Tích
truyện Pháp Cú
Thiền
viện Viên Chiếu
Nguyên tác: "Buddhist Legends",
Eugène Watson Burlingame
--- o0o ---
XIII.
Phẩm Thế Gian
1. Một Thiếu
Bữ Chế Giễu Thầy Tỳ Kheo Trẻ.
Chớ
theo pháp hạ liệt ...
Câu pháp này được Thế Tôn nói khi Ngài ở Kỳ
Viên, với một Tỳ-kheo trẻ.
Tích truyện:
Vào sáng sớm, một vị Trưởng lão và một
Tỳ-kheo trẻ đi đến nhà bà Visàkhà
để nhận phần cúng dường tại đấy, bà luôn luôn cúng bánh và cháo. Vị Trưởng
lão sau khi ăn cháo, bèn đi sang nhà khác, để thầy Tỳ-kheo ở lại. Lúc đó,
cô cháu gái của bà Visàkhà
đang giúp bà ngoại cúng dường các sư. Khi nàng rót nước vào bát cho thầy
Tỳ-kheo, thấy gương mặt mình phản chiếu trong nước, nàng mỉm cười; thầy
Tỳ-kheo nhìn vào và cũng cười.
Cô bé thấy thầy cười, bèn nói:
- Một chiếc đầu trọc cười.
Thầy nổi xung, mắng lại cô:
- Cô là kẻ trọc đầu, má cô, ba cô cũng trọc
đầu.
Cô bé òa khóc lên, vào bếp mách bà.
Bà
Visàkhà hỏi:
- Chuyện gì thế, cháu cưng?
Cô bé kể lại câu chuyện. Bà
Visàkhà lập tức đi đến chỗ
thầy Tỳ-kheo và thưa:
- Bạch Ðại Ðức, xin Ngài đừng phiền. Ngài
hiểu lầm chỗ này. Ðó chỉ là biểu hiện sự tôn trọng sâu xa đối với một vị
tu sĩ râu tóc cao sạch, tay cầm bình bát nứt bể đi khất thực trong mảnh y
vá víu.
Thầy Tỳ-kheo đáp nữ thí chủ:
- Ðúng thế, bà hiểu theo luật, tóc râu.. của
tôi đều phải cắt sạch. Nhưng cô bé này có được quyền hỗn láo gọi tôi là
"đầu trọc" không?
Bà
Visàkhà không thể nào khuyên can cả thầy lẫn cháu.
Lúc ấy, Trưởng lão trở về và hỏi:
- Chuyện gì thế, nữ thí chủ?
Sau khi nghe qua câu chuyện, Trưởng lão rầy
vị Tỳ-kheo:
- Thôi đi! Chú phải bình tĩnh. Không có gì
sỉ nhục cho một sư tóc tai cắt sạch, mặc áo và đi khất thực.
- Bạch Ngài, đúng vậy. Nhưng tại sao thay vì
khiển trách nữ thí chủ, Ngài lại khiển trách con? Ngài nghĩ xem có thích
đáng không, khi chế giễu một nhà sư bằng câu nói: "Thầy trọc đầu"?.
Vào lúc đó, đức Thế Tôn đi đến, Ngài hỏi:
- Chuyện gì vậy?
Bà
Visàkhà kể lại đầu đuôi câu chuyện.
Ðức Thế Tôn nhận biết thầy Tỳ-kheo có khả
năng chứng quả Tu-đà-hoàn, Ngài nghĩ thầm "Ta phải tiếp tay thêm để giúp
thầy Tỳ-kheo này". Ngài bảo bà Visàkhà:
- Nhưng này,
Visàkhà! Có thích đáng cho
cháu gái bà không, khi chỉ vì đệ tử Ta đi khất thực với râu tóc nhẵn nhụi,
đã chế nhạo và gọi các thầy là đầu trọc?
Thầy Tỳ-kheo trẻ lập tức nhảy lên, chắp tay
hướng về Thế Tôn với tất cả lòng thành khẩn, nói:
- Bạch Thế Tôn! Chỉ có Ngài hiểu đúng vấn
đề, mà ngay cả thầy con hay bà thí chủ giàu có này cũng không hiểu.
Ðức Phật biết thầy đã hòa dịu, bèn nói:
- Thái độ chế giễu, nhạo báng lấy đó làm vui
là thái độ thấp hèn không nên có, cũng như không nên sống buông thả phóng
dật.
Ngài đọc Pháp Cú:
(167)
Chớ theo pháp hạ liệt,
Chớ sống mặc, buông lung,
Chớ tin theo tà kiến,
Chớ tăng trưởng tục trần.
2. Ðức Phật
Về Thăm Ca-Tỳ-La-Vệ
Nỗ
lực, chớ phóng dật ...
Câu Pháp Cú này được đức Phật nói ra khi
Ngài đang ở Banyan Grove,
liên quan tới phụ vương Ngài.
Khi đức Phật trở về thành Ca-tỳ-la-vệ lần
đầu tiên sau ngày thành đạo, hoàng tộc đến trước đón tiếp Ngài. Vào dịp
này, để đánh đổ lòng kiêu ngạo của hoàng gia, Ngài dùng thần thông tạo nên
một con đường bằng châu báu ở trên không, Ngài đi qua đi lại ở trên đó,
vừa đi vừa thuyết pháp. Mọi người trong hoàng tộc đều sanh lòng tin phục,
khởi đầu là vua Tịnh Phạn. Và một trận mưa rơi trên thân tộc, khiến dân
chúng bàn tán sôi nổi. Ðức Phật nói:
- Này các Tỳ-kheo! Ðây không phải lần đầu mà
trận mưa rơi trên hoàng tộc của Ta, điều này đã xảy ra ở quá khứ.
Ngài nói Bổn Sanh
Vessantara.
Sau khi nghe Ngài thuyết pháp, hoàng tộc
đứng dậy ra về, không ai thỉnh mời đấng Ðạo sư. Vua Tịnh Phạn cũng nghĩ
rằng: "Nếu con ta không về nhà ta thì đi đâu?", nên nhà vua về cung điện,
không mời Phật. Tại hoàng cung, nhà vua ra lệnh chuẩn bị thức ăn và tòa
ngồi cho hai ngàn Tỳ-kheo. Ngày kế, đức Phật đi vào thành khất thực, Ngài
nghĩ thầm: "Khi chư Phật thời quá khứ trở về thành của phụ vương, các Ngài
đi thẳng về nhà hay đi khất thực như thường lệ?" Thấy rằng chư Phật đều đi
khất thực từng nhà, đức Bổn Sư cũng đi từng nhà xin ăn. Tiếng đồn đến tai
vua Tịnh Phạn, nhà vua vừa choàng áo vừa đi đến chỗ Phật phủ phục trước
Ngài và nói:
- Này con, sao con sỉ nhục cha đến thế? Cha
rất hổ thẹn khi thấy con đi xin ăn từng nhà. Chính thành phố này còn không
đáng cho con đi xin bằng kiệu vàng nữa là.
- Ðại vương! Ta không sỉ nhục Ðại vương. Ta
chỉ giữ đúng theo truyền thống của dòng dõi.
- Nhưng, này con! Truyền thống của dòng họ
ta là đi xin ăn từng nhà ư?
- Không, đại vương! Ðó không phải là truyền
thống của Ngài. Ðó là truyền thống của Ta, vì hàng nghìn chư Phật đã đi
từng nhà để xin ăn.
Ðức Phật nói Pháp Cú:
(168)
Nỗ lực, chớ phóng dật!
Hãy sống theo chánh hạnh.
Người chánh hạnh hưởng lạc,
Cả đời này, đời sau.
(169)
Hãy khéo sống chánh hạnh,
Chớ sống theo tà hạnh!
Người chánh hạnh hưởng lạc,
Cả đời này đời sau.
Vào cuối bài pháp, nhà vua chứng quả Dự lưu,
cả chúng hội cũng được lợi ích.
3. Năm Trăm
Tỳ Kheo Chứng Quả
Hãy
nhìn như bọt nước ...
Câu chuyện này xảy ra khi đức Bổn sư ở tại
Kỳ Viên với năm trăm Tỳ-kheo chứng quả.
Có năm trăm Tỳ-kheo nhận đề mục thiền định
từ đức Bổn Sư, trở về rừng và nỗ lực thiền định. Nhưng mặc dù gắng sức
chiến đấu hết mình, họ không thể nào phát triển tuệ giác.
Các thầy nghĩ thầm: "Chúng ta sẽ đổi đề mục
khác thích hợp với chúng ta hơn". Các thầy lại chỗ Phật, trên đường đi các
thầy thấy một ảo ảnh, tập trung mọi ý niệm về ảo ảnh ấy, các thầy khai mở
tuệ giác. Khi bước vào sân tu viện, trời đổ mưa, các thầy đứng đấy nhìn
những bọt nước nổi bập bềnh và tan nhanh chóng. Một tư tưởng trỗi dậy: "Tự
ngã của chúng ta như bọt nước nổi tan". Lập tức các thầy tập trung tư
tưởng vào ý nghĩ này. Ðức Bổn Sư đang ngồi trong hương thất, bèn hóa thân
đến trước các thầy, nói kệ:
(170)
Hãy nhìn như bọt nước,
Hãy nhìn như cảnh huyễn!
