Introduction [go up]

When embraced,
the rod of violence
	breeds danger & fear:
Look at people quarreling.
I will tell of how
I experienced
	   dismay.
Seeing people floundering
like fish in small puddles,
competing with one another  — 
	as I saw this,
	fear came into me.
The world was entirely
	without substance.
All the directions
	were knocked out of line.
Wanting a haven for myself,
I saw nothing that wasn't laid claim to.
Seeing nothing in the end
but competition,
I felt discontent.
	       And then I saw
an arrow here,
	so very hard to see,
	embedded in the heart.
Overcome by this arrow
you run in all directions.
But simply on pulling it out
	you don't run,
	you don't sink...

Whatever things are tied down in the world,
you shouldn't be set on them.
Having totally penetrated
	sensual pleasures,
	sensual passions,
you should train for your own
	   Unbinding.

Sn 4.15

 

 

Introduction [go up]

Từ người cầm các trượng,
Sợ hãi được sanh ra,
Hãy xem các loài người,
Trong khi đấu tranh nhau,
Ta sẽ nói sợ hãi,
Như Ta đã được biết.

Thấy loài người vùng vẫy,
Như cá trong nước cạn,
Thấy họ chống đối nhau,
Ta rơi vào sợ hãi.

Ðời toàn không lõi cây,
Mọi phương đều dao động
Muốn cho mình ngôi nhà,
Ta không thấy nhà ở.

Cuối cùng là xung đột,
Thấy vậy Ta chán ngắt,
Ðây Ta thấy mũi tên,
Khó thấy, gắn vào tim.

Ai bị mũi tên đâm,
Chạy khắp mọi phương hướng,
Ai rút mũi tên ra,
Không chạy, liền ngồi xuống.

Ở đây sự học tập,
Ðã được nói rõ lên,
Phàm triền phược ở đời,
Chớ liên hệ với chúng,
Ðâm thủng dục hoàn toàn,
Tự học tập Niết-bàn.
 

Sn 4.15

In this short autobiographical passage, the Buddha describes his sense of dismay at the violence in the world, together with his important discovery: that the only escape from violence is to remove the causes of violence from one's own heart. To remove these causes, one must first refrain from violence on the external level so as to create the proper karmic context — more peaceful and honest — for extracting the causes of violence on the internal level. The following passages from the Pali canon illustrate these two levels of the practice, starting first with a few considerations on the principle of kamma (karma). For a more complete background on kamma, see the study guide on that topic. The concluding passages in this collection focus on the concept of "papañca," or complication, as the internal cause of conflict. For a discussion of this concept, see the Introduction to MN 18.

9999

§ 1.
	All
tremble at the rod,
	all
are fearful of death.
Drawing the parallel to
	yourself,
neither kill nor get others to kill.

   All
tremble at the rod,
	all
hold their life dear.
Drawing the parallel to
	yourself,
neither kill nor get others to kill.

Whoever takes a rod
to harm living beings desiring ease,
when he himself is looking for ease,
will meet with no ease after death.

Whoever doesn't take a rod
to harm living beings desiring ease,
when he himself is looking for ease,
will meet with ease after death.

Speak harshly to no one,
or the words will be thrown
	right back at you.
Contentious talk is painful,
for you get struck by rods in return.

If, like a flattened metal pot
you don't resound,
you've attained an Unbinding;
in you there's found
no contention.

Dhp 129-134

 

Ai cũng sợ hãi bạo tàn

Tất cả sợ đao trượng
Tất cả sợ tử vong
Xét bỉ thử tương đồng
Không giết, không bảo giết
 

Ai cũng tha thiết sự sống.

Tất cả sợ bạo tàn
Tất cả mong được sống
Xét bỉ thử tương đồng
Không giết, không bảo giết
 

Không nên tìm hạnh phúc bằng cách gây tổn hại cho người

Chúng sanh cầu hạnh phúc
Nhưng ai dùng bạo lực
Hại người để cầu vui
Vui không thể hiện thực



Chúng sanh cầu hạnh phúc
Ai không tàn hại người
Vì hạnh phúc cho mình
Ðời sau được an vui
 

Ác khẩu tạo ác quả

Chớ nên dùng ác ngữ,
Nói quấy, bị nói lại,
Khổ thay lời hung dữ,
vì quả ác đáo đầu
 

Như chuông bể không ngân
Thường an nhiên tịch lặng
Bậc liễu ngộ Niết bàn
Tâm không sầu không hận
Dhp 129-134

§ 2. On one occasion the Blessed One was staying near Nalanda in the Pavarika Mango Grove. Then Asibandhakaputta the headman went to the Blessed One and on arrival, having bowed down to him, sat to one side. As he was sitting there he said to the Blessed One: "The brahmans of the Western lands, lord — those who carry water pots, wear garlands of water plants, purify with water, & worship fire — can take [the spirit of] a dead person, lift it out, instruct it, & send it to heaven. But the Blessed One, worthy & rightly self-awakened, can arrange it so that all the world, at the break-up of the body, after death, reappears in a good destination, the heavenly world."

 

Một thời Thế Tôn trú ở Nàlandà, tại rừng Pàvàrikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Asiband-hakaputta bạch Thế Tôn:
- "Bạch Thế Tôn, các vị Bà-la-môn trú đất phương Tây, mang theo bình nước, đeo vòng hoa huệ (sevàla), nhờ nước được thanh tịnh. Những người thờ lửa, khi một người đã chết, đã mệnh chung, họ nhắc bổng và mang vị ấy ra ngoài (uyyàpenti), kêu tên vị ấy lên, và dẫn vị ấy vào Thiên giới. Còn Thế Tôn, bạch Thế Tôn, là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Thế Tôn có thể làm như thế nào cho toàn thể thế giới, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này"

"Very well, then, headman, I will question you on this matter. Answer as you see fit. What do you think: There is the case where a man is one who takes life, steals, indulges in illicit sex; is a liar, one who speaks divisive speech, harsh speech, & idle chatter; is greedy, bears thoughts of ill-will, & holds to wrong views. Then a great crowd of people, gathering & congregating, would pray, praise, & circumambulate with their hands palm-to-palm over the heart [saying,] 'May this man, at the break-up of the body, after death, reappear in a good destination, the heavenly world!' What do you think: would that man — because of the prayers, praise, & circumambulation of that great crowd of people — at the break-up of the body, after death, reappear in a good destination, the heavenly world?"

 

Vậy, này Thôn trưởng, ở đây, Ta sẽ hỏi Ông. Nếu Ông kham nhẫn hãy trả lời.
-"Này Thôn trưởng, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, một người sát sanh, lấy của không cho, sống theo tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham lam, sân hận, theo tà kiến. Rồi một quần chúng đông đảo, tụ tập, tụ họp lại, cầu khẩn, tán dương, chấp tay đi cùng khắp và nói rằng: "Mong người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên Thiện thú, thiên giới, cõi đời này!" Ông nghĩ thế nào, này Thôn trưởng, người ấy do nhân cầu khẩn của đại quần chúng ấy, hay do nhân tán dương, hay do nhân chấp tay đi cùng khắp, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này?"

"No, lord."

"Suppose a man were to throw a large boulder into a deep lake of water, and a great crowd of people, gathering & congregating, would pray, praise, & circumambulate with their hands palm-to-palm over the heart [saying,] 'Rise up, O boulder! Come floating up, O boulder! Come float to the shore, O boulder!' What do you think: would that boulder — because of the prayers, praise, & circumambulation of that great crowd of people — rise up, come floating up, or come float to the shore?"

