Now on that occasion Princess Sumana — with an entourage of 500 ladies-in-waiting riding on 500 carriages — went to where the Buddha was staying. On arrival, having bowed down, she sat to one side. As she was sitting there, she said to the Blessed One, "Suppose there were two disciples of the Blessed One, equal in conviction, virtue, and discernment, but one was a giver of alms and the other was not. At the break-up of the body, after death, they would reappear in a good destination, in the heavenly world. Having become devas, would there be any distinction, any difference between the two?"

"Yes, there would," said the Blessed One. "The one who was a giver of alms, on becoming a deva, would surpass the other in five areas: in divine life span, divine beauty, divine pleasure, divine status, and divine power..."

"And if they were to fall from there and reappear in this world: Having become human beings, would there be any distinction, any difference between the two?"

"Yes, there would," said the Blessed One. "The one who was a giver of alms, on becoming a human being, would surpass the other in five areas: in human life span, human beauty, human pleasure, human status, and human power..."

"And if they were to go forth from home into the homeless life of a monk: Having gone forth, would there be any distinction, any difference between the two?"

"Yes, there would," said the Blessed One. "The one who was a giver of alms, on going forth, would surpass the other in five areas: He would often be asked to make use of robes; it would be rare that he wouldn't be asked. He would often be asked to take food... to make use of shelter... to make use of medicine; it would be rare that he wouldn't be asked. His companions in the holy life would often treat him with pleasing actions... pleasing words... pleasing thoughts... and present him with pleasing gifts, and rarely with unpleasing..."

 

"And if both were to attain arahantship, would there be any distinction, any difference between their attainments of arahantship?"

 

"In that case, I tell you that there would be no difference between the two as to their release."

"It's awesome, lord, and astounding. Just this is reason enough to give alms, to make merit, in that it benefits one as a deva, as a human being, and as a monk."

— AN 5.31

 

Rồi Sumanà, con gái vua, với năm trăm thiếu nữ hộ tống trên năm trăm cỗ xe, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Sumanà, con gái vua bạch Thế Tôn: "Ở đây, bạch Thế Tôn, có hai đệ tử của Thế Tôn đồng đẳng về tín, đồng đẳng về giới, đồng đẳng về tuệ, một có bố thí, một không bố thí. Sau khi thân hoại mạng chung, cả hai được sanh lên cõi lành Thiên giới. Giữa hai vị thiên ấy, có sự đặc thù gì, có sự sai khác gì?"

Thế Tôn đáp:

" Có sự sai biệt, này Sumanà. Người có bố thí, khi được làm vị Thiên, vượt qua vị Thiên không có bố thí trên năm phương diện. Về thiên thọ mạng, về thiên sắc, về thiên lạc, về thiên danh xưng, về thiên tăng thượng..."

"Bạch Thế Tôn, nếu họ từ đây mạng chung, trở lại trạng thái này, khi họ trở lại làm người, bạch Thế Tôn, có sự đặc thù gì, có sự sai khác gì?"

Thế Tôn đáp: "Có sự sai biệt, này Sumanà. Người có bố thí, khi được làm người, vượt qua vị làm người không bố thí trên năm phương diện: Về nhân thọ mạng, về nhân sắc, về nhân lạc, về nhân danh xưng, về nhân tăng thượng..."

"Bạch Thế Tôn, nếu cả hai đều xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Giữa hai người xuất gia ấy, bạch Thế Tôn có thể có những đặc thù gì, những sai khác gì?"

Thế Tôn đáp: "Có sự sai biệt, này Sumanà.Người có bố thí, khi được xuất gia, vượt qua vị xuất gia không có bố thí trên năm phương diện: Thường hay được yêu cầu nhận y, ít khi không được yêu cầu; thường hay được yêu cầu nhận đồ ăn khất thực, ít khi không được yêu cầu; thường hay được yêu cầu nhận sàng tọa, ít khi không được yêu cầu; thường hay được yêu cầu nhận dược phẩm trị bệnh, ít khi không được yêu cầu. Vị ấy sống với những vị đồng Phạm hạnh nào, các vị này đối với vị ấy, xử sự với nhiều thân nghiệp khả ái, với ít thân nghiệp không khả ái, với nhiều khẩu nghiệp khả ái, với ít khẩu nghiệp không khả ái, với nhiều ý nghiệp khả ái, với ít ý nghiệp không khả ái, giúp đỡ với nhiều giúp đỡ khả ái, với ít giúp đỡ không khả ái."

"Nhưng bạch Thế Tôn, nếu cả hai đều chứng quả A-la-hán. Với hai vị chứng đạt A-la-hán ấy, bạch Thế Tôn có sự đặc thù nào, có sự sai khác nào?"

"Ở đây, này Sumanà, Ta nói không có sự sai khác nào, tức là so sánh giải thoát với giải thoát."

"Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Xa cho đến như vậy là vừa đủ để bố thí, là vừa đủ để làm cho các công đức. Vì rằng chúng là những giúp đỡ, những công đức cho chư Thiên, chúng là những giúp đỡ, những công đức cho loài Người, chúng là những giúp đỡ, những công đức cho các người xuất gia."

— AN 5.31

A person stashes a fund away,
deep underground, at the water line:
"When a need or duty arises,
this will provide for my needs,
 for my release if I'm denounced by the king,
 molested by thieves,
in case of debt, famine, or accidents.
With aims like this,
 in the world
 a reserve fund is stashed away.

 But no matter how well it's stored,
deep underground, at the water line,
it won't all always serve one's need.
The fund gets shifted from its place,
or one's memory gets confused;
or — unseen —
water serpents make off with it,
spirits steal it,
or hateful heirs run off with it.
When one's merit's ended,
it's totally destroyed.

 

 

 

But when a man or woman
has laid aside a well-stored fund
of generosity, virtue,
restraint, & self-control,
with regard to a shrine,
the Sangha,
a fine individual,  
guests,
mother, father,
or elder sibling:
That's a well-stored fund.
It can't be wrested away.
It follows you along.
When, having left this world,
for wherever you must go,
you take it with you.
This fund is not held in common with others,
cannot be stolen by thieves.

 

So, enlightened, you should make merit,
the fund that will follow you along.
This is the fund
that gives all they want
to beings human, divine.

Khp 8

.

 

Một người cất kho báu,
Ở tận dưới giếng sâu,
Nghĩ: "Nếu cần giúp đỡ,
Nó ích lợi cho ta".
Nếu bị vua kết án,
Hoặc trả các nợ nần,
Hoặc bị cướp giam cầm,
Và đòi tiền chuộc mạng,
Khi mất mùa, tai nạn,
Với mục đích như vầy.

Ở trên cõi đời này,
Sẽ đến giành kho báu.
Dẫu nó không bao giờ,
Ðược cất kỹ như vậy,
Ở tận dưới giếng sâu,
Vẫn không đủ hoàn toàn,
Giúp ích người mọi lúc.
Kho báu bị dời chỗ,
Hoặc người quên dấu vết,
Hoặc rắn thần lấy đi,
Hoặc thần linh tẩu tán,
Hoặc đám người thừa kế,
Kẻ ấy không chấp nhận,
Di chuyển kho báu đi,
Khi kẻ ấy không thấy.
Và khi phước đức tận,
Tất cả đều tiêu tan.


Những khi người nam, nữ,
Có bố thí, trì giới
Hoặc thiền định, trí tuệ,
Kho báu khéo để dành.
Trong chùa, tháp, Tăng đoàn,
Một cá nhân, lữ khách,
Hoặc người mẹ, người cha,
Hoặc là người anh nữa.
Kho này khéo để dành,
Ði theo người, không mất,
Giữa mọi vật phải rời,
Người cùng đi với nó.
Không ai khác chia phần,
Không cướp nào lấy được.

 


Vậy những kẻ tinh cần,
Hãy làm việc phước đức,
Kho báu ấy theo người,
Sẽ không bao giờ mất.
Ðây là một kho báu,
Có thể làm thỏa mãn,
Mọi ước vọng thiên, nhân,
Dù họ mong muốn gì,
Ðều đạt được tất cả,
Nhờ công đức phước nghiệp.

Khp 8

Then Janussonin the brahman went to the Blessed One and, on arrival, exchanged courteous greetings with him. After an exchange of friendly greetings & courtesies, he sat to one side. As he was sitting there, he said to the Blessed One, "Master Gotama, you know that we brahmans give gifts, make offerings, [saying,] 'May this gift accrue to our dead relatives. May our dead relatives partake of this gift.' Now, Master Gotama, does that gift accrue to our dead relatives? Do our dead relatives partake of that gift?"

 

"In possible places, brahman, it accrues to them, but not in impossible places."

"And which, Master Gotama, are the possible places? Which are the impossible places?"

"There is the case, brahman, where a certain person takes life, takes what is not given, engages in sensual misconduct, engages in false speech, engages in divisive speech, engages in abusive speech, engages in idle chatter, is covetous, bears ill will, and has wrong views. With the break-up of the body, after death, he reappears in hell. He lives there, he remains there, by means of whatever is the food of hell-beings. This is an impossible place for that gift to accrue to one staying there.

"Then there is the case where a certain person takes life, takes what is not given, engages in sensual misconduct, engages in false speech, engages in divisive speech, engages in abusive speech, engages in idle chatter, is covetous, bears ill will, and has wrong views. With the break-up of the body, after death, he reappears in the animal womb. He lives there, he remains there, by means of whatever is the food of common animals. This, too, is an impossible place for that gift to accrue to one staying there.

 

"Then there is the case where a certain person refrains from taking life, refrains from taking what is not given, refrains from sensual misconduct, refrains from false speech, refrains from divisive speech, refrains from abusive speech, refrains from idle chatter, is not covetous, bears no ill will, and has right views. With the break-up of the body, after death, he reappears in the company of human beings. He lives there, he remains there, by means of whatever is the food of human beings. This, too, is an impossible place for that gift to accrue to one staying there.

"Then there is the case where a certain person refrains from taking life, refrains from taking what is not given, refrains from sensual misconduct, refrains from false speech, refrains from divisive speech, refrains from abusive speech, refrains from idle chatter, is not covetous, bears no ill will, and has right views. With the break-up of the body, after death, he reappears in the company of the devas. He lives there, he remains there, by means of whatever is the food of devas. This, too, is an impossible place for that gift to accrue to one staying there.

 

"Then there is the case where a certain person takes life, takes what is not given, engages in sensual misconduct, engages in false speech, engages in divisive speech, engages in abusive speech, engages in idle chatter, is covetous, bears ill will, and has wrong views. With the break-up of the body, after death, he reappears in the realms of the hungry shades. He lives there, he remains there, by means of whatever is the food of hungry shades. He lives there, he remains that, by means of whatever his friends or relatives give in dedication to him. This is the possible place for that gift to accrue to one staying there.

"But, Master Gotama, if that dead relative does not reappear in that possible place, who partakes of that gift?"

"Other dead relatives, brahman, who have reappeared in that possible place."

 

"But, Master Gotama, if that dead relative does not reappear in that possible place, and other dead relatives have not reappeared in that possible place, then who partakes of that gift?"

"It's impossible, brahman, it cannot be, that over this long time that possible place is devoid of one's dead relatives.1 But at any rate, the donor does not go without reward.

 

"Does Master Gotama describe any preparation for the impossible places?"

"Brahman, I do describe a preparation for the impossible places. There is the case where a certain person takes life, takes what is not given, engages in sensual misconduct, engages in false speech, engages in divisive speech, engages in abusive speech, engages in idle chatter, is covetous, bears ill will, and has wrong views. But he gives food, drink, cloth, vehicles, garlands, scents, creams, bed, lodging, & lamps to priests & contemplatives. With the break-up of the body, after death, he reappears in the company of elephants. There he receives food, drink, flowers, & various ornaments. It's because he took life, took what is not given, engaged in sensual misconduct, engaged in false speech, engaged in divisive speech, engaged in abusive speech, engaged in idle chatter, was covetous, bore ill will, and had wrong views that he reappears in the company of elephants. But it's because he gave food, drink, cloth, vehicles, garlands, scents, creams, bed, lodging, & lamps to priests & contemplatives that he receives food, drink, flowers, & various ornaments.

"Then there is the case where a certain person takes life... has wrong views. But he gives food... lamps to priests & contemplatives. With the break-up of the body, after death, he reappears in the company of horses... in the company of cattle... in the company of poultry. There he receives food, drink, flowers, & various ornaments.2 It's because he took life... and had wrong views that he reappears in the company of poultry. But it's because he gave food, drink... & lamps to priests & contemplatives that he receives food, drink, flowers, & various ornaments.

 

 

 

"Then there is the case where a certain person refrains from taking life, refrains from taking what is not given, refrains from sensual misconduct, refrains from false speech, refrains from divisive speech, refrains from abusive speech, refrains from idle chatter, is not covetous, bears no ill will, and has right views. And he gives food, drink, cloth, vehicles, garlands, scents, creams, bed, lodging, & lamps to priests & contemplatives. With the break-up of the body, after death, he reappears in the company of human beings. There he experiences the five strings of human sensuality [delightful sights, sounds, smells, tastes, tactile sensations]. It's because he refrained from taking what is not given, refrained from sensual misconduct, refrained from false speech, refrained from divisive speech, refrained from abusive speech, refrained from idle chatter, was not covetous, bore no ill will, and had right views that he reappears in the company of human beings. And it's because he gave food, drink, cloth, vehicles, garlands, scents, creams, bed, lodging, & lamps to priests & contemplatives that he experiences the five strings of human sensuality.

"Then there is the case where a certain person refrains from taking life... and has right views. And he gives food, drink, cloth, vehicles, garlands, scents, creams, bed, lodging, & lamps to priests & contemplatives. With the break-up of the body, after death, he reappears in the company of devas. There he experiences the five strings of divine sensuality [delightful sights, sounds, smells, tastes, tactile sensations]. It's because he refrained from taking what is not given... and had right views that he reappears in the company of devas. And it's because he gave food, drink, cloth, vehicles, garlands, scents, creams, bed, lodging, & lamps to priests & contemplatives that he experiences the five strings of divine sensuality. But at any rate, brahman, the donor does not go without reward."

 

 

"It's amazing, Master Gotama, it's astounding, how it's enough to make one want to give a gift, enough to make one want to make an offering, where the donor does not go without reward."

 

"That's the way it is, brahman. That's the way it is. The donor does not go without reward."

"Magnificent, Master Gotama! Magnificent! Just as if he were to place upright what was overturned, to reveal what was hidden, to show the way to one who was lost, or to carry a lamp into the dark so that those with eyes could see forms, in the same way has Master Gotama — through many lines of reasoning — made the Dhamma clear. I go to Master Gotama for refuge, to the Dhamma, & to the community of monks. May Master Gotama remember me as a lay follower who has gone to him for refuge, from this day forward, for life."

AN 10.177

Rồi Bà-la-môn Jànussoni đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Jànussoni bạch Thế Tôn : "Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi Bà-la-môn, cho bố thí, làm các lễ cúng cho người chết. Mong rằng, bố thí này cho bà con huyết thống đã chết được lợi ích ! Mong rằng các bà con huyết thống đã chết, thọ hưởng bố thí này ! Thưa Tôn giả Gotama, bố thí có lợi ích gì cho các bà con huyết thống đã chết không ? Các bà con huyết thống đã chết có được thọ hưởng bố thí ấy hay không?"

"Này Bà-la-môn, nếu có tương ứng xứ, thời có lợi ích, không có lợi ích nếu không có tương ưng xứ."

"Thưa Tôn giả Gotama, thế nào là tương ưng xứ, thế nào là không tương ưng xứ?"

"Ở đây, này Bà-la-môn, có người sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, có tham ái, có sân, có tà kiến. Vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào địa ngục, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy ; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà-la-môn, đây là không tương ưng xứ, trú ở nơi đây, vị ấy không được lợi ích của bố thí ấy.

 

"Ở đây, này Bà-la-môn, có người sát sanh lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, có tham ái, có sân, có tà kiến. Sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy sanh vào loại bàng sanh. Món ăn của chúng sanh ở bàng sanh ăn, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy ; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà-la-môn, đây là không tương ưng xứ ; trú ở đây, vị ấy không được lợi ích của bố thí ấy.

 

"Ở đây, này Bà-la-môn, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, không có tham ái, không có tâm sân hận, có chánh kiến. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh cộng trú với loài Người như thế nào, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy ; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà-la-môn, đây là không tương ưng xứ, trú ở đây, vị ấy không được lợi ích của bố thí ấy.

"Ở đây, này Bà-la-môn, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, không có tham ái, không có tâm sân hận,có chánh kiến. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung được sanh cộng trú với chư Thiên. Món ăn của chư Thiên như thế nào, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy ; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Món ăn nào, các bạn bè, hoặc thân hữu, hoặc bà con hoặc người cùng huyết thống từ đấy muốn hướng cúng cho vị ấy, tại đấy, vị ấy sống với món ăn ấy ; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà-la-môn, đây là tương ưng xứ ; trú nơi đây, vị ấy được lợi ích của bố thí ấy.

"Ở đây, này Bà-la-môn, có người sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, có tham ái, có sân, có tà kiến. Sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy sanh vào cõi ngạ quỹ. Món ăn của chúng sanh ở ngạ quỹ ăn, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy ; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà-la-môn, đây là không tương ưng xứ ; trú ở đây, vị ấy không được lợi ích của bố thí ấy.

 

"Thưa Tôn giả Gotama, nếu bà con huyết thống ấy đã chết, không sanh vào chỗ ấy, thời ai hưởng bố thí ấy?"

 

"Này Bà-la-môn, các bà con huyết thống khác đã chết, được sanh vào chỗ ấy, những người ấy được hưởng bố thí ấy."

"Thưa Tôn giả Gotama, nếu bà con huyết thống đã chết, không sanh vào chỗ ấy, và các bà con huyết thống khác cũng không sanh vào chỗ ấy, thời ai hưởng bố thí ấy?'

 

"Không có trường hợp ấy, không có cơ hội ấy, này Bà-la-môn, rằng chỗ ấy có thể trống không trong một thời gian dài, không có người bà con huyết thống đã chết. Nhưng này Bà-la-môn, người bố thí không phải không có hưởng quả.

"Có phải Tôn giả Gotama nói một giả thuyết không thế xảy ra?"

"Này Bà-la-môn, Ta nói một giả thuyết không thể xảy ra. Ở đây, này Bà-la-môn, có người sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, có tham ái, có sân tâm, có tà kiến. Người ấy bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn, các món ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương, phấn sáp, các giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Người ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với các loài voi. Tại đây, vị ấy được đồ ăn, đồ uống, vòng hoa, các loại trang sức khác. Vì rằng, ở đây, này Bà-la-môn, có sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, do vậy người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với các loài voi. Vì rằng vị ấy có bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương, phấn sáp, các giường nằm, trú xứ, đèn đuốc ; do vậy, tại đấy vị ấy được các món ăn, các đồ uống, vòng hoa, các đồ trang sức khác.

 

"Này Bà-la-môn, Ta nói một giả thuyết không thể xảy ra. Ở đây, này Bà-la-môn, có người sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, có tham ái, có sân tâm, có tà kiến. Người ấy bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn, các món ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương, phấn sáp, các giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Người ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với các loài ngựa. Tại đây, vị ấy được đồ ăn, đồ uống, vòng hoa, các loại trang sức khác. Vì rằng, ở đây, này Bà-la-môn, có sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, do vậy người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với các loài ngựa. Vì rằng vị ấy có bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương, phấn sáp, các giường nằm, trú xứ, đèn đuốc ; do vậy, tại đấy vị ấy được các món ăn, các đồ uống, vòng hoa, các đồ trang sức khác.

"Ở đây, này Bà-la-môn, có hạng người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, từ bỏ tham ái, từ bỏ sân tâm, có chánh kiến. Người ấy có bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn các món ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, các vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với loài Người. Tại đấy, vị ấy được năm loại dục công đức sai khác, thuộc về loài Người. Vì rằng, này Bà-la-môn, vị ấy từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, từ bỏ tham ái, từ bỏ sân tâm, có chánh kiến, sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy được sanh cộng trú với loài Người. Vì rằng vị ấy có bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn các đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, các vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, giường nằm, các trú xứ, đèn đuốc ; do vậy, ở đấy vị ấy được năm dục công đức của loài Người.

"Ở đây, này Bà-la-môn, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, từ bỏ tham ái, từ bỏ sân tâm, có chánh kiến, người ấy bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn các đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, các vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Người ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên. Vị ấy tại đấy được năm loại dục công đức của chư Thiên. Vì rằng ở đây có từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, từ bỏ tham ái, từ bỏ sân tâm, có chánh kiến, cho nên sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy được sanh cộng trú với chư Thiên. Vì rằng vị ấy có bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn các đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, các vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Do vậy, tại đấy vị ấy được năm dục công đức của chư Thiên. Tuy nhiên, này Bà-la-môn, người bố thí không phải không có kết quả."

"Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! Thật hy hữu thay, Tôn giả Gotama ! Cho đến như thế này, thưa Tôn giả Gotama, là vừa đủ để bố thí, là vừa đủ để tổ chức các tín thí. Vì rằng, ở đấy, người bố thí không phải không có kết quả (như đã được nói)."

"Như vậy, này Bà-la-môn, người bố thí này không phải không có kết quả."

"Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Con xin quy y Tôn giả Goatma, quy y Pháp và quy y Tăng. Mong Tôn giả Gotama chấp nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng!"

AN 10.177

Notes

1.
The Vinaya counts as one's relatives all those related back through seven generations past one's grandparents — in other words, all those descended from one's great-great-great-great-great-great-great-grandparents.
2.
Apparently, "ornaments" for poultry would consist of brilliant plumage. Similarly, "ornaments" for elephants, horses, & cattle might consist of attractive markings.

 

9999

Then Ven. Sariputta, together with the lay followers from Campa, went to the Blessed One and on arrival, having bowed down to him, sat to one side. As he was sitting there, he said to the Blessed One: "Might there be the case where a person gives a gift of a certain sort and it does not bear great fruit or great benefit, whereas another person gives a gift of the same sort and it bears great fruit and great benefit?"

"Yes, Sariputta, there would..."

 

 

"Why, lord...?"

 

"Sariputta, there is the case where a person gives a gift seeking his own profit, with a mind attached [to the reward], seeking to store up for himself [with the thought], 'I'll enjoy this after death.' He gives his gift — food, drink, clothing, a vehicle; a garland, perfume, & ointment; bedding, shelter, & a lamp — to a priest or a contemplative. What do you think, Sariputta? Might a person give such a gift as this?"

"Yes, lord."

 

"Having given this gift seeking his own profit — with a mind attached [to the reward], seeking to store up for himself, [with the thought], 'I'll enjoy this after death' — on the break-up of the body, after death, he reappears in the company of the Four Great Kings. Then, having exhausted that action, that power, that status, that sovereignty, he is a returner, coming back to this world.

"Then there is the case of a person who gives a gift not seeking his own profit, not with a mind attached [to the reward], not seeking to store up for himself, nor [with the thought], 'I'll enjoy this after death.' Instead, he gives a gift with the thought, 'Giving is good.' He gives his gift — food, drink, clothing, a vehicle; a garland, perfume, & ointment; bedding, shelter, & a lamp — to a priest or a contemplative. What do you think, Sariputta? Might a person give such a gift as this?"

"Yes, lord."

 

"Having given this gift with the thought, 'Giving is good,' on the break-up of the body, after death, he reappears in the company of the devas of the Thirty-three. Then, having exhausted that action, that power, that status, that sovereignty, he is a returner, coming back to this world.

"Or, instead of thinking, 'Giving is good,' he gives a gift with the thought, 'This was given in the past, done in the past, by my father & grandfather. It would not be right for me to let this old family custom be discontinued'... on the break-up of the body, after death, he reappears in the company of the devas of the Hours. Then, having exhausted that action, that power, that status, that sovereignty, he is a returner, coming back to this world.

 

"Or, instead... he gives a gift with the thought, 'I am well-off. These are not well-off. It would not be right for me, being well-off, not to give a gift to those who are not well-off'... on the break-up of the body, after death, he reappears in the company of the Contented devas. Then, having exhausted that action, that power, that status, that sovereignty, he is a returner, coming back to this world.

 

"Or, instead... he gives a gift with the thought, 'Just as there were the great sacrifices of the sages of the past — Atthaka, Vamaka, Vamadeva, Vessamitta, Yamataggi, Angirasa, Bharadvaja, Vasettha, Kassapa, & Bhagu — in the same way will this be my distribution of gifts'... on the break-up of the body, after death, he reappears in the company of the devas who delight in creation. Then, having exhausted that action, that power, that status, that sovereignty, he is a returner, coming back to this world.

 

"Or, instead... he gives a gift with the thought, 'When this gift of mine is given, it makes the mind serene. Gratification & joy arise'... on the break-up of the body, after death, he reappears in the company of the devas who have power over the creations of others. Then, having exhausted that action, that power, that status, that sovereignty, he is a returner, coming back to this world.

 

 

"Or, instead of thinking, 'When this gift of mine is given, it makes the mind serene. Gratification & joy arise,' he gives a gift with the thought, 'This is an ornament for the mind, a support for the mind.' He gives his gift — food, drink, clothing, a vehicle; a garland, perfume, & ointment; bedding, shelter, & a lamp — to a priest or a contemplative. What do you think, Sariputta? Might a person give such a gift as this?"

"Yes, lord."

"Having given this, not seeking his own profit, not with a mind attached [to the reward], not seeking to store up for himself, nor [with the thought], 'I'll enjoy this after death,'

— nor with the thought, 'Giving is good,'

— nor with the thought, 'This was given in the past, done in the past, by my father & grandfather. It would not be right for me to let this old family custom be discontinued,'

— nor with the thought, 'I am well-off. These are not well-off. It would not be right for me, being well-off, not to give a gift to those who are not well-off,' nor with the thought, 'Just as there were the great sacrifices of the sages of the past — Atthaka, Vamaka, Vamadeva, Vessamitta, Yamadaggi, Angirasa, Bharadvaja, Vasettha, Kassapa, & Bhagu — in the same way this will be my distribution of gifts,'

— nor with the thought, 'When this gift of mine is given, it makes the mind serene. Gratification & joy arise,'

— but with the thought, 'This is an ornament for the mind, a support for the mind' — on the break-up of the body, after death, he reappears in the company of Brahma's Retinue. Then, having exhausted that action, that power, that status, that sovereignty, he is a non-returner. He does not come back to this world.

 

"This, Sariputta, is the cause, this is the reason, why a person gives a gift of a certain sort and it does not bear great fruit or great benefit, whereas another person gives a gift of the same sort and it bears great fruit and great benefit."

AN 7.49

 

Rồi Tôn giả Sàriputta cùng với các nam cư sĩ ở Campà đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Sàriputta bạch Thế Tôn: "Có thể, bạch Thế Tôn, ở đây có hạng người bố thí như vậy, không được quả lớn, không được lợi ích lớn. Nhưng bạch Thế Tôn, có thể ở đây có hạng người bố thí như vậy, được quả lớn, được lợi ích lớn."

" Này Sàriputta, có thể ở đây có hạng người bố thí như vậy, không được quả lớn, không được lợi ích lớn. Có thể, này Sàriputta, ở đây có hạng người bố thí như vậy, được quả lớn, được lợi ích lớn."

" Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, ở đây có hạng người bố thí như vậy, không được quả lớn, không được lợi ích lớn? Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, ở đây có hạng người bố thí như vậy, được quả lớn, được lợi ích lớn?"

"Ở đây, này Sàriputta, có người bố thí với tâm mong cầu, bố thí với tâm trói buộc (về kết quả), bố thí với tâm mong cầu được chất chứa, bố thí với ý nghĩ: "Tôi sẽ hưởng thọ cái này trong đời sau". Vị ấy bố thí như vậy cho các Sa-môn, Bà-la-môn, bố thí đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương thơm, hương liệu, giường nằm, những trú xứ, đèn đuốc. Thầy nghĩ thế nào, này Sàriputta, ở đây có thể có hạng người bố thí như vậy không?"

" Thưa có, bạch Thế Tôn."

"Ở đây, này Sàriputta, có hạng người bố thí với tâm mong cầu, bố thí với tâm trói buộc, bố thí với tâm mong cầu được chất chứa, bố thí với ý nghĩ: "Ta sẽ hưởng thọ cái này trong đời sau". Vị ấy bố thí như vậy, khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên ở Tứ Đại thiên vương. Và vị ấy, khi nghiệp được đoạn tận, thần lực ấy, danh tiếng ấy, uy quyền ấy được đoạn tận, vị ấy trở thành "vị trở lui lại", trở lui trạng thái này.

"Ở đây, này Sàriputta, có người bố thí với tâm không mong cầu, bố thí với tâm không trói buộc (về kết quả), bố thí với tâm không mong cầu được chất chứa, bố thí không với ý nghĩ: "Tôi sẽ hưởng thọ cái này trong đời sau".Nhưng bố thí với ý nghĩ: "Lành thay, sự bố thí". Vị ấy bố thí như vậy cho các Sa-môn, Bà-la-môn, bố thí đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương thơm, hương liệu, giường nằm, những trú xứ, đèn đuốc. Thầy nghĩ thế nào, này Sàriputta, ở đây có thể có hạng người bố thí như vậy không?"

"Thưa có, bạch Thế Tôn."

"Ở đây, này Sàriputta, có người bố thí với ý nghĩ: "Lành thay, sự bố thí".Vị ấy bố thí như vậy, khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên ở 33 cõi trời sắc giới. Và vị ấy, khi nghiệp được đoạn tận, thần lực ấy, danh tiếng ấy, uy quyền ấy được đoạn tận, vị ấy trở thành "vị trở lui lại", trở lui trạng thái này.

"Hay là người bố thí không với ý nghĩ: "Lành thay, sự bố thí", nhưng bố thí với ý nghĩ: "Cái này đã được cho trong quá khứ, đã được tổ tiên làm trong quá khứ, ta không nên để truyền thống gia đình này bị bỏ quên".Vị ấy bố thí như vậy, khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên . Và vị ấy, khi nghiệp được đoạn tận, thần lực ấy, danh tiếng ấy, uy quyền ấy được đoạn tận, vị ấy trở thành "vị trở lui lại", trở lui trạng thái này.

"Hay là người bố thí không với ý nghĩ: "Cái này đã được cho trong quá khứ, đã được tổ tiên làm trong quá khứ, ta không nên để truyền thống gia đình này bị bỏ quên", nhưng bố thí với ý nghĩ: "Ta có ăn, các người này không có ăn. Ta không nên là người có ăn, lại không bố thí cho người không có ăn".Vị ấy bố thí như vậy, khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên. Và vị ấy, khi nghiệp được đoạn tận, thần lực ấy, danh tiếng ấy, uy quyền ấy được đoạn tận, vị ấy trở thành "vị trở lui lại", trở lui trạng thái này.

"Hay là người bố thí không với ý nghĩ: "Ta có ăn, các người này không có ăn. Ta không nên là người có ăn, lại không bố thí cho người không có ăn", nhưng bố thí với ý nghĩ: "Như các vị ẩn sĩ thời xưa có những tế đàn lớn như Atthaka, Vàmaka, Vàmadeva, Vessàmitta, Yamataggi, Angìrasa, Bhàradvàja, Vàsettha, Kassapa, Bhagu; cũng vậy, ta sẽ là người san sẻ các vật bố thí". Vị ấy bố thí như vậy, khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên. Và vị ấy, khi nghiệp được đoạn tận, thần lực ấy, danh tiếng ấy, uy quyền ấy được đoạn tận, vị ấy trở thành "vị trở lui lại", trở lui trạng thái này.

"Vị ấy bố thí không với ý nghĩ: "Như các vị ẩn sĩ thời xưa có những tế đàn lớn như Atthaka, Vàmaka, Vàmadeva, Vessàmitta, Yamataggi, Angìrasa, Bhàradvàja, Vàsettha, Kassapa, Bhagu; cũng vậy, ta sẽ là người san sẻ các vật bố thí này", nhưng bố thí với ý nghĩ: "Do ta bố thí vật bố thí này, tâm được tịnh tín, hỷ duyệt khởi lên". Vị ấy bố thí như vậy, khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên . Và vị ấy, khi nghiệp được đoạn tận, thần lực ấy, danh tiếng ấy, uy quyền ấy được đoạn tận, vị ấy trở thành "vị trở lui lại", trở lui trạng thái này.

"Vị ấy bố thí, không với ý nghĩ: "Do ta bố thí vật bố thí này, tâm được tịnh tín, hỷ duyệt khởi lên". nhưng vị ấy bố thí với ý nghĩ để trang nghiêm tâm, để trang bị tâm. Và đối với Sa-môn hay Bà-la-môn, vị ấy bố thí đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương thơm, hương liệu, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Thầy nghĩ thế nào, này Sàriputta, ở đây, có hạng người có thể bố thí như vậy không?

"Thưa có, bạch Thế Tôn."

"Này Sàriputta , ở đây, ai bố thí không với tâm cầu mong, bố thí không với tâm trói buộc, bố thí không với mong cầu được chất chứa, bố thí không với ý nghĩ: "Ta sẽ hưởng thọ cái này trong đời sau",

- bố thí không với ý nghĩ: 'Lành thay, sự bố thí',

- bố thí không với ý nghĩ: 'Cái này đã được cho trong đời quá khứ, đã được tổ tiên làm trong quá khứ, ta không nên để truyền thống gia đình này bị bỏ quên',

- bố thí không với ý nghĩ: 'Ta có ăn, các người này không có ăn. Ta không nên là người có ăn, lại không bố thí cho người không có ăn', - bố thí không với ý nghĩ: 'Như các vị ẩn sĩ thời xưa có những tế đàn lớn như Atthaka, Vàmaka, Vàmadeva, Vessàmitta, Yamataggi, Angìrasa, Bhàradvàja, Vàsettha, Kassapa, Bhagu; cũng vậy, ta sẽ là người san sẻ các vật bố thí'.

- bố thí không với ý nghĩ: 'Do ta bố thí vật bố thí này, tâm được tịnh tín, hỷ duyệt khởi lên'.

- ở đây, ai bố thí không với tâm cầu mong, bố thí không với tâm trói buộc, bố thí không với mong cầu được chất chứa. Nhưng vị ấy bố thí với ý nghĩ để trang nghiêm tâm, để trang bị tâm.. Do vị ấy bố thí như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên ở Phạm chúng thiên. Và khi vị ấy, nghiệp được đoạn tận, thần lực ấy, danh tiếng ấy, uy quyền ấy được đoạn tận, vị ấy trở thành vị Bất lai, không trở lui trạng thái này.

"Này Sàriputta, đây là nhân, đây là duyên, khiến cho ở đây, một hạng người bố thí như vậy, không được quả lớn, không được lợi ích lớn. Này Sàriputta, nhưng đây cũng là nhân, là duyên khiến cho ở đây, có hạng người bố thí như vậy, được quả lớn, được lợi ích lớn."

AN 7.49

"These five are a person of integrity's gifts. Which five?

A person of integrity gives a gift with a sense of conviction.
A person of integrity gives a gift attentively.

A person of integrity gives a gift in season.

A person of integrity gives a gift with an empathetic heart.
A person of integrity gives a gift without adversely affecting himself or others.

"Having given a gift with a sense of conviction, he — wherever the result of that gift ripens — is rich, with much wealth, with many possessions. And he is well-built, handsome, extremely inspiring, endowed with a lotus-like complexion.

"Having given a gift attentively, he — wherever the result of that gift ripens — is rich, with much wealth, with many possessions. And his children, wives, slaves, servants, and workers listen carefully to him, lend him their ears, and serve him with understanding hearts.

 

"Having given a gift in season, he — wherever the result of that gift ripens — is rich, with much wealth, with many possessions. And his goals are fulfilled in season.

 

"Having given a gift with an empathetic heart, he — wherever the result of that gift ripens — is rich, with much wealth, with many possessions. And his mind inclines to the enjoyment of the five strings of lavish sensuality.

"Having given a gift without adversely affecting himself or others, he — wherever the result of that gift ripens — is rich, with much wealth, with many possessions. And not from anywhere does destruction come to his property — whether from fire, from water, from kings, from thieves, or from hateful heirs.

"These five are a person of integrity's gifts."

AN 5.148

Này các Tỷ-kheo, có năm loại bố thí này xứng bậc Chân nhân. Thế nào là năm?

Bố thí có lòng tin,

Bố thí có kính trọng,

Bố thí đúng thời,

Bố thí với tâm không gượng ép,

Bố thí không làm thương tổn mình và người.

"Này các Tỷ-kheo, sau khi bố thí với lòng tin, quả dị thục của sự bố thí ấy đem lại kết quả: Người ấy được giàu sang, đại phú, tài sản sung mãn, đẹp trai, dễ ngó, có thành tín và thành tựu dung sắc thì thù thắng như hoa sen.

"Và này các Tỷ-kheo, sau khi bố thí có cung kính, quả dị thục của sự bố thí ấy đem lại kết quả: Người ấy được giàu sang, đại phú, tài sản sung mãn; và các con trai, các bà vợ, các người nô tỳ, các người đưa tin, các người làm công, những người ấy đều sẵn sàng vâng theo người ấy, họ lóng tai và phục vụ với tâm hiểu biết.

"Và này các Tỷ-kheo, sau khi bố thí đúng thời, quả dị thục của sự bố thí ấy đem lại kết quả: Người ấy được giàu sang, đại phú, tài sản sung mãn; và các vật dụng đến với người ấy đúng thời và sung túc.

"Và này các Tỷ-kheo, sau khi bố thí với tâm không gượng ép, quả dị thục của sự bố thí ấy đem lại kết quả: Người ấy được giàu sang, đại phú, tài sản sung mãn, và hướng tâm thụ hưởng đầy đủ năm dục công đức.

"Và này các Tỷ-kheo, sau khi bố thí không làm thương tổn mình và người, quả dị thục của sự bố thí ấy đem lại kết quả: Người ấy được giàu sang, đại phú, tài sản sung mãn; và không một tai nạn nào từ đâu đến, đến với tài sản của người ấy, hoặc từ lửa, từ nước, từ vua, từ ăn trộm, từ các người thù địch hay từ các người thừa tự.

"Này các Tỷ-kheo, có năm loại bố thí xứng bậc Chân nhân này."

AN 5.148

"There are these five seasonable gifts. Which five? One gives to a newcomer. One gives to one going away. One gives to one who is ill. One gives in time of famine. One sets the first fruits of field & orchard in front of those who are virtuous. These are the five seasonable gifts."

 

In the proper season they give —
those with discernment,
responsive, free from stinginess.
Having been given in proper season,
with hearts inspired by the Noble Ones
— straightened, Such —
their offering bears an abundance.
Those who rejoice in that gift
or give assistance,
they, too, have a share of the merit,
and the offering isn't depleted by that.
So, with an unhesitant mind,
one should give where the gift bears great fruit.
Merit is what establishes
living beings in the next life.

 

AN 5.36

"Này các Tỷ-kheo, có năm bố thí đúng thời này. Thế nào là năm? Bố thí cho người đến. Bố thí cho người đi. Bố thí cho người đau bệnh. Bố thí trong thời đói. Phàm có những hoa quả gì mới gặt hái được, dành chúng đầu tiên để cúng dường các bậc giữ giới. Này các Tỷ-kheo, năm pháp này là năm bố thí đúng thời Tỷ-kheo, năm pháp này là năm bố thí đúng thời.

Có trí, thí đúng thời,
Lời từ ái, không tham,
Đúng thời, thí bậc thánh,
Bậc Chánh trực, Thế Tôn.
Cúng dường vậy to lớn,
Đưa đến lòng tịnh tín,
Ở đây người tùy hỷ,
Cùng người làm nghiệp vụ.
Không ai thiếu cúng dường,
Họ san sẻ công đức,
Do vậy hãy bố thí,
Với tâm không hạn chế.
Chỗ nào với bố thí,
Đưa đến kết quả lớn,
Đối với các hữu hình,
Công đức được an lập,
Cho đến trong đời sau.

AN 5.36

So Prince Payasi established a donation for brahmans, contemplatives, indigents, hoboes, paupers, & beggars. And in that donation he gave food of this sort: unhusked rice porridge together with pickle brine. And he gave rough cloth with knotted fringe. Now a brahman youth named Uttara was the superintendent of that donation. As he was giving the donation he dedicated it in this way:"Through this donation may I be associated with Prince Payasi in this life, but not in the next." Prince Payasi heard that Uttara, when giving the donation, dedicated it in this way: "Through this donation may I be associated with Prince Payasi in this life, but not in the next." So, having summoned him, he said to him, "Is it true, dear boy, that when giving the donation you dedicated in this way: 'Through this donation may I be associated with Prince Payasi in this life, but not in the next'?"

"Yes, sir."

"But why do you dedicate it in this way...? Don't we who wish to gain merit hope for the fruit of our donation?"

 

 

"But, sir, the food in the donation is like this: unhusked rice porridge together with pickle brine. You wouldn't want to touch it with your foot, much less eat it. And the rough cloth with knotted fringe: You wouldn't want to touch it with your foot, much less wear it. You are dear & charming to us, so how can we connect what is dear & charming with what is not charming?"

 

"Then in that case, my dear boy, establish [a donation with] the sort of food that I eat and the sort of cloth that I wear."

Responding, "Yes, sir," Uttara the brahman youth established [a donation with] the sort of food that Prince Payasi ate and the sort of cloth that Prince Payasi wore. Then Prince Payasi — having given the donation inattentively, having given the donation not with his own hand, having given the donation thoughtlessly, having given the donation as if he were throwing it away — on the break-up of the body, after death, reappeared in the company of the devas of the Four Great Kings in the empty Serisaka palace. But Uttara, the brahman youth who was the superintendent of the donation — having given the donation attentively, having given the donation with his own hand, having given the donation thoughtfully, having given the donation not as if he were throwing it away — on the break-up of the body, after death, reappeared in the good destination, the heavenly world, in the company of the [higher] devas of the Thirty-three.