Quán nhìn đời như vậy,
Thần chết không bắt gặp.
Nghe xong, các thầy chứng quả A-la-hán ngay
tại chỗ.
4. Hoàng Tử
Vô Úy (Abhaya) Mất Hầu
Thiếp
Hãy
đến nhìn đời này ...
Câu chuyện này xảy ra khi đức Ðạo sư ở Trúc
Lâm (Veluvana), liên quan
tới hoàng tử Vô Úy.
Hoàng tử Vô Úy dẹp loạn ở biên giới về, vua
cha Tần-bà-sa-la rất vui lòng, ban thưởng cho hoàng tử một vũ nữ trẻ đẹp,
giỏi tài múa hát, và cho ở hoàng cung bảy ngày. Trong bảy ngày, hoàng tử
say mê ngắm vẻ lộng lẫy của cung điện phụ vương. Ngày thứ tám, chàng vào
nhà tắm bên sông, tắm xong vào vườn hoa ngồi xuống, y như tể tướng
Santati ngắm cô vũ nữ nhảy
múa, ca hát. Chẳng bao lâu, cũng y như cô vũ nữ của Tể tướng
Santati, cô vũ nữ này bị bệnh
và chết.
Hoàng tử Vô Úy rất buồn vì cái chết của nàng
vũ nữ. Bất chợt một ý nghĩ thoáng qua: "Chẳng có ai ngoài đức Thế Tôn có
thể làm tiêu tan nỗi buồn của ta". Chàng đi đến chỗ đức Phật và nói:
- Bạch Thế Tôn! Xin giải trừ nỗi buồn cho
con.
Ðức Phật an ủi chàng:
- Này hoàng tử! Trong vòng luân hồi vô thủy,
không thể đếm được bao nhiêu lần vũ nữ kia đã chết, và cũng không lường
được nước mắt mà hoàng tử khóc cho cô ấy.
Biết hoàng tử đã bớt buồn, đức Phật dạy
tiếp:
- Này hoàng tử! Không nên sầu não, chỉ có kẻ
khờ dại mới chôn mình trong bể ưu bi.
Ngài nói kệ:
(171)
Hãy đến nhìn đời này,
Như xe vua lộng lẫy,
Người ngu mới tham đắm,
Kẻ trí nào đắm say.
5. Thầy Tỳ
Kheo Và Cây Chổi
Ai
sống trước buông lung ...
Câu chuyện này được kể lại khi đức Phật ở Kỳ
Viên, liên quan đến Trưởng lão
Sammùnjani.
Trưởng lão
Sammùnjani luôn luôn quét dọn
từ sáng đến chiều không kể giờ giấc. Một ngày nọ, người cầm chổi đến thất
của Trưởng lão Revata
(Ly-bà-đa), thấy vị này vẫn tĩnh tọa như thường lệ. Trưởng lão nghĩ thầm:
"Nhà thầy này ăn không ngồi rồi, chỉ nhận thức ăn của thiện tín, rồi trở
về ngồi trong thất mình. Sao thầy không cầm lấy chổi, quét dọn ít ra cũng
được cái thất của mình?".
Trưởng lão Ly-bà-đa nghĩ thầm: "Ta sẽ cho
thầy một lời khuyên". Ngài gọi
Sammùnjani:
- Này huynh, hãy đến đây.
- Chuyện gì thế, thưa Tôn giả?
- Hãy đi tắm rồi trở lại đây với tôi.
Trưởng lão
Sammùnjani vâng lời, sau đó
đến ngồi một cách kính cẩn bên cạnh Trưởng lão Ly-bà-đa. Ngài Ly-bà-đa
nói:
- Này huynh! Một vị Tỳ-kheo không phải lúc
nào cũng quét dọn. Sáng sớm thầy Tỳ-kheo có thể quét dọn phòng xá, sau đó
đi khất thực. Khất thực xong về tinh xá, ngồi tĩnh tọa một phần đêm hoặc
một phần ngày, quán tưởng về ba mươi hai vật trong thân, biết rõ thân thể
bất tịnh. Vào buổi chiều, thầy có thể xả thiền và quét phòng một lần nữa.
Nhưng không bao giờ nên tiêu phí suốt ngày chỉ để quét dọn, hoặc tự cho
phép mình có thời gian rảnh rỗi.
Trưởng lão
Sammùnjani cẩn trọng vâng lời
Tôn giả Ly-bà-đa, chẳng bao lâu chứng A-la-hán.
Sau đó, tuy nhiên, khắp các phòng đều đầy
rác. Các Tỳ-kheo nói với Sammùnjani:
- Thưa huynh! Các phòng đều đầy rác sao thầy
không quét đi?
- Thưa chư Tôn giả! Trước đây tôi buông lung
nên thường quét dọn. Bây giờ tôi đã trở nên tinh cần, nên không quét.
Các Tỳ-kheo thuật lại với đức Phật:
- Trưởng lão ấy nói một đàng làm một nẻo.
Nhưng, đức Phật đáp:
- Này các Tỳ-kheo! Thầy ấy nói đúng. Trước
kia, trong những ngày phóng dật buông lung, thầy ấy để hết thì giờ trong
việc quét dọn. Nhưng bây giờ, thầy dành trọn thời gian trong niềm vui đạo
quả, và không quét dọn nữa.
Thế Tôn nói kệ:
(172)
Ai sống trước buông lung,
Sau sống không phóng dật,
Chói sáng rực đời này,
Như trăng thoát mây che.
6. Câu
Chuyện Của Chỉ Man
Ai
dùng các hạnh lành ...
Câu chuyện này xảy ra khi đức Phật ở Kỳ
Viên, liên hệ đến Trưởng lão Chỉ Man (Angulimàla
tức Ương-quật-ma-la).
Tôi nghe như vầy: Một thời, đức Phật ở tại
nước Xá-vệ, tinh xá Kỳ Thọ Cấp Cô Ðộc Viên. Bấy giờ trong nước của vua
Ba-tư-nặc (Pasennadi) có
một tên sát nhân đeo chuỗi tay người - Vô Não. Hắn ta rất hung bạo đẫm
máu, chỉ giết chóc phá hoại, không thương xót ai cả. Hắn tàn phá làng nào
làng ấy không sống sót, đi qua đô thị nào đô thị ấy hoang mạc, đã giết khu
vực nào khu vực ấy không tồn tại. Hắn giết hết người này sang người khác,
làm một xâu chuỗi bằng ngón tay các nạn nhân.
Vào một buổi sáng, đức Thế Tôn đắp y mang
bát vào thành Xá-vệ khất thực. Sau khi khất thực Ngài trở về dùng buổi
sáng, dọn dẹp phòng xá, rồi mang y bát vào khởi sự đi về con đường tướng
cướp Chỉ Man đang ẩn núp. Các kẻ chăn bò, chăn trâu, nông dân chạy đến,
thấy Thế Tôn đi về hướng ấy đã kêu lên:
- Này Sa-môn! Ðừng đi hướng đó. Về phía đó
có tên sát nhân Ương-quật-ma-la đang ẩn núp. Hắn ta tàn bạo, tay đẫm máu,
giết chóc tàn phá không nương tay. Hắn đến đâu là ở đó không còn sự sống.
Hắn giết người, làm thành một xâu chuỗi bằng ngón tay nạn nhân đeo trên
cổ. Sa-môn ơi! Thỉnh thoảng có từng nhóm mười người, hai mươi, ba mươi,
bốn mươi người đi chung với nhau trên đường này, và tất cả đều chết bởi
tay Ương-quật-ma-la.
Mặc cho họ lo lắng, đức Thế Tôn tiếp tục đi
trong im lặng. Lần thứ hai, lần thứ ba khẩn khoản yêu cầu Ngài đừng đi,
nhưng đức Thế Tôn vẫn im lặng đi tiếp.
Ương-quật-ma-la nhìn thấy Thế Tôn đi từ xa.
Hắn nghĩ thầm: "Thật lạ lùng! Thật kỳ đặc! Ðã từ lâu người đi đường thường
tụ tập thành từng nhóm mười người hoặc hai mươi người, ba mươi người, bốn
mươi người đi chung với nhau trên con đường này. Vậy mà giờ đây chỉ có một
Sa-môn đi một mình, không bạn đồng hành, như thể ông ta đang thắng trận.
Ðược thôi, ta giết Sa-môn này".
Ương-quật-ma-la xách gươm, nai nịt cung tên,
chạy theo sau Thế Tôn. Do thần lực của Phật, nên mặc dù hắn chạy hết tốc
lực, Thế Tôn đi bình thường, hắn vẫn không sao bắt kịp đức Phật. Hắn suy
nghĩ: "Thật phi thường! Thật lạ lùng! Ta đã từng nắm đứng cả voi, ngựa, xe
cộ, nai rừng khi chúng đang chạy. Vậy mà với Sa-môn đang đi thong thả kia,
ta chạy hết sức mình vẫn không bắt kịp". Hắn dừng lại kêu lớn:
- Sa-môn! Dừng lại! Hãy dừng lại, Sa-môn!