 

- Thưa không, bạch Thế Tôn

Ví như, này Thôn trưởng, có người lấy một tảng đá lớn ném xuống một hồ nước sâu. Rồi một quần chúng đông đảo, tụ tập, tụ họp lại, cầu khẩn, tán dương, chấp tay đi cùng khắp và nói rằng: "Hãy đứng lên, tảng đá lớn! Hãy nổi lên, tảng đá lớn! Hãy trôi vào bờ, này tảng đá lớn!" Ông nghĩ thế nào, này Thôn trưởng, tảng đá lớn ấy do nhân cầu khẩn của đại quần chúng ấy, hay do nhân tán dương, hay do nhân chấp tay đi cùng khắp, có thể trồi lên, hay nổi lên, hay trôi dạt vào bờ không?

"No, lord."

"So it is with any man who takes life, steals, indulges in illicit sex; is a liar, one who speaks divisive speech, harsh speech, & idle chatter; is greedy, bears thoughts of ill-will, & holds to wrong views. Even though a great crowd of people, gathering & congregating, would pray, praise, & circumambulate with their hands palm-to-palm over the heart — [saying,] 'May this man, at the break-up of the body, after death, reappear in a good destination, the heavenly world!' — still, at the break-up of the body, after death, he would reappear in destitution, a bad destination, the lower realms, hell.

SN 42.6

- Thưa không, bạch Thế Tôn.

- Cũng vậy, này Thôn trưởng, người nào sát sanh, lấy của không cho, sống theo tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham lam, sân hận, theo tà kiến. Rồi một quần chúng đông đảo, tụ tập, tụ họp lại, cầu khẩn, tán dương, chấp tay đi cùng khắp và nói rằng: "Mong người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên Thiện thú, thiên giới, cõi đời này!" Nhưng người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

SN 42.6

§ 3. Beings are the owners of their actions (karma), heir to their actions, born of their actions, related through their actions, and have their actions as their arbitrator. Action is what creates distinctions among beings in terms of coarseness & refinement...

Các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình; nghĩa là có liệt, có ưu.

 

There is the case where a certain woman or man is one who takes life — brutal, bloody-handed, violent, cruel, merciless to living beings. From adopting & carrying out such actions, then on the break-up of the body, after death, this person re-appears in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell. Or, if he/she does not reappear in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell, but instead returns to the human state, then he/she is short-lived wherever reborn. This is the way leading to short life, namely being one who takes life...

 

Ở đây, này Thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, sát sanh, tàn nhẫn, tay lấm máu, tâm chuyên sát hại đả thương, tâm không từ bi đối với các loại chúng sanh. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, nếu được đi đến loài Người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy phải đoản mạng. Con đường ấy đưa đến đoản mạng, này Thanh niên, tức là sát sanh, tàn nhẫn, tay lấm máu, tâm chuyên sát hại đả thương, tâm không từ bi đối với các loài hữu tình.

But there is the case where a certain woman or man, abandoning the taking of life, abstains from the taking of life, dwelling with rod laid down, knife laid down, scrupulous, merciful, sympathetic for the benefit of all living beings. From adopting & carrying out such actions, then on the break-up of the body, after death, this person re-appears in the good destinations, in the heavenly world. Or, if he/she does not reappear in the good destinations, in the heavenly world, but instead returns to the human state, then he/she is long-lived wherever reborn. This is the way leading to long life, namely being one who, abandoning the taking of life, abstains from taking life...

 

Nhưng ở đây, này Thanh niên, có người đàn bà hay đàn ông, từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sanh vào thiện thú, Thiên giới, ở đời. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào thiện thú, Thiên giới, ở đời, nếu người ấy đi đến loài Người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy được trường thọ. Con đường ấy đưa đến trường thọ, này Thanh niên, tức là từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình.

Furthermore, there is the case where a certain woman or man has a tendency to injure living beings with the hand, with a clod, with a stick, or with a knife. From adopting & carrying out such actions, then on the break-up of the body, after death, this person re-appears in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell. Or, if he/she does not reappear in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell, but instead returns to the human state, then he/she is sickly wherever reborn. This is the way leading to being sickly, namely being one who has a tendency to injure living beings with the hand, with a clod, with a stick, or with a knife...

 

Ở đây, này Thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, tánh hay não hại các loài hữu tình, với tay, hay với cục đất, hay với cây gậy, hay với cây đao. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, nếu người ấy đi đến loài Người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy phải bị nhiều bệnh hoạn. Con đường ấy đưa đến nhiều bệnh hoạn, này Thanh niên, tức là tánh hay não hại các loài hữu tình với tay, hay với cục đất, hay với cây gậy, hay với cây đao.

But there is the case where a certain woman or man does not have a tendency to injure living beings with the hand, with a clod, with a stick, or with a knife. Or, if he/she does not reappear in the good destinations, in the heavenly world, but instead returns to the human state, then he/she is healthy wherever reborn. This is the way leading to being healthy, namely being one who, abandoning the taking of life, abstains from taking life does not have a tendency to injure living beings with the hand, with a clod, with a stick, or with a knife...

MN 135

 

Nhưng ở đây, này Thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, tánh không hay não hại các loài hữu tình, với tay, hay với cục đất, hay với cây gậy, hay với cây đao. Do nghiệp ấy thành đạt như vậy.. thiện thú... người ấy được ít bệnh hoạn. Con đường ấy đưa đến ít bệnh hoạn... tánh không não hại... hay với cây đao.

 

MN 135

§ 4.
A man may plunder
as long as it serves his ends,
but when others are plundered,
	he who has plundered
	gets plundered in turn.
A fool thinks,
'Now's my chance,'
as long as his evil
has yet to ripen.
But when it ripens,
the fool falls into pain.

   Killing, you gain
	   your killer.
Conquering, you gain one
	   who will conquer you;
insulting,  insult;
harassing,  harassment.

   And so, through the cycle of action,
	he who has plundered
	gets plundered in turn.

SN 3.15

 

§ 4.

Vì nghĩ đến tư lợi,
Nên mới cướp hại người,
Khi người khác cướp hại,
Bị hại, lại hại người.
Người ngu nghĩ như vậy,
Khi ác chưa chín muồi,
Khi ác đã chín muồi,
Người ngu chịu khổ đau.
Sát người, bị người sát,
Thắng người, bị người thắng,
Mắng người, người mắng lại,
Não người, người não lại,
Do nghiệp được diễn tiến,
Bị hại, lại hại người.

 

SN 3.15
 

§ 5. And how is one made impure in three ways by bodily action? There is the case where a certain person takes life, is brutal, bloody-handed, devoted to killing & slaying, showing no mercy to living beings. He takes what is not given. He takes, in the manner of a thief, things in a village or a wilderness that belong to others and have not been given by them. He engages in sensual misconduct. He gets sexually involved with those who are protected by their mothers, their fathers, their brothers, their sisters, their relatives, or their Dhamma; those with husbands, those who entail punishments, or even those crowned with flowers by another man. This is how one is made impure in three ways by bodily action...

 

Và này Cunda, thế nào là thân không tịnh hạnh có ba ? Ở đây, này Cunda, có người sát sanh, hung bạo, tay lấm máu, tâm chuyên sát hại, đả thương, tâm không từ bi đối với các loại hữu tình. (Người này) lấy của không cho, bất cứ tài vật gì của người khác, hoặc tại thôn làng, hoặc tại rừng núi, không cho người ấy ; người ấy lấy trộm tài vật ấy. Người ấy sống tà hạnh đối với các dục, tà hạnh với các hạng nữ nhân có mẹ che chở, có cha che chở, có mẹ cha che chở, có anh che chở, có chị che chở, có bà con che chở, có pháp che chở, đã có chồng, được hình phạt gậy gộc bảo vệ, cho đến những nữ nhân được trang sức bằng vòng hoa (đám cưới. Như vậy, này Cunda, bất tịnh hạnh về thân có ba.

