.
Quạ và chó nhào lên người bà xé xác. Sự kiện này làm chấn động
Rùpanandà khôn kể. Cô thấy rõ
ngay chính chỗ này người đàn bà này già đi, lâm bệnh rồi chết; và thân của
cô cũng sẽ như thế. Từ cái thấy thân mình nằm trong sự vô thường, cô thấy
thân thể mình hệ lụy đến khổ đau, và do đó phi thực.
Liền đó, ba pháp (già, bệnh, chết) giống như
nhà bị lửa thiêu đốt, hoặc như dây thừng quấn ngang cổ cô, hiển hiện trước
mắt Rùpanandà khiến tâm cô
đi vào thiền định. Tuy vậy, Phật biết cô chưa thể chứng quả, nên đọc thêm
bài kệ để hỗ trợ cho cô như sau:
Hãy nhìn, Nandà!
Sự liên kết những bộ phận gọi là thân,
Nó là bệnh tật, bất tịnh, thối tha, rỉ chảy.
Thật là ngu ngốc nếu ham muốn nó.
Thân này như thế nào, thân kia cũng thế,
Thân kia ra sao, thân này cũng sẽ vậy.
Hãy nhìn các yếu tố của thân đều là không.
Ðừng trở lại thế gian,
Hãy dập tắt tham ái khiến tái sanh,
Và ngươi sẽ đi trong an tĩnh.
Hướng tâm ý thuận theo giáo lý Phật,
Rùpanandà chứng quả
Tu-đà-hoàn. Vì muốn cho cô tiến lên Tam đạo và Tam quả trên nữa, đẩy cô
thiền định thêm về lý không. Thế Tôn dạy thêm:
- Này
Rùpanandà, đừng nghĩ rằng thân này có thực, không một chút gì
là thực trong thân này. Thân này là thành trì làm bằng xương, do ba trăm
khúc xương dựng lên.
Và Ngài đọc Pháp Cú:
(150)
Thành này làm bằng xương,
Quét tô bằng thịt máu,
Ở đây già và chết,
Mạn, lừa đảo chất chứa.
Cuối bài kệ, ni cô chứng quả A-la-hán, và
nhiều người cũng thọ trì được bài kệ này.
6. Hoàng Hậu
Mallikà Và Con Chó
Xe
vua đẹp cũng già...
Tại Kỳ Viên Phật đã dạy câu trên liên quan
đến hoàng hậu Mallikà.
Ngày kia hoàng hậu
Mallikà vào phòng tắm. Rửa mặt
xong, bà cúi người xuống và rửa chân. Không dè con chó cưng của bà cũng
vào theo. Nó thấy thế bèn làm hạnh bất tịnh với bà, và bà cứ để nó tiếp
tục. Từ tầng trên cung điện nhà vua nhìn thấy hết, sau đó mắng nhiếc bà
thậm tệ. Bà tìm cách chối quanh, nhưng nhà vua khẳng định:
- Chính mắt ta đã thấy. Chết tiệt đi, con
tiện tỳ khốn kiếp!
Bà vẫn chống chế:
- Tâu đại vương, thật lạ kỳ! Ai bước vào
phòng tắm ấy, người ở ngoài nhìn vào đều thấy thành hai.
- Mi nói dối.
- Nếu bệ hạ không tin , xin hãy vào phòng
tắm, thiếp sẽ ở ngoài nhìn vào.
Vua quả là thật thà, cả tin nên làm theo lời
bà. Ðột ngột bà ở ngoài la thất thanh:
- Nhà vua điên khùng kia! Sao làm điều ô uế
với con dê cái?
- Ái khanh, ta có làm như thế đâu!
- Chính mắt thiếp thấy!
Vì thế nhà vua tin lời giải thích của hoàng
hậu, là ai vào phòng tắm đều bị thấy thành hai.
Nhưng
Mallikà cảm thấy bất an. Tuy đã dối gạt được nhà vua, vì ông đã
là một tên ngu ngốc, nhưng bà đã phạm tội trọng, và còn sai quấy khi kết
tội nhà vua. Thế Tôn sẽ biết tội của bà, cả hai Ðại đệ tử và tám mươi
Trưởng lão cũng biết. Tội lỗi trầm trọng biết bao! (Trước đó bà và vua
cúng dường rất nhiều của báu, số tiền lên đến một trăm bốn mươi triệu
đồng. Riêng đức Như Lai được cúng dường bốn món vô giá: một chiếc lọng
trắng, một chiếc giường, một ghế ngồi và một vật đỡ chân).
Mallikà
lúc hấp hối lại quên hẳn sự cúng dường, chỉ nhớ đến hành động xấu ác mình
đã phạm, do đó bị đọa vào địa ngục A-tỳ. Vua Ba-tư-nặc rất yêu bà
Mallikà nên buồn khổ vô cùng.