- Ta đã dừng. Ương-quật, ngươi cũng nên dừng
lại.
Ương-quật nghĩ thầm: "Thái tử dòng họ Thích
nói thật, phát ngôn thành thật, nhưng Sa-môn này nói đã dừng trong khi
đang đi. Ta phải hỏi ông mới được".
Ương-quật nói kệ:
Sa-môn!
Mặc dù đang đi, ông nói: "Ta đã dừng".
Còn tôi đang đứng, ông lại nói: "Ngươi chưa dừng".
Giờ đây, tôi xin hỏi câu này nhé!
Vì sao ông đã đứng mà tôi đang đi?
Thế Tôn trả lời:
- Này Ương-quật! Ta đứng lại từ lâu. Vì Ta
thường tự ái với mọi người.
Còn người không chút xót thương ai. Và vì
thế đã đứng còng ngươi chưa đứng, Ương-quật!
- Từ lâu tôi tôn kính Ngài, bậc trí tuệ phi
thường, đại ẩn sĩ rừng sâu. Giờ đay được nghe lời chỉ dạy, tôi sẽ từ bỏ
mọi hành động ác xấu.
Nói xong, tên sát nhân ném khí giới xuống
hố, phủ phục dưới chân Thế Tôn xin được làm đệ tử Ngài.
Ðức Phật từ bi, đấng trí tuệ đệ nhất, bậc
thầy của trời người, nói với tên sát nhân:
- Thiện lai, Tỳ-kheo!
Và chỉ như thế, đã biến y thành một Sa-môn.
Sau đó, Thế Tôn đi về thành Xá-vệ, có Thượng
tọa Ương-quật làm thị giả, Ngài đi vào tinh xá Kỳ Thọ Cấp Cô Ðộc Viên. Khi
ấy trước hoàng cung của vua Ba-tư-nặc (Pasenadi),
dân chúng tụ tập đông đảo và hô hoán:
- Muôn tâu Hoàng thượng! Có một tên sát nhân
trong lãnh thổ của đại vương tên Ương-quật-ma-la. Hắn khát máu, tàn bạo,
giết người không gớm tay. Hắn đi qua làng mạc, đô thị, phố xá nào, nơi ấy
không ai sống sót. Hắn giết người, lấy ngón tay kết thành chuỗi đeo cổ.
Xin đại vương trừng trị hắn.
Sáng sớm, vua Ba-tư-nặc rời hoàng cung với
năm trăm xa mã, đi về phía tinh xá. Nhà vua đi xe trên khoảng đường có thể
đi xe, xuống xa đi bộ đến chỗ Thế Tôn. Ðến nơi nhà vua cúi chào Phật và
cung kính ngồi một bên. Thế Tôn hỏi:
- Ðại vương có điều gì phiền nhiễu? Vua
Tần-bà-sa-la của nước ma-kiệt khiêu chiến chăng? Hay các hoàng tử
Licchavi của Tỳ-xá-ly gây hấn?
Hay vài kẻ cựu thù khác?
- Bạch đức Thế Tôn! Không, vua Tần-bà-sa-la
chẳng khiêu khích con. Nhóm Licchavi
cũng không. Chẳng có kẻ thù nào khác. Bạch Thế Tôn, có một tên
sát nhân tên Ương-quật-ma-la trong nước con. Hắn tàn bạo, khát máu, tàn
phá mọi đô thị, làng mạc, hắn đeo xâu chuỗi tay người. Và con không thể
nào trừng trị hắn.
- Này đại vương! Giả sử đại vương thấy
Ương-quậ với râu tóc cạo sạch, khoác y vàng từ bỏ đời sống gia đình sống
đời không gia đình, không sát sanh, không trộm cắp, không nói dối, chỉ ăn
ngày một bữa, sống đời Phạm hạnh, đạo đức chân thật. Khi ấy nhà vua sẽ đối
xử với y như thế nào?
- Bạch Thế Tôn! Con sẽ cúi chào người ấy,
con sẽ đứng dậy và mời ngồi, con sẽ xin được cúng dường y phục, thức ăn,
phòng xá, thuốc men cho vị ấy. Con sẽ bảo vệ, ủng hộ vị ấy tu hành với
chánh pháp. Nhưng, bạch Thế Tôn! Làm sao một người cực ác như thế lại có
thể hoàn toàn vâng theo những tín hiệu luân lý?
Khi ấy, Thượng tọa Ương-quật-ma-la ngồi cách
Phật không xa. Và đức Phật đưa tay chỉ cho nhà vua.
- Ðại vương, Ương-quật-ma-la đây!
Vua Ba-tư-nặc run lên vì sợ, chân tay lập
cập, tóc dựng đứng. Ðức Thế Tôn thấy thế khuyên nhà vua:
- Ðừng sợ hãi, đại vương! Ðừng sợ hãi! Ðại
vương không có gì phải sợ cả.
Ngay lúc đó, nhà vua lấy lại bình tĩnh, cơn
xúc động lắng xuống, nhà vua đến chỗ Thượng tọa Ương-quật-ma-la, hỏi thăm:
- Bạch Ðại đức, có phải Ngài là
Ương-quật-ma-la?
- Thưa vâng!
-Xin được phép biết tôn danh của thân phụ và
thân mẫu Ngài?
- Ðại vương! Thân phụ tôi họ
Gagga, thân mẫu tôi họ
Mantànì.
- Bạch đại đức! Vinh hạnh thay cho Thượng
tọa dòng Gagga cao quý, con
trai của Mantànì.
Trẫm sẽ tận tình cúng dường y phục, thức ăn,
phòng xá, thuốc men cho Ngài.
Nhưng khi ấy, Thượng tọa Ương-quật-ma-la đã
tuân theo các điều kiện khổ hạnh như: ở trong rừng, đi khất thực, mặc y
phấn tảo, chỉ giữ ba y nên trả lời:
- Ðại vương! Ba y tôi đã đủ.
Vua Ba-tư-nặc đến chỗ Phật, kính cẩn ngồi
một bên, và thưa:
- Bạch Thế Tôn! Thật kỳ diệu. Thế Tôn điều
phục người không thể điều phục, trấn an kẻ dấy loạn, chế ngự kẻ không thể
chế ngự. Thế Tôn điều phục không cần đến roi gậy, gươm đao với những kẻ mà
nếu chúng con có dùng đến roi gậy, gươm đao cũng không thể chế ngự nổi.
Bạch Thế Tôn! Bây giờ con phải về, có những việc phải làm, phải lưu tâm.
- Ðại vương cứ tùy nghi.
Vua Ba-tư-nặc đứng lên lễ Phật, đi nhiễu
quanh và trở về.
Một buổi sáng, Thượng tọa Ương-quật-ma-la
đắp y mang bát vào thành Xá-vệ khất thực. Và khi Thượng tọa đi theo thường
lệ từ nhà này sang nhà khác, Ngài thấy một bà mẹ đang đau đớn vì sắp sinh.
Thấy thế, Ngài nghĩ thầm: "Ôi! Chúng sanh đau khổ xiết bao".
Khất thực xong, Thượng tọa trở về, ăn sáng
xong, đi đến chỗ đức Phật đảnh lễ và ngồi một bên thưa:
- Bạch Thế Tôn! Sáng nay, con đi khất thực
trong thành Xá-vệ như thường lệ, và trông thấy một thiếu phụ đau đớn vì
sanh khó. Khi trông thấy cảnh ấy, con nghĩ thầm: "Chao ôi! Chúng sanh đau
khổ xiết bao!".
- Ðược rồi, này Ương-quật-ma-la, hãy trở vào
thành Xá-vệ, đến chỗ thiếu phụ ấy và nói rằng: "Này cô! Từ khi tôi sanh
ra, tôi không có ác tâm giết hại đối với bất cứ chúng sanh nào. Nếu điều
này đúng sự thật, xin an lành đến với cô và đứa bé sắp sanh".
- Nhưng, bạch Thế Tôn! Ðó là điều cố ý nói
dối, vì con đã cố ý giết hại bao nhiêu chúng sanh.
- Thôi, Ương-quật-ma-la hãy đến nói thế này:
"Này cô, từ khi tôi sanh vào dòng Thánh, tôi không cố ý giết hại bất cứ
người nào. Nếu điều này đúng sự thật xin an lành đến với cô, an lành cho
đứa bé sắp sinh".
- Thưa vâng.
Thượng tọa Ương-quật-ma-la vâng lời Thế Tôn,
trở vào thành Xá-vệ, đến nói với thiếu phụ....lập tức nàng được an ổn, đứa
trẻ chào đời an ổn.
Thượng tọa Ương-quật-ma-la sống độc cư, rút
lui khỏi thế gian, chuyên tâm quyết ý và chẳng bao lâu ngay đời này, tôn
giả an trú trong trí tuệ, đạt được Minh sát tuệ, và đạt được mục đích tối
cao của dòng Thánh, đó cũng là mục đích của những người trẻ tuổi từ bỏ
cuộc đời, từ bỏ gia đình sống không gia đình. Tôn giả tuyên bố: "Ðời này
là đời cuối, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, ta không còn trở lại đời
này". Thượng tọa đã chứng A-la-hán.