And how is one made impure in four ways by verbal action? There is the case where a certain person engages in false speech. When he has been called to a town meeting, a group meeting, a gathering of his relatives, his guild, or of the royalty [i.e., a royal court proceeding], if he is asked as a witness, 'Come & tell, good man, what you know': If he doesn't know, he says, 'I know.' If he does know, he says, 'I don't know.' If he hasn't seen, he says, 'I have seen.' If he has seen, he says, 'I haven't seen.' Thus he consciously tells lies for his own sake, for the sake of another, or for the sake of a certain reward. He engages in divisive speech. What he has heard here he tells there to break those people apart from these people here. What he has heard there he tells here to break these people apart from those people there. Thus breaking apart those who are united and stirring up strife between those who have broken apart, he loves factionalism, delights in factionalism, enjoys factionalism, speaks things that create factionalism. He engages in abusive speech. He speaks words that are harsh, cutting, bitter to others, abusive of others, provoking anger and destroying concentration. He engages in idle chatter. He speaks out of season, speaks what isn't factual, what isn't in accordance with the goal, the Dhamma, & the Vinaya, words that are not worth treasuring. This is how one is made impure in four ways by verbal action.

 

Ở đây, này Cunda, có người nói láo, đến chỗ tập hội, hay đến chỗ chúng tôi, hay đến giữa các thân tộc, hay đến giữa các tổ hợp, hay đến giữa các vương tộc, khi bị dẫn xuất làm chứng và được hỏi : "Này người kia, hãy nói những gì ông biết". Dầu cho vị ấy không biết, vị ấy nói : "Tôi biết". Dầu cho vị ấy biết, vị ấy nói : "Tôi không biết". Hay dầu cho vị ấy không thấy, vị ấy nói : "Tôi thấy". Hay dầu cho vị ấy thấy, vị ấy nói : "Tôi không thấy". Như vậy lời nói của người ấy trở thành cố ý nói láo, hoặc nguyên nhân vì mình, hoặc nguyên nhân vì người, hoặc nguyên nhân vì một vài quyền lợi gì. Và người ấy là người nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, đến chỗ kia nói, để sanh chia rẽ ở những người này ; nghe điều gì ở chỗ kia, đi nói với những người này để sanh chia rẽ, ở những người kia. Như vậy, vị ấy ly gián những kẻ hòa hợp, hay xúi giục những kẻ ly gián, ưa thích chia rẽ, vui thích chia rẽ, thích thú chia rẽ, nói những lời đưa đến chia rẽ. Và người ấy là người nói lời thô ác, bất cứ lời gì thô bạo, thô tục, khiến người đau khổ, khiến người tức giận, liên hệ đến phẫn nộ, không đưa đến Thiền định. Người ấy nói những lời như vậy. Và người ấy nói những lời phù phiếm, nói phi thời, nói những lời phi chơn, nói những lời không lợi ích, nói những lời phi pháp, nói những lời phi luật, nói những lời không đáng gìn giữ. Vì nói phi thời, nên lời nói không có thuận lý, không có mạch lạc, hệ thống, không có lợi ích. Như vậy, này Cunda, không tịnh hạnh về lời có bốn

And how is one made pure in three ways by bodily action? There is the case where a certain person, abandoning the taking of life, abstains from the taking of life. He dwells with his rod laid down, his knife laid down, scrupulous, merciful, compassionate for the welfare of all living beings. Abandoning the taking of what is not given, he abstains from taking what is not given. He does not take, in the manner of a thief, things in a village or a wilderness that belong to others and have not been given by them. Abandoning sensual misconduct, he abstains from sensual misconduct. He does not get sexually involved with those who are protected by their mothers, their fathers, their brothers, their sisters, their relatives, or their Dhamma; those with husbands, those who entail punishments, or even those crowned with flowers by another man. This is how one is made pure in three ways by bodily action."

 

Này Cunda, thế nào là tịnh hạnh về thân có ba ? Ở đây, này Cunda, có người đoạn tận sát sanh, từ bỏ sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh, và loài hữu tình. Đoạn tận lấy của không cho, từ bỏ lấy của không cho ; bất cứ vật gì của người khác, hoặc tại thôn làng, hoặc tại rừng núi, không có người ấy, người ấy không lấy với ý niệm trộm cắp. Đoạn tấn tà hạnh trong các dục, từ bỏ tà hạnh trong các dục, với hạng nữ nhân có mẹ che chở, có cha che chở, có anh che chở, có chị che chở, có bà con che chở, có pháp che chở, đã có chồng, được hình phạt gậy gộc bảo vệ, cho đến những nữ nhân được trang sức bằng vòng hoa (đám cưới). Như vậy, này Cunda, tịnh hạnh về thân có ba.

And how is one made pure in four ways by verbal action? There is the case where a certain person, abandoning false speech, abstains from false speech. When he has been called to a town meeting, a group meeting, a gathering of his relatives, his guild, or of the royalty, if he is asked as a witness, 'Come & tell, good man, what you know': If he doesn't know, he says, 'I don't know.' If he does know, he says, 'I know.' If he hasn't seen, he says, 'I haven't seen.' If he has seen, he says, 'I have seen.' Thus he doesn't consciously tell a lie for his own sake, for the sake of another, or for the sake of any reward. Abandoning false speech, he abstains from false speech. He speaks the truth, holds to the truth, is firm, reliable, no deceiver of the world. Abandoning divisive speech he abstains from divisive speech. What he has heard here he does not tell there to break those people apart from these people here. What he has heard there he does not tell here to break these people apart from those people there. Thus reconciling those who have broken apart or cementing those who are united, he loves concord, delights in concord, enjoys concord, speaks things that create concord. Abandoning abusive speech, he abstains from abusive speech. He speaks words that are soothing to the ear, that are affectionate, that go to the heart, that are polite, appealing & pleasing to people at large. Abandoning idle chatter, he abstains from idle chatter. He speaks in season, speaks what is factual, what is in accordance with the goal, the Dhamma, & the Vinaya. He speaks words worth treasuring, seasonable, reasonable, circumscribed, connected with the goal. This is how one is made pure in four ways by verbal action.

AN 10.176

 

Và này Cunda, thế nào là tịnh hạnh về lời có bốn ? Ở đây, này Cunda có người đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo, đến chỗ tập hội hay đến chỗ chúng tội, hay đến giữa các thân tộc, hay đến giữa các tổ hợp, hay đến giữa các vương tộc, khi bị dẫn xuất làm chứng và được hỏi : "Này người kia, hãy nói những gì người biết". Nếu không biết, người ấy nói : "Tôi không biết". Nếu biết, người ấy nói : "Tôi biết". Hay nếu không thấy, người ấy nói : "Tôi không thấy". Nếu thấy, người ấy nói : "Tôi thấy". Như vậy lời nói của người ấy không trở thành cố ý vọng ngữ, hoặc nguyên nhân vì mình, hoặc nguyên nhân vì người, hoặc nguyên nhân vì một vài quyền lợi gì. Đoạn tận nói hai lưỡi, từ bỏ nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đi đến chỗ kia nói, để sanh chia rẽ ở những người này ; nghe điều gì ở chỗ kia, không đi nói với những người này, để sanh chia rẽ ở những người kia. Như vậy người ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, tăng trưởng những kẻ hòa hiệp, thích thú hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. Đoạn tận lời nói độc ác, từ bỏ lời nói độc ác, những lời nói nhu hòa, êm tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui ý nhiều người, người ấy nói những lời như vậy. Đoạn tận lời nói phù phiếm, nói đúng thời, nói chân thật, nói có ý nghĩa, nói Pháp, nói Luật, nói những đáng được gìn giữ. Vì nói hợp thời, nên lời nói thuận lý, có mạch lạc, hệ thống, lợi ích. Như vậy, này Cunda, tịnh hạnh về lời nói có bốn

 

AN 10.176

§ 6. Then Yodhajiva (Professional Warrior) the headman went to the Blessed One and, on arrival, having bowed down to him, sat to one side. As he was sitting there he said to the Blessed One: "Lord, I have heard that it has been passed down by the ancient teaching lineage of professional warriors that 'When a professional warrior strives & exerts himself in battle, if others then strike him down & slay him while he is striving & exerting himself in battle, then with the breakup of the body, after death, he is reborn in the company of devas slain in battle.' What does the Blessed One have to say about that?"