— DN 23

Rồi Tôn chủ Pàyàsi tổ chức bố thí cho các vị Sa môn, Bà -la-môn, cho những người nghèo, những người vô gia cư, những người ăn mày. Trong cuộc bố thí này, các món ăn như thế này được đem cho như cháo, đồ ăn phế thải, vải thô với những viền bằng hình tròn. Trong cuộc bố thí này, có vị thanh niên tên Uttàra bị bỏ qua. Sau khi cuộc bố thí đã xong, vị nầy nói ngạo như sau: "Với cuộc bố thí này, ta được gặp Tôn chủ Pàyàsi trong đời này, nhưng không gặp trong đời sau." Tôn chủ Pàyàssi nghe thanh niên Uttàra sau khi cuộc bố thí đã xong, có nói ngạo: "Với cuộc bố thí này, ta được gặp Tôn chủ Pàyàsi trong đời này, nhưng không gặp trong đời sau," liền cho mời thanh niên Uttàra và nói: "Này Thân hữu Uttàra, có thật chăng, sau khi cuộc bố thí đã xong, Ngươi có nói ngạo: "Với cuộc bố thí này, ta gặp được Tôn chủ Pàyàsi trong đời này, nhưng không gặp trong đời sau"?

"Thật có vậy, này Tôn chủ!"

"Này Thân hữu Uttàra, tại sao, sau cuộc bố thí Ngươi lại nói ngạo như vậy: "Với cuộc bố thí này, ta được gặp Tôn chủ Pàyàsi trong đời này, nhưng không gặp trong đời sau"? Này Thân hữu Uttàra, có phải chúng ta đi tìm công đức đều trông mong kết quả của cuộc bố thí?"

"Này Tôn chủ, trong cuộc bố thí của Ngài, các món ăn như thế này được đem cho như cháo, đồ ăn phế thải, các món ăn này được Ngài không muốn lấy bàn chân của Ngài đụng đến, huống nữa là ăn; vải thô với những nền bằng hình tròn, các thứ vải này Ngài không muốn lấy bàn chân của Ngài đụng đến, huống nữa là mặc. Tôn chủ, Ngài là người thân và kính mến của chúng tôi. Như thế nào, chúng tôi có thể phối hợp cái gì thân yêu và kính mến với cái gì không thân yêu?"

"Vậy này Thân hữu Uttàra, hãy phân phát các món ăn giống như các món tôi ăn, hãy phân phát các vải mặc, giống như các thứ vải mà tôi mặc."

"Xin vâng, Tôn chủ!" Thanh niên Uttàra vâng theo lời Tôn chủ Pàyàsi, đem phân phát những món ăn giống như các món tôn chủ Pàyàsi ăn, đem phân phát các thứ vải, giống như các thứ vải tôn chủ Pàyàsi mặc. Tôn chủ Pàyàsi vì đã bố thí không được cho hoàn vị, vì đã bố thí không tự tay mình làm, vì đã bố thí không có suy tư, vì đã bố thí các đồ vật phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh nhập chúng với Bốn Ðại Thiên vương, trong cung điện trống không của Serisaka. Còn thanh niên Uttàra bị bỏ qua trong cuộc bố thí này, vì đã bố thí một cách hoàn bị, vì đã bố thí tự tay mình làm, vì đã bố thí có suy tư, vì đã bố thí các đồ không phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới nhập chúng với chư Thiên ở Tam thập tam thiên.

— DN 23

"And how is a donation endowed with six factors? There is the case where the donor has three factors and the recipients have three. And which are the donor's three factors. There is the case where the donor, before giving, is happy. While giving his/her mind is clear & confident. After giving, he/she is gratified. There are the donor's three factors. And which are the recipients' three factors? There is the case where the recipients are free from passion or are practicing for the subduing of passion; they are free of aversion or are practicing for the subduing of aversion; they are free of delusion or are practicing for the subduing of delusion. These are the recipients' three factors... Now, it is not easy to take the measure of the merit of a donation thus endowed with six factors as 'just this much bonanza of merit, bonanza of skillfulness, nourishment of bliss, heavenly, ripening in bliss leading to heaven, leading to what is agreeable, pleasing, charming, happy, & beneficial.' It is reckoned simply as a great mass of merit that is unreckonable, immeasurable.

 

"Just as it is not easy to take the measure of the water in the great ocean as 'just this many pails of water or hundreds of pails of water or thousands of pails of water or hundreds of thousands of pails of water.' It is reckoned simply as a great mass of water that is unreckonable, immeasurable. In the same way, it is not easy to take the measure of the merit of a donation thus endowed with six factors as 'just this much bonanza of merit, bonanza of skillfulness, nourishment of bliss, heavenly, ripening in bliss leading to heaven, leading to what is agreeable, pleasing, charming, happy, & beneficial.' It is reckoned simply as a great mass of merit that is unreckonable, immeasurable."

— AN 6.37

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thí vật gồm có sáu phần cho chúng Tỷ-kheo Tăng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có ba phần thuộc người bố thí và có ba phần thuộc người nhận đồ bố thí. Thế nào là ba phần thuộc về người bố thí? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người bố thí, trước khi bố thí, ý được vui lòng; trong khi bố thí, tâm được tịnh tín; sau khi bố thí, cảm thấy hoan hỷ. Ðây là ba phần của người bố thí. Thế nào là ba phần của người nhận bố thí? Ở đây, này các Tỷ-kheo, những người nhận vật bố thí, đã được ly tham hay đang thực hành hạnh ly tham; đã được ly sân hay đang thực hành hạnh ly sân; đã được ly si hay đang thực hành hạnh ly si. Ðây là ba phần của những người nhận vật bố thí. Như vậy là ba phần của người bố thí và ba phần của những người nhận được vật bố thí. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là thí vật gồm có sáu phần. Như vậy, này các Tỷ-kheo, thực không dễ gì nắm được số lượng về công đức một thí vật gồm có sáu phần như vậy: "Có chừng ấy nguồn sanh phước, nguồn sanh thiện, món ăn an lạc, thuộc Thiên giới, là quả lạc dị thục, dẫn đến cõi Trời, đưa đến khả lạc, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc"; vì rằng cả khối công đức lớn được xem là vô số, vô lượng.

"Ví như, này các Tỷ-kheo, trong biển lớn, thật không dễ gì nắm lấy một số lượng nước và nói rằng: "Có chừng ấy thùng nước, hay có chừng ấy trăm thùng nước, hay có chừng ấy ngàn thùng nước, hay có chừng ấy trăm ngàn thùng nước"; vì rằng, cả khối lượng lớn nước được xem là vô số, vô lượng. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thật không dễ gì để nắm được số lượng về công đức của một thí vật gồm sáu phần như vậy: "Có chừng ấy nguồn sanh phước, nguồn sanh thiện, món ăn an lạc, thuộc Thiên giới, là quả lạc dị thục, dẫn đến cõi Trời, đưa đến khả lạc, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc an lạc"; vì rằng cả khối công đức lớn được xem là vô số, vô lượng."

— AN 6.37

 

Then King Pasenadi Kosala went to the Blessed One in the middle of the day and, on arrival, having bowed down to the Blessed One, sat to one side. As he was sitting there the Blessed One said to him, "Well now, great king, where are you coming from in the middle of the day?"

"Just now, lord, a money-lending householder died in Savatthi. I have come from conveying his heirless fortune to the royal palace: ten million in silver, to say nothing of the gold. But even though he was a money-lending householder, his enjoyment of food was like this: he ate broken rice & pickle brine. His enjoyment of clothing was like this: he wore three lengths of hempen cloth. His enjoyment of a vehicle was like this: he rode in a dilapidated little cart with an awning of leaves."

"That's the way it is, great king. That's the way it is. Once in the past that money-lending householder provided alms for the Private Buddha named Tagarasikhi. Saying [to his servant], 'Give alms to the contemplative,' he got up from his seat and left. After giving, though, he felt regret: 'It would have been better if my slaves or servants had eaten those alms'... Now, the result of his action in having provided alms for the Private Buddha named Tagarasikhi was that he appeared seven times in a good destination, the heavenly world. And through the remaining result of that action he acted as money-lender seven times in this very same Savatthi. But the result of his action in feeling regret after giving [those] alms — 'It would have been better if my slaves or servants had eaten those alms' — was that his mind didn't lend itself to the lavish enjoyment of food, didn't lend itself to the lavish enjoyment of clothing, didn't lend itself to the lavish enjoyment of a vehicle, didn't lend itself to the lavish enjoyment of the five strings of sensuality."

SN 3.20

 

Rồi vua Pasenadi nước Kosala, giữa trưa, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với vua Pasenadi nước Kosala đang ngồi một bên: "Thưa Đại vương, Đại vương đi đâu lại giữa trưa như thế này?"

"Ở đây, bạch Thế Tôn, có triệu phú gia chủ ở Sàvatthi bị mệnh chung. Và con đến để xem tài sản của vị không có con ấy được chở vào nội thành. Bạch Thế Tôn, có đến mười triệu đồng tiền bằng bạc, không nói đến tiền bằng vàng. Bạch Thế Tôn, tuy vậy đồ ăn của vị triệu phú gia chủ ấy lại chỉ gồm có cháo tấm chua ngày hôm qua để lại. Còn vải mặc chỉ mang vải gai may thành ba tấm. Còn xe thì đi xe nhỏ cũ kỹ và hư nát, có gắn tán che bằng lá."

"Thật như vậy, thưa Đại vương. Thật như vậy, thưa Đại vương. Thưa Đại vương, vị triệu phú gia chủ ấy thuở xưa, đã bố thí đồ ăn khất thực cho một vị Bích-chi Phật tên là Tagarasikkhi. Vị ấy nói: " Hãy bố thí cho vị Sa-môn". Nói xong, vị ấy từ chỗ ngồi đứng dậy, rồi bỏ đi. Nhưng về sau, vị ấy hối tiếc, nói rằng: "Tốt hơn, các người phục dịch hay làm công ăn đồ ăn khất thực này". Thưa Đại vương, vì người triệu phú gia chủ ấy có bố thí đồ ăn khất thực cho vị Độc Giác Phật tên là Tagarasikkhi. Do kết quả hành động ấy, vị ấy được sanh bảy lần lên thiện thú, Thiên giới. Do kết quả dư hưởng còn lại, vị ấy được làm nhà triệu phú bảy lần ở Sàvatthi này. Thưa Đại vương, vì người triệu phú gia chủ ấy sau khi bố thí về, lại hối tiếc nói rằng: "Tốt hơn, các người phục vụ hay làm công ăn đồ ăn khất thực này". Do kết quả của hành động ấy, tâm của vị ấy hướng về các món ăn không được tốt đẹp, tâm của vị ấy hướng về các đồ mặc không được tốt đẹp, tâm của vị ấy hướng về các xe cộ không được tốt đẹp, tâm của vị ấy hướng về sự thọ hưởng năm dục công đức không được tốt đẹp.

SN 3.20

Then Vacchagotta the wanderer went to the Blessed One and, on arrival, exchanged courteous greetings with him. After an exchange of friendly greetings & courtesies, he sat to one side. As he was sitting there, he said to the Blessed One: "Master Gotama, I have heard that 'Gotama the contemplative says this: "Only to me should a gift be given, and not to others. Only to my disciples should a gift be given, and not to others. Only what is given to me bears great fruit, and not what is given to others. Only what is given to my disciples bears great fruit, and not what is given to the disciples of others."' Now those who report this: Are they reporting the Master Gotama's actual words, are they not misrepresenting him with what is unfactual, are they answering in line with the Dhamma, so that no one whose thinking is in line with the Dhamma will have grounds for criticizing them? For we don't want to misrepresent the Master Gotama."

"Vaccha, whoever says this: 'Gotama the contemplative says this: "Only to me should a gift be given... Only what is given to my disciples bears great fruit, and not what is given to the disciples of others," is not reporting my actual words, is misrepresenting me with what is unfactual & untrue.

 

 

"Vaccha, whoever prevents another from giving a gift creates three obstructions, three impediments. Which three? He creates an obstruction to the merit of the giver, an obstruction to the recipient's gains, and prior to that he undermines and harms his own self. Whoever prevents another from giving a gift creates these three obstructions, these three impediments.

 

"I tell you, Vaccha, even if a person throws the rinsings of a bowl or a cup into a village pool or pond, thinking, 'May whatever animals live here feed on this,' that would be a source of merit, to say nothing of what is given to human beings. But I do say that what is given to a virtuous person is of great fruit, and not so much what is given to an unvirtuous person."

AN 3.57

Rồi du sĩ Vacchagotta đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên những lời chào đón hỏi thăm. Sau khi nói những lời chào đón hỏi thăm, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, du sĩ Vacchagotta thưa với Thế Tôn :
-" Tôi có được nghe, thưa Tôn giả Gotama, Sa-môn Gotama nói như sau : "Cần phải bố thí cho Ta, không cần bố thí cho người khác. Cần phải bố thí cho đệ tử của Ta, không cần bố thí cho đệ tử những người khác. Bố thí cho Ta có quả lớn, bố thí cho những người khác không có quả lớn. Bố thí cho các đệ tử của ta có quả lớn, bố thí cho những đệ tử của người khác không có quả lớn !". Những người nói như vậy, có phải nói đúng lời nói của Tôn giả Gotama, không có xuyên tạc Tôn giả Gotama với điều không thật ? Có phải họ nói như vậy là đúng pháp và thuận pháp, và những ai là người đồng pháp, nói lời đúng pháp và thuận pháp, không có cơ hội để chỉ trích ? Họ không muốn xuyên tạc Tôn giả Gotama. "

"Này Vaccha, những ai nói rằng Sa-môn nói như sau : "Cần phải bố thí cho Ta không cần bố thí cho người khác. Cần phải bố thí cho đệ tử của Ta, không cần bố thí cho đệ tử những người khác. Bố thí cho Ta có quả lớn, bố thí cho những người khác không có quả lớn. Bố thí cho các đệ tử của ta có quả lớn, bố thí cho những đệ tử của người khác không có được quả lớn !", những người ấy không nói đúng với lời nói của ta, họ đã xuyên tạc ta với điều không thật, họ đã nói láo.

Này Vaccha, ai ngăn chận người khác bố thí, người ấy tạo ra ba chướng ngại pháp và đánh cắp mất ba vật. Thế nào là ba ?
-Người ấy làm chướng ngại người cho không được công đức,
-Người ấy ngăn chặn người nhận không được bố thí,
-Và tự ngã người ấy trước đã mất gốc, lại càng bị thương tổn hơn.
Này Vaccha, ai ngăn chặn người cho không bố thí người khác, tạo ra ba chướng ngãi như vậy, và đánh cắp mất ba vật.

"Này Vaccha, ta nói như sau : "Những ai đổ đồ phế thải trên mâm bàn, hay đồ rửa chén bát vào hố phân hay hố rác rưởi (với ý nghĩ) để các loài hữu tình trong ấy nhờ đấy được ăn để sống". Do nhân duyên ấy, này Vaccha, ta nói có đem lại công đức, còn nói gì đối với loài người.
Lại nữa, này Vaccha, Ta tuyên bố rằng, cho người có giới hạnh được quả lớn, cho người ác giới không phải như vậy."

AN 3.57

As he was sitting to one side, King Pasenadi Kosala said to the Blessed One: "Where, lord, should a gift be given?"

"Wherever the mind feels confidence, great king."

"But a gift given where, lord, bears great fruit?"

"This [question] is one thing, great king — 'Where should a gift be given?' — while this — 'A gift given where bears great fruit?' — is something else entirely. What is given to a virtuous person — rather than to an unvirtuous one — bears great fruit. In that case, great king, I will ask you a counter-question. Answer as you see fit.

"What do you think, great king? There is the case where you have a war at hand, a battle imminent. A noble-warrior youth would come along — untrained, unpracticed, undisciplined, undrilled, fearful, terrified, cowardly, quick to flee. Would you take him on? Would you have any use for a man like that?"

 

"No, lord, I wouldn't take him on. I wouldn't have any use for a man like that."

"Then a brahman youth... a merchant youth... a laborer youth would come along — untrained, unpracticed, undisciplined, undrilled, fearful, terrified, cowardly, quick to flee. Would you take him on? Would you have any use for a man like that?"

 

"No, lord, I wouldn't take him on. I wouldn't have any use for a man like that."

 

"Now, what do you think, great king? There is the case where you have a war at hand, a battle imminent. A noble-warrior youth would come along — trained, practiced, disciplined, drilled, fearless, unterrified, not cowardly, not quick to flee. Would you take him on? Would you have any use for a man like that?"

 

"Yes, lord, I would take him on. I would have use for a man like that."

"Then a brahman youth... a merchant youth... a laborer youth would come along — trained, practiced, disciplined, drilled, fearless, unterrified, not cowardly, not quick to flee. Would take you him on? Would you have any use for a man like that?"

"Yes, lord, I would take him on. I would have use for a man like that."

"In the same way, great king. When someone has gone forth from the home life into homelessness — no matter from what clan — and he has abandoned five factors and is endowed with five, what is given to him bears great fruit.

"And which five factors has he abandoned? He has abandoned sensual desire... ill will... sloth & drowsiness... restlessness & anxiety... uncertainty. These are the five factors he has abandoned. And with which five factors is he endowed? He is endowed with the aggregate of virtue of one beyond training... the aggregate of concentration of one beyond training... the aggregate of discernment of one beyond training... the aggregate of release of one beyond training... the aggregate of knowledge & vision of release of one beyond training. These are the five factors with which he is endowed.

"What is given to one who has abandoned five factors and is endowed with five factors in this way bears great fruit."

That is what the Blessed One said. Having said that, the One Well-Gone, the Teacher, said further:

As a king intent on battle
would hire a youth
in whom there are
archery skills,
persistence,
& strength,
and not, on the basis of birth,
a coward;
so, too, you should honor
a person of noble conduct, wise,
in whom are established
composure
& patience,
even though
his birth may be lowly.
Let donors build
pleasant hermitages
and there invite the learned to stay.
Let them make reservoirs
in dry forests
and walking paths
where it's rough
Let them, with a clear, calm awareness,
give food, drink, snacks,
clothing, & lodgings
to those who've become
straightforward.
Just as a hundred-peaked,
lightning-garlanded,
thundering cloud,
raining on the fertile earth,
fills the plateaus & gullies,
even so
a person of conviction & learning,
wise,
having stored up provisions,
satisfies wayfarers
with food & drink.
Delighting in distributing alms,
'Give to them!
Give!'
he says.
That
is his thunder,
like a raining cloud's.
That shower of merit,
abundant,
rains back on the one
who gives.

 

SN 3.24

 

Ngồi xuống một bên, vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn: "Chỗ nào, bạch Thế Tôn, bố thí cần phải đem cho?"

"Thưa Đại vương, tại chỗ nào, tâm được hoan hỷ."

"Bạch Thế Tôn, chỗ nào cho được quả lớn?"

"Thưa Đại vương, câu : "Chỗ nào bố thí cần phải đem cho" khác với câu: "Chỗ nào cho được quả lớn". Thưa Đại vương, cho người trì giới được quả báo lớn. Cho người không giữ giới không được như vậy. Về vấn đề này, thưa Đại vương, Ta sẽ hỏi Đại vương, Đại vương kham nhẫn như thế nào, hãy trả lời câu hỏi ấy như vậy.

"Thưa Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào? Ở đây, Đại vương đang lâm chiến, và cuộc giao tranh đang tiếp diễn dữ dội. Rồi một thanh niên Sát-đế-lỵ đến, không có học tập, không có huấn luyện, không có thực tập, không có phục vụ, rụt rè, sợ hãi, run sợ. Đại vương có chấp nhận người ấy không? Đại vương có ủng hộ người ấy không, và một người như vậy có lợi ích gì cho Đại vương không?"

"Bạch Thế Tôn, con không ủng hộ người ấy và một người như vậy không có lợi ích gì cho con cả."

Rồi một thanh niên Bà-la-môn... một thanh niên Vessa (thương gia) ... một thanh niên Sudda (Thủ-đà: cùng đinh) đến, không có học tập, không có huấn luyện, không có thực tập, không có phục vụ, rụt rè, sợ hãi, run sợ. Đại vương có chấp nhận người ấy không? Đại vương có ủng hộ người ấy không, và một người như vậy có lợi ích gì cho Đại vương không?"

"Bạch Thế Tôn, con không ủng hộ người ấy và một người như vậy không có lợi ích gì cho con cả."

"Thưa Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào? Ở đây, Đại vương đang lâm chiến, và cuộc giao tranh đang tiếp diễn dữ dội. Rồi một thanh niên Sát-đế-lỵ đến, có học tập, có huấn luyện, có thực tập, có phục vụ, không rụt rè, không sợ hãi, không run sợ. Đại vương có chấp nhận người ấy không? Đại vương có ủng hộ người ấy không, và một người như vậy có lợi ích gì cho Đại vương không?"

"Bạch Thế Tôn, con ủng hộ người ấy. Và một người như vậy có lợi ích cho con."

"Rồi một thanh niên Bà-la-môn ... một thanh niên Vessa ... một thanh niên Sudda đến có học tập, có huấn luyện, có thực tập, có phục vụ, không rụt rè, không sợ hãi, không run sợ. Đại vương có chấp nhận người ấy không? Đại vương có ủng hộ người ấy không, và một người như vậy có lợi ích gì cho Đại vương không?"

"Bạch Thế Tôn, con ủng hộ người ấy và một người như vậy có lợi ích cho con."

"Cũng vậy, thưa Đại vương, dầu cho một người có xuất gia từ một gia đình nào, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, vị ấy đoạn trừ năm chi và hội đủ năm chi. Bố thí cho một người như vậy có quả báo lớn.