Vào một buổi sáng, Tôn giả Ương-quật-ma-la
đắp y mang bát vào thành Xá-vệ khất thực. Thấy Tôn giả, người thì ném đất,
kẻ ném gậy kẻ ném đá, đánh đập Tôn giả. Tôn giả trở về, đầu vỡ, máu chảy,
bát bể, y áo rách tả tơi, đi đến chỗ Thế Tôn. Thế Tôn trông thấy từ xa, an
ủi:
- Hãy nhẫn Bà-la-môn, hãy nhẫn Bà-la-môn,
ngươi đang chịu đau khổ hiện tại vì quả báo của những hành động ác, thay
vì chịu đau đớn ở địa ngục trong nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn
năm.
Giờ đây, Tôn giả Ương-quật-ma-la sống một
mình tu ẩn, hưởng niềm vui an lạc của giải thoát.
Tôn giả nói kệ:
(172)
Ai sống trước buông lưng
Sau sống không phóng dật,
Chói sáng rực đời này,
Như trăng thoát mây che.
(173)
Ai dùng các hạnh lành,
Làm xóa mờ nghiệp ác,
Chói sáng rực đời này,
Như trăng thoát mây che.
(382)
Tỳ-kheo tuy tuổi nhỏ,
Siêng tu giáo pháp Phật,
Soi sáng thế gian này,
Như trăng thoát khỏi mây.
Người
thù của ta, hãy lắng nghe giáo lý.
Người thù của ta, hãy quy y theo Phật.
Người thù của ta, hãy vun bồi người tốt,
Người chỉ tân hành giáo pháp của Phật.
Người thù của ta, hãy nghe giáo lý
Của người giảng hạnh nhẫn nhục,
Của người ca ngợi lòng vị tha không ác ý,
Và khi đến thời hãy tuân theo giáo lý ấy.
Người như thế không hại mình, hại người.
Người ấy sẽ đạt được Niết-bàn
Và che chở cho mọi chúng sanh.
(80)
Người trị thủy dẫn nước,
Kẻ làm tên nắn tên,
Người thợ mộc uốn gỗ,
Bậc trí nhiếp tự thân.
Có
người chỉ thị được bằng roi, câu móc, gậy gộc.
Ðức Phật dạy ta không bằng roi hay gươm.
Ngày xưa tên ta là "Sát nhân",
Nhưng nay ta tê "Bất hại".
Ngày xưa ta tên Ương-quật, kẻ giết người.
Ðược sanh vào dòng Thánh ta quy y theo Phật.
Ngày xưa ta tên Ương-quật, tay đẫm máu.
Tỉnh ra! Ta quy y Phật,
Mắt trí tuệ sáng ngời.
Làm điều ác rơi vào địa ngục,
Ta đã chịu quả ấy.
Giờ trả nợ xong, ta hưởng quả của ta.
(26)
Chúng ngu si thiếu trí,
Chuyên sống đời phóng dật.
Người trí, không phóng dật,
Như giữ tài sản quý.
(27)
Chớ sống đời phóng dật.
Chớ say mê dục lạc.
Không phóng dật, thiền định,
Ðạt được an lạc lớn.
Cung
kính, không thất lễ là lời dạy ta vâng theo,
Ta chẳng phải được chỉ dạy điều dở.
Ta đã bước vào hoàn cảnh tốt đẹp nhất,
Trong tất cả hoàn cảnh đã trải qua.
Ta đã chứng Tam minh,
Ta đã giữ giới Phật dạy.
Khi Tôn giả Ương-quật-ma-la nói xong kệ,
Ngài nhập Niết-bàn Vô dư. Các thầy Tỳ-kheo tụ tập ở Pháp đường bàn tán:
- Chư hiền, Trưởng lão ấy sanh về đâu?
Khi ấy, đức Thế Tôn đi đến, Ngài hỏi:
- Các Tỳ-kheo! Các ông ở đây bàn tán về
chuyện gì?
- Bạch Thế Tôn! Chúng con đang bàn về nơi
tái sanh của Trưởng lão Ương-quật-ma-la.
- Ông ấy đã vào Niết-bàn.
- Bạch Thế Tôn! Thế ư? Vào Niết-bàn sau khi
đã giết hết chừng ấy người?
- Ðúng thế! Này các Tỳ-kheo! Trước đây,
thiếu người hướng dẫn sáng suốt, ông ấy gây nên tội lỗi. Nhưng sau đó, khi
ông ấy vâng theo sự chỉ dạy của bậc minh sư, ông sống rất chánh niệm. Vì
thế, ông ấy xóa tan hành động ác quá khứ bằng việc lành.
Thế Tôn nói kệ:
(173)
Ai dùng các hạnh lành,
Làm xóa mờ nghiệp ác,
Chói sáng rực đời này,
Như trăng thoát mây che.
7. Cô Bé Dệt
Vải.
Ðời
này thật mù quáng ...
Câu chuyện này xảy ra khi đức Thế Tôn ở tinh
xá Aggàlava liên quan đến
một cô bé thợ dệt.
Một hôm, đức phật đi đến
Alavi. Dân chúng
Alavi thỉnh phật thọ trai. Thọ
trai xong, đức Phật dạy một bài pháp ngắn:
"Hãy quán niệm về sự chết, các người hãy tự
nhủ rằng: đời sống của ta mong manh. Cái chết của ta là điều cố nhiên.
Chắc chắn ta sẽ chết. Cái chết sẽ chấm dứt đời ta. Ðời sống không cố định,
cố định là cái chết. Ai không quán niệm về sự chết, sẽ sợ hãi khi giờ lâm
chung đến, và sẽ chết trong sợ hãi kinh hoàng, như một người đi đường gặp
rắn, không có gậy trong tay, run rầy dường nào. Còn người có quán niệm về
sự chết, sẽ không sợ hãi trong giây phút cuối của cuộc đời, và như một
người gan dạ thấy rắn từ xa, đã cầm gẫy hất nó đi. Vì thế, hãy quán niệm
về sự chết".
Mọi người nghe xong lại trở về đời sống bình
thường. Chỉ có một cô bé thợ dệt mười sáu tuổi tự nhủ "Lời dạy của đức
Phật thật kỳ diệu, phần ta, ta sẽ quán niệm về sự chết". Và cô bé quán
niệm suốt cả ngày đêm. Ðức Thế Tôn rời
Alavi đến Kỳ Viên. Cô bé cũng
tiếp tục quán niệm về sự chết trong ba năm.
Vào một ngày, sáng sớm Thế Tôn quán sán thế
gian, Ngài nhìn thấy cô bé xuất hiện trong tầm quan sát của Ngài. Ngài tự
hỏi "Những gì sẽ xảy ra?" Ngài chú ý đến sữ diễn tiến tiếp theo: "Từ ngày
cô bé này nghe Ta nói Pháp, đã thực hành quán niệm về sự chết troing ba
năm. Bây giờ, Ta sẽ đế Alavi
và hỏi cô bé ấy bốn câu, Ta sẽ khen cô bé, và Ta sẽ nói Pháp Cú: Ðời
này thật mù quáng. Nghe xong cô bé ấy sẽ chứng quả. Nhờ vậy, thính chúng
sẽ thâm hiểu lời dạy của Ta. Thế là Thế Tôn cùng năm trăm Tỳ-kheo lên
đường đến tinh xá Aggàlava.
Dân chúng
Alavi nghe tin Thế Tôn đến, họ
vào tinh xá thỉnh Phật thọ trai. Cô bé con người thợ dệt cũng nghe tin ấy,
tràn đầy hân hoan. Cô nghĩ: "Thế Tôn đã đến, bậc từ phục của ta, bậc đạo
sư, bậc thầy quý kính dung mạo như trăng rằm, đức Cồ-đàm Phật-đà". Cô tự
nhủ "Bây giờ, lần đầu trong ba năm nay, ta mới gặp Thế Tôn, người thân sắc
vàng chói, giờ đây ta được đảnh lễ thân kim sắc của Ngài, và nghe Ngài
giảng pháp vi diệu thấm đầy mật ngọt".
Nhưng cha cô trước khi đến xưởng dệt, đã dặn
cô:
- Này con, trên khung cửi của cha còn một
khổ vải chưa dệt xong, cha phải dệt xong hôm nay. Con hãy quấn chỉ vào
thoi cho đầy và mang gấp đến cha.
Cô gái nghĩ thầm: "Ta rất mong được nghe đức
Phật thuyết pháp, nhưng cha ta đã căn dặn như thế. Ta sẽ đi nghe pháp hay
đánh sợi cho cha ta?" Cô nghĩ tiếp: "Nếu ta không mang thoi đến, cha ta sẽ
đánh ta. Vậy thì phải đánh sợi cho đầy mấy con thoi, đem đến cho ông, đợi
dịp khác đi nghe pháp". Cô ngồi vào ghế và đánh sợi.