 

Rồi chiến đấu sư Yodhàjivo đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, chiến đấu sư bạch Thế Tôn:
- "Con được nghe, bạch Thế Tôn, các vị Đạo sư, Tổ sư thuở xưa nói về các chiến đấu viên, nói rằng: "Vị chiến đấu viên nào trong chiến trường, hăng say, tinh tấn; do hăng hay tinh tấn như vậy, bị người khác tàn sát, đánh bại; vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên tên là Saràjità". Ở đây, Thế Tôn nói như thế nào?

"Enough, headman, put that aside. Don't ask me that."

 

- Thôi vừa rồi, này Chiến đấu sư. Hãy dừng ở đây. Chớ có hỏi Ta về điều này.

A second time... A third time Yodhajiva the headman said: "Lord, I have heard that it has been passed down by the ancient teaching lineage of professional warriors that 'When a professional warrior strives & exerts himself in battle, if others then strike him down & slay him while he is striving & exerting himself in battle, then with the breakup of the body, after death, he is reborn in the company of devas slain in battle.' What does the Blessed One have to say about that?"

 

Lần thứ hai... Lần thứ ba, chiến đấu sư bạch Thế Tôn:
-" Bạch Thế Tôn, con được nghe các vị Đạo sư, Tổ sư thuở xưa nói về các chiến đấu viên, nói rằng: "Vị chiến đấu viên nào trong chiến trường hăng say, tinh tấn; do hăng say, tinh tấn như vậy, bị người khác tàn sát, đánh bại, vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên tên là Saràjità". Ở đây, Thế Tôn nói như thế nào?

"Apparently, headman, I haven't been able to get past you by saying, 'Enough, headman, put that aside. Don't ask me that.' So I will simply answer you. When a professional warrior strives & exerts himself in battle, his mind is already seized, debased, & misdirected by the thought: 'May these beings be struck down or slaughtered or annihilated or destroyed. May they not exist.' If others then strike him down & slay while he is thus striving & exerting himself in battle, then with the breakup of the body, after death, he is reborn in the hell called the realm of those slain in battle. But if he holds such a view as this: 'When a professional warrior strives & exerts himself in battle, if others then strike him down & slay him while he is striving & exerting himself in battle, then with the breakup of the body, after death, he is reborn in the company of devas slain in battle,' that is his wrong view. Now, there are two destinations for a person with wrong view, I tell you: either hell or the animal womb."

 

- Thật sự, Ta đã không chấp nhận và (nói rằng):
"Thôi vừa rồi, này Chiến đấu sư. Hãy dừng ở đây. Chớ có hỏi Ta về điều này".
Tuy vậy, Ta sẽ trả lời. Này Thôn trưởng, đối với chiến đấu viên nào trong chiến trường hăng say, tinh tấn, tâm của vị ấy trước đó phải có những ý nghĩ thấp kém, ác ý, ác nguyện như sau: "Mong rằng các loài hữu tình ấy bị giết, bị bắt, bị tàn sát, bị tàn hại!", hay: "Mong họ chớ có tồn tại!" Do vị ấy hăng hái, tinh tấn như vậy, nếu vị ấy bị người khác tàn sát, đánh bại, thời người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào địa ngục tên là Saràjità. Nếu người ấy có (tà) kiến như sau: "Vị chiến đấu viên nào giữa chiến trường hăng say, tinh tấn; do hăng say, tinh tấn như vậy, bị người khác tàn sát, đánh bại, vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên tên là Saràjità". Như vậy là tà kiến. Ai rơi vào tà kiến này, này Chiến đấu sư, Ta nói rằng, người ấy chỉ có một trong hai sanh thú: Một là địa ngục, hai là súc sanh

When this was said, Yodhajiva the headman sobbed & burst into tears. [The Blessed One said:] "That is what I couldn't get past you by saying, 'Enough, headman, put that aside. Don't ask me that.'"

 

Khi được nói vậy, vị chiến đấu sư phát khóc, rơi nước mắt.
- Chính vì vậy, này Thôn trưởng, Ta không chấp nhận và nói: "Thôi vừa rồi, này Chiến đấu sư. Hãy dừng ở đây. Chớ có hỏi Ta về điều này".

 

"I'm not crying, lord, because of what the Blessed One said to me, but simply because I have been deceived, cheated, & fooled for a long time by that ancient teaching lineage of professional warriors who said: 'When a professional warrior strives & exerts himself in battle, if others then strike him down & slay him while he is striving & exerting himself in battle, then with the breakup of the body, after death, he is reborn in the company of devas slain in battle.'

- Bạch Thế Tôn, con khóc không phải vì Thế Tôn đã nói như vậy. Nhưng, bạch Thế Tôn, vì con đã bị các Đạo sư, các Tổ sư, các chiến đấu viên thuở trước đã lâu ngày lừa dối con, dối trá con, dắt dẫn con lầm lạc, nói rằng: "Ai là người chiến đấu viên giữa các chiến trường hăng say, tinh tấn; do hăng say, tinh tấn như vậy, bị người khác tàn sát, đánh bại, vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên tên là Saràjità".

 

"Magnificent, lord! Magnificent! Just as if he were to place upright what was overturned, to reveal what was hidden, to show the way to one who was lost, or to carry a lamp into the dark so that those with eyes could see forms, in the same way has the Blessed One — through many lines of reasoning — made the Dhamma clear. I go to the Blessed One for refuge, to the Dhamma, and to the Community of monks. May the Blessed One remember me as a lay follower who has gone to him for refuge, from this day forward, for life."

SN 42.3

Thật là vi diệu, bạch Thế Tôn! Thật là vi diệu, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Bạch Thế Tôn, con nay xin quy y Phật, Pháp và chúng Tăng. Mong Thế Tôn cho con được xuất gia với Thế Tôn, được thọ đại giới!

SN 42.3

§ 7. As he was sitting to one side, King Pasenadi Kosala said to the Blessed One: "Just now, lord, while I was alone in seclusion, this train of thought arose in my awareness: 'Who have themselves protected, and who leave themselves unprotected?' Then it occurred to me: 'Those who engage in bodily misconduct, verbal misconduct, & mental misconduct leave themselves unprotected. Even though a squadron of elephant troops might protect them, a squadron of cavalry troops, a squadron of chariot troops, a squadron of infantry troops might protect them, still they leave themselves unprotected. Why is that? Because that's an external protection, not an internal one. Therefore they leave themselves unprotected. But those who engage in good bodily conduct, good verbal conduct, & good mental conduct have themselves protected. Even though neither a squadron of elephant troops, a squadron of cavalry troops, a squadron of chariot troops, nor a squadron of infantry troops might protect them, still they have themselves protected. Why is that? Because that's an internal protection, not an external one. Therefore they have themselves protected.'"