"Thế nào là năm chi được đoạn trừ? Tham dục được đoạn trừ, sân được đoạn trừ, hôn trầm thụy miên được đoạn trừ, trạo hối được đoạn trừ, nghi được đoạn trừ. Năm chi này được đoạn trừ. Thế nào là năm chi được hội đủ? Vô học giới uẩn được hội đủ, vô học định uẩn được hội đủ, vô học tuệ uẩn được hội đủ, vô học giải thoát uẩn được hội đủ, vô học giải thoát tri kiến uẩn được hội đủ. Năm chi này được hội đủ.

 

"Chính một người như vậy, năm chi được đoạn trừ, năm chi được hội đủ, bố thí cho người như vậy được quả báo lớn."

 

Thế Tôn nói như vậy. Rồi bậc Đạo Sư lại nói thêm:

Vị vua đang lâm chiến,
Sẽ giữ lại thanh niên,
Cung thuật được thiện xảo,
Dõng mãnh đầy khí lực.
Nhà vua không tuyển chọn,
Theo tiêu chuẩn thọ sanh.
Cũng vậy, người có trí,
Kính lễ bậc hạ sanh,
Bậc này sống Thánh hạnh,
Nhẫn nhục và hiền hòa.
Hãy làm cốc thoải mái
Dựng nhà cho đa văn,
Rừng khô làm bể nước,
Hiểm trở, mở đường đi.
Với tâm tư thanh tịnh,
Hãy cho kẻ trực tâm,
Cho đồ ăn, đồ uống,
Cho vải mặc, trú xá.
Như mây giông gầm thét,
Chớp sáng trăm đầu mây,
Nước mưa ào ào xuống,
Tràn đầy đất thấp cao.
Cũng vậy, bậc thiện tín,
Đa văn, trữ đồ ăn,
Thỏa mãn kẻ khất sĩ.
Kẻ trí tâm hoan hỷ,
Phân phát vật ăn uống,
Nói "Cho, hãy đem cho".
Như vậy, la, gầm, thét,
Mưa móc như thần mưa,
Các công đức to lớn,
Do bố thí mang lại,
Đem mưa ân, mưa móc,
Trên những người bố thí.

SN 3.24

This was said by the Blessed One, said by the Arahant, so I have heard: "There are these three supreme objects of confidence. Which three?

"Among whatever beings there may be — footless, two-footed, four-footed, many footed; with form or formless; percipient, non-percipient, neither percipient nor non-percipient — the Tathagata, worthy & rightly self-awakened, is considered supreme. Those who have confidence in the Awakened One have confidence in what is supreme; and for those with confidence in the supreme, supreme is the result.

"Among whatever qualities there may be, fabricated or unfabricated, the quality of dispassion — the subduing of intoxication, the elimination of thirst, the uprooting of attachment, the breaking of the round, the destruction of craving, dispassion, cessation, the realization of Unbinding — is considered supreme. Those who have confidence in the quality of dispassion have confidence in what is supreme; and for those with confidence in the supreme, supreme is the result.

"Among whatever fabricated qualities there may be, the Noble Eightfold Path — right view, right resolve, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness, right concentration — is considered supreme. Those who have confidence in the Noble Eightfold Path have confidence in what is supreme; and for those with confidence in the supreme, supreme is the result.

"Among whatever communities or groups there may be, the Sangha of the Tathagata's disciples is considered supreme — i.e., the four [groups of noble disciples] when taken as pairs, the eight when taken as persons. Those who have confidence in the Sangha have confidence in what is supreme; and for those with confidence in the supreme, supreme will be the result.

 

 

"These, monks, are the three supreme objects of confidence."

With
confidence,
realizing the supreme Dhamma
to be supreme,
confidence in the supreme Buddha,
unsurpassed
in deserving offerings;
confidence in the supreme Dhamma,
the stilling of dispassion,
bliss;
confidence in the supreme Sangha,
unsurpassed
as a field of merit;
having given gifts to the supreme,
one develops supreme merit,
supreme long life & beauty,
status, honor,
bliss, & strength.
Having given to the supreme,
the wise person, centered
in supreme Dhamma,
whether becoming a divine or human being,
rejoices,
having attained the supreme.

Iti 90

 

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe: "Này các Tỷ-kheo, có ba tín thành tối thượng này. Thế nào là ba?

"Này các Tỷ-kheo, so sánh các chúng sanh, không chân, hai chân, bốn chân hay nhiều chân, có sắc hay không có sắc, có tưởng, không có tưởng, hay không có tưởng không không có tưởng. Như Lai được xem là tối thượng đối với chúng, tức là bậc A-la-hán, Chánh đẳng Chánh giác. Này các Tỷ-kheo, những ai có lòng tin thành với đức Phật, những vị ấy có lòng tín thành nơi tối thượng. Với những ai có lòng tín thành nơi tối thượng, quả dị thục là quả tối thượng.

"Này các Tỷ-kheo, so sánh các pháp hữu vi hay vô vi, ly tham được xem là tối thượng đối với họ, tức là kiêu mạn bị nhiếp phục, khát ái bị chế ngự, chấp nhận được nhổ lên, lưu chuyển bị cắt đứt, ái diệt, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, những ai có lòng tín thành nơi ly tham, những vị ấy có lòng tín thành nơi tối thượng; với những ai có lòng tin nơi tối thượng, quả dị thục là quả tối thượng.

"Này các Tỷ-kheo, đối với các pháp hữu vi , thánh đạo tám ngành được xem là tối thượng , tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Này các Tỷ-kheo, những ai có lòng tín thành nơi thánh đạo tám ngành, những vị ấy có lòng tín thành nơi tối thượng; với những ai có lòng tin nơi tối thượng, quả dị thục là quả tối thượng.

"Này các Tỷ-kheo, so sánh Tăng chúng hay hội chúng, Tăng chúng đệ tử của Như Lai được xem là tối thượng, tức là bốn đôi, tám vị. Chúng đệ tử này của Thế Tôn là đáng cung kính, đáng tôn trọng, đáng cúng dường, đáng chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời. Này các Tỷ-kheo, những ai có lòng tín thành nơi Tăng chúng, những vị ấy có lòng tín thành nơi tối thượng. Với những ai có lòng tín thành nơi tối thượng, này các Tỷ-kheo có ba quả dị thục là quả tối thượng.

"Này các Tỷ-kheo, có ba tín thành tối thượng này."

Những ai có lòng tin,
Lòng tín nơi tối thượng,
Chính là sự rõ biết,
Biết Chánh pháp tối thượng.
Những ai có lòng tin,
Nơi đức Phật tối thượng,
Bậc Vô thượng xứng đáng,
Xứng đáng được cúng dường.
Những ai có lòng tin,
Nơi Chánh pháp tối thượng,
Những pháp rời bỏ tham,
An tịnh, thật tịnh lạc.
Những ai có lòng tin,
Nơi Tăng chúng tối thượng.
Những ruộng phước công đức,
Vô thượng không gì hơn.

Những ai đã bố thí,
Với đối tượng tối thượng,
Công đức được tăng trưởng,
Tăng trưởng đến tối thượng.
Thọ mạng được tối thượng,
Dung sắc cũng tối thượng,
Danh vọng, tiếng đồn tốt,
An lạc và sức mạnh.
Bậc trí có bố thí,
Bố thí vị tối thượng,
Vị định tĩnh, thiền định,
Trong Chánh pháp tối thượng,
Chư Thiên hay loài Người,
Ðạt được sự tối thượng,
Họ sung sướng hân hoan.

Iti 90

This was said by the Blessed One, said by the Arahant, so I have heard: "There are these two kinds of gifts: a gift of material things & a gift of the Dhamma. Of the two, this is supreme: a gift of the Dhamma. There are these two kinds of sharing: sharing of material things & sharing of the Dhamma. Of the two, this is supreme: sharing of the Dhamma. There are these two kinds of assistance: assistance with material things & assistance with the Dhamma. Of the two, this is supreme: help with the Dhamma."

The gift he describes
as foremost & unsurpassed,
the sharing the Blessed One has extolled:
who — confident in the supreme field of merit,
wise, discerning —
wouldn't give it at appropriate times?
Both for those who proclaim it
and those who listen,
confident in the message of the One Well-gone:
it purifies their foremost benefit —
those heeding the message
of the One Well-gone.

Iti 98

 

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe: "Này các Tỷ-kheo, có hai loại bố thí: Bố thí tài vật và bố thí Pháp. Này các Tỷ-kheo, đây là bố thí tối thượng trong hai loại bố thí này, tức là bố thí Pháp. Này các Tỷ-kheo, có hai sự phân phát này: Phân phát tài vật và phân phát Pháp. Ðây là phân phát tối thượng trong hai loại phân phát này, tức là phân phát Pháp. Này các Tỷ-kheo, có hai loại nhiêu ích này, nhiêu ích tài vật và nhiêu ích Pháp. Này các Tỷ-kheo, đây là nhiêu ích tối thượng trong hai loại nhiêu ích này, tức là nhiêu ích Pháp."

Ðiều được gọi bố thí,
Thù thắng và vô thượng,
Và sự phân phát nào,
Ðược Thế Tôn tán thán,
Với tâm tư tín thành,
Trong ruộng phước tối thượng,
Bậc trí rõ biết vậy,
Ai lại không cúng dường,
Ai làm được cả hai,
Nói lên và lắng nghe,
Với tâm tư tịnh tín,
Trong lời dạy Thiện Thệ,
Lợi ích ấy của họ,
Là tối thắng thanh tịnh,
Những ai không phóng dật,
Trong lời dạy Thiện Thệ.

Iti 98



"It's not easy to teach the Dhamma to others, Ananda. The Dhamma should be taught to others only when five qualities are established within the person teaching. Which five?

 

"The Dhamma should be taught with the thought, 'I will speak step-by-step'...

'I will speak explaining the sequence [of cause & effect]'...

'I will speak out of compassion'...

 

'I will speak not for the purpose of material reward'...

'I will speak without disparaging myself or others.'

AN 5.159

 

Này Ànanda, thật không dễ gì để thuyết pháp cho các người khác. Để thuyết pháp cho các người khác, này Ànanda, sau nội tâm an trú được năm pháp, mới nên thuyết pháp cho các người khác. Thế nào là năm?

"Ta sẽ thuyết pháp tuần tự", thuyết pháp cho người khác cần phải suy nghĩ như vậy.

"Ta sẽ thuyết với mắt nhìn vào pháp môn", thuyết pháp cho người khác cần phải suy nghĩ như vậy.

"Ta sẽ thuyết vì lòng từ mẫn", thuyết pháp cho người khác cần phải suy nghĩ như vậy.

"Ta sẽ thuyết pháp, không phải vì tài vật", thuyết pháp cho người khác cần phải suy nghĩ như vậy.

"Ta sẽ thuyết pháp, không làm thương tổn cho mình và cho người". Thuyết pháp cho người khác cần phải suy nghĩ như vậy.

AN 5.159

[A deva:]

A giver of what is a giver of strength?
A giver of what, a giver of beauty?
A giver of what, a giver of ease?
A giver of what, a giver of vision?
And who is a giver of everything?
Being asked, please explain this to me.

[The Buddha:]

A giver of food is a giver of strength.
A giver of clothes, a giver of beauty.
A giver of a vehicle, a giver of ease.
A giver of a lamp, a giver of vision.
And the one who gives a residence,
is the one who is a giver of everything.
But the one who teaches the Dhamma
is a giver of
the Deathless.

SN 1.42

(Chư thiên):

Cho gì là cho lực?
Cho gì là cho sắc?
Cho gì là cho lạc?
Cho gì là cho mắt?
Cho gì cho tất cả?
Xin đáp điều con hỏi?

(Thế Tôn):

Cho ăn là cho lực,
Cho mặc là cho sắc,
Cho xe là cho lạc,
Cho đèn là cho mắt.
Ai cho chỗ trú xứ,
Vị ấy cho tất cả,
Ai giảng dạy Chánh pháp,
Vị ấy cho bất tử.

SN 1.42

 

Sila — Virtue  

Irrigators guide the water.
Fletchers shape the arrow shaft.
Carpenters shape the wood.
Those of good practices control themselves.

Dhp 145

 

Giới Đức


Người dẫn nước trị thuỷ
Người làm cung chuốt tên
Thợ mộc uốn gỗ quí
Bậc thuần hoá tự rèn

Dhp 145

Through initiative, heedfulness,
restraint, & self-control,
the wise would make
an island
no flood
can submerge.

Dhp 125

"And what is the treasure of virtue? There is the case where a disciple of the noble ones abstains from taking life, abstains from stealing, abstains from illicit sexual conduct, abstains from lying, abstains from taking intoxicants that cause heedlessness. This, monks, is called the treasure of virtue."

AN 7.6

 

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là giới tài?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử từ bỏ sát sanh, từ bỏ trộm cắp, từ bỏ tà dâm, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu men rượu nấu. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là giới tài."

AN 7.6

"Now what is unskillful? Taking life is unskillful, taking what is not given... sexual misconduct... lying... abusive speech... divisive tale-bearing... idle chatter is unskillful. Covetousness... ill will... wrong views are unskillful. These things are termed unskillful.

"And what is skillful? Abstaining from taking life is skillful, abstaining from taking what is not given... from sexual misconduct... from lying... from abusive speech... from divisive tale-bearing... abstaining from idle chatter is skillful. Lack of covetousness... lack of ill will... right views are skillful. These things are termed skillful."

MN 9

"Thế nào là bất tthiện? Sát sanh là bất thiện, lấy của không cho..., tà hạnh trong các dục..., nói láo..., nói hai lưỡi...., ác khẩu...., nói phù phiếm...., tham dục..., sân hận..., tà kiến là bất thiện. Chư Hiền, như vậy gọi là bất thiện.

Và thế nào là thiện? Từ bỏ sát sanh là thiện, từ bỏ lấy của không cho...., từ bỏ tà hạnh trong các dục...., từ bỏ nói láo..., từ bỏ nói hai lưỡi...., từ bỏ ác khẩu...., từ bỏ nói phù phiếm..., không tham dục..., không sân...., chánh tri kiến là thiện. Chư Hiền, như vậy gọi là thiện."

MN 9

Then King Pasenadi Kosala, descending from the palace, went to the Blessed One and, on arrival, having bowed down to him, sat to one side. As he was sitting there, he said to the Blessed One: "Just now I was together with Queen Mallika in the upper palace. I said to her, 'Is there anyone more dear to you than yourself?'

"'No, your majesty,' she answered. 'There is no one more dear to me than myself. And what about you, your majesty? Is there anyone more dear to you than yourself?'

 

"No, Mallika. There is no one more dear to me than myself.'"

 

Then, on realizing the significance of that, the Blessed One on that occasion exclaimed:

Searching all directions
with your awareness,
you find no one dearer
than yourself.
In the same way, others
are fiercely dear to themselves.
So you shouldn't hurt others
if you love yourself.


Ud 5.1

 

Rồi vua Pasenadi nước Kosala bước xuống lầu và đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, vua Pesenadi nước Kosala bạch Thế Tôn: - Ở đây, bạch Thế Tôn, con đi lên lầu thượng của hoàng cung với Hoàng hậu Mallikà và con nói với Hoàng hậu Mallikà: "Này Mallikà, có ai khác thân ái với Hoàng hậu hơn là tự ngã của Hoàng hậu?"

Khi được nói như vậy, bạch Thế Tôn, Hoàng hậu Mallikà trả lời với con: "Thưa Ðại vương, không có ai khác thân ái với Thiếp hơn là tự ngã của Thiếp. Nhưng thưa Ðại vương, có ai khác thân ái với Ðại vương hơn là tự ngã của Ðại vương? "

Ðược nói vậy, bạch Thế Tôn, con trả lời cho Hoàng hậu Mallikà: "Này Mallikà, không có ai khác thân ái với ta hơn là tự ngã của ta".

Rồi Thế Tôn, sau khi biết rõ ý nghĩa này trong lúc ấy liền nói lên bài kệ này:

Tâm ta đi cùng khắp,
Tất cả mọi phương trời,
Cũng không tìm thấy được,
Ai thân hơn tự ngã,
Tự ngã đối mọi người,
Quá thân ái như vậy,
Vậy ai yêu tự ngã,
Chớ hại tự ngã người.

 

Ud 5.1

"There are these five gifts, five great gifts — original, long-standing, traditional, ancient, unadulterated, unadulterated from the beginning — are not open to suspicion, will never be open to suspicion, and are unfaulted by knowledgeable contemplatives and priests. Which five?

"There is the case where a noble disciple, abandoning the taking of life, abstains from taking life. In doing so, he gives freedom from danger, freedom from animosity, freedom from oppression to limitless numbers of beings. In giving freedom from danger, freedom from animosity, freedom from oppression to limitless numbers of beings, he gains a share in limitless freedom from danger, freedom from animosity, and freedom from oppression...

"Abandoning taking what is not given (stealing), he abstains from taking what is not given...

"Abandoning illicit sex, he abstains from illicit sex...

"Abandoning lying, he abstains from lying...

"Abandoning the use of intoxicants, he abstains from taking intoxicants. In doing so, he gives freedom from danger, freedom from animosity, freedom from oppression to limitless numbers of beings. In giving freedom from danger, freedom from animosity, freedom from oppression to limitless numbers of beings, he gains a share in limitless freedom from danger, freedom from animosity, and freedom from oppression... This is the fifth gift, the fifth great gift — original, long-standing, traditional, ancient, unadulterated, unadulterated from the beginning — that is not open to suspicion, will never be open to suspicion, and is unfaulted by knowledgeable contemplatives and priests.

AN 8.39

 

"Này các Tỷ-kheo, có năm bố thí này, là đại bố thí, được biết là tối sơ, được biết là lâu ngày, được biết là truyền thống cổ xưa, trước không tạp loạn, hiện tại không tạp loạn, tương lai không tạp loạn, không bị những Sa-môn, những Bà-la-môn có trí khinh thường. Thế nào là năm ?

"Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận sát sanh. Này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử từ bỏ sát sanh, đem cho không sợ hãi cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hận thù cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sanh ; sau khi cho vô lượng chúng sanh, không sợ hãi, không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được san sẽ vô lượng không sợ hãi, không hận thù, không hại.

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận lấy của không cho, từ bỏ lấy của không cho....

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận tà hạnh trong các dục, từ bỏ tà hạnh trong các dục...

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo...

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận đắm say rượu men, rượu nấu, đem cho không sợ hãi cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hận thù cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sanh ; sau khi cho vô lượng chúng sanh, không sợ hãi, không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được san sẽ vô lượng không sợ hãi, không hận thù, không hại. Này các Tỷ-kheo, đây là bố thí thứ năm, là đại bố thí, được biết là tối sơ, được biết là lâu ngày, được biết là truyền thống cổ xưa, trước không tạp loạn, hiện tại không tạp loạn, tương lai không tạp loạn, không bị những Sa-môn, những Bà-la-môn có trí khinh thường.

AN 8.39

 

"Cleansing with regard to the body, Cunda, is threefold; cleansing with regard to speech is fourfold; and cleansing with regard to the mind, threefold. And how is cleansing with regard to the body threefold? There is the case where a certain person, abandoning the taking of life, abstains from the taking of life. He dwells with his rod laid down, his knife laid down, scrupulous, merciful, compassionate for the welfare of all living beings. Abandoning the taking of what is not given, he abstains from taking what is not given. He does not take the ungiven property of another, whether in a village or in the wilderness, with thievish intent. Abandoning sensual misconduct, he abstains from sensual misconduct. He does not get sexually involved with those who are protected by their mothers, their fathers, their brothers, their sisters, their relatives, or their Dhamma; those with husbands, those who entail punishments, or even those crowned with flowers by another man. This is how cleansing with regard to the body is threefold.

"And how is cleansing with regard to speech fourfold? There is the case where a certain person, abandoning false speech, abstains from false speech. When he has been called to a town meeting, a group meeting, a gathering of his relatives, his guild, or of the royalty [i.e., a court proceeding], if he is asked as a witness, 'Come and tell, good man, what you know': If he doesn't know, he says, 'I don't know.' If he does know, he says, 'I know.' If he hasn't seen, he says, 'I haven't seen.' If he has seen, he says, 'I have seen.' Thus he doesn't consciously tell a lie for his own sake, for the sake of another, or for the sake of any reward. Abandoning divisive speech, he abstains from divisive speech. What he has heard here he does not tell there to break those people apart from these people here. What he has heard there he does not tell here to break these people apart from those people there. Thus reconciling those who have broken apart or cementing those who are united, he loves concord, delights in concord, enjoys concord, speaks things that create concord. Abandoning abusive speech, he abstains from abusive speech. He speaks words that are soothing to the ear, that are affectionate, that go to the heart, that are polite, appealing & pleasing to people at large. Abandoning idle chatter, he abstains from idle chatter. He speaks in season, speaks what is factual, what is in accordance with the goal, the Dhamma, and the Vinaya. He speaks words worth treasuring, seasonable, reasonable, circumscribed, connected with the goal. This is how cleansing with regard to speech is fourfold.