Dân chúng
Alavi đợi chờ Thế Tôn, cúng
dường thức ăn, sau khi ăn xong họ dọn bát và nghe Ngài chỉ dạy. Ðức Thế
Tôn tự nhủ: "Ta đến đây qua một khoảng đường ba mươi dặm chỉ vì một cô bé,
cô ấy chưa có mặt. Khi cô ấy đến, Ta sẽ giảng pháp". Vì thế, Ngài ngồi im,
thính chúng cũng lặng yên đợi chờ (Khi đức Phật làm thinh, không có người
hay trời nào dám thốt ra một câu).
Cô bé đã đánh thoi xong, bỏ vào giỏ và đem
đến xưởng dệt cho cha. Trên đường đi, cô đứng lại ngoài vòng thính chúng
và chăm chú nhìn Ðức Phật. Thế Tôn cũng nhìn thấy cô, và cô hiểu ý Ngài:
"Ðức Bổn sư ngồi trong pháp hội, tỏ dấu nhìn ta với ý muốn ta đến gần,
Ngài muốn ta đến nghe pháp vào ngay lúc này".
(Vì sao đức Thế Tôn chú ý cô bé? Vì Ngài
biết rằng nếu cô bé đi tiếp cô sẽ chết khi chưa xong việc, kiếp sau của cô
sẽ không biết ra sao. Nhưng nếu cô bé đến nghe pháp, cô sẽ chứng quả Dự
lưu và chắc chắn sẽ tái sanh lên cõi trời Ðâu-suất. Ngài biết cô bé phải
chết ngày hôm nay).
Với dấu hiệu của cái nhìn đức Phật, cô đến
gần Thế Tôn chiêm ngưỡng vầng hào quang sáu sắc chung quanh thân Phật,
cung kính đảnh lễ và kính cẩn đến gần Thế Tôn, cô ngồi vào chỗ một cách im
lặng với thính chúng chung quanh. Ðức Thế Tôn hỏi cô:
- Con từ đâu đến đây?
- Bạch Thế Tôn! Con không biết.
- Con sẽ đi đến đâu?
- Bạch Thế Tôn! Con không biết.
- Con biết hay không biết?
- Bạch Thế Tôn! Con biết.
- Con không biết phải chăng?
- Bạch Thế Tôn! Con không biết.
Sau bốn câu hỏi của Phật, thính chúng nổi
giận xì xào: "Coi kìa! Con bé, con lão thợ dệt nói như đùa với Thế Tôn.
Khi Ngài hỏi từ đâu đến nó phải đáp: "Từ nhà thợ dệt" chứ. Và khi Ngài hỏi
đi đâu, nói phải thưa là: "Ði đến xưởng dệt, mới phải chứ".
Thế Tôn bảo thính chúng im lặng, Ngài hỏi cô
bé:
- Này con! Khi Ta hỏi con từ đâu đến, vì sao
con trả lời không biết?
- Bạch Thế Tôn! Ngài cũng biết rằng con từ
nhà cha con là người thợ dệt đến đây. Vì thế khi Ngài hỏi con từ đâu đến,
con hiểu rằng ý của câu ấy là con từ đâu sinh ra đây. Nhưng con chẳng biết
con từ đâu sinh đến nơi này.
Phật khen ngợi:
- Lành thay! Lành thay! Này con, con đã trả
lời đúng câu hỏi của ta.
Ngài hỏi tiếp:
- Khi Ta hỏi con đi về đâu, vì sao con trả
lời không biết?
- Bạch Thế Tôn! Ngài cũng biết con đến xưởng
dệt với giỏ thoi trên tay. Nên khi Ngài hỏi con đi đâu, con hiểu ý của câu
ấy là khi rời nơi đây con tái sinh về đâu. Nhưng với con, sau khi chết con
chưa biết sinh về đâu.
- Con trả lời đúng câu hỏi của Ta.
Ðức Phật khen cô lần thứ hai, và hỏi tiếp:
- Khi Ta hỏi, con biết hay không, vì sao con
trả lời con biết?
- Bạch Thế Tôn! Vì con biết rằng chắc chắn
con sẽ chết, nên con đáp như thế.
- Con đã trả lời đúng câu hỏi của Ta.
Ðức Phật khen cô lần thứ ba, hỏi tiếp:
- Vì sao khi Ta hỏi con không biết hay
chăng, con trả lời rằng không biết?
- Bạch Thế Tôn! Ðiều con biết chắc là con sẽ
chết, nhưng chết vào lúc nào, vào ban đêm hay ban ngày, vào buổi sáng hay
bất cứ khi nào, con không thể biết, nên con trả lời không biết.
Ðức Phật khen ngợi lần thứ tư.
- Con đã trả lời đúng câu hỏi của Ta.
Ngài dạy thính chúng:
- Các người không hiểu ý câu nói của cô bé,
nên nổi giận. Với người không có tuệ nhãn, họ đui mù, chỉ người nào có tuệ
nhãn mới thấy được điều này.
Ngài nói kệ:
(174)
Ðời này thật mù quáng,
Ít kẻ thấy rõ ràng.
Như chim thoát khỏi lưới,
Rất ít đi thiên giới.
Cuối thời pháp cô bé chứng quả Dự lưu. Cô
cầm giỏ thoi đi đến chỗ cha mình. Ông đang ngồi ngủ bên khung cửi. Không
biết cha đang ngủ cô đưa giỏ thoi vào. Giỏ thoi chạm nhằm đầu khung cửi
gây nên tiếng động, cha cô choàng dậy tiếp tục kéo cửi, đầu khung văng
mạnh vào ngực cô bé cô ngã ra chết, sanh lên cõi trời Ðâu-suất. Cha cô
giật mình thấy con gái mình nằm sóng sượt, đầy máu và đã chết. Ông kinh
hoàng than khóc:
- Không có ai cứu khổ cho ta.
Ông đi đến chỗ Phật kể lại mọi việc và nói:
- Bạch Thế Tôn, xin cứu con.
Ðức Phật an ủi:
- Chớ ưu sầu, này thiện nam tử! Trong vòng
luân hồi vô tận, người đã từng khóc con nước mắt nhiều hơn nước bốn bể.
Ðức Phật nói về vòng luân hồi vô tận, người
thợ dệt nghe xong, bớt đau buồn, xin Phật được xuất gia.
Ông làm tròn bổn phận của một tu sĩ và chẳng
bao lâu chứng quả A-la-hán.
8. Ba Mươi
Vị Tỳ Kheo
Như
chim thiên nga bay ...
Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ
Viên, có liên quan đến ba mươi vị Tỳ-kheo.
Một hôm, có ba mươi vị Tỳ-kheo sống ở các xứ
khác đến thăm đức Phật. Tôn giả A-nan trông thấy các vị ấy đến khi đang
chuẩn bị vào hầu phật. A-nam nghĩ thầm: "Ta sẽ đợi đức Thế Tôn tiếp đón
các Tỳ-kheo này, sau đó ta mới vào hầu", và Tôn giả đợi ngoài cửa.
Phật đón tiếp các Tỳ-kheo, thuyết pháp một
cách hoan hỷ cho các vị. Sau đó, tất cả chứng quả A-la-hán. Các vị từ giã
Phật, bay lên hư không.
Các Tỳ-kheo đi rồi, A-nan đến chỗ Phật, hỏi:
- Bạch Thế Tôn, có ba mươi Tỳ-kheo đến đây,
họ ở đâu?
- Ðã đi.
- Bạch Thế Tôn, họ đi đường nào?
- Họ bay qua hư không.
- Bạch Thế Tôn, như vậy họ đã thoát khỏi
sinh tử?
- Ðúng thế! Này A-nan! Sau khi nghe Ta nói
pháp, họ đã chứng A-la-hán.
Lúc ấy, có một vài con thiên nga bay liệng
trên không. Ðức Phật nói:
- Này A-nan! Ai phát triển đầy đủ thần túc,
người ấy bay lượn như thiên nga.
Ngài nói kệ:
(175)
Như chim thiên nga bay,
Thần thông liện giữa trời,
Chiến thắng ma, ma quân,
Kẻ trí thoát đời này.
9. Chiến-Già
Vu Khống Phật.
Ai vi
phạm một pháp ...
Câu chuyện này xảy ra khi đức Phật ở tại Kỳ
Viên, liên hệ đến Chiến-già Ma-na (Cincà
Mànavikà).
Sau khi Phật thành đạo, vô số chư thiên và
loài người quy y theo đấng Thập Lực, cõi trời, cõi người tăng trưởng. Ðức
hạnh Ngài lan xa, danh dự và lợi dưỡng càng đổ dồn về Ngài. Về phía các
ngoại đạo, họ bị mất dần danh dự, lợi dưỡng, như con đom đóm mất ánh sáng
dưới ánh mặt trời. Họ tập trung trên đường, kêu gọi:
- Chỉ có Cồ-đàm là Phật thôi sao? Chúng tôi
cũng là Phật. Chỉ có cúng dường ông ấy mới đem lại nhiều phước báo thôi
sao? Cúng dường chúng tôi cũng đem lại nhiều phước báo vậy. Nêu cúng dường
chúng tôi nhiều phẩm vật như thế. Nên cúng dường chúng tôi, nên xưng tán
chúng tôi.