Lễ tang xong, vua đến gặp Phật, ý muốn hỏi xem bà sanh ở đâu. Thế Tôn biết
trước, nên khôn khéo không để vua nhớ lý do đi đến tinh xá. Phật cứ thuyết
pháp, vua nghe xong hoan hỷ hồi cung. Như thế suốt bảy ngày vua không thể
nào nhớ để hỏi.
Còn
Mallikà, sau bảy ngày rên siết trong địa ngục, được giải thoát
và tái sanh vào cõi trời Ðâu-suất.
(Sở dĩ Phật phải làm như thế vì
Mallikà rất được sủng ái. Nếu
biết bà, một người có niềm tin kiên cố, bố thí cúng dường rất nhiều mà rơi
vào địa ngục, thì số phận của vua sau này sẽ ra sao? Nhà vua sẽ hiểu sai
lạc sanh ra hoài nghi, không tiếp tục cúng dường năm trăm Tỳ-kheo nữa, và
như thế vua sẽ đọa vào địa ngục).
Vào ngày thứ tám, Thế Tôn ra ngoài khất thực
một mình. Ðến cổng hoàng cung vua nghe tin, cầm bát của Phật định mang lên
sân thượng cung điện. Nhưng Phật muốn ngồi ngay nhà để xe, vua bèn dâng
chỗ ngồi nơi đó và cúng dường thức ăn loại cứng loại mềm. Rồi nhà vua đảnh
lễ Phật hỏi lại câu đã quên suốt bảy ngày qua. Phật đáp:
- Vào cung trời Ðâu-suất, đại vương ạ.
Vua vẫn còn buồn khổ nên than:
- Bạch Thế Tôn, từ khi nàng đi về cõi khác,
con người tôi không còn sống nữa.
Phật an ủi:
- Ðại vương, chớ nên đau lòng. Ðó là quy
luật bất biến cho mọi chúng sanh.
Rồi Phật hỏi tiếp:
- Ðại vương, xe này của ai?
- Bạch Thế Tôn, của ông tôi.
- Còn xe này?
- Của cha tôi, bạch Thế Tôn.
- Còn xe kia.
- Của tôi.
Ðức Phật bèn dạy:
- Ðại vương, xe của cha còn tốt hơn xe ông
nội, cũng vậy xe của đại vương còn tốt hơn xe của cha. Sự suy tàn cũng sẽ
làm hư hoại thân này. Ðại vương, chỉ có đức hạnh chân chánh mới không hư
hoại.
Và Phật đọc Pháp Cú:
(151)
Xe vua đẹp cũng già,
Thân này rồi sẽ già,
Pháp bậc thiện không già.
Như vậy bậc chí thiện,
Nói lên cho bậc thiện.
7. Một Tỳ
Kheo Thường Nói Không Ðúng Chỗ
Người
ít nghe kém học...
Phật dạy câu này tại Kỳ Viên, liên quan đến
Trưởng lão Ca-lưu-đà-di.
Trưởng lão này ưa đến các nhà nơi dân chúng
làm lễ và đọc kệ về tang tế như "Họ đứng bên ngoài cõi chết". Thay vì nói
những lời thích hợp như thế, có nghĩa là còn sống mãi, khi tang lễ đang
tiến hành ông lại nói những câu kệ không dính dáng như "Bố thí và xót
thương". hoặc một câu trong kinh Kim Cang "Bất cứ tài sản nào có được, đời
này cũng như đời sau".
Thật ra, bất kể đi đến đâu, nếu ông dự định
nói một điều gì đó thì khi mở miệng cũng khác hẳn, và chính ông không biết
mình đã lỡ lời nói không đúng.
Các Tỳ-kheo nghe ông nói bèn trình lên Phật:
- Bạch Thế Tôn! Ca-lưu-đà-di đi đến chỗ lễ
lạc hay tang ma có lợi ích gì? Ðiều đáng phải nói, Ca-lưu-đà-di nói trật
lất.
Thế Tôn đáp:
- Các Tỳ-kheo! Ðây không phải lần đầu
Ca-lưu-đà-di nói như thế mà ở kiếp trước ông ta luôn luôn không nói điều
đúng rồi, lại nói trật lất.
Chuyện quá khứ
7A.