Ngồi một bên, vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn:

Ở đây, bạch Thế Tôn, trong khi con đang ngồi yên tịnh một mình, tư tưởng này khởi lên nơi con: "Đối với những ai, tự ngã được bảo vệ? Đối với những ai, tự ngã không được bảo vệ?" Và rồi bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau:

"Những ai thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác, những người ấy không bảo vệ tự ngã. Dầu cho họ được tượng binh bảo vệ, hay được mã binh bảo vệ, hay được xa binh bảo vệ, hay được bộ binh bảo vệ; đối với những người ấy, tự ngã không được bảo vệ. Vì cớ sao? Vì sự bảo vệ như vậy là bảo vệ ở ngoài, không phải sự bảo vệ bên trong. Cho nên đối với những người ấy, tự ngã không được bảo vệ.

 

"That's the way it is, great king! That's the way it is! Those who engage in bodily misconduct, verbal misconduct, & mental misconduct leave themselves unprotected. Even though a squadron of elephant troops might protect them, a squadron of cavalry troops, a squadron of chariot troops, a squadron of infantry troops might protect them, still they leave themselves unprotected. Why is that? Because that's an external protection, not an internal one. Therefore they leave themselves unprotected. But those who engage in good bodily conduct, good verbal conduct, & good mental conduct have themselves protected. Even though neither a squadron of elephant troops, a squadron of cavalry troops, a squadron of chariot troops, nor a squadron of infantry troops might protect them, still they have themselves protected. Why is that? Because that's an internal protection, not an external one. Therefore they have themselves protected."

Và những ai thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện, những người ấy bảo vệ tự ngã. Dầu cho họ không được tượng binh bảo vệ, hay không được mã binh bảo vệ, hay không được xa binh bảo vệ, hay không được bộ binh bảo vệ; đối với những người ấy, tự ngã được bảo vệ. Vì cớ sao? Vì sự bảo vệ như vậy là sự bảo vệ bên trong, không phải sự bảo vệ ở ngoài. Cho nên đối với những người ấy, tự ngã được bảo vệ."

 

That is what the Blessed One said. Having said that, the One Well-Gone, the Teacher, said further:
Restraint with the body is good,
good is restraint with speech.
Restraint with the heart is good,
good is restraint   everywhere.
Restrained everywhere,
	conscientious,
one is said to be
	   protected.

SN 3.5

 

Đó là những gì Đức Thế Tôn giảng dậy:

Lành thay bảo vệ thân!
Lành thay bảo vệ lời!
Lành thay bảo vệ ý!
Lành thay tổng bảo vệ!
Kẻ liêm sĩ bảo vệ,
Tổng quát và cùng khắp,
Vị ấy có tên gọi,
Là vị được bảo vệ.
 

SN 3.5

§ 8. And what is right resolve? Being resolved on renunciation, on freedom from ill will, on harmlessness: This is called right resolve.

SN 45.8

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh tư duy ? Này các Tỷ-kheo, chính là xuất ly tư duy, vô sân tư duy, vô hại tư duy. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh tư duy.

SN 45.8

§ 9. The first precept:

I undertake the training rule to refrain from taking life.

Khp 2

9999

From the instructions to every new monk:

§ 10. "A monk who has been accepted should not deprive a living being of life, even if it is only a black or white ant. Any monk who purposely deprives a human being of life, even to the extent of causing an abortion, is not a contemplative, not a son of the Sakyan.

"Just as a solid block of stone broken in two cannot be joined together again, in the same way a monk who has purposely deprived a human being of life is not a contemplative, not a son of the Sakyan. You are not to do this for the rest of your life."

— Mv I.78.2

9999

§ 11. There is the case where a disciple of the noble ones, abandoning the taking of life, abstains from taking life. In doing so, he gives freedom from danger, freedom from animosity, freedom from oppression to limitless numbers of beings. In giving freedom from danger, freedom from animosity, freedom from oppression to limitless numbers of beings, he gains a share in limitless freedom from danger, freedom from animosity, and freedom from oppression. This is the first gift, the first great gift — original, long-standing, traditional, ancient, unadulterated, unadulterated from the beginning — that is not open to suspicion, will never be open to suspicion, and is unfaulted by knowledgeable contemplatives & priests.

AN 8.39

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận sát sanh. Này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử từ bỏ sát sanh, đem cho không sợ hãi cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hận thù cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sanh ; sau khi cho vô lượng chúng sanh, không sợ hãi, không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được san sẽ vô lượng không sợ hãi, không hận thù, không hại. Này các Tỷ-kheo, đây là bố thí thứ nhất, là đại bố thí, được biết là tối sơ, được biết là lâu ngày, được biết là truyền thống cổ xưa, trước không tạp loạn, hiện tại không tạp loạn, tương lai không tạp loạn, không bị những Sa-môn, những Bà-la-môn có trí khinh thường.

AN 8.39

§ 12. On one occasion the Blessed One was staying near Savatthi at Jeta's Grove, Anathapindika's monastery. There he addressed the monks, "Monks!"

"Yes, lord," the monks responded.

The Blessed One said, "Once in the past the devas & asuras 1 were arrayed for battle. Then Vepacitti the asura-king said to Sakka the deva-king: 'Let there be victory through what is well spoken.'

"'Yes, Vepacitti, let there be victory through what is well spoken.'

Nhân duyên ở Sàvatthi.
Thế Tôn gọi các Tỷ kheo:-" Này các Tỷ kheo"


-"Thưa vâng, bạch Thế Tôn" Các Tỷ kheo vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
-"Này các Tỷ-kheo, thuở xưa, một trận chiến kịch liệt xảy ra giữa chư Thiên và các Asura.
Rồi này các Tỷ-kheo, Vepacitti, vua các A-tu-la, nói với Thiên chủ Sakka:
-" Này Thiên chủ, hãy chấp nhận, ai khéo nói, người ấy thắng." -" Này Vepacitti, ta chấp nhận, ai khéo nói, người ấy thắng."

 

"So the devas & asuras appointed a panel of judges, [thinking,]
-'These will decide for us what is well spoken & poorly spoken.'

Rồi này các Tỷ-kheo, chư Thiên và các Asura sắp các hội chúng và nói:
-" Hội chúng này sẽ phán đoán ai khéo nói, ai không khéo nói."

 

-"Then Vepacitti the asura-king said to Sakka the deva-king:
-'Say a verse, deva-king!' -"When this was said, Sakka the deva-king said to Vepacitti the asura-king:
-'But you are the senior deity here, Vepacitti. You say a verse.'

 

Rồi này các Tỷ-kheo, Vepacitti, vua các A-tu-la, nói với Thiên chủ Sakka:
"- Này Thiên chủ, hãy nói lên bài kệ".
Được nói vậy, này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka nói với Vepacitti, vua các A-tu-la:
"- Này Vepacitti, ở đây, Ông là vị Thiên lớn tuổi hơn. Này Vepacitti, hãy nói lên bài kệ".

 

When this was said, Vepacitti recited this verse:
'Fools would flare up even more
if there were no constraints.
Thus an enlightened one
should restrain the fool
with a heavy stick.'

 

Khi được nói vậy, này các Tỷ-kheo, vua các A-tu-la, Vepacitti nói lên bài kệ này:
Kẻ ngu càng nổi khùng,
Nếu không người đối trị, 
Vậy với hình phạt nặng, 
Kẻ trí trị người ngu. 