Nhưng mặc tình họ kêu gọi, cũng chẳng được
danh dự và lợi dưỡng.
Họ bèn bí mật nhóm họp và bàn định "Chúng ta
tìm cách bêu xấu Cồ Ðàm trước mọi người, để chấm dứt sự cúng dường, tôn
vinh y".
Lúc ấy, tại Xá-vệ có một du sĩ ni tên
Chiến-già. Nàng rất đẹp, dễ thương, như một tiên nương, toàn thân sáng
chói. Một người trong bọn ngoại đạo, bèn đưa kế hoạch "Với Chiến già,
chúng ta có thể bêu xấu Sa-môn Cồ-Ðàm, và chấm dứt mọi sự cúng dường cung
kính đối với ông ấy".
"Kế hoạch ấy được lắm", cả bọn tán đồng.
Chiến-già đi vào tu viện ngoại đạo, chào hỏi
và đứng chờ, nhưng các thầy không nói gì với cô. Cô hỏi:
- Các thầy thấy tôi có lỗi gì?
Cô hỏi ba lần, và lặp lại:
- Các Tôn Trưởng, tôi chỉ hỏi một câu. Thưa
các Tôn trưởng, tôi có lỗi gì? Sao các vị không nói với tôi?
Các ngoại đạo trả lời:
- Này chị, chị có biết Sa-môn Cồ-Ðàm? Người
đạ làm tổn hại chúng ta, đoạt mất danh dự và lợi dưỡng của chúng ta?
- Không, thưa các Tôn trưởng, tôi không biết
ông ấy. Nhưng tôi có thể giúp được gì trong việc này?
- Nếu chị muốn chúng ta thắng lợi, hãy tìm
cách bêu xấu Sa-môn Cồ-Ðàm, và làm chấm dứt danh dự, lợi dưỡng của ông ấy.
- Ðược thôi, tôi sẽ làm mọi cách có thể
được, đừng lo gì về việc này.
Chiến-già nói xong bèn khởi sự. Cô vận dụng
mọi khéo léo của một người đàn bà để đạt mục đích. Khi dân chúng thành
Xá-vệ nghe pháp ở Kỳ Viên trở về, cô mặc một chiếc áo choàng màu cánh
gián, mang hương hoa đi về phía tinh xá Kỳ Viên. Một người hỏi:
- Cô đi đâu vào giờ này?
Chiến-già đáp:
- Tôi đi đâu thì có can dự gì đến các người.
Cô trú đêm tại một tu viện ngoại đạo gần
tinh xá, và sáng sớm, khi mọi người chuẩn bị đi đến tinh xá thăm Phật buổi
sáng, cô sẽ trở lui ngược chiều, vào thành phố. Mọi người hỏi:
- Ban đêm cô ở đâu?
- Tôi ở đâu thì có can dự gì đến các người?
Khoảng một tháng rưỡi, khi có ai hỏi, cô đều
đáp:
- Ban đêm tôi ở trong hương thất Cô-Ðàm, chỉ
một mình.
Bằng cách ấy, cô gái khêu gợi sự nghi ngờ
trong lòng những người dễ tin, và họ bàn tán với nhau "Ðiều đó đúng hay
không?" Khoảng ba bốn tháng, cô thắt ngay lưng một sợi dây nịt, tạo cảm
tưởng rằng mình đang mang thai, cô mặc một chiếc áo đỏ, đi đâu cũng nói
"Tôi sắp có con với Sa-môn Cồ-Ðàm". Bằng cách ấy, cô lừa những kẻ ngu.
Tám, chín tháng trôi qua, cô cột một cái dĩa
gỗ trước bụng, mặc áo choàng phủ lên, làm cả người có vẻ mập mạp xồ xề
bằng cách lấy xương đập lên tay, chân, lưng, và ra vẻ mệt mỏi. Chiều nọ,
cô đến Pháp đường đứng trước đức Như Lai. Ở đấy trong vầng hào quang chói
ngời, Ngài đang thuyết pháp. Chiến-già đứng đó, mở miệng chửi rủa Thế Tôn.
- Này Sa-môn vĩ đại, quanh pháp tòa đám đông
tụ tập nghe ông thuyết pháp cũng thật là vĩ đại, âm thanh ngọt ngào, miệng
lưỡi ông mềm dẻo. Tuy nhiên, ông chính là người làm tôi mang thai và ngày
sanh sắp đến. Ông không cố gắng tìm một chỗ cho tôi nằm, không cung cấp
mật, dầu và những thứ tôi cần. Ông không làm tròn bổn phận, cũng không nói
với những người hằng cúng dường ông như vua Ba-tư-nặc, hay Cấp Cô Ðộc hay
bà Tỳ-xá-khư nữ thí chủ vĩ đại của ông, rằng "Hãy làm cho thiếu phụ này
những gì cần cho cô ấy". Ông biết rất rõ cách hưởng dục lạc, nhưng không
biết cách chăm sóc đứa con sắp sanh.
Cô chửi mắng Thế Tôn giữa hội chúng như một
người đàn bà cầm phẩn trên tay tìm cách bôi bẩn mặt trăng. Ðức Thế Tôn
ngừng giảng dại và rống lên như sư tử, nói:
- Này chị, những gì chị nói đúng hay sai,
chỉ có tôi và chị biết thôi.
- Ðúng vậy Sa-môn cao cả kia, nhưng ai có
thể quyết định giữa điều đúng và sai về chuyện mà chỉ có tôi và ông biết?
Lúc ấy, tòa ngồi của Ðế Thích nóng lên, Ðế
Thích quán sát nguyên do, được biết Chiến-già vu không Như Lai. Ðế Thích
nghĩ "Ta sẽ làm sáng tỏ vấn đề", và bay xuống với bốn thiền thần. Các
thiên thần hóa thành chuột nhắt cắn sợi dây cột cái dĩa trước bụng
Chiến-già, và một cơn gió thổi tung tấm áo choàng, cái dĩa rơi xuống, tiện
đứt mấy ngón chân của cô.
Ðám đông la ó:
- Tên phù thủy kia chửi mắng Thế Tôn.
Họ đánh đập nàng, ném đá, cầm gậy đuổi ra
khỏi Kỳ Viên. Khi cô đi khỏi tầm nhìn của Thế Tôn, đất nứt ra một hố sâu
ngay dưới chân cô, và lửa bốc lên từ địa ngục A-tỳ, cuốn cô như tấm vải đỏ
úp chụp lấy thân, và cô rơi trong địa ngục A-tỳ. Từ đó, tiếng tốt và lợi
lộc của ngoại đạo giảm đi, còn phẩm vật dâng đến đấng Thập Lực càng lúc
càng nhiều.
Ngày hôm sau, các thầy Tỳ-kheo bàn tán ở
Pháp đường.
- Chư hiền! Chiến-già vu khống đấng Như Lai,
Ứng Cúng, đấng Thế Tôn, nên đã bị hủy diệt.
Ðức Phật đi đến và hỏi:
- Các Tỳ-kheo! Các ông tụ họp ở đây bàn tán
chuyện gì?
Các thầy thuật lại, Phật dạy:
- Ðây không phải là lần đầu Chiến-già vu
không Ta và bị hủy diệt, trong quá khứ cô ấy cũng đã làm như vậy.
Ngài nói tiếp:
- Một vị vua không thể phạt ai khi chưa nhận
thức vấn đề cho rõ, khi chưa nghiên cứu cẩn thận mọi mặt dù lớn hay nhỏ.
Ngài kể lại tiền thân Ðại Liên Hoa (Mahà
Paduma).
Chuyện quá khứ
9A. Hoàng Tử Ðức Hạnh Và
Thiếu Phụ Dâm Ðãng.
Thuở xưa, Chiến-già là kế mẫu của Bồ-tát,
hoàng tử Ðại Liên Hoa. Bà muốn hoàng tử gian dâm với mình, nhưng bị từ
chối. Sau đó bà tự đánh đập mình, làm ra vẻ đau đớn, đến nói với vua cha:
- Hoàng tử hành hạ tôi ra thế này vì tôi
không chịu gian dâm với y.
Vua nghe chuyện, hết sức giận dữ, lập tức
đày hoàng tử xuống vực chết. Thiên thần đục xuyên qua núi, mang hoàng tử
lên và báo cáo với long vương. Long vương mang chàng về long cung, và
nhường cho một nửa vương quốc rồng. Ở đấy một năm, hoàng tử muốn xuất gia
tu đạo, người lên núi Hy-mã, sống đời tu sĩ, và phát triển đại định thần
thông.
Một người gác rừng thấy hoàng tử về thuật
lại với nhà vua. Nhà vua đến nơi, chào hỏi và sau khi nghe kể đã đề nghị
nhường ngôi cho chàng. Hoàng tử từ chối, khuyên nhà vua rằng:
- Về phần tôi, tôi không có tham vọng trị
vì. Nhưng về phần đại dương, nên giữ mười điều lành, tránh xa đường xấu
ác, và cai trị quốc gia mình trung chánh.