Aggidatta, Somadatta Và Nhà
Vua
Xưa, có một Bà-la-môn tên là
Aggidatta ngụ tại Ba-la-nại có
con là Somadatta theo hầu
vua rất được sủng ái. Ông sống bằng nghề nông, chỉ có hai con bò đực, lại
chết mất một con. Ông bảo con xin nhà vua con bò khác. E vua hiểu lầm mình
lợi dụng quyền chức để xin xỏ,
Somadatta bảo cha trực tiếp đến xin vua, và sợ ông không biết
ăn nói, anh chịu khó chỉ dạy thật tỉ mỉ. Anh dẫn cha đến bãi thiêu xác tên
là Bụi Cuscus, nhặt cỏ bó
thành từng túm, bảo:
- Ðây là nhà vua, đây là phó vương, đây là
tổng tư lệnh quân đội. Vào hoàng cung cha phải đi vào như thế này đây, lùi
bước như thế này đây. Rồi cha tâu lên nhà vua trước, phó vương sau. Ðến
gần vua, cha phải tâu "Bệ hạ cao quý muôn năm!" Và đứng như vầy, rồi đọc
bài kệ sau:
Tôi có hai con bò đực
giúp tôi cày bừa.
Nhưng một con đã chết,
Xin cho tôi con khác, vương tử anh hùng!
Bà-la-môn mất hết một năm mới thuộc bài kệ
trên. Ông cho con biết, rồi hai cha con cùng mang lễ vật lên đường. Ðến
nơi, Somadatta đến ngồi vào
chỗ cận vua. Bà-la-môn một mình mang lễ vật đến sân rồng. Vua vui mừng
thấy ông, hỏi thăm vồn vã:
- Chào ông bạn! Ông bạn đã đi đường xa, hãy
ngồi lên giường này và cho ta biết ông bạn cần chi?
Bà-la-môn lấy hết sức mình đọc bài kệ một
lèo:
Tôi có hai con bò đực
giúp tôi cày bừa,
Nhưng một con đã chết,
Xin lấy con còn lại, vương tử anh hùng!
Vua ngạc nhiên hỏi:
- Nói gì lạ vậy, ông bạn? Hãy lặp lại!
Nhưng ông vẫn nhắc lại y như trước. Vua biết
ông lỡ lời nói ngược lại ý của mình, bèn cười bảo:
-
Somadatta, chắc ngươi có nhiều bò đực ở nhà.
Somadatta
thưa:
- Tâu bệ hạ, nhiều bằng số bệ hạ đã ban cho
chúng tôi.
Vua hài lòng với câu trả lời của vị Phật
tương lai, nên ban cho Bà-la-môn mười sáu con bò đực, thêm nữ trang và đồ
gia dụng, và một ngôi làng để trú ngụ. Như thế vua đã ban cho Bà-la-môn
quà tặng xứng đáng và vinh dự to lớn.
Phật kể chuyện xong, đồng hóa như sau:
- Thời đó nhà vua là A-nan. Bà-la-môn là
Ca-lưu-đà-di và Somadatta
chính là Ta.
Và Ngài nói thêm:
- Này các Tỳ-kheo! Ðây không phải lần đầu
tiên ông ta không thể nói đúng việc đúng thời vì quá ngu si. Thực vậy,
người ít nghe kém học không khác gì con trâu đực.
Phật đọc tiếp Pháp Cú:
(152)
Người ít nghe kém học,
Lớn già như trâu đực,
Thịt nó tuy lớn lên,
Nhưng tuệ không tăng trưởng.
8. Kệ Của
Trưởng Lão A-Nan
Lang
thang bao kiếp sống...
Câu này Phật thốt ra khi ngồi dưới cội
bồ-đề, sau này nói lại cho Trưởng lão A-nan để đáp một câu hỏi.
Dưới cội bồ-đề, trước khi mặt trời lặn, Phật
chiến thắng Ma vương; đầu đêm, Ngài vén màn vô minh đã bao phủ từ nhiều
kiếp; giữa đêm, đắc thần thông; cuối đêm, vì lòng thương xót chúng sanh,
Ngài tập trung tư tưởng vào lý nhân duyên, thiền quán theo chiều thuận và
chiều nghịch, và hừng đông Thế Tôn giác ngộ viên mãn. Sau đó, như vô lượng
chư Phật đã làm, Ngài long trọng phát biểu bài kệ sau:
(153)
Lang thang bao kiếp sống,
Ta tìm nhưng chẳng gặp,
Người xây dựng nhà này,
Khổ thay phải tái sanh!
(154)
Ôi! Người làm nhà kia!
Nay ta đã thấy ngươi!
Ngươi không làm nhà nữa.
Ðòn tay ngươi bị gãy,
Kèo cột ngươi bị tạn.
Tâm ta đạt tịch diệt,
Tham ái thảy tiêu vong.
9. Ðại Phú,
Con Của Chưởng Khố
Lúc
trẻ không phạm hạnh...
Thế Tôn đã dạy câu này tại
Isipatana, liên quan đến
Mahàdhana (Ðại Phú) con của
chưởng khố.