"And how is cleansing with regard to the mind threefold? There is the case where a certain person is not covetous. He does not covet the property of another, thinking, 'O, if only what belongs to another were mine!' He is not malevolent at heart or destructive in his resolves. He thinks, 'May these beings — free from animosity, free from oppression, and free from trouble — look after themselves with ease.' He has right views and an unperverted outlook. He believes, 'There is what is given, what is offered, what is sacrificed. There are fruits and results of good and bad actions. There is this world and the next world. There is mother and father. There are spontaneously reborn beings; there are priests and contemplatives who, living rightly and practicing rightly, proclaim this world and the next after having directly known and realized it for themselves.' This is how cleansing with regard to the mind is threefold."

AN 10.176

"Này Cunda, thế nào là tịnh hạnh về thân có ba ? Ở đây, này Cunda, có người đoạn tận sát sanh, từ bỏ sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh, và loài hữu tình. Đoạn tận lấy của không cho, từ bỏ lấy của không cho ; bất cứ vật gì của người khác, hoặc tại thôn làng, hoặc tại rừng núi, không có người ấy, người ấy không lấy với ý niệm trộm cắp. Đoạn tấn tà hạnh trong các dục, từ bỏ tà hạnh trong các dục, với hạng nữ nhân có mẹ che chở, có cha che chở, có anh che chở, có chị che chở, có bà con che chở, có pháp che chở, đã có chồng, được hình phạt gậy gộc bảo vệ, cho đến những nữ nhân được trang sức bằng vòng hoa (đám cưới). Như vậy, này Cunda, tịnh hạnh về thân có ba.

 

"Và này Cunda, thế nào là tịnh hạnh về lời có bốn ? Ở đây, này Cunda có người đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo, đến chỗ tập hội hay đến chỗ chúng tội, hay đến giữa các thân tộc, hay đến giữa các tổ hợp, hay đến giữa các vương tộc, khi bị dẫn xuất làm chứng và được hỏi : "Này người kia, hãy nói những gì người biết". Nếu không biết, người ấy nói : "Tôi không biết". Nếu biết, người ấy nói : "Tôi biết". Hay nếu không thấy, người ấy nói : "Tôi không thấy". Nếu thấy, người ấy nói : "Tôi thấy". Như vậy lời nói của người ấy không trở thành cố ý vọng ngữ, hoặc nguyên nhân vì mình, hoặc nguyên nhân vì người, hoặc nguyên nhân vì một vài quyền lợi gì. Đoạn tận nói hai lưỡi, từ bỏ nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đi đến chỗ kia nói, để sanh chia rẽ ở những người này ; nghe điều gì ở chỗ kia, không đi nói với những người này, để sanh chia rẽ ở những người kia. Như vậy người ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, tăng trưởng những kẻ hòa hiệp, thích thú hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. Đoạn tận lời nói độc ác, từ bỏ lời nói độc ác, những lời nói nhu hòa, êm tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui ý nhiều người, người ấy nói những lời như vậy. Đoạn tận lời nói phù phiếm, nói đúng thời, nói chân thật, nói có ý nghĩa, nói Pháp, nói Luật, nói những đáng được gìn giữ. Vì nói hợp thời, nên lời nói thuận lý, có mạch lạc, hệ thống, lợi ích. Như vậy, này Cunda, tịnh hạnh về lời nói có bốn.

 

"Và này Cunda, thế nào là tịnh hạnh về ý có ba? Ở đây, này Cunda, có người không tham ái, không tham lam tài vật kẻ khác, không nghĩ rằng : "Ôi ! Mong rằng mọi tài vật của người khác trở thành của mình". Không có sân tâm, khởi lên hại ý, hại niệm, nhưng nghĩ rằng : "Mong rằng những loài hữu tình này sống lo tự ngã, không thù hận, không nhiễm loạn, được an lạc". Có chánh kiến, không có tư tưởng điên đảo : "Có bố thí, có cúng thí, có tế lễ, các hành vi thiện ác, có kết quả dị thục, có đời này, có đời sau, có mẹ, có cha, có các loại hóa sanh, trong đời có các Sa-môn, Bà-la-môn chân chánh hành trì, chân chánh thành tựu, sau khi tự tri, tự chứng, lại tuyên bố cho đời này và cho đời sau". Như vậy, này Cunda, tịnh hạnh về ý có ba.

AN 10.176

As he was sitting to one side, King Pasenadi Kosala said to the Blessed One: "Just now, lord, while I was alone in seclusion, this train of thought arose in my awareness: 'Who have themselves protected, and who leave themselves unprotected?' Then it occurred to me: 'Those who engage in bodily misconduct, verbal misconduct, & mental misconduct leave themselves unprotected. Even though a squadron of elephant troops might protect them, a squadron of cavalry troops, a squadron of chariot troops, a squadron of infantry troops might protect them, still they leave themselves unprotected. Why is that? Because that's an external protection, not an internal one. Therefore they leave themselves unprotected. But those who engage in good bodily conduct, good verbal conduct, & good mental conduct have themselves protected. Even though neither a squadron of elephant troops, a squadron of cavalry troops, a squadron of chariot troops, nor a squadron of infantry troops might protect them, still they have themselves protected. Why is that? Because that's an internal protection, not an external one. Therefore they have themselves protected.'"

"That's the way it is, great king! That's the way it is! Those who engage in bodily misconduct, verbal misconduct, & mental misconduct leave themselves unprotected. Even though a squadron of elephant troops might protect them, a squadron of cavalry troops, a squadron of chariot troops, a squadron of infantry troops might protect them, still they leave themselves unprotected. Why is that? Because that's an external protection, not an internal one. Therefore they leave themselves unprotected. But those who engage in good bodily conduct, good verbal conduct, & good mental conduct have themselves protected. Even though neither a squadron of elephant troops, a squadron of cavalry troops, a squadron of chariot troops, nor a squadron of infantry troops might protect them, still they have themselves protected. Why is that? Because that's an internal protection, not an external one. Therefore they have themselves protected."

That is what the Blessed One said. Having said that, the One Well-Gone, the Teacher, said further:

Restraint with the body is good,
good is restraint with speech.
Restraint with the heart is good,
good is restraint everywhere.
Restrained everywhere,
          conscientious,
one is said to be
             protected.

SN 3.5

Ngồi một bên, vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn: "Ở đây, bạch Thế Tôn, trong khi con đang ngồi yên tịnh một mình, tư tưởng này khởi lên nơi con: 'Đối với những ai, tự ngã được bảo vệ? Đối với những ai, tự ngã không được bảo vệ?" Và rồi bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: Những ai thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác, những người ấy không bảo vệ tự ngã. Dầu cho họ được tượng binh bảo vệ, hay được mã binh bảo vệ, hay được xa binh bảo vệ, hay được bộ binh bảo vệ; đối với những người ấy, tự ngã không được bảo vệ. Vì cớ sao? Vì sự bảo vệ như vậy là bảo vệ ở ngoài, không phải sự bảo vệ bên trong. Cho nên đối với những người ấy, tự ngã không được bảo vệ. Nhưng đối với những ai thân không làm ác, miệng không nói ác, không ý nghĩ ác, những người ấy bảo vệ tự ngã. Dầu cho họ không được tượng binh bảo vệ, hay không được mã binh bảo vệ, hay không được xa binh bảo vệ, hay không được bộ binh bảo vệ; đối với những người ấy, tự ngã được bảo vệ. Vì cớ sao? Vì sự bảo vệ như vậy là bảo vệ ở bên trong, không phải sự bảo vệ ở ngoài. Cho nên đối với những người ấy, tự ngã được bảo vệ.'"

"Thật đúng như vậy! Thưa Đại vương. Thật đúng như vậy! Những ai thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác, những người ấy không bảo vệ tự ngã. Dầu cho họ được tượng binh bảo vệ, hay được mã binh bảo vệ, hay được xa binh bảo vệ, hay được bộ binh bảo vệ; đối với những người ấy, tự ngã không được bảo vệ. Vì cớ sao? Vì sự bảo vệ như vậy là bảo vệ ở ngoài, không phải sự bảo vệ bên trong. Cho nên đối với những người ấy, tự ngã không được bảo vệ. Nhưng đối với những ai thân không làm ác, miệng không nói ác, không ý nghĩ ác, những người ấy bảo vệ tự ngã. Dầu cho họ không được tượng binh bảo vệ, hay không được mã binh bảo vệ, hay không được xa binh bảo vệ, hay không được bộ binh bảo vệ; đối với những người ấy, tự ngã được bảo vệ. Vì cớ sao? Vì sự bảo vệ như vậy là bảo vệ ở bên trong, không phải sự bảo vệ ở ngoài. Cho nên đối với những người ấy, tự ngã được bảo vệ.'"

Đó là những gì Đức Thế Tôn giảng dạy:

Lành thay bảo vệ thân!
Lành thay bảo vệ lời!
Lành thay bảo vệ ý!
Lành thay tổng bảo vệ!
Kẻ liêm sĩ bảo vệ,
Tổng quát và cùng khắp,
Vị ấy có tên gọi,
Là vị được bảo vệ.

SN 3.5


As he was sitting to one side, King Pasenadi Kosala said to the Blessed One: "Just now, lord, as I was sitting in judgment, I saw that even affluent nobles, affluent brahmans, & affluent householders — rich, with great wealth & property, with vast amounts of gold & silver, vast amounts of valuables & commodities, vast amounts of wealth & grain — tell deliberate lies with sensuality as the cause, sensuality as the reason, simply for the sake of sensuality. Then, the thought occurred to me: 'I've had enough of this judging! Let some other fine fellow be known for his judgments!'"

"That's the way it is, great king! That's the way it is! Even affluent nobles, affluent brahmans, & affluent householders... tell deliberate lies with sensuality as the cause, sensuality as the reason, simply for the sake of sensuality. That will lead to their long-term harm & pain."

That is what the Blessed One said. Having said that, the One Well-Gone, the Teacher, said further:

Impassioned with sensual possessions,
greedy, dazed by sensual pleasures,
they don't awaken to the fact
that they've gone too far —
like fish into a trap set out.
Afterwards it's bitter for them:
evil for them
the result.


SN 3.7

 

Ngồi xuống một bên, vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn: "Ở đây, bạch Thế Tôn, con ngồi trong pháp đường (để xử kiện), con thấy chính các vị Sát-đế-lỵ đại phú, các Bà-la-môn đại phú, các gia chủ đại phú, phú hào, có tiền của lớn, có tài sản lớn, có nhiều vàng và bạc, có nhiều tài sản vật dụng, có nhiều tiền của, ngũ cốc; vì nhân các dục, vì duyên các dục, vì nguyên nhân các dục, đã dụng ý nói lời vọng ngôn. Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Nay ta đã chán ngấy xử kiện. Nay hãy để cho vị hiền diện (bhadramukha) được có danh tiếng nhờ tài xử kiện."

"Thưa Đại vương, các vị Sát-đế-lỵ đại phú, các vị Bà-la-môn đại phú, các vị gia chủ đại phú, phú hào có tiền của lớn, có tài sản lớn, có nhiều vàng và bạc, có nhiều tài sản vật dụng, có nhiều tiền của, ngũ cốc; vì nhân các dục, vì duyên các dục, vì nhân duyên các dục, đã dụng ý nói lên lời vọng ngôn. Do vậy họ sẽ gánh chịu bất lợi, đau khổ trong một thời gian dài."

Đó là những lời giảng của Đức Thế Tôn:

Loài Người bị đắm say,
Trong tài sản, trong dục,
Họ tham lam, điên dại,
Trong các dục ở đời.
Không ý thức rõ ràng,
Đã quá độ say mê,
Chẳng khác gì con cá,
Không thấy đặt bẫy sập.
Về sau họ khổ đau,
Chịu quả báo ác nghiệp.

SN 3.7

 

This was said by the Blessed One, said by the Arahant, so I have heard: "For the person who transgresses in one thing, I tell you, there is no evil deed that is not to be done. Which one thing? This: telling a deliberate lie."

The person who lies,
who transgress in this one thing,
transcending concern for the world beyond:
there's no evil
he might not do.


Iti 25

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe: "Phàm một người nào đã vi phạm một pháp, Ta nói rằng không có ác nghiệp nào vị ấy không làm được. Thế nào là một pháp? Này các Tỷ-kheo, tức là rõ biết mà nói láo. Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến."

Người nào đã nói láo,
Là vi phạm một pháp,
Không kể đến đời sau,
Không ác gì không làm.

Iti 25


"Monks, there are these five kinds of loss. Which five? Loss of relatives, loss of wealth, loss through disease, loss in terms of virtue, loss in terms of views. It's not by reason of loss of relatives, loss of wealth, or loss through disease that beings — with the break-up of the body, after death — reappear in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell. It's by reason of loss in terms of virtue and loss in terms of views that beings — with the break-up of the body, after death — reappear in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell. These are the five kinds of loss.

"There are these five ways of being consummate. Which five? Being consummate in terms of relatives, being consummate in terms of wealth, being consummate in terms of freedom from disease, being consummate in terms of virtue, being consummate in terms of views. It's not by reason of being consummate in terms of relatives, being consummate in terms of wealth, or being consummate in terms of freedom from disease that beings — with the break-up of the body, after death — reappear in the good destinations, in the heavenly world. It's by reason of being consummate in virtue and being consummate in terms of views that beings — with the break-up of the body, after death — reappear in the good destinations, in the heavenly world. These are the five ways of being consummate."

AN 5.130

"Này các Tỷ-kheo, có năm điều tổn thất này. Thế nào là năm? Tổn thất bà con, tổn thất tài sản, tổn thất tật bệnh, tổn thất giới, tổn thất tri kiến. Này các Tỷ-kheo, không do nhân tổn thất bà con, hay không do nhân tổn thất tài sản, hay không do nhân tổn thất bệnh hoạn mà các loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Này các Tỷ-kheo, chính do nhân tổn thất giới, hay tổn thất tri kiến mà các loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung sanh vào cõi dữ, ác thú, địa ngục.

"Này các Tỷ-kheo, có năm thành tựu này. Thế nào là năm? Thành tựu bà con, thành tựu tài sản, thành tựu vô bệnh, thành tựu giới, thành tựu tri kiến. Này các Tỷ-kheo, không do nhân thành tựu bà con, hay không do nhân thành tựu tài sản, hay không do nhân thành tựu vô bệnh, mà các loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung sanh được lên cõi lành, Thiên giới, cõi đời này. Này các Tỷ-kheo, do nhân thành tựu giới hay do nhân thành tựu tri kiến, mà các loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên cõi lành, Thiên giới, cõi đời này."

AN 5.130

"There are these five benefits in being virtuous, in being consummate in virtue. Which five? There is the case where a virtuous person, consummate in virtue, through not being heedless in his affairs amasses a great quantity of wealth... His good name is spread about... When approaching an assembly of nobles, priests, householders, or contemplatives, he does so unabashed and with assurance... He dies without becoming delirious... With the break-up of the body, after death, he reappears in a good destination, in the heavenly world. These are the five benefits in being virtuous, in being consummate in virtue."

DN 16

"Có năm sự lợi ích cho những ai giữ giới, sống theo giới luật. Thế nào là năm? Người giữ giới, sống theo giới luật, sẽ có tiền của dồi dào rất nhiều vì sống không phóng dật. Lại nữa, người giữ giới, sống theo giới luật được tiếng tốt đồn xa. Khi đi vào hội chúng nào, hoặc Sát đế lỵ, hoặc Bà-la-môn, hoặc gia chủ, hoặc Sa-môn, người ấy đi vào với tâm thần không sợ hãi, không bối rối. Người giữ giới, sống theo giới luật sẽ chết với tâm hồn không rối loạn. Sau khi thân hoại mạng chung, sẽ được sanh vào thiện thú, thiên giới. Đó là năm sự lợi ích những ai giữ giới, sống theo giới luật."

DN 16

 

This was said by the Blessed One, said by the Arahant, so I have heard: "Aspiring to these three forms of bliss, a wise person should guard his virtue. Which three? [Thinking,] 'May praise come to me,' a wise person should guard his virtue. [Thinking,] 'May wealth come to me,' a wise person should guard his virtue. [Thinking,] 'At the break-up of the body, after death, may I reappear in a good destination, in heaven,' a wise person should guard his virtue. Aspiring to these three forms of bliss, a wise person should guard his virtue."

Intelligent,
you should guard your virtue,
aspiring to three forms of bliss:
          praise;
          the obtaining of wealth;
          and, after death, rejoicing
in heaven.
Even if you do no evil
but seek out one who does,
you're suspected of evil.
Your bad reputation
          grows.
          The sort of person you make a friend,
          the sort you seek out,
that's the sort you yourself become —
for your living together is of
          that sort.
The one associated with,
the one who associates,
the one who's touched,
the one who touches another
          — like an arrow smeared with poison —
contaminates the quiver.
So, fearing contamination, the enlightened
should not be comrades
with evil people.
A man who wraps rotting fish
in a blade of kusa grass
makes the grass smelly:
          so it is
          if you seek out fools.
But a man who wraps powdered incense
in the leaf of a tree
makes the leaf fragrant:
          so it is
          if you seek out
          the enlightened.
          So,
knowing your own outcome
as like the leaf-wrapper's,
you shouldn't seek out
those who aren't good.
The wise would associate
with those who are.
Those who aren't good
lead you to hell.
The good help you reach
a good destination.
Iti 76

 

Điều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe: "Do hy vọng được ba lạc này, bậc Hiền trí hộ trì giới. Thế nào là ba? "Mong rằng lời tán thán sẽ đến với ta", bậc Hiền trí hộ trì giới. "Mong rằng, tài sản sẽ khởi lên cho ta", bậc Hiền trí hộ trì giới. "Mong rằng khi thân hoại mạng chung, ta sẽ sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời này" bậc Hiền trí hộ trì giới. Này các Tỷ-kheo, do hy vọng được ba lạc này, bậc Hiền trí hộ trì giới. Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, ý nghĩa này được nói đến."


Bậc trí hộ trì giới,
Hy vọng được ba lạc,
Được khen, được tài sản,
Đời sau sống hoan hỷ,
Trong cảnh giới chư Thiên.
Nếu không làm điều ác,
Nhưng theo kẻ làm ác,
Thì bị nghi làm ác,
Và bị tăng tiếng xấu.
Giống như người làm bạn,
Giống như người làm theo,
Người này giống người ấy
Giống như người cộng trú.
Người theo, người được theo,
Xúc chạm, được xúc chạm,
Như cây tên nhiễm độc
Nhiễm bó tên chưa nhiễm,
Bậc Trí vì sợ nhiễm,
Nên không bạn kẻ ác.
Với ngọn cỏ kusa,
Dùng gói đồ cá thúi,
Kusa hay mùi thúi,
Cũng vậy, gần kẻ ngu.
Còn người dùng ngọn lá,
Gói hương Ta-ga-ra,
Ngọn lá bay mùi thơm
Cũng vậy, gần bậc Trí.
Do vậy, nhờ nghĩ đến
Cái giỏ bằng lá ấy,
Biết được những cái gì
Sẽ rơi vào tự mình,
Bậc Hiền trí không theo,
Những hạng người bất thiện,
Chỉ biết làm bạn thân,
Những người lành hiền thiện.
Những kẻ ác, bất thiện,
Dắt dẫn đến địa ngục,
Còn những kẻ tốt lành,
Đạt đến cảnh thiện thú.

 

Iti 76

All
tremble at the rod,
          all
are fearful of death.
Drawing the parallel to
          yourself,
neither kill nor get others to kill.

   All
tremble at the rod,
all
hold their life dear.
Drawing the parallel to
yourself,
neither kill nor get others to kill.

Whoever takes a rod
to harm living beings desiring ease,
when he himself is looking for ease,
will meet with no ease after death.

Whoever doesn't take a rod
to harm living beings desiring ease,
when he himself is looking for ease,
will meet with ease after death.

Speak harshly to no one,
or the words will be thrown
right back at you.
Contentious talk is painful,
for you get struck by rods in return.
If, like a flattened metal pot
you don't resound,
you've attained an Unbinding;
in you there's found
no contention.


Dhp 129-134

Tất cả sợ đao trượng
Tất cả sợ tử vong
Xét bỉ thử tương đồng
Không giết, không bảo giết

 

Tất cả sợ bạo tàn
Tất cả mong được sống
Xét bỉ thử tương đồng
Không giết, không bảo giết

 

Chúng sanh cầu hạnh phúc
Nhưng ai dùng bạo lực
Hại người để cầu vui
Vui không thể hiện thực
 
Chúng sanh cầu hạnh phúc
Ai không tàn hại người
Vì hạnh phúc cho mình
Ðời sau được an vui
                
Chớ nên dùng ác ngữ,
Nói quấy, bị nói lại,
Khổ thay lời hung dữ,
vì quả ác đáo đầu
 
Như chuông bể không ngân
Thường an nhiên tịch lặng
Bậc liễu ngộ Niết bàn
Tâm không sầu không hận

 


Dhp 129-134

Whoever, with a rod,
          harasses an innocent man, unarmed,
          quickly falls into any of ten things:

harsh pains, devastation, a broken body, grave illness,
mental derangement, trouble with the government, violent slander,
relatives lost, property dissolved, houses burned down.

   At the break-up of the body
this one with no discernment,
reappears in
hell.