Nhà vua đứng dậy, rơi lệ và trở về hoàng
cung. Vua hỏi đại thần:
- Ai đã ly gián ta với người trung trực như
thế?
- Tâu đại vương! Hoàng hậu đã gây nên chuyện
này.
Nhà vua bèn bắt hoàng hậu, treo cổ xuống vực
chết, và cai trị vương quốc mình một cách trung chánh. Thuở đó, hoàng tử
Ðại Liên Hoa chính là Bồ Tát, và kế mẫu của chàng chính là Chiến-già.
Nói xong chuyện tiền thân Phật dạy:
- Này các Tỳ-kheo! Những người đã phá hủy
một giới, những người ấy sẽ nói dối, những người củng cống điều sai lầm,
người không tin vào đời sau thì không từ bỏ điều ác nào mà không làm.
Ngài nói kệ:
(176)
Ai vi phạm một pháp,
Ai nói lời vọng ngữ,
Ai bác bỏ đời sau,
Không ác nào không làm
10. Phẩm Vật
Không Thể Nào So Sánh
Keo
kiết không sanh thiên ...
Câu chuyện này xảy ra, khi đức Thế Tôn ở tại
Kỳ Viên, liên hệ đến phẩm vật tối thắng.
Một hôm, đức Thế Tôn cùng với năm trăm
Tỳ-kheo đi khất thực, trở về Kỳ Viên. Vua Ba-tư-nặc đi đến tinh xá thỉnh
Phật thọ trai. Hôm sau, nhà vua ra lệnh sắm sửa rất nhiều phẩm vật để dâng
cúng chư Tăng, và bảo dân cư trong thành:
- Hãy đến nhìn phẩm vật do ta sắm sửa.
Dân chúng đến hoàng cung, nhìn các phẩm vật,
rồi ngày hôm sau nữa, họ thỉnh Phật và chúng Tăng, họ cũng chuẩn bị các
thứ phẩm vật, tâu lên nhà vua.
- Ðại vương hãy đến nhìn phẩm vật của các
thần dân cúng dường.
Khi nhà vua trông thấy các thứ cúng dường
của dân chúng, đã tự nhủ: "Các thị dân này đã cúng dường nhiều vô số phẩm
vật hơn ta, ta sẽ cúng dường lần thứ hai". Lập tức, nhà vua sắm sửa phẩm
vật vào ngày tiếp theo, và khi dân cư trong thành được thấy các thứ cúng
dường ấy, họ cũng trở vể chuẩn bị cúng dường vào ngày kế đó.
Giữa nhà vua và các thị dân thành Xá-vệ
không ai hơn ai. Kết quả, sau sáu lần cúng dường, các thị dân gia tăng
phẩm vật lên gấp trăm gấp ngàn lần, chuẩn bị đầy đủ đến nổi không ai có
thể phê bình là còn thiếu một thứ gì.
Khi nhà vua thấy họ tổ chức quy mô đầy đủ
như vậy, Ngài nghĩ thầm "Nếu ta không sắm sửa nhiều hơn họ, ta còn sống để
làm gì?" Và nhà vua nằm dài, suy nghĩ mọi phương chước. Hoàng hậu Mạt-lợi
(Mallikà) đi đến, thấy nhà
vua nằm trầm tư bèn hỏi:
- Ðại vương! Vì sao lại nằm như vậy? Chuyện
gì khiến Ðại vương có vẻ lo buồn?
- Vậy hậu không biết gì sao?
- Thần thiếp không biết.
Nhà vua thuật lại mọi chuyện ganh đua cúng
dường giữa mình và thần dân. Hoàng hậu nói:
- Xin bệ hạ đừng phiền não, bệ hạ có bao giờ
nghe hoặc thấy một chúa tể vương quốc lại bị thua thiệt về vật chất? Thiếp
sẽ sắp đặt việc này.
Hoàng hậu Mạt-lợi nói vậy vì bà muốn tạo một
phẩm vật tối thắng. Bà tâu vua:
- Ðại vương hãy ra lệnh xây một lâu đài làm
bằng gỗ hạng nhất của cây Sala hình vòng cung để cho năm trăm Sa-môn ngồi,
còn những người tùy tùng các Sa-môn thì ngồi ngoài vòng cung ấy. Làm năm
trăm lọng trắng cho năm trăm con voi mang lọng đứng che các Sa-môn. Giữa
lâu đài đặt tám hay mười cái bàn bằng hồng ngọc. Giữa hai Sa-môn cho một
số thiếu nữ dòng Sát-lợi ngồi rưới hương thơm, và một thiếu nữ đứng quạt
cho hai vị ấy. Một số thiếu nữ dòng Sát-lợi mang hương bột rắc vào bồn
vàng. Một số mang hoa sen xanh nhúng vào bồn hương và dâng lên các Sa-môn.
Ðấy, dân chúng làm gì có con gái dòng Sát-lợi, cũng chẳng có lọng trắng,
voi và họ sẽ thua Bệ hạ. Ðó là điều Bệ hạ nên làm.
Nhà vua tán thành:
- Hay quá! Chương trình của hậu tuyệt diệu.
Và nhà vua ra lệnh làm theo sự sắp đặt của
hoàng hậu. Tuy nhiên, thiếu một con voi cho một vị Sa-môn. Nhà vua bảo
hoàng hậu Mạt-lợi:
- Ái khanh! Chỉ còn thiếu một con voi. Bây
giờ làm sao?
- Bệ hạ bảo sao, không đủ năm trăm con voi
ư?
- Có đấy, nhưng lại còn lại mấy con voi hung
dữ, khi chúng thấy các Sa-môn, chúng sẽ nổi cơn phẩn nộ như cuồng phong.
- Thần thiếp biết chỗ đứng cho một con voi
hung hăng, có thể mang lọng trên lưng.
- Ðặt nó ở đâu?
- Bên cạnh Tôn giả
Angulimàla.
Nhà vua y lời. Chú voi ta cụp đuôi xuống tận
chân, xếp tai, nhắm mắt và đứng yên. Dân chúng nhìn chú voi với vẻ thán
phục, xầm xì với nhau.
- Con voi dữ kia mới ngoan làm sao!
Nhà vua lo hầu tiếp Tăng đoàn do đức Thế Tôn
chủ tọa. Sau đom vua quỳ lạy và thưa:
- Bạch Thế Tôn! Những phẩm vật trong bữa ngọ
trai này, đáng giá hay không đáng giá, con xin dâng tất cả cho Thế Tôn.
Tổn phí cho buổi cúng dường khoảng mười bốn
triệu châu báu chỉ trong một ngày. Bốn vật vô giá cúng dường cho đức Thế
Tôn tùy nghi sử dụng: một lọng trắng, một giường nằm, một ghế ngồi và một
ghế đỡ chân. Sau đó, không có phẩm vật nào dâng cúng đức Phật có thể so
sánh với phẩm vật của nhà vua, nên được gọi là phẩm vật tối thắng. Ðiều
này đã từng xảy ra cho các đức Phật, và luôn luôn do các hoàng hậu sắp
xếp.
Khi ấy, trong triều có hai đại thần
Kàla và
Junha.
Kàla nghĩ thầm "Của cải nhà
vua bị mất mát nhiều làm sao! Chỉ trong một ngày mà tốn hết mười bốn triệu
châu báu. Và các lão Sa-môn kia, sau khi ăn xong, sẽ đi về nằm ngủ khì!
Nhà vua phung phí tài sản!" Còn Junha
nghĩ "Ôi! Nhà vua dâng cúng phẩm vật tuyệt vời! Chỉ có vua mới
làm như vậy! Hơn nữa, chẳng có người nào ngoài nhà vua làm cho mọi loài
hưởng phước nhờ sự cúng dường. Ta cảm tạ những phẩm vật mà nhà vua đã dâng
cúng".
Khi đức Phật thọ trai xong, nhà vua cầm lấy
bát của Ngài đợi Ngài thuyết pháp. Ðức Phật nghĩ thầm: " Nhà vua đã cúng
dường phẩm vật lớn lao, cúng dường như thác lũ. Dân chúng có tín kính điều
này, hay không tin?" Và nhận biết được ý nghĩ của hai vị đại thần, Ngài
nghĩ tiếp: "Nếu Ta tán thán công đức của nhà vua cho tương xứng phẩm vật,
thì đầu của Kàla sẽ vỡ làm
bảy phần, Ngài chỉ nói một bài pháp đơn giản gồm bốn câu tán dương nhà
vua, người đang đứng trước Ngài sau khi cúng dường tối thắng. Nói xong,
Ngài đứng lên trở về tinh xá.
Các Tỳ-kheo hỏi
Angulimàla:
- Tôn giả, Ngài có sợ khi thấy con voi mang
lọng trắng dữ dằn đứng gần Ngài?
- Không, chư hiền, tôi không sợ.
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn!
Angulimàla nói dối.
Phật xác nhận:
- Này các Tỳ-kheo! Angulimăala không hề sợ
hãi, vì những Tỳ-kheo như người con của Ta là cao quý nhất trong số những
người cao quý đã thoát khỏi tham dục; và không hề sợ hãi.