Ðại Phú sanh tại Ba-la-nại, nhà giàu, gia
sản trị giá tám trăm triệu của cải nhiều như thế, nên ông bà không cần
phải cho con làm việc gì khác hơn ngoài vui chơi thỏa thích. Do đó Ðại Phú
chỉ học hát và chơi đàn. Một nhà giàu khác trong thành cũng có tài sản tám
trăm triệu sanh bé gái. Vì đồng ý nghĩ nên cô bé cũng được cha mẹ chỉ cho
học ca hát và nhảy múa. Hai đứa trẻ lớn lên, họ cho thành hôn với nhau
theo nghi lễ tập tục. Cha mẹ hai bên qua đời khiến gia sản hai trẻ tăng
gấp đôi số tám trăm triệu.
Thường lệ, mỗi ngày ba lần, con của chưởng
khố phải đến hầu vua. Một bọn bất lương trong thành khiếm cách rù quến Ðại
Phú để trục lợi. Chúng kiếm rượu và các thứ cần thiết, ngồi một chỗ rình
rập con đường Ðại Phú sắp đi qua. Thấy anh ta, chúng đến gần, lấy rượu ra
uống, cho muối và đường vào miệng, nhét rễ và củ hành vào răng nhai ngấu
nghiến rồi cất tiếng:
- Hãy sống đến trăm tuổi, công tử con của
chưởng khố! Với sự đỡ đầu của công tử, chúng tôi sẽ được ăn uống thỏa
thuê!
Ðại Phú ngạc nhiên hỏi tiểu đồng theo sau:
- Mấy người này uống gì thế?
- Thưa công tử, một loại rượu.
- Ngon không?
- Thưa công tử, trên thế gian này không gì
sánh bằng.
- Thế thì ta cũng uống.
Rồi Ðại Phú bảo tiểu đồng mang thêm một chút
rượu nữa... và uống hết. Chẳng bao lâu bọn bất lương biết rằng Ðại Phú đã
ghiền rượu. Chúng tụ tập quanh ông ta, càng lúc càng đông. Mỗi lần đi uống
anh phải tiêu một đến hai trăm đồng. Sau đó anh tập tành chất tiền từng
đống để gọi rượu và các thứ như:
- Lấy tiền mua hoa về cho ta!
- Cầm tiền, mang hương về cho ta.
- Người này khéo đổ súc sắc, người kia nhảy
giỏi hát hay, người đó đàn tuyệt! Cho người này một ngàn, cho người kia
hai ngàn!
Ném tiền qua cửa sổ như thế, chẳng bao lâu
anh đã phung phí hết gia sản tám trăm triệu của mình. Rồi tám trăm triệu
của nhà vợ cũng tan như mây khói. Ðại Phú bán hết ruộng đất, vườn tược, xe
cộ... luôn cả ly chén, khăn trải giường, áo khoác. Về già anh bán luôn căn
nhà, dắt vợ ra đi và trọ ven tường nhà người khác, tay cầm mảnh sành ăn
xin đầu đường xó chợ, kiếm chút cơm thừa canh cặn qua ngaỳ.
Ngày kia, đứng trước cửa một ngôi nhà nghỉ,
anh nhận thức ăn thừa của mấy chú Sa-di và tập sự. Thế Tôn trông thấy thế
mỉm cười. Trưởng lão A-nan hỏi và được Ngài giải thích:
- A-nan! Nhìn xem Ðại Phú, con của chưởng
khố! Anh đã tiêu hết gia sản gấp hai lần tám trăm triệu để bây giờ dắt vợ
đi ăn xin. Nếu hồi trẻ anh biết sử dụng đồng tiền để kinh doanh thì đã
thành vị chưởng khố đệ nhất của thành này; và nếu anh lìa bỏ thế gian
thành Tỳ-kheo sẽ đắc quả A-la-hán, còn vợ anh chứng Tam quả. Nếu ở tuổi
trung tuần, anh không tiêu phí tài sản và biết làm ăn thì sẽ trở thành đệ
nhị chưởng khố thành này; và nếu lìa bỏ thế gian thành Tỳ-kheo sẽ đắc Tam
quả, còn vợ anh sẽ đắc Nhị quả. Nếu cuối đời mình, anh mới biết chuyển
hướng như đã kể, thì sẽ thành đệ tam chưởng khố, hoặc chứng Nhị quả còn vợ
anh chứng Dự-lưu. Nhưng bây giờ anh đã đánh mất hết tài sản thuộc về cư
sĩ, cũng như quả vị của đạo. Anh ta không khác gì con cò mắc cạn trong ao.
Rồi Phật đọc Pháp Cú:
(155)
Lúc trẻ không phạm hạnh,
Không tìm kiếm tiền bạc,
Như cò già bên ao,
Ủ rũ, không tôm cá.
(156)
Lúc trẻ không phạm hạnh,
Không tìm kiếm bạc tiền,
Như cây cung bị gãy,
Thở than những ngày qua.