 

When Vepacitti had said this verse, the asuras applauded but the devas were silent.
So Vepacitti said to Sakka:
-'Say a verse, deva-king!'

Này các Tỷ-kheo, các A-tu-la tán thán bài kệ của Vepacitti, vua các A-tu-la. Còn chư Thiên thời im lặng.
Rồi này các Tỷ-kheo, Vepacitti, vua các A-tu-la, nói với Thiên chủ Sakka:
"- Này Thiên chủ, hãy nói lên bài kệ".

 

"When this was said, Sakka recited this verse:
	'This, I think,
is the only constraint for a fool:
When, knowing the other's provoked,
	you mindfully grow calm.'

 

Khi được nói vậy, này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka nói lên bài kệ này:
Như vậy theo ta nghĩ,
Chỉ chế ngự người ngu,
Biết kẻ khác phẫn nộ, 
Giữ niệm, tâm an tịnh. 

 

 

When Sakka had said this verse, the devas applauded but the asuras were silent.
So Sakka said to Vepacitti:
-'Say a verse, Vepacitti!'

 

Này các Tỷ-kheo, chư Thiên tán thán bài kệ của Thiên chủ Sakka, còn các A-tu-la thời im lặng.
Rồi này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka nói với Vepacitti, vua các A-tu-la:
"- Này Vepacitti, hãy nói lên bài kệ"

 

"When this was said, Vepacitti recited this verse:
'Vasava,2 I see a fault
in this very forbearance:
When the fool thinks,
	"He's forbearing
	out of fear of me,"
the idiot pursues you even more — 
as a cow, someone who runs away.'

 

"Khi được nói vậy, này các Tỷ-kheo, vua các A-tu-la, Vepacitti nói lên bài kệ này:
Hỡi này Vàsava, 
Sự kham nhẫn như vậy,
Ta thấy là lầm lỗi, 
Khi kẻ ngu nghĩ rằng: 
"Vì sợ ta, nó nhẫn". 
Kẻ ngu càng hăng tiết, 
Như bò thấy người chạy, 
Càng hung hăng đuổi dài.

 

"When Vepacitti had said this verse, the asuras applauded but the devas were silent.
So Vepacitti said to Sakka:
-'Say a verse, deva-king!'

 

Này các Tỷ-kheo, các A-tu-la tán thán bài kệ của Vepacitti, vua các A-tu-la, còn chư Thiên thời im lặng.
Rồi Vepacitti, vua các A-tu-la, nói với Thiên chủ Sakka:
"- Này Thiên chủ, hãy nói lên bài kệ".

 

"When this was said, Sakka recited this verse:
'It doesn't matter
whether he thinks,
	"He's forbearing
	out of fear of me."
One's own true good
is the foremost good.
	Nothing better
	than patience
	is found.

Whoever, when strong,
	is forbearing
to one who is weak:
that's the foremost patience.
The weak must constantly endure.

They call that strength
no strength at all:
	whoever's strength
	is the strength of a fool.
There's no reproach
for one who is strong,
guarding — guarded by — Dhamma.

You make things worse
when you flare up
at someone who's angry.
Whoever doesn't flare up
at someone who's angry
	wins a battle
	hard to win.

You live for the good of both
	— your own, the other's — 
when, knowing the other's provoked,
	you mindfully grow calm.
When you work the cure of both
	— your own, the other's — 
those who think you a fool
know nothing of Dhamma.'

 

Khi được nói vậy, này các Tỷ kheo, Thiên chủ Sakka nói lên bài kệ này:
Hãy để nó suy nghĩ, 
Như ý nó mong muốn, 
Nghĩ rằng ta kham nhẫn, 
Vì ta sợ hãi nó.
Trong tư lợi tối thượng,
Không gì hơn kham nhẫn. 




Người đầy đủ sức mạnh, 
Chịu nhẫn người yếu kém, 
Nhẫn ấy gọi tối thượng. 
Thường nhẫn kẻ yếu hèn,


Sức mạnh của kẻ ngu, 
Được xem là sức mạnh, 
Thời sức mạnh kẻ mạnh, 
Lại được gọi yếu hèn. 
Người mạnh hộ trì pháp, 
Không nói lời phản ứng. 


Bị mắng, nhiếc mắng lại, 
Sẽ hại nặng nề hơn. 
Bị mắng, không mắng lại, 
Được chiến thắng hai lần. 



Sống lợi ích cả hai, 
Lợi mình và lợi người, 
Biết kẻ khác tức giận, 
Giữ niệm, tâm an tịnh, 
Là y sĩ cả hai, 
Chữa mình và chữa người,
Quần chúng nghĩ là ngu, 
Vì không giỏi Chánh pháp. 

When Sakka had said this verse, the devas applauded but the asuras were silent.
Then the deva & asura panel of judges said:
'The verses said by Vepacitti the asura-king lie in the sphere of swords & weapons — thence arguments, quarrels, & strife.
Whereas the verses said by Sakka the deva-king lies outside the sphere of swords & weapons — thence no arguments, no quarrels, no strife. The victory through what is well spoken goes to Sakka the deva-king.'

 

Này các Tỷ-kheo, chư Thiên tán thán bài kệ của Thiên chủ Sakka, còn các A-tu-la thời im lặng.
Rồi này các Tỷ-kheo, hội chúng chư Thiên và A-tu-la nói như sau:
"Những bài kệ của Vepacitti, vua các A-tu-la, nói lên là những lời bạo lực, những lời đao kiếm, đưa đến đấu tranh, bất hòa, gây hấn.
"Còn những bài kệ, Thiên chủ Sakka nói lên là những lời không thuộc bạo lực, những lời không thuộc đao kiếm, không đưa đến đấu tranh, không đưa đến bất hòa, không đưa đến gây hấn, thắng lợi đã về Thiên chủ Sakka, nhờ khéo nói".

 

"And that, monks, is how the victory through what was well spoken went to Sakka the deva-king."

SN 11.5

 

Như vậy, này các Tỷ-kheo, thắng lợi về Thiên chủ Sakka nhờ khéo nói.

SN 11.5

Notes
1. The devas & asuras were two groups of deities who fought for control of heaven (like the gods & titans in Greek mythology). The devas eventually won. The asuras, known for their fierce anger, later became classed as angry demons and, in some Buddhist cosmologies, are regarded as a class of being lower than human.

2. Vasava — "Powerful" — is one of Sakka's epithets.

 

^^^^^

§ 13.
Winning gives birth to hostility.
Losing, one lies down in pain.
The calmed lie down with ease,
	having set
	winning & losing
	   aside.

SN 3.14

 

§ 13.

Thắng trận sanh thù oán,
Bại trận nếm khổ đau,
Ai bỏ thắng, bỏ bại,
Tịch tịnh, hưởng an lạc.
 

SN 3.14

§ 14.
Hostilities aren't stilled
through hostility,
	regardless.
Hostilities are stilled
through non-hostility:
	this, an unending truth.

Unlike those who don't realize
that we're here on the verge
	of perishing,
those who do:
	their quarrels are stilled.

Dhp 5-6

 

§ 14.

Lấy hận để rửa thù
Trên đời không thể có
Từ bi diệt hận thù
Là thiên thu định luật

Người kia không hiểu được
Tranh chấp khiến tiêu vong
Ai hiểu rõ điểm này
Mọi hơn thua lắng đọng

 

Dhp 5-6

§ 15.
"Having killed what
	do you sleep in ease?
Having killed what
	do you not grieve?
Of the slaying
of what one thing
	does Gotama (the Buddha) approve?"