Dhp 137-140

 

 

Tàn hại người vô hại
Gây ác bậc hiền từ
Liền ác báo ác lai
Một trong mười quả dữ:

Hoặc khổ thọ hoành hành
Chết bất đắc kỳ tử
Lâm trọng bệnh hành thân
Hay cuồng tâm loạn trí

Hoạ phép nước luật vua
Bị vu oan trọng tội
Tài sản bị khánh tận
Người thân bị ly tán
Nhà cửa bị hoả hoạn

Mạng chung sa địa ngục.

Dhp 137-140

"There are four kinds of person to be found in the world. Which four? There is the case where a certain person takes life, takes what is not given (steals), engages in illicit sex, lies, speaks divisively, speaks abusively, engages in idle chatter; is covetous, malevolent, & holds wrong views. On the break-up of the body, after death, he reappears in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell.

"But there is also the case where a certain person takes life... holds wrong views [yet], on the break-up of the body, after death, he reappears in the good destinations, in the heavenly world.

"And there is the case where a certain person abstains from taking life, abstains from taking what is not given... is not covetous, not malevolent, & holds right views. On the break-up of the body, after death, he reappears in the good destinations, in the heavenly world.

 

"But there is also the case where a certain person abstains from taking life, abstains from taking what is not given... is not covetous, not malevolent, & holds right views [yet], on the break-up of the body, after death, he reappears in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell...

"In the case of the person who takes life...[yet] on the break-up of the body, after death, reappears in the good destinations, in the heavenly world: either earlier he performed fine kamma that is to be felt as pleasant, or later he performed fine kamma that is to be felt as pleasant, or at the time of death he adopted & carried out right views. Because of that, on the break-up of the body, after death, he reappears in the good destinations, in the heavenly world. But as for the results of taking life... holding wrong views, he will feel them either right here & now, or later [in this lifetime], or following that...

 

 

"In the case of the person who abstains from taking life... but on the break-up of the body, after death, reappears in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell: either earlier he performed evil kamma that is to be felt as painful, or later he performed evil kamma that is to be felt as painful, or at the time of death he adopted & carried out wrong views. Because of that, on the break-up of the body, after death, he reappears in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell. But as for the results of abstaining from taking life... holding right views, he will feel them either right here & now, or later [in this lifetime], or following that..."

MN 136

 

"Có bốn loại người này có mặt ở đời. Thế nào là bốn? Có người sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời ác khẩu, nói lời phù phiếm, có tham dục, có sân tâm, có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

"Nhưng ở đây, có người sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời ác khẩu, nói lời phù phiếm, có tham dục, có sân tâm, có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.

"Ở đây, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói ác khẩu, từ bỏ nói lời phù phiếm, từ bỏ tham dục, từ bỏ sân tâm, có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.

"Nhưng ở đây, này Ananda, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói ác khẩu, từ bỏ nói lời phù phiếm, từ bỏ tham dục, từ bỏ sân tâm, có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

"Ở đây, này Ananda, người nào sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời ác khẩu, nói lời phù phiếm, có tham dục, có sân tâm, có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Hoặc là một thiện nghiệp đưa đến cảm giác lạc thọ do người ấy làm lúc trước, hay một thiện nghiệp đưa đến cảm giác lạc thọ do người ấy làm về sau, hay trong khi mệnh chung, một chánh kiến được người ấy chấp nhận và chấp chặt. Do vậy sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Và ai ở đây sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời ác khẩu, nói lời phù phiếm, có tham dục, có sân tâm, có tà kiến, người ấy phải lãnh thọ quả báo được khởi lên ngay hiện tại hay trong một đời khác.

"Ở đây, này Ananda, người nào từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói ác khẩu, từ bỏ nói lời phù phiếm, từ bỏ tham dục, từ bỏ sân tâm, có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy bị sanh vào cói dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Hoặc là một ác nghiệp đưa đến cảm giác khổ thọ do người ấy làm từ trước, hay một ác nghiệp đưa đến cảm giác khổ thọ do người ấy làm về sau, hay trong khi mệnh chung, một tà kiến được người ấy chấp nhận và chấp chặt. Do vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Và ai ở đây từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói ác khẩu, từ bỏ nói lời phù phiếm, từ bỏ tham dục, từ bỏ sân tâm, có chánh kiến, người ấy phải lãnh thọ quả báo được khởi lên ngay hiện tại hay trong một đời khác.

MN 136

"There are, headman, some priests & contemplatives who hold a doctrine & view like this: 'All those who kill living beings experience pain & distress in the here & now. All those who take what is not given... who engage in illicit sex... who tell lies experience pain & distress in the here & now.'

"Now there is the case where a certain person is seen garlanded & adorned, freshly bathed & groomed, with hair & beard trimmed, enjoying the sensualities of women as if he were a king. They ask about him: 'My good man, what has this man done that he has been garlanded & adorned... as if he were a king?' They answer: 'My good man, this man attacked the king's enemy and took his life. The king, gratified with him, rewarded him. That is why he is garlanded & adorned... as if he were a king.'

 

 

 

"Then there is the case where a certain person is seen bound with a stout rope with his arms pinned tightly against his back, his head shaved bald, marched to a harsh-sounding drum from street to street, crossroads to crossroads, evicted through the south gate, and beheaded to the south of the city. They ask about him: 'My good man, what has this man done that he is bound with a stout rope... and beheaded to the south of the city?' They answer: 'My good man, this man, an enemy of the king, has taken the life of a man or a woman. That is why the rulers, having had him seized, inflicted such a punishment upon him.'

 

 

 

"Now, what do you think, headman: have you ever seen or heard of such a case?"

"I have seen this, lord, have heard of it, and will hear of it (again in the future)."

"So, headman, when those priests & contemplatives who hold a doctrine and view like this say: 'All those who kill living beings experience pain & distress in the here & now,' do they speak truthfully or falsely?" — "Falsely, lord."

"And those who babble empty falsehood: are they moral or immoral?"

"Immoral, lord."

"And those who are immoral and of evil character: are they practicing wrongly or rightly?" — "Wrongly, lord."

"And those who are practicing wrongly: do they hold wrong view or right view?" — "Wrong view, lord."

"And is it proper to place confidence in those who hold wrong view?"

"No, lord."

 

"Then, headman, there is the case where a certain person is seen garlanded & adorned... as if he were a king. They ask about him: 'My good man, what has this man done that he has been garlanded & adorned... as if he were a king?' They answer: 'My good man, this man attacked the king's enemy and stole a treasure. The king, gratified with him, rewarded him...'

 

"Then there is the case where a certain person is seen bound with a stout rope... and beheaded to the south of the city. They ask about him: 'My good man, what has this man done that he is bound with a stout rope... and beheaded to the south of the city?' They answer: 'My good man, this man, an enemy of the king, has committed a theft, stealing something from a village or a forest...'

 

"Then there is the case where a certain person is seen garlanded & adorned... as if he were a king. They ask about him: 'My good man, what has this man done that he has been garlanded & adorned... as if he were a king?' They answer: 'My good man, this man seduced the wives of the king's enemy...'

 

"Then there is the case where a certain person is seen bound with a stout rope... and beheaded to the south of the city. They ask about him: 'My good man, what has this man done that he is bound with a stout rope... and beheaded to the south of the city?' They answer: 'My good man, this man seduced women & girls of good families...'

"Then there is the case where a certain person is seen garlanded & adorned... as if he were a king. They ask about him: 'My good man, what has this man done that he has been garlanded & adorned... as if he were a king?' They answer: 'My good man, this man made the king laugh with a lie...'

 

"Then there is the case where a certain person is seen bound with a stout rope... and beheaded to the south of the city. They ask about him: 'My good man, what has this man done that he is bound with a stout rope... and beheaded to the south of the city?' They answer: 'My good man, this man has brought the aims of a householder or a householder's son to ruin with a lie. That is why the rulers, having had him seized, inflicted such a punishment upon him.'

 

"Now what do you think, headman: have you ever seen or heard of such a case?"

"I have seen this, lord, have heard of it, and will hear of it (again in the future)."

"So, headman, when those priests & contemplatives who hold a doctrine & view like this, say: 'All those who tell lies experience pain & distress in the here & now,' do they speak truthfully or falsely?... Is it proper to place confidence in those who hold wrong view?" — "No, lord."

— SN 42.13

"Này Thôn trưởng, có một số Sa-môn, Bà-la-môn nói như sau, thấy như sau: "Ai sát hại sanh mạng; tất cả, ngay trong hiện tại, cảm thọ khổ ưu. Ai lấy của không cho; tất cả, ngay trong hiện tại, cảm thọ khổ ưu. Ai sống tà hạnh trong các dục; tất cả, ngay trong hiện tại, cảm thọ khổ ưu. Ai nói láo; tất cả, ngay trong hiện tại, cảm thọ khổ ưu".

Nhưng này Thôn trưởng, ở đây, chúng ta thấy có người đeo vòng hoa, đeo bông tai, khéo tắm, khéo thoa dầu sáp, tóc râu chải chuốt, được các nữ nhân phục vụ các dục chẳng khác vị vua. Về người này, họ hỏi: "Này Bạn, người này đã làm gì mà được đeo vòng hoa, đeo bông tai, được khéo tắm, tóc râu chải chuốt, được nữ nhân phục vụ các dục chẳng khác vị vua?" Các Ông trả lời về người ấy như sau: "Này Bạn, người này đã đập tan kẻ thù nghịch của vua và đoạt mạng sống của kẻ đó. Nhà vua hoan hỷ đối với người ấy, nên đã thưởng cho người ấy. Do vậy, người này được đeo vòng hoa, được đeo bông tai, được khéo tắm, râu tóc chải chuốt, được các nữ nhân phục vụ các dục chẳng khác vị vua".

Nhưng này Thôn trưởng, ở đây, chúng ta thấy có người hai tay bị trói chặt ra đằng sau bởi một sợi dây thật chắc, đầu cạo trọc, với tiếng trống chát tai, được dẫn đi từ đường này qua đường khác, từ ngã tư đường này qua ngã tư đường khác, rồi được dắt ra khỏi cửa thành phía Nam, và bị chặt đầu tại cửa thành phía Nam. Về người này, họ hỏi: "Này Bạn, người này đã làm gì mà hai tay bị trói chặt ra đằng sau bởi một sợi dây thật chắc, đầu cạo trọc, với tiếng trống chát tai, được dẫn đi từ đường này qua đường khác, từ ngã tư đường này qua ngã tư đường khác, rồi được dắt ra khỏi cửa thành phía Nam, và bị chặt đầu tại cửa thành phía Nam?" Các Ông trả lời về người ấy như sau: "Này Bạn, người này là kẻ thù của vua. Người này đã đoạt mạng sống một người đàn bà hay một người đàn ông. Do vậy, người của vua bắt người này và đối xử như vậy với người này".

"Ông nghĩ thế nào, này Thôn trưởng? Ông có bao giờ thấy hay nghe một người như vậy chăng?"

"Bạch Thế Tôn, con từng thấy và nghe một người như vậy, và sẽ được nghe trong tương lai."

"Ở đây, này Thôn trưởng, những người Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau: "Ai sát hại sanh mạng; tất cả, ngay trong hiện tại, cảm thọ khổ ưu". Họ nói đúng sự thật hay nói láo? -- Bạch Thế Tôn, họ nói láo."

"Và những người nói lời hư ngụy, nói láo, họ là người trì giới hay ác giới?"

" Là người ác giới, bạch Thế Tôn."

"Những người ác giới, theo ác pháp là tà hạnh hay chánh hạnh?" -- "Là tà hạnh, bạch Thế Tôn."

" Những người tà hạnh là những người có tà kiến hay có chánh kiến?" -- "Là những người có tà kiến, bạch Thế Tôn."

"Và những người có tà kiến, có hợp lý chăng khi đặt tin tưởng vào họ?"

"Thưa không, bạch Thế Tôn."

"Nhưng này Thôn trưởng, ở đây, chúng ta thấy có người đeo vòng hoa, đeo bông tai... được các nữ nhân phục vụ các dục chẳng khác vị vua. Về người này, họ hỏi: "Người này đã làm gì mà được đeo vòng hoa, đeo bông tai... được các nữ nhân phục vụ các dục chẳng khác vị vua?" Các Ông trả lời về người ấy như sau: "Này Bạn, người này đã đập tan kẻ thù nghịch của vua và đem về châu báu. Nhà vua hoan hỷ với người ấy nên đã thưởng người ấy."

"Nhưng này Thôn trưởng, ở đây, chúng ta thấy có người hai tay bị trói chặt ra đằng sau... và bị chặt đầu tại cửa thành phía Nam. Về người này, họ hỏi: "Này Bạn, người này đã làm gì mà hai tay bị trói chặt ra đằng sau... tại cửa thành phía Nam?" Các Ông trả lời về người ấy như sau: "Này Bạn, người này đã từ làng hay từ ngôi rừng lấy những vật không cho, được gọi là ăn trộm... "

"Nhưng này Thôn trưởng, ở đây, chúng ta thấy có người đeo vòng hoa, đeo bông tai... được các nữ nhân phục vụ các dục chẳng khác vị vua. Về người này, họ nói: "Người này đã làm gì mà được đeo vòng hoa, đeo bông tai... được các nữ nhân phục vụ các dục chẳng khác vị vua?" Các Ông trả lời về người ấy như sau: "Này Bạn, người này có tà hạnh với những người vợ của kẻ thù nghịch của vua...

"Nhưng này Thôn trưởng, ở đây, chúng ta thấy có người hai tay bị trói chặt... và bị chặt đầu tại cửa thành phía Nam. Về người này, họ nói: "Này Bạn, người này đã làm gì mà hai tay bị trói chặt ra đằng sau... tại cửa thành phía Nam?" Các Ông trả lời về người ấy như sau: "Này Bạn, người ấy đã phạm tà hạnh với các phụ nữ và các con gái các gia đình...

"Nhưng ở đây, này Thôn trưởng, chúng ta thấy có người đeo vòng hoa, đeo bông tai... được các nữ nhân phục vụ các dục chẳng khác vị vua. Về người ấy, họ hỏi: "Người này đã làm gì mà được đeo vòng hoa, đeo bông tai... được các nữ nhân phục vụ các dục chẳng khác vị vua?" Các Ông trả lời về người ấy như sau: "Này Bạn, người này làm cho vua cười với lời nói láo.

Nhưng này Thôn trưởng, ở đây, chúng ta thấy có người hai tay bị trói chặt... và bị chặt đầu tại cửa thành phía Nam. Về người này, họ hỏi: "Này Bạn, người này đã làm gì mà hai tay bị trói chặt ra đàng sau... tại cửa thành phía Nam?" Các Ông trả lời về người ấy như sau: "Này Bạn, người ấy do nói láo, đã phá hại tài sản của người gia chủ hay con của người gia chủ. Do vậy, các người của nhà vua bắt người ấy và đối xử như vậy với người ấy".

"Này Thôn trưởng, Ông nghĩ thế nào? Ông có bao giờ thấy hay nghe một người như vậy chăng?"

"Bạch Thế Tôn, con từng thấy và nghe một người như vậy, và sẽ được nghe trong tương lai."

"Ở đây, này Thôn trưởng, những Sa-môn, Bà-la-môn nào nói như sau, thấy như sau: "Ai nói láo; tất cả, ngay trong hiện tại, cảm thọ khổ ưu". Họ nói đúng sự thật hay nói láo... Và những người có tà kiến, có hợp lý chăng khi đặt tin tưởng vào họ? Thưa không, bạch Thế Tôn."

— SN 42.13

 

"Monks, the taking of life — when indulged in, developed, & pursued — is something that leads to hell, leads to rebirth as a common animal, leads to the realm of the hungry shades. The slightest of all the results coming from the taking of life is that, when one becomes a human being, it leads to a short life span.

"Stealing — when indulged in, developed, & pursued — is something that leads to hell, leads to rebirth as a common animal, leads to the realm of the hungry shades. The slightest of all the results coming from stealing is that, when one becomes a human being, it leads to the loss of one's wealth.

"Illicit sexual behavior — when indulged in, developed, & pursued — is something that leads to hell, leads to rebirth as a common animal, leads to the realm of the hungry shades. The slightest of all the results coming from illicit sexual behavior is that, when one becomes a human being, it leads to rivalry & revenge.

"Telling falsehoods — when indulged in, developed, & pursued — is something that leads to hell, leads to rebirth as a common animal, leads to the realm of the hungry shades. The slightest of all the results coming from telling falsehoods is that, when one becomes a human being, it leads to being falsely accused.

"Divisive tale-bearing — when indulged in, developed, & pursued — is something that leads to hell, leads to rebirth as a common animal, leads to the realm of the hungry shades. The slightest of all the results coming from malicious tale-bearing is that, when one becomes a human being, it leads to the breaking of one's friendships.

"Harsh speech — when indulged in, developed, & pursued — is something that leads to hell, leads to rebirth as a common animal, leads to the realm of the hungry shades. The slightest of all the results coming from harsh speech is that, when one becomes a human being, it leads to unappealing sounds.

"Frivolous chattering — when indulged in, developed, & pursued — is something that leads to hell, leads to rebirth as a common animal, leads to the realm of the hungry shades. The slightest of all the results coming from frivolous chattering is that, when one becomes a human being, it leads to words that aren't worth taking to heart.

"The drinking of fermented & distilled liquors — when indulged in, developed, & pursued — is something that leads to hell, leads to rebirth as a common animal, leads to the realm of the hungry shades. The slightest of all the results coming from drinking fermented & distilled liquors is that, when one becomes a human being, it leads to mental derangement."

AN 8.40

"Này các Tỷ-kheo, sát sanh được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của sát sanh là được làm người với tuổi thọ ngắn.

"Này các Tỷ-kheo, lấy của không cho được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của lấy của không cho là được làm người với sự tổn hại tài sản.

"Này các Tỷ-kheo, tà hạnh trong các dục được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của tà hạnh trong các dục là được làm người với sự oán thù của kẻ địch.

 

"Này các Tỷ-kheo, nói láo được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của nói láo là được làm người bị vu cáo không đúng sự thật.

"Này các Tỷ-kheo, nói hai lưỡi được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của nói hai lưỡi là được làm người với bạn bè bị đổ vỡ.

"Này các Tỷ-kheo, nói ác khẩu được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của nói ác khẩu là được làm người và được nghe những tiếng không khả ý.

"Này các Tỷ-kheo, nói lời phù phiếm được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của nói lời phù phiếm là được làm người và được nghe những lời khó chấp nhận.

 

"Này các Tỷ-kheo, uống men rượu, rượu nấu, được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của uống rượu là được làm người với tâm điên loạn.

AN 8.40

Then Asibandhakaputta the headman, a disciple of the Niganthas, went to the Blessed One and on arrival, having bowed down to him, sat to one side. As he was sitting there the Blessed One said to him: "Headman, how does Nigantha Nataputta teach the Dhamma to his disciples?"

"Nigantha Nataputta teaches the Dhamma to his disciples in this way, lord: 'All those who take life are destined for the plane of deprivation, are destined for hell. All those who steal... All those who indulge in illicit sex... All those who tell lies are destined for the plane of deprivation, are destined for hell. Whatever one keeps doing frequently, by that is one led [to a state of rebirth].' That's how Nigantha Nataputta teaches the Dhamma to his disciples."

"If it's true that 'Whatever one keeps doing frequently, by that is one led [to a state of rebirth],' then no one is destined for the plane of deprivation or destined to hell in line with Nigantha Nataputta's words. What do you think, headman: If a man is one who takes life, then taking into consideration time spent doing & not doing, whether by day or by night, which time is more: the time he spends taking life or the time he spends not taking life?"

"... the time he spends taking life is less, lord, and the time he spends not taking life is certainly more. If it's true that 'Whatever one keeps doing frequently, by that is one led [to a state of rebirth],' then no one is destined for the plane of deprivation or destined to hell in line with Nigantha Nataputta's words."

 

"What do you think, headman: If a man is one who steals... indulges in illicit sex... tells lies, then taking into consideration time spent doing & not doing, whether by day or by night, which time is more: the time he spends telling lies or the time he spends not telling lies?"

"... the time he spends telling lies is less, lord, and the time he spends not telling lies is certainly more. If it's true that 'Whatever one keeps doing frequently, by that is one led [to a state of rebirth],' then no one is destined for the plane of deprivation or destined to hell in line with Nigantha Nataputta's words."

"There's the case, headman, where a certain teacher holds this doctrine, holds this view: 'All those who take life are destined for the plane of deprivation, are destined for hell. All those who steal... All those who indulge in illicit sex... All those who tell lies are destined for the plane of deprivation, are destined for hell.' A disciple has faith in that teacher, and the thought occurs to him, 'Our teacher holds this doctrine, holds this view: "All those who take life are destined for the plane of deprivation, are destined for hell." There are living beings that I have killed. I, too, am destined for the plane of deprivation, am destined for hell.' He fastens onto that view. If he doesn't abandon that doctrine, doesn't abandon that state of mind, doesn't relinquish that view, then as if he were to be carried off, he would thus be placed in hell.

"[The thought occurs to him,] 'Our teacher holds this doctrine, holds this view: 'All those who steal... All those who indulge in illicit sex... All those who tell lies are destined for the plane of deprivation, are destined for hell.' There are lies that I have told. I, too, am destined for the plane of deprivation, am destined for hell.' He fastens onto that view. If he doesn't abandon that doctrine, doesn't abandon that state of mind, doesn't relinquish that view, then as if he were to be carried off, he would thus be placed in hell.