Ngài dạy:
(422)
Bậc cao quý, thù thắng,
Bậc anh hùng, đại sĩ,
Bậc chiến thắng, vô nhiễm,
Bậc tẩy sạch, giác ngộ,
Ta gọi Bà-la-môn.
Nhà vua thất vọng cay đắng, nghĩ thầm "Sau
khi ta cúng dường vô số phẩm vật, và đứng đấy hầu đức Thế Tôn, thay vì nói
lời tán thán tương xứng với phẩm vật ấy, Ngài chỉ nói một bài kệ ngắn và
đi về. Có thể là ta đã cúng dường những phẩm vật không thích đáng cho đức
Thế Tôn, có thể là ta đã cũng những vật không thích hợp thay vì những vật
thích hợp. Có thể là Thế Tôn giận ta, bởi Ngài thường có lệ hồi hướng công
đức cân xứng với phẩm vật". Nghĩ như thế, vua Ba-tư-nặc đi đến tinh xá,
đảnh lễ Phật và bạch:
- Bạch Thế Tôn, con có lỗi lầm khi dâng cúng
phẩm vật không? Có phải thay vì cúng những vật thích hợp con lại cúng
những vật không thích hợp?
- Vì sao đại vương hỏi như thế?
- Thế Tôn không hồi hướng công đức cân xứng
với phẩm vật con đã dâng cúng.
- Này đại vương, phẩm vật cúng dường rất
thích hợp. Phẩm vật tối thắng mà đại vương cúng dường chỉ có một lần cho
một đức Phật, phẩm vật như thế khó có lần thứ hai.
- Nhưng, bạch Thế Tôn, vì sao Ngài không nói
công đức tương xứng với phẩm vật ấy?
- Vì có đại thần không thanh tịnh.
- Bạch Thế Tôn, trong các quan ai là người
có lỗi.
Ðức Phật nói cho vua biết hai quan điểm trái
ngược của hai đại thần và an ủi vua rằng, vì thương hại
Kàla nên Ngài không tán dương
công đức.
Nhà vua hỏi
Kàla:
- Phải chăng khanh có ý nghĩ như thế?
- Tâu vâng.
- Ta không hề lấy những gì thuộc về khanh,
ta chỉ cho những gì của ta, với sự hỗ trợ của hoàng hậu và thái tử. Ta có
sai quấy gì với khanh không? Hãy đi đi! Những gì ta cúng ta cứ cúng, còn
phần khanh bước ra khỏi cung điện của ta.
Sau khi đuổi
Kàla ra khỏi cung, nhà vua cho
gọi Junha và hỏi:
- Phải khanh nghĩ đúng như thế không?
- Thưa vâng.
- Khanh nghĩ đúng, ta rất hài lòng. Ta cho
phép khanh dự vào hoàng tộc và cúng dường bảy ngày như ta.
Nhà vua cho
Junha ở trong cung bảy hôm, và
đến bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, tên ngu si ấy đã cư xử tệ
hại. Thấy con cúng dường, y đã phản ứng ngược lại.
- Phải đấy, đại vương, người ngu không hoan
hỷ khi thấy ai bố thí, và sẽ bị trừng phạt về sau. Nhưng người trí vui
thích với phẩm vật được người khác cúng dường và sẽ sanh thiên.
Ngài nói kệ:
(177)
Keo kiết không sanh thiên,
Kẻ ngu ghét bố thí.
Người trí thích bố thí.
Ðời sau được hưởng lạc.
Cuối bài pháp,
Junha chứng quả Dự lưu. Hội
chúng cũng được lợi ích. Junha
sau khi chứng quả đã cúng dường suốt bảy ngày như một vị hoàng đế.
11. Ðức Hạnh
Ðược Trả Giá
Hơn
thống lãnh cõi đất ...
Câu chuyện xảy ra khi đức Phật đang ở Kỳ
Viên, liên hệ đến Kàla, con
trai Cấp Cô Ðộc.
Kàla
là con trai của Trưởng giả Cấp Cô Ðộc, một người cha nổi tiếng và đầy tin
kính Phật pháp. Mặc dù như thế chàng không hề gặp Phật hoặc ra chào khi
Phật ghé nhà, hoặc nghe pháp, hoặc phụng sự chúng Tăng. Khi cha chàng
khuyên:
- Này con đừng làm thế.
Chàng cũng không để ý đến lời cha. Trưởng
giả suy nghĩ: "Nếu con ta có thái độ như vậy và hành động theo ý đó, nói
sẽ rơi vào địa ngục A-tỳ. Thật không có gì tốt đẹp khi chính mắt ta thấy
nó bị đọa. Ðược thôi, không có ai trên trái đất này không bị mua chuộc bởi
tài vật, ta sẽ dụ dỗ nó". Và ông bảo
Kàla:
- Này con, nếu con giữ giới trong ngày trai,
đi đến tinh xá nghe pháp, khi về cha sẽ cho con một trăm đồng.
- Thật cha sẽ cho con chứ?
- Ðúng vậy.
Sau khi cha chàng lập lại lời hứa ba lần,
Kàla tuân giữ ngày trai giới
và đi đến tinh xá. Nhưng chàng không chú tâm nghe pháp, chàng tìm nơi dễ
chịu, nằm ngủ một giấc và trở về nhà sớm. Ông Trưởng giả bảo gia nhân:
- Cậu đã giữ giới trọn ngày trai, hãy đem
thức ăn ngon đến cho cậu nhanh lên.
Nhưng
Kàla nói:
- Con chưa nhận tiền là con không ăn.
Chàng cương quyết từ chối mọi thứ đem đến.
Cha chàng không thể ép con ăn, bèn ra lệnh mang tiền đến, chàng cầm tiền
trên tay, rồi sau đó mới ăn uống.
Ngày hôm sau, ông Trưởng giả bảo con:
- Này con, cha sẽ cho con một ngàn đồng, nếu
con đi đến chỗ Thế Tôn, học thuộc một bài kệ ngắn, và trở về nói lại cho
cha nghe.
Lập tức
Kàla đi đến tinh xá, đứng trước Phật. Chẳng bao lâu chàng thuộc
một câu kệ và muốn ra đi. Ðức Phật khiến chàng không hiểu nghĩa câu kệ ấy,
Kàla tự nhủ: "Ta sẽ học
thuộc câu sau". Vì vậy, chàng ngồi nán lại và tiếp tục nghe pháp. (Ai nghe
pháp với tất cả chú tâm sẽ chứng Sơ quả và các quả còn lại).
Kàla nghe pháp với tất cả chú
tâm, nhưng đức Phật cũng khiến chàng không hiểu nghĩa, chàng nghĩ ta sẽ
hiểu rõ hơn câu kệ tiếp theo. Chàng cứ nán lại và nghe, rồi chứng Sơ quả.
Ngày hôm sau, chàng tự động đi theo chư
Tăng, có đức Phật dẫn đầu, vào thành Xá-vệ. Trưởng giả thấy con trai đi
sau chúng Tăng, tự nhủ "Hôm nay, thái độ của con ta làm ta hài lòng". Còn
Kàla thì nghĩ thầm "Mong
rằng cha sẽ không đưa tiền cho ta ngay hôm nay, trước sự hiện diện của
Phật. Mong rằng cha ta giữ kín việc vì có tiền ta mới giữ giới ngày trai"
(nhưng đức Phật đã biết trước điều này).
Trưởng giả dâng cơm cho chư Tăng, có đức
Phật thọ trai và cũng cho con trai những thức ăn ấy.
Kàla ngồi im, uống súp, ăn
thức ăn cứng và cơm. Khi Phật thọ trai xong, Trưởng giả đặt túi tiền một
ngàn đồng trước mặt con và nói:
- Này con, chắc con nhớ cha đã yêu cầu con
giữ giới đúng ngày trai và đi nghe pháp, rồi sẽ cho con một ngàn đồng. Ðây
là tiền của con.
Kàla
thấy cha chàng đưa tiền ngay trước mặt đức Phật, rất ngượng và nói:
- Con không cần tiền.
- Ậy, cầm tiền đi con.
Chàng cứ từ chối, không động đến túi tiền.
Trưởng giả đảnh lễ Phật và bạch:
- Bạch Thế Tôn, thái độ của con trai con hôm
nay làm con rất mừng.
- Vì sao?
- Ngày hôm kia, con bảo hắn đi đến tinh xá,
hứa cho một trăm đồng. Hôm qua hắn về nhà, không chịu ăn cơm khi chưa có
tiền. Nhưng hôm nay, khi con cho tiền nó cứ từ chối không nhận.
- Ðúng vậy, này Trưởng giả. Hôm nay con trai
ông đã chứng Sơ quả, y đã đạt điều vượt hơn việc được làm Chuyển Luân
Vương hay sanh thiên, hay làm Phạm thiên.
Ngài nói kệ:
(178)
Hơn thống lãnh cõi đất,
Hơn được sanh cõi trời,
Hơn chủ tể vũ trụ,
Quả Dự lưu tối thắng.