[The Buddha:]

"Having killed anger
	you sleep in ease.
Having killed anger
	you do not grieve.
The noble ones praise
the slaying of anger
	—  with its honeyed crest
	& poison root  — 
for having killed it
	you do not grieve."

SN 1.71

 

§ 15.

Sát vật gì được lạc?
Sát vật gì không sầu?
Có một pháp loại gì,
Ngài tán đồng sát hại,
Tôn giả Gotama?


(Thế Tôn):


Sát phẫn nộ được lạc,
Sát phẫn nộ không sầu,
Phẫn nộ với độc căn,
Với vị ngọt tối thượng,
Pháp ấy, bậc Thánh Hiền,
Tán đồng sự sát hại.
Sát pháp ấy không sầu,
Này (Hiền giả) Thiên nhân.
 

SN 1.71

§ 16. These seven things — pleasing to an enemy, bringing about an enemy's aim — come to a man or woman who is angry. Which seven?

 

There is the case where an enemy wishes of an enemy, 'O, may this person be ugly!' Why is that? An enemy is not pleased with an enemy's good looks. Now, when a person is angry — overcome with anger, oppressed with anger — then even though that he may be well-bathed, well-anointed, dressed in white clothes, his hair & beard neatly trimmed, he is ugly nevertheless, all because he is overcome with anger. This is the first thing pleasing to an enemy, bringing about an enemy's aim, that comes to a man or woman who is angry.

 

Này các Tỷ-kheo, có bảy pháp này được người thù địch ưa thích, tác thành kẻ thù địch đi đến người phẫn nộ, đàn bà hay đàn ông. Thế nào là bảy?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, người thù địch mong muốn kẻ thù địch của mình như sau: "Mong rằng kẻ này trở thành xấu xí!’ Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, người thù địch không hoan hỷ kẻ thù địch của mình có dung sắc. Này các Tỷ-kheo, hạng người nào phẫn nộ, bị phẫn nộ chinh phục, bị phẫn nộ chi phối, dầu cho người ấy khéo tắm rửa, khéo chải chuốt, tóc râu khéo sửa soạn, mặc toàn đồ trắng rồi người ấy cũng trở thành xấu xí, vì bị phẫn nộ chinh phục. Này các Tỷ-kheo, đây là pháp thứ nhất, được người thù địch ưa thích, tác thành kẻ thù địch đi đến người phẫn nộ, đàn bà hoặc đàn ông.

Furthermore, an enemy wishes of an enemy, 'O, may this person sleep badly!' Why is that? An enemy is not pleased with an enemy's restful sleep. Now, when a person is angry — overcome with anger, oppressed with anger — then even though he sleeps on a bed spread with a white blanket, spread with a woolen coverlet, spread with a flower-embroidered bedspread, covered with a rug of deerskins, with a canopy overhead, or on a sofa with red cushions at either end, he sleeps badly nevertheless, all because he is overcome with anger. This is the second thing pleasing to an enemy, bringing about an enemy's aim, that comes to a man or woman who is angry.

Furthermore, an enemy wishes of an enemy, 'O, may this person not profit!' Why is that? An enemy is not pleased with an enemy's profits. Now, when a person is angry — overcome with anger, oppressed with anger — then even when he suffers a loss, he thinks, 'I've gained a profit'; and even when he gains a profit, he thinks, 'I've suffered a loss.' When he has grabbed hold of these ideas that work in mutual opposition [to the truth], they lead to his long-term suffering & loss, all because he is overcome with anger. This is the third thing pleasing to an enemy, bringing about an enemy's aim, that comes to a man or woman who is angry.

 

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người thù địch mong muốn kẻ thù địch của mình như sau:
-"Mong rằng kẻ này ngủ một cách khổ sở!" Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, người thù địch không hoan hỷ kẻ thù địch của mình ngủ một cách an lành. Này các Tỷ-kheo, hạng người nào phẫn nộ, bị phẫn nộ chinh phục, bị phẫn nộ chi phối, dầu có nằm trên ghế dài, nệm trải bằng len, chăn len trắng, chăn len thêu, nệm bằng da con sơn dương gọi là kadali, tấm khảm với lọng che phía trên, ghế dài có đầu gối chân màu đỏ. Tuy vậy, họ vẫn ngủ một cách khổ sở, vì bị phẫn nộ chinh phục. Này các Tỷ-kheo, đây là pháp thứ hai, được người thù địch ưa thích, tác thành kẻ thù địch đi đến người phẫn nộ, đàn bà hoặc đàn ông.

 Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người thù địch mong muốn kẻ thù địch của mình như sau:
-"Mong rằng kẻ này không có lợi ích!" Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, người thù địch không hoan hỷ kẻ thù địch của mình có được lợi ích. Này các Tỷ-kheo, hạng người nào phẫn nộ, bị phẫn nộ chinh phục, bị phẫn nộ chi phối, thâu hoạch bất lợi, lại nghĩ rằng: "Ta được lợi ích", thâu hoạch điều bất lợi ích, lại nghĩ rằng: "Ta không được lợi ích". Những pháp này được nắm giữ khiến người khác trở thành thù địch, đưa đến không hạnh phúc, đau khổ lâu dài, vì bị phẫn nộ chinh phục. Này các Tỷ-kheo, đây là pháp thứ ba, được người thù ưa thích, tác thành kẻ thù địch đi đến người phẫn nộ, đàn bà hoặc đàn ông.

Furthermore, an enemy wishes of an enemy, 'O, may this person not have any wealth!' Why is that? An enemy is not pleased with an enemy's wealth. Now, when a person is angry — overcome with anger, oppressed with anger — then whatever his wealth, earned through his efforts & enterprise, amassed through the strength of his arm, and piled up through the sweat of his brow — righteous wealth righteously gained — the king orders it sent to the royal treasury [in payment of fines levied for his behavior] all because he is overcome with anger. This is the fourth thing pleasing to an enemy, bringing about an enemy's aim, that comes to a man or woman who is angry.

Furthermore, an enemy wishes of an enemy, 'O, may this person not have any reputation!' Why is that? An enemy is not pleased with an enemy's reputation. Now, when a person is angry — overcome with anger, oppressed with anger — whatever reputation he has gained from being heedful, it falls away, all because he is overcome with anger. This is the fifth thing pleasing to an enemy, bringing about an enemy's aim, that comes to a man or woman who is angry.

 

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người thù địch mong muốn kẻ thù địch của mình như sau:
-"Mong rằng kẻ này không có tài sản!" Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, người thù địch không hoan hỷ kẻ thù địch của mình có được tài sản. Này các Tỷ-kheo, hạng người nào phẫn nộ, bị phẫn nộ chinh phục, bị phẫn nộ chi phối, những tài sản của họ thâu hoạch do sự phấn chấn tinh cần, cất chứa do sức mạnh của cánh tay, chồng chất do những giọt mồ hôi, đúng pháp, thâu hoạch hợp pháp. Các tài sản ấy được nhà vua cho chở về ngân khố nhà vua, vì bị phẫn nộ chinh phục. Này các Tỷ-kheo, đây là pháp thứ tư, được người thù ưa thích, tác thành kẻ thù địch đi đến người phẫn nộ, đàn bà hoặc đàn ông.

 Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người thù địch mong muốn kẻ thù địch của mình như sau:
-"Mong rằng kẻ này không có danh tiếng!" Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, người thù địch không hoan hỷ kẻ thù địch của mình có được danh tiếng. Này các Tỷ-kheo, hạng người nào phẫn nộ, bị phẫn nộ chinh phục, bị phẫn nộ chi phối, nếu có được danh tiếng gì nhờ không phóng dật thâu hoạch được, danh tiếng ấy lánh xa họ, vì bị phẫn nộ chinh phục. Này các Tỷ-kheo, đây là pháp thứ năm, được người thù ưa thích, tác thành kẻ thù địch đi đến người phẫn nộ, đàn bà hoặc đàn ông.