"There is the case, headman, where a Tathagata appears in the world, worthy & rightly self-awakened, consummate in clear knowing & conduct, well-gone, a knower of the cosmos, unexcelled trainer of those to be tamed, teacher of human & divine beings, awakened, blessed. He, in various ways, criticizes & censures the taking of life, and says, 'Abstain from taking life.' He criticizes & censures stealing, and says, 'Abstain from stealing.' He criticizes & censures indulging in illicit sex, and says, 'Abstain from indulging in illicit sex.' He criticizes & censures the telling of lies, and says, 'Abstain from the telling of lies.'

"A disciple has faith in that teacher and reflects: 'The Blessed One in a variety of ways criticizes & censures the taking of life, and says, "Abstain from taking life." There are living beings that I have killed, to a greater or lesser extent. That was not right. That was not good. But if I become remorseful for that reason, that evil deed of mine will not be undone.' So, reflecting thus, he abandons right then the taking of life, and in the future refrains from taking life. This is how there comes to be the abandoning of that evil deed. This is how there comes to be the transcending of that evil deed.

"[He reflects:] 'The Blessed One in a variety of ways criticizes & censures stealing... indulging in illicit sex... the telling of lies, and says, "Abstain from the telling of lies." There are lies I have told, to a greater or lesser extent. That was not right. That was not good. But if I become remorseful for that reason, that evil deed of mine will not be undone.' So, reflecting thus, he abandons right then the telling of lies, and in the future refrains from telling lies. This is how there comes to be the abandoning of that evil deed. This is how there comes to be the transcending of that evil deed.

SN 42.8

 

Rồi Thôn trưởng Asiband-hakaputta, đệ tử của phái Ni-kiền-tử đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với thôn trưởng Asiband-hakaputta đang ngồi một bên:
"Này Thôn trưởng, Nigantha Nàtaputta thuyết pháp như thế nào cho chúng đệ tử?"

"Bạch Thế Tôn, Nigantha Nàtaputta thuyết pháp cho chúng đệ tử như sau: "Ai sát hại sanh mạng, tất cả phải sanh vào đọa xứ, địa ngục. Ai lấy của không cho, tất cả phải sanh vào đọa xứ, địa ngục. Ai sống tà hạnh trong các dục, tất cả phải sanh vào đọa xứ, địa ngục. Ai nói láo, tất cả phải sanh vào đọa xứ, địa ngục. Phàm sống tối đa, tối đa như thế nào, chiều hướng ấy sanh thú của họ sẽ như vậy". Như vậy, bạch Thế Tôn, Nigantha Nàtaputta thuyết pháp cho các đệ tử."

"Phàm sống tối đa, tối đa như thế nào, này Thôn trưởng, chiều hướng ấy sanh thú của họ sẽ như vậy. Nếu sự thật là vậy, thời sẽ không có ai phải sanh vào đọa xứ, địa ngục như lời của Nigantha Nàtaputta. Ông nghĩ thế nào, này Thôn trưởng? Có người sát hại sanh mạng, ban đêm hay ban ngày, hay thỉnh thoảng làm. Thời nào là nhiều hơn, thời vị ấy sát hại sanh mạng, hay thời vị ấy không sát hại sanh mạng?"

"Bạch Thế Tôn, có người sát hại sanh mạng, ban đêm hay ban ngày, hay thỉnh thoảng làm. Thời này là ít hơn, là thời vị ấy sát hại sanh mạng. Và thời kia là nhiều hơn, thời vị ấy không sát hại sanh mạng. Phàm sống tối đa, tối đa như thế nào, này Thôn trưởng, chiều hướng ấy sanh thú của vị ấy sẽ như vậy. Nếu sự thật là vậy, thời sẽ không có ai phải sanh vào đọa xứ, địa ngục như lời của Nigantha Nàtaputta."

"Ông nghĩ thế nào, này Thôn trưởng? Có người lấy của không cho, có người sống theo tà hạnh trong các dục, có người sống nói láo, ban đêm hay ban ngày, hay thỉnh thoảng làm. Thời nào là nhiều hơn, thời vị ấy nói láo, hay thời vị ấy không nói láo?"

"...Bạch Thế Tôn, có người nói láo, ban đêm hay ban ngày, hay thỉnh thoảng nói. Thời này là ít hơn, thời vị ấy nói láo. Và thời kia là nhiều hơn, thời vị ấy không nói láo. Phàm sống tối đa, tối đa như thế nào, này Thôn trưởng, chiều hướng ấy sanh thú của vị ấy sẽ như vậy. Nếu sự thật là vậy, thời không ai sẽ sanh vào đọa xứ, địa ngục như lời của Nigantha Nàtaputta."

"Ở đây, này Thôn trưởng, có vị Đạo sư nói như sau, thấy như sau: "Ai sát hại sanh mạng, tất cả phải sanh vào đọa xứ, địa ngục. Ai lấy của không cho, tất cả phải sanh vào đọa xứ, địa ngục. Ai sống theo tà hạnh trong các dục, tất cả phải sanh vào đọa xứ, địa ngục. Ai nói láo, tất cả phải sanh vào đọa xứ, địa ngục". Này Thôn trưởng, người đệ tử đặt lòng tin tưởng vào vị Đạo sư ấy. Vị ấy suy nghĩ: "Thầy ta nói như sau, thấy như sau: ‘Ai sát hại sanh mạng tất cả phải sanh vào đọa xứ, địa ngục". Nay ta có sát hại một sanh mạng. Như vậy, ta phải sanh vào đọa xứ, địa ngục". Vị ấy chấp trước tà kiến ấy. Này Thôn trưởng, không đoạn tận lời ấy, không đoạn tận tâm ấy, không từ bỏ kiến ấy, vị ấy chắc chắn sẽ rơi vào địa ngục như vậy. " Thầy ta nói như sau, thấy như sau: ‘Ai lấy của không cho,tất cả phải sanh vào đọa xứ, địa ngục". Nay ta có lấy của không cho. Như vậy, ta phải sanh vào đọa xứ, địa ngục" Vị ấy chấp trước tà kiến ấy. Này Thôn trưởng, không đoạn tận lời ấy, không đoạn tận tâm ấy, không từ bỏ kiến ấy, vị ấy chắc chắn rơi vào địa ngục vậy. "Thầy ta nói như sau, thấy như sau: ‘Ai sống theo tà hạnh trong các dục, tất cả phải sanh vào đọa xứ, địa ngục". Nay ta sống theo tà hạnh trong các dục. Như vậy, ta phải sanh vào đọa xứ, địa ngục". Vị ấy chấp trước tà kiến ấy. Này Thôn trưởng, không đoạn tận lời ấy, không đoạn tận tâm ấy, không từ bỏ kiến ấy, vị ấy chắc chắn rơi vào địa ngục như vậy. "Thầy ta nói như sau, thấy như sau: ‘Ai nói láo, tất cả phải sanh vào đọa xứ, địa ngục". Nay ta nói láo. Như vậy, ta phải sanh vào đọa xứ, địa ngục". Vị ấy chấp trước tà kiến ấy. Này Thôn trưởng, không đoạn tận lời ấy, không đoạn tận tâm ấy, không từ bỏ kiến ấy, vị ấy chắc chắn rơi vào địa ngục như vậy.

Ở đây, này thôn trưởng, Như Lai sanh ra ở đời, bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn; Như Lai dùng nhiều phương tiện chỉ trích, công kích sát sanh và nói: "Chớ có sát sanh"; chỉ trích, công kích lấy của không cho và nói: "Chớ có lấy của không cho"; chỉ trích, công kích sống theo tà hạnh trong các dục và nói: "Chớ có sống theo tà hạnh trong các dục"; chỉ trích, công kích nói láo và nói: "Chớ có nói láo".

Này Thôn trưởng, người đệ tử đặt lòng tin tưởng vào vị Đạo Sư ấy. Vị ấy suy tư như sau:
"Thế Tôn dùng nhiều phương tiện chỉ trích, công kích sát sanh và nói: ‘Chớ có sát sanh". Thế Tôn dùng nhiều phương tiện chỉ trích, công kích lấy của không cho.... Thế Tôn dùng nhiều phương tiện chỉ trích, công kích sống theo tà hạnh trong các dục.... Thế Tôn dùng nhiều phương tiện chỉ trích, công kích nói láo và nói: ‘Chớ có nói láo ". Nay ta nói láo như thế này, hay như thế kia. Như vậy là không nên, như vậy là không tốt. Và do duyên ấy, ta có thể hối hận: ‘Ác nghiệp ta làm, nay sẽ không làm nữa’. Người ấy do suy tư như vậy, liền từ bỏ nói láo . Và trong tương lai, người ấy đình chỉ nói láo . Như vậy, ác nghiệp ấy được vượt qua.

SN 42.8

On one occasion the Blessed One was staying near Nalanda in the Pavarika Mango Grove. Then Asibandhakaputta the headman went to the Blessed One and on arrival, having bowed down to him, sat to one side. As he was sitting there he said to the Blessed One: "The brahmans of the Western lands, lord — those who carry water pots, wear garlands of water plants, purify with water, & worship fire — can take [the spirit of] a dead person, lift it out, instruct it, & send it to heaven. But the Blessed One, worthy & rightly self-awakened, can arrange it so that all the world, at the break-up of the body, after death, reappears in a good destination, the heavenly world."

"Very well, then, headman, I will question you on this matter. Answer as you see fit. What do you think: There is the case where a man is one who takes life, steals, indulges in illicit sex; is a liar, one who speaks divisive speech, harsh speech, & idle chatter; is greedy, bears thoughts of ill-will, & holds to wrong views. Then a great crowd of people, gathering & congregating, would pray, praise, & circumambulate with their hands palm-to-palm over the heart [saying,] 'May this man, at the break-up of the body, after death, reappear in a good destination, the heavenly world!' What do you think: would that man — because of the prayers, praise, & circumambulation of that great crowd of people — at the break-up of the body, after death, reappear in a good destination, the heavenly world?"

"No, lord."

 

"Suppose a man were to throw a large boulder into a deep lake of water, and a great crowd of people, gathering & congregating, would pray, praise, & circumambulate with their hands palm-to-palm over the heart [saying,] 'Rise up, O boulder! Come floating up, O boulder! Come float to the shore, O boulder!' What do you think: would that boulder — because of the prayers, praise, & circumambulation of that great crowd of people — rise up, come floating up, or come float to the shore?"

"No, lord."

"So it is with any man who takes life, steals, indulges in illicit sex; is a liar, one who speaks divisive speech, harsh speech, & idle chatter; is greedy, bears thoughts of ill-will, & holds to wrong views. Even though a great crowd of people, gathering & congregating, would pray, praise, & circumambulate with their hands palm-to-palm over the heart — [saying,] 'May this man, at the break-up of the body, after death, reappear in a good destination, the heavenly world!' — still, at the break-up of the body, after death, he would reappear in destitution, a bad destination, the lower realms, hell.

"Now what do you think: There is the case where a man is one who refrains from taking life, from stealing, & from indulging in illicit sex; he refrains from lying, from speaking divisive speech, from harsh speech, & from idle chatter; he is not greedy, bears no thoughts of ill-will, & holds to right view. Then a great crowd of people, gathering & congregating, would pray, praise, & circumambulate with their hands palm-to-palm over the heart [saying,] 'May this man, at the break-up of the body, after death, reappear in destitution, a bad destination, the lower realms, hell!' What do you think: would that man — because of the prayers, praise, & circumambulation of that great crowd of people — at the break-up of the body, after death, reappear in destitution, a bad destination, the lower realms, hell?"

"No, lord."

"Suppose a man were to throw a jar of ghee or a jar of oil into a deep lake of water, where it would break. There the shards & jar-fragments would go down, while the ghee or oil would come up. Then a great crowd of people, gathering & congregating, would pray, praise, & circumambulate with their hands palm-to-palm over the heart [saying,] 'Sink, O ghee/oil! Submerge, O ghee/oil! Go down, O ghee/oil!' What do you think: would that ghee/oil, because of the prayers, praise, & circumambulation of that great crowd of people sink, submerge, or go down?"

 

 

"No, lord."

"So it is with any man who refrains from taking life, from stealing, & from indulging in illicit sex; refrains from lying, from speaking divisive speech, from harsh speech, & from idle chatter; is not greedy, bears no thoughts of ill-will, & holds to right view. Even though a great crowd of people, gathering & congregating, would pray, praise, & circumambulate with their hands palm-to-palm over the heart — [saying,] 'May this man, at the break-up of the body, after death, reappear in a destitution, a bad destination, the lower realms, hell!' — still, at the break-up of the body, after death, he would reappear in a good destination, the heavenly world."

SN 42.6

Một thời Thế Tôn trú ở Nàlandà, tại rừng Pàvàrikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Asiband-hakaputta bạch Thế Tôn:
- "Bạch Thế Tôn, các vị Bà-la-môn trú đất phương Tây, mang theo bình nước, đeo vòng hoa huệ (sevàla), nhờ nước được thanh tịnh. Những người thờ lửa, khi một người đã chết, đã mệnh chung, họ nhắc bổng và mang vị ấy ra ngoài (uyyàpenti), kêu tên vị ấy lên, và dẫn vị ấy vào Thiên giới. Còn Thế Tôn, bạch Thế Tôn, là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Thế Tôn có thể làm như thế nào cho toàn thể thế giới, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này?"

"Vậy, này Thôn trưởng, ở đây, Ta sẽ hỏi Ông. Nếu Ông kham nhẫn hãy trả lời.
-"Này Thôn trưởng, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, một người sát sanh, lấy của không cho, sống theo tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham lam, sân hận, theo tà kiến. Rồi một quần chúng đông đảo, tụ tập, tụ họp lại, cầu khẩn, tán dương, chấp tay đi cùng khắp và nói rằng: "Mong người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên Thiện thú, thiên giới, cõi đời này!" Ông nghĩ thế nào, này Thôn trưởng, người ấy do nhân cầu khẩn của đại quần chúng ấy, hay do nhân tán dương, hay do nhân chấp tay đi cùng khắp, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này?"

"Thưa không, bạch Thế Tôn."

"Ví như, này Thôn trưởng, có người lấy một tảng đá lớn ném xuống một hồ nước sâu. Rồi một quần chúng đông đảo, tụ tập, tụ họp lại, cầu khẩn, tán dương, chấp tay đi cùng khắp và nói rằng: "Hãy đứng lên, tảng đá lớn! Hãy nổi lên, tảng đá lớn! Hãy trôi vào bờ, này tảng đá lớn!" Ông nghĩ thế nào, này Thôn trưởng, tảng đá lớn ấy do nhân cầu khẩn của đại quần chúng ấy, hay do nhân tán dương, hay do nhân chấp tay đi cùng khắp, có thể trồi lên, hay nổi lên, hay trôi dạt vào bờ không?"

"Thưa không, bạch Thế Tôn."

"Cũng vậy, này Thôn trưởng, người nào sát sanh, lấy của không cho, sống theo tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham lam, sân hận, theo tà kiến. Rồi một quần chúng đông đảo, tụ tập, tụ họp lại, cầu khẩn, tán dương, chấp tay đi cùng khắp và nói rằng: "Mong người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên Thiện thú, thiên giới, cõi đời này!" Nhưng người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục."

"Ông nghĩ thế nào, này Thôn trưởng? Ở đây, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ sống tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, không có tham, không có sân hận, có chánh tri kiến. Rồi một quần chúng đông đảo, tụ tập, tụ họp lại, cầu khẩn, tán dương, chấp tay đi cùng khắp và nói rằng: "Mong người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục!" Ông nghĩ thế nào, này Thôn trưởng, người ấy do nhân cầu khẩn của quần chúng đông đảo ấy, hay do nhân tán dương, hay do nhân chấp tay đi cùng khắp, sau khi thân hoại mạng chung, có thể sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục không?"

"Thưa không, bạch Thế Tôn."

"Ví như, này Thôn trưởng, có người nhận chìm một ghè sữa đông (sappi) hay một ghè dầu vào trong một hồ nước sâu rồi đập bể ghè ấy. Ở đây, ghè ấy trở thành từng miếng vụn, hay từng mảnh vụn và chìm xuống nước. Còn sữa đông hay dầu thời nổi lên trên. Rồi một quần chúng đông đảo, tụ tập, tụ họp lại, cầu khẩn, tán dương, chấp tay đi cùng khắp và nói: "Hãy chìm xuống, này sữa đông và dầu! Hãy chìm sâu xuống, này sữa đông và dầu. Hãy chìm xuống tận đáy, này sữa đông và dầu!". Ông nghĩ thế nào, này Thôn trưởng, sữa đông ấy, dầu ấy, có do nhân cầu khẩn của đám quần chúng đông đảo ấy, do nhân tán dương, do nhân chấp tay đi cùng khắp của quần chúng đông đảo ấy nên bị chìm xuống, hay chìm sâu xuống, hay đi xuống tận đáy không?"

"Thưa không, bạch Thế Tôn."

"Cũng vậy, này Thôn trưởng, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ sống tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, không có tham, không có sân, theo chánh tri kiến. Rồi một quần chúng đông đảo, tụ tập, tụ họp lại, cầu khẩn, tán dương, chấp tay đi cùng khắp và nói: "Mong rằng người này, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào cõi dữ ác thú, đọa xứ, địa ngục!" Nhưng người ấy sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này."

SN 42.6

Bhavana — Meditation 

 

Bhavana — Thiền tịnh 

 

This was said by the Blessed One, said by the Arahant, so I have heard: "All the grounds for making merit leading to spontaneously arising (in heaven) do not equal one-sixteenth of awareness-release through good will. Good will — surpassing them — shines, blazes, & dazzles.

"Just as the radiance of all the stars does not equal one-sixteenth of the radiance of the moon, as the moon — surpassing them — shines, blazes, & dazzles, even so, all the grounds for making merit leading to spontaneously arising in heaven do not equal one-sixteenth of awareness-release through good will. Good will — surpassing them — shines, blazes, & dazzles.

 

"Just as in the last month of the rains, in autumn, when the sky is clear & cloudless, the sun, on ascending the sky, overpowers the space immersed in darkness, shines, blazes, & dazzles, even so, all the grounds for making merit leading to spontaneously arising in heaven do not equal one-sixteenth of awareness-release through good will. Good will — surpassing them — shines, blazes, & dazzles.

 

"Just as in the pre-dawn darkness the morning star shines, blazes, & dazzles, even so, all the grounds for making merit leading to spontaneously arising in heaven do not equal one-sixteenth of awareness-release through good will. Good will — surpassing them — shines, blazes, & dazzles."

When one develops — mindful —
good will without limit,
fetters are worn through,
on seeing the ending
of acquisitions.

If with uncorrupted mind
you feel good will
for even
one
being,
you become skilled from that.
But a Noble One produces
a mind of sympathy
for
all
beings,
an abundance of merit.

Kingly seers, who conquered the earth
swarming with beings,
went about making sacrifices:
the horse sacrifice, human sacrifice,
water rites, soma rites,
& the "Unobstructed,"
but these don't equal
one sixteenth
of a well-developed mind of good will —
as all the constellations don't,
one sixteenth
of the radiance of the moon.

One who neither kills
nor gets others to kill,
neither conquers,
nor gets others to conquer,
with good will for all beings,
has no hostility with anyone
at all.
Iti 27

 

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe: Này các Tỷ-kheo, phàm có những phước nghiệp sự nào đưa đến sanh y, tất cả những nghiệp sự ấy không bằng một phần mười sáu từ tâm giải thoát. Chỉ có từ tâm giải thoát vượt qua chúng những nghiệp sự ấy, chói sáng, bừng sáng và rực sáng.

Này các Tỷ-kheo, ví như ánh sáng của chùm sao, tất cả ánh sáng ấy không bằng một phần mười sáu ánh sáng của mặt trăng. Ánh sáng của mặt trăng vượt qua ánh sáng của chùm sao chói sáng, bừng sáng, và rực sáng. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm có những nghiệp vụ đưa đến sanh y, tất cả những nghiệp vụ ấy không bằng một phần mười sáu từ tâm giải thoát. Chỉ có từ tâm giải thoát, vượt qua chúng, chói sáng, bừng sáng và rực sáng.

Này các Tỷ-kheo, ví như vào tháng cuối mùa mưa, vào mùa thu, trên bầu trời thanh tịnh, các mây được quét sạch, mặt trời mọc lên trên bầu trời, phá tan mọi tối tăm ở hư không, chói sáng, bừng sáng và rực sáng. Cũng vậy này các Tỷ-kheo, phàm có những nghiệp vụ đưa đến sanh y, tất cả những nghiệp vụ ấy không bằng một phần mười sáu từ tâm giải thoát. Chỉ có từ tâm giải thoát, vượt qua chúng, chói sáng, bừng sáng và rực sáng.

Ví như này các Tỷ-kheo, khi đêm đã gần tàn, sao mai chói sáng, bừng sáng và rực sáng. Cũng vậy này các Tỷ-kheo, phàm có những nghiệp vụ nào đưa đến sanh y, tất cả những nghiệp vụ ấy không bằng một phần mười sáu từ tâm giải thoát. Chỉ có từ tâm giải thoát vượt qua chúng, chói sáng, bừng sáng và rực sáng. Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói đến.