Furthermore, an enemy wishes of an enemy, 'O, may this person not have any friends!' Why is that? An enemy is not pleased with an enemy's having friends. Now, when a person is angry — overcome with anger, oppressed with anger — his friends, companions, & relatives will avoid him from afar, all because he is overcome with anger. This is the sixth thing pleasing to an enemy, bringing about an enemy's aim, that comes to a man or woman who is angry.

Furthermore, an enemy wishes of an enemy, 'O, may this person, on the break-up of the body, after death, reappear in the plane of deprivation, the bad bourn, the lower realms, in hell!' Why is that? An enemy is not pleased with an enemy's going to heaven. Now, when a person is angry — overcome with anger, oppressed with anger — he engages in misconduct with the body, misconduct with speech, misconduct with the mind. Having engaged in misconduct with the body, misconduct with speech, misconduct with the mind, then — on the break-up of the body, after death — he reappears in the plane of deprivation, the bad bourn, the lower realms, in hell, all because he was overcome with anger. This is the seventh thing pleasing to an enemy, bringing about an enemy's aim, that comes to a man or woman who is angry.

 

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người thù địch mong muốn kẻ thù địch của mình như sau:
-"Mong rằng kẻ này không có bạn bè!" Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, người thù địch không hoan hỷ kẻ thù địch của mình có được bạn bè. Này các Tỷ-kheo, hạng người nào phẫn nộ, bị phẫn nộ chinh phục, bị phẫn nộ chi phối, nếu người đó có những bạn bè thân hữu, bà con huyết thống gì, họ sẽ xa lánh, từ bỏ người đó, vì người đó bị phẫn nộ chinh phục. Đây là pháp thứ sáu, được người thù ưa thích, tác thành kẻ thù địch đi đến người phẫn nộ, đàn bà hoặc đàn ông.

 Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người thù địch mong muốn kẻ thù địch của mình như sau:
-"Mong rằng kẻ này sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh trong cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục !" Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, người thù địch không hoan hỷ kẻ thù địch của mình sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này! Này các Tỷ-kheo, hạng người nào phẫn nộ, bị phẫn nộ chinh phục, bị phẫn nộ chi phối, người đó làm ác hạnh với thân, người đó nói lời ác hạnh với lời, người đó nghĩ đến điều ác hạnh với ý, khi thân hoại mạng chung, người đó sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Đây là pháp thứ bảy, được người thù ưa thích, tác thành kẻ thù địch đi đến người phẫn nộ, đàn bà hoặc đàn ông.

These are the seven things — pleasing to an enemy, bringing about an enemy's aim — that come to a man or woman who is angry.

 

Bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, được người thù địch ưa thích, tác thành kẻ thù địch đi đến người phẫn nộ, đàn bà hoặc đàn ông.

 

An angry person is ugly & sleeps poorly.
Gaining a profit, he turns it into a loss,
having done damage with word & deed.
A person overwhelmed with anger
	destroys his wealth.
Maddened with anger,
	he destroys his status.
Relatives, friends, & colleagues avoid him.
	Anger brings loss.
	Anger inflames the mind.
He doesn't realize
that his danger is born from within.
	An angry person doesn't know his own benefit.
	An angry person doesn't see the Dhamma.
A man conquered by anger is in a mass of darkness.
He takes pleasure in bad deeds as if they were good,
but later, when his anger is gone,
he suffers as if burned with fire.
He is spoiled, blotted out,
like fire enveloped in smoke.

When anger spreads,
when a man becomes angry,
he has no shame, no fear of evil,
is not respectful in speech.
For a person overcome with anger,
nothing gives light.

I'll list the deeds that bring remorse,
that are far from the teachings.
	Listen!
An angry person     kills his father,
	       kills his mother,
	       kills Brahmans
	       & people run-of-the-mill.
It's because of a mother's devotion
that one sees the world,
yet an angry run-of-the-mill person
can kill this giver of life.
Like oneself, all beings hold themselves most dear,
yet an angry person, deranged,
can kill himself in many ways:
with a sword, taking poison,
hanging himself by a rope in a mountain glen.

Doing these deeds
that kill beings and do violence to himself,
the angry person doesn't realize that he's ruined.

This snare of Mara, in the form of anger,
dwelling in the cave of the heart:
cut it out with self-control,
discernment, persistence, right view.
The wise man would cut out
each & every form of unskillfulness.
Train yourselves:
'May we not be blotted out.'

Free from anger & untroubled,
free from greed, without longing,
tamed, your anger abandoned,
free from fermentation,
	you will be unbound.

AN 7.60

 

Kẻ phẫn nộ xấu xí,
Đau khổ khi nằm ngủ,
Được các điều lợi ích
Lại cảm thấy bất lợi.
Phẫn nộ, nó đả thương, 
Với thân với lời nói,
Người phẫn nộ chinh phục,
Tài sản bị tiêu vong.
Bị phẫn nộ điên loạn,
Danh dự bị hủy diệt,
Bà con cùng bạn bè,
Lánh xa người phẫn nộ.
Phẫn nộ sanh bất lợi,
Phẫn nộ dao động tâm,
Sợ hãi sanh từ trong,
Người ấy không rõ biết.
Phẫn nộ không biết lợi,
Phẫn nộ không thấy pháp,
Phẫn nộ chinh phục ai,
Người ấy bị mê ám.
Người phẫn nộ thích thú
Làm ác như làm thiện,
Về sau phẫn nộ dứt,
Bị khổ như lửa đốt,
Như ngọn lửa dầu khói,
Được thấy thất thểu cháy,
Khi phẫn nộ lan tràn,
Khi tuổi trẻ nổi nóng,
Không xấu hổ, sợ hãi,
Lời nói không cung kính.
Bị phẫn nộ chinh phục,
Không hòn đảo tựa nương.
Việc làm đem hối hận,
Rất xa với Chánh pháp.
Ta sẽ tuyên bố họ,
Hãy nghe như tuyên bố,
Phẫn nộ giết cả cha,
Phẫn nộ giết cả mẹ,
Phẫn nộ giết Phạm chí,
Phẫn nộ giết phàm phu.

Chính nhờ mẹ dưỡng dục,
Người thấy được đời này,
Nhưng phàm phu phẫn nộ,
Giết người cho sự sống.
Chúng sanh tự ví dụ,
Thương tự ngã tối thượng,
Phàm phu giết tự ngã,
Điên loạn nhiều hình thức,
Lấy gươm giết tự ngã,
Điên loại uống thuốc độc,
Dây tự trói họ chết,
Trong hang động núi rừng,
Những hành động sát sanh,
Khiến tự ngã phải chết.
Họ làm nhưng không biết,
Kẻ phẫn nộ hại người,

Với hình thức phẫn nộ,
Ma bẫy ẩn trong tâm.
Hãy nhiếp phục cắt đứt,
Với tuệ, tấn, chánh kiến,
Bậc trí tuệ cắt đoạn,
Mỗi mỗi bất thiện pháp
Như vậy học tập pháp,
Không để tâm nản chí,

Ly sân, không áo não,
Ly tham, tật đố không,
Nhiếp phục, đoạn phẫn nộ,
Vô lậu, nhập Niết-bàn.

AN 7.60

 

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

  Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com

Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật trình bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

| Trang kế| trở về đầu trang | Home page |