Ai tu tập từ tâm,
Không phóng dật chánh niệm,
Các kiết sử giảm thiểu,
Nhờ thấy sanh y diệt.

Nếu tâm không độc ác,
Ðối với một hữu tình,
Với từ tâm như vậy,
Vị ấy là bậc Thiện,
Với tâm tư từ mẫn,
Ðối tất cả hữu tình,
Bậc Thánh tự tác thành,
Công đức thật vô lượng.

Ai chiến thắng quả đất,
Ðầy dẫy những hữu tình,
Bậc vua chúa chơn chánh,
Như các vị tiên nhân,
Tổ chức khắp mọi nơi,
Ðủ các loại tế đàn,
Lễ tế đàn với ngựa,
Lễ tế đàn với người,
Quăng cọc, rượu chiến thắng,
Lễ chốt cửa dẹp lại,
Họ không tác thành được
Một phần thứ mười sáu,
Với người khéo tu tập,
Tâm ý thật từ mẫn,
Như ánh sáng mặt trăng,

Thắng sáng mọi vì sao,
Ai không có giết hại,
Không khiến người giết hại,
Không có chinh phục người,
Không khiến người chinh phục,
Với tâm tư từ mẫn,
Ðối với mọi chúng sanh,
Vị ấy không hận thù,
Ðối với bất cứ ai.

Iti 27

"Now, what are the roots of unskillful things? Greed is a root of unskillful things, aversion is a root of unskillful things, delusion is a root of unskillful things. These are termed the roots of unskillful things...

"And what are the roots of skillful things? Lack of greed is a root of skillful things, lack of aversion is a root of skillful things, lack of delusion is a root of skillful things. These are termed the roots of skillful things."

MN 9

"Thế nào là căn bổn bất thiện? Tham là căn bổn bất thiện, sân là căn bổn bất thiện, si là căn bổn bất thiện. Như vậy gọi là căn bổn bất thiện.

Tthế nào là căn bổn thiện?
Không tham là căn bổn thiện, không sân là căn bổn thiện, không si là căn bổn thiện. Như vậy gọi là căn bổn thiện."

MN 9

Then the Kalamas of Kesaputta went to the Blessed One. On arrival, some of them bowed down to the Blessed One and sat to one side. Some of them exchanged courteous greetings with him and, after an exchange of friendly greetings & courtesies, sat to one side. Some of them sat to one side having saluted him with their hands palm-to-palm over their hearts. Some of them sat to one side having announced their name & clan. Some of them sat to one side in silence.

As they sat there, the Kalamas of Kesaputta said to the Blessed One, "Lord, there are some priests & contemplatives who come to Kesaputta. They expound & glorify their own doctrines, but as for the doctrines of others, they deprecate them, revile them, show contempt for them, & disparage them. And then other priests & contemplatives come to Kesaputta. They expound & glorify their own doctrines, but as for the doctrines of others, they deprecate them, revile them, show contempt for them, & disparage them. They leave us absolutely uncertain & in doubt: Which of these venerable priests & contemplatives are speaking the truth, and which ones are lying?"

"Of course you are uncertain, Kalamas. Of course you are in doubt. When there are reasons for doubt, uncertainty is born. So in this case, Kalamas, don't go by reports, by legends, by traditions, by scripture, by logical conjecture, by inference, by analogies, by agreement through pondering views, by probability, or by the thought, 'This contemplative is our teacher.' When you know for yourselves that, 'These qualities are unskillful; these qualities are blameworthy; these qualities are criticized by the wise; these qualities, when undertaken & carried out, lead to harm & to suffering' — then you should abandon them.

 

 

 

"What do you think, Kalamas? When greed arises in a person, does it arise for welfare or for harm?"

"For harm, lord."

"And this greedy person, overcome by greed, his mind possessed by greed, kills living beings, takes what is not given, goes after another person's wife, tells lies, and induces others to do likewise, all of which is for long-term harm & suffering."

"Yes, lord."

(Similarly with aversion and delusion.)

"So, as I said, Kalamas: 'Don't go by reports, by legends, by traditions, by scripture, by logical conjecture, by inference, by analogies, by agreement through pondering views, by probability, or by the thought, "This contemplative is our teacher." When you know for yourselves that, "These qualities are unskillful; these qualities are blameworthy; these qualities are criticized by the wise; these qualities, when undertaken & carried out, lead to harm & to suffering" — then you should abandon them.' Thus was it said. And in reference to this was it said.

 

 

"Now, Kalamas, don't go by reports, by legends, by traditions, by scripture, by logical conjecture, by inference, by analogies, by agreement through pondering views, by probability, or by the thought, 'This contemplative is our teacher.' When you know for yourselves that, 'These qualities are skillful; these qualities are blameless; these qualities are praised by the wise; these qualities, when undertaken & carried out, lead to welfare & to happiness' — then you should enter & remain in them.

 

 

"What do you think, Kalamas? When lack of greed arises in a person, does it arise for welfare or for harm?"

"For welfare, lord."

"And this ungreedy person, not overcome by greed, his mind not possessed by greed, doesn't kill living beings, take what is not given, go after another person's wife, tell lies, or induce others to do likewise, all of which is for long-term welfare & happiness."

"Yes, lord."

(Similarly with lack of aversion and lack of delusion.)

"So, as I said, Kalamas: 'Don't go by reports, by legends, by traditions, by scripture, by logical conjecture, by inference, by analogies, by agreement through pondering views, by probability, or by the thought, "This contemplative is our teacher." When you know for yourselves that, "These qualities are skillful; these qualities are blameless; these qualities are praised by the wise; these qualities, when undertaken & carried out, lead to welfare & to happiness" — then you should enter & remain in them.' Thus was it said. And in reference to this was it said.

 

 

 

"Now, Kalamas, one who is a disciple of the noble ones — thus devoid of greed, devoid of ill will, undeluded, alert, & resolute — keeps pervading the first direction [the east] — as well as the second direction, the third, & the fourth — with an awareness imbued with good will. Thus he keeps pervading above, below, & all around, everywhere & in every respect the all-encompassing world with an awareness imbued with good will: abundant, expansive, immeasurable, free from hostility, free from ill will.

"He keeps pervading the first direction — as well as the second direction, the third, & the fourth — with an awareness imbued with compassion. Thus he keeps pervading above, below, & all around, everywhere & in every respect the all-encompassing world with an awareness imbued with compassion: abundant, expansive, immeasurable, free from hostility, free from ill will.

"He keeps pervading the first direction — as well as the second direction, the third, & the fourth — with an awareness imbued with appreciation. Thus he keeps pervading above, below, & all around, everywhere & in every respect the all-encompassing world with an awareness imbued with appreciation: abundant, expansive, immeasurable, free from hostility, free from ill will.

"He keeps pervading the first direction — as well as the second direction, the third, & the fourth — with an awareness imbued with equanimity. Thus he keeps pervading above, below, & all around, everywhere & in every respect the all-encompassing world with an awareness imbued with equanimity: abundant, expansive, immeasurable, free from hostility, free from ill will.

"Now, Kalamas, one who is a disciple of the noble ones — his mind thus free from hostility, free from ill will, undefiled, & pure — acquires four assurances in the here-&-now:

"'If there is a world after death, if there is the fruit of actions rightly & wrongly done, then this is the basis by which, with the break-up of the body, after death, I will reappear in a good destination, the heavenly world.' This is the first assurance he acquires.

"'But if there is no world after death, if there is no fruit of actions rightly & wrongly done, then here in the present life I look after myself with ease — free from hostility, free from ill will, free from trouble.' This is the second assurance he acquires.

"'If evil is done through acting, still I have willed no evil for anyone. Having done no evil action, from where will suffering touch me?' This is the third assurance he acquires.

"'But if no evil is done through acting, then I can assume myself pure in both respects.' This is the fourth assurance he acquires.

"One who is a disciple of the noble ones — his mind thus free from hostility, free from ill will, undefiled, & pure — acquires these four assurances in the here-&-now."

AN 3.65

 

Rồi các người Kàlàmà ở Kesaputta đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, có người đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên ; có người nói lên với Thế Tôn những lời chào đón thăm hỏi, sau khi nói lên những lời chào đón thăm hỏi thân hữu rồi ngồi xuống một bên ; có người chắp tay vái chào Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên ; có người xưng tên và dòng họ rồi ngồi xuống một bên ; có người im lặng rồi ngồi xuống một bên.

Sau khi ngồi xuống một bên, các người Kàlàmà ở Kesaputta bạch Thế Tôn :
-" Có một số Sa-môn, Bà-la-môn, bạch Thế Tôn, đi đến Kesaputta. Họ làm sáng tỏ, làm chói sáng quan điểm của mình, nhưng họ bài xích quan điểm người khác, kinh miệt, chê bai. Bạch Thế Tôn, và một số Sa-môn, Bà-la-môn khác cũng đi đến Kesaputta, Họ làm sáng tỏ, làm chói sáng quan điểm của mình, nhưng họ bài xích quan điểm người khác, kinh miệt, chê bai, xuyên tạc. Đối với họ, bạch Thế Tôn, chúng con có những nghi ngờ phân vân : "Trong những Tôn giả Sa-môn này, ai nói sự thật, ai nói láo ?"

Đương nhiên, này các Kàlàmà, các Ông có những nghi ngờ ! Đương nhiên, này các Kàlàmà, các Ông có những phân vân ! Trong những trường hợp đáng nghi ngờ, các Ông đương nhiên khởi lên phân vân.
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe truyền thuyết ; chớ có tin vì nghe theo truyền thống ; chớ có tin vì nghe theo người ta nói ; chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng ; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình ; chớ có tin vì đúng theo một lập trường ; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện ; chớ có tin vì phù hợp với định kiến ; chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình. Nhưng này các Kàlàmà, khi nào tự mình biết rõ như sau : "Các pháp này là bất thiện - Các pháp này là có tội ; Các pháp này bị các người có trí chỉ trích ; Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau", thời này Kàlàmà, hãy từ bỏ chúng !

Các Ông nghĩ thế nào, này Kàlàmà ! Lòng tham khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh ?
- Bất hạnh, bạch Thế Tôn.
- Người này có tham, này các Kàlàmà, bị tham chinh phục, tâm bị xâm chiếm, giết các sinh vật, lấy của không cho, đi đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có làm cho người ấy bất hạnh đau khổ lâu dài hay không ?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.

(Tương tự với sân và si)

Như vậy, này các Kàlàmà, điều Ta vừa nói với các Ông :
-"Chớ có tin vì nghe theo truyền thống ; chớ có tin vì nghe theo người ta nói ; chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng ; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình ; chớ có tin vì đúng theo một lập trường ; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện ; chớ có tin vì phù hợp với định kiến ; chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình. Nhưng này các Kàlàmà, khi nào tự mình biết rõ như sau : "Các pháp này là bất thiện - Các pháp này là có tội ; Các pháp này bị các người có trí chỉ trích ; Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau", thời này Kàlàmà, hãy từ bỏ chúng ! Điều đã được nói lên như vậy, chính do duyên như vậy đã được nói lên.

"Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe truyền thuyết, chớ có tin vì nghe theo người ta nói ; chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng ; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình ; chớ có tin vì đúng theo một lập trường ; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện ; chớ có tin vì phù hợp với định kiến ; chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình. Nhưng này các Kàlàmà, khi nào tự mình biết rõ như sau : "Các pháp này là thiện - Các pháp này là không có tội ; Các pháp này không bị các người có trí chỉ trích ; Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến hạnh phúc an lạc", thời này Kàlàmà, hãy từ đạt đến và an trú !

"Các Ông nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, không tham, khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy, đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh cho người ấy ?
- Hạnh phúc, bạch Thế Tôn.
- Người này không tham, này các Kàlàmà, không bị tham chinh phục, tâm không bị xâm chiếm, không giết các sinh vật, không lấy của không cho, không đi đến vợ người, không nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có làm cho người ấy hạnh phúc an lạc lâu dài hay không ?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.

(Tương tự với không sân và không si)

"Như vậy, này các Kàlàmà, điều Ta vừa nói với các Ông :
- "Chớ có tin vì nghe theo truyền thống ; chớ có tin vì nghe theo người ta nói ; chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng ; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình ; chớ có tin vì đúng theo một lập trường ; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện ; chớ có tin vì phù hợp với định kiến ; chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình. Nhưng này các Kàlàmà, khi nào tự mình biết rõ như sau : "Các pháp này là thiện - Các pháp này là không có tội ; Các pháp này không bị các người có trí chỉ trích ; Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến hạnh phúc an lạc", thời này Kàlàmà, hãy chứng đạt và an trú ! Điều đã được nói lên như vậy, chính do duyên như vậy đã được nói lên.

"Này các Kàlàmà, vị Thánh đệ tử nào ly tham, ly sân, ly si như vậy, tỉnh giác, chánh niệm, với tâm câu hữu với từ, biết mãn một phương, cũng vậy phương thứ hai ; cũng vậy phương thứ ba ; cũng vậy phương thứ tư ; Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, đại hành, vô biên, không hận, không sân.

"Vị ấy với tâm câu hữu với bi, biết mãn một phương, cũng vậy phương thứ hai ; cũng vậy phương thứ ba ; cũng vậy phương thứ tư ; Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với bi, quảng đại, đại hành, vô biên, không hận, không sân.

"Vị ấy với tâm câu hữu với hỷ, biết mãn một phương, cũng vậy phương thứ hai ; cũng vậy phương thứ ba ; cũng vậy phương thứ tư ; Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với hỷ, quảng đại, đại hành, vô biên, không hận, không sân.

"Vị ấy với tâm câu hữu với xả, biết mãn một phương, cũng vậy phương thứ hai ; cũng vậy phương thứ ba ; cũng vậy phương thứ tư ; Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, đại hành, vô biên, không hận, không sân.

"Thánh đệ tử ấy, này các Kàlàmà, với tâm không oán như vậy, thanh tịnh như vậy, ngay trong hiện tại, người ấy đạt được bốn sự an ủi.

"Nếu có đời sau, nếu có kết quả dị thực các nghiệp thiện ác, sau khi thân hoại mạng chung, ta sẽ sanh lên cõi thiện, cõi trời, cõi đời này" ; đây là an ủi thứ nhất vị ấy có được.

"Nếu không có đời sau, nếu không có kết quả các nghiệp thiện ác thời ở đây, trong hiện tại, ta tự sống với tâm không oán, không sân, không phiền não, được an lạc" ; đây là an ủi thứ hai vị ấy có được.

"Nếu việc ác có làm, nhưng ta không có tâm ác đối với ai cả, và nếu ta không làm điều ác, sao ta có thể cảm thọ khổ đau được" ; đây là an ủi thứ ba vị ấy có được.

"Nếu việc ác không có làm, như vậy, cả hai phương diện (do ta làm vô ý hay cố ý), ta quán thấy ta hoàn toàn thanh tịnh" ; đây là an ủi thứ tư vị ấy có được.

"Thánh đệ tử ấy, này các Kàlàmà, với tâm không oán như vậy, với tâm không sân như vậy, với tâm không uế nhiễm như vậy, với tâm không thanh tịnh như vậy, ngay trong hiện tại, vị ấy có được bốn an ủi này."

AN 3.65

Then a large number of monks went to the Blessed One and, on arrival, having bowed down to him, sat to one side. As they were sitting there they said to him, "Lord, just now in Savatthi a certain monk died after having been bitten by a snake."

"Then it's certain, monks, that that monk didn't suffuse the four royal snake lineages with a mind of good will. For if he had suffused the four royal snake lineages with a mind of good will, he would not have died after having been bitten by a snake. Which four? The Virupakkha royal snake lineage, the Erapatha royal snake lineage, the Chabyaputta royal snake lineage, the Dark Gotamaka royal snake lineage. It's certain that that monk didn't suffuse these four royal snake lineages with a mind of good will. For if he had suffused these four royal snake lineages with a mind of good will, he would not have died after having been bitten by a snake. I allow you, monks, to suffuse these four royal snake lineages with a mind of good will for the sake of self-protection, self-guarding, self-preservation."

I have good will for the Virupakkhas,
good will for the Erapathas,
good will for the Chabyaputtas,
good will for the Dark Gotamakas.

I have good will for footless beings,
good will for two-footed beings,
good will for four-footed beings,
good will for many-footed beings.

May footless beings do me no harm.
May two-footed beings do me no harm.
May four-footed beings do me no harm.
May many-footed beings do me no harm.

May all creatures,
all breathing things,
all beings
— each & every one —
meet with good fortune.
May none of them come to any evil.

Limitless is the Buddha,
limitless the Dhamma,
limitless the Sangha.
There is a limit to creeping things:
snakes, scorpions, centipedes,
spiders, lizards, & rats.
I have made this safeguard,
I have made this protection.
May the beings depart.
I pay homage
to the Blessed One,
homage
to the seven
rightly self-awakened ones.
AN 4.67

 

 

Rồi nhiều Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
-" Ở đây, bạch Thế Tôn, một Tỷ-kheo ở Sàvatthi bị rắn cắn đã mệnh chung."

"Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, với từ tâm đã không hướng đến bốn gia đình vua các loài rắn. Nếu Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, với từ tâm có hướng đến bốn gia đình vua các loài rắn, thời này các Tỷ-kheo, vị ấy có thể không bị rắn cắn mà mạng chung. Thế nào là bốn gia đình vua các loài rắn ?

-Gia đình vua các loài rắn Virùpakkha,
-Gia đình vua các loài rắn Eràpattha,
-Gia đình vua các loài rắn Chabyàputta,
-Gia đình vua các loài rắn Kanhàgotamaka;
Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo với từ tâm đã không hướng đến bốn gia đình vua các loài rắn này. Nếu Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, với từ tâm có thể hướng đến bốn gia đình vua các loài rắn, thời này các Tỷ-kheo, vị ấy có thể không bị rắn cắn mà mạng chung. Này các Tỷ-kheo, Ta cho phép với từ tâm hướng đến bốn gia đình vua các loài rắn này để tự bảo vệ, để tự hộ trì, để tự che chở."

Ta hãy có từ tâm
Với Virùpakkha,
Ta hãy có từ tâm
Với Eràpatha,
Ta hãy có từ tâm
Với Chabyaputta,
Ta hãy có từ tâm
Với Kanhàgotamaka,

Ta hãy có từ tâm
Với các loài không chân,
Ta hãy có từ tâm
Với các loài hai chân,
Ta hãy có từ tâm
Với các loài bốn chân,
Ta hãy có từ tâm,
Với các loài nhiều chân,

Mong rằng loài không chân
Không có làm hại ta,
Mong rằng loài hai chân
Không có làm hại ta,
Mong rằng loài bốn chân
Không có làm hại ta,
Mong rằng loài nhiều chân
Không có làm hại ta,

Mọi chúng sanh, hữu tình
Toàn thể mọi sinh vật,
Mong chúng thấy hiền thiện,
Chớ đi đến điều ác.

Đức Phật là vô lượng,
Pháp là vô lượng,
Chúng Tăng là vô lượng,
Có lượng là các loài bò sát,
Các loài rắn,
Các con bò cạp,
Các con một trăm chân,
Các loại nhện giăng tơ,
Các con thằn lằn và các loài chuột.
Ta đã làm sự hộ trì.
Ta đã làm sự che chở,
Mong rằng các loài hữu tình sẽ bỏ đi.
Ta đảnh lễ đức Thế Tôn.
Ta đảnh lễ bảy vị Chánh Đẳng Giác

AN 4.67

"Monks, there are these five aspects of speech by which others may address you: timely or untimely, true or false, affectionate or harsh, beneficial or unbeneficial, with a mind of good-will or with inner hate. Others may address you in a timely way or an untimely way. They may address you with what is true or what is false. They may address you in an affectionate way or a harsh way. They may address you in a beneficial way or an unbeneficial way. They may address you with a mind of good-will or with inner hate. In any event, you should train yourselves: 'Our minds will be unaffected and we will say no evil words. We will remain sympathetic to that person's welfare, with a mind of good will, and with no inner hate. We will keep pervading him with an awareness imbued with good will and, beginning with him, we will keep pervading the all-encompassing world with an awareness imbued with good will — abundant, expansive, immeasurable, free from hostility, free from ill will.' That's how you should train yourselves.

 

 

 

 

"Suppose that a man were to come along carrying a hoe & a basket, saying, 'I will make this great earth be without earth.' He would dig here & there, scatter soil here & there, spit here & there, urinate here & there, saying, 'Be without earth. Be without earth.' Now, what do you think — would he make this great earth be without earth?"

 

"No, lord. Why is that? Because this great earth is deep & enormous. It can't easily be made to be without earth. The man would reap only a share of weariness & disappointment."

"In the same way, monks, there are these five aspects of speech by which others may address you: timely or untimely, true or false, affectionate or harsh, beneficial or unbeneficial, with a mind of good-will or with inner hate. Others may address you in a timely way or an untimely way. They may address you with what is true or what is false. They may address you in an affectionate way or a harsh way. They may address you in a beneficial way or an unbeneficial way. They may address you with a mind of good-will or with inner hate. In any event, you should train yourselves: 'Our minds will be unaffected and we will say no evil words. We will remain sympathetic to that person's welfare, with a mind of good will, and with no inner hate. We will keep pervading him with an awareness imbued with good will and, beginning with him, we will keep pervading the all-encompassing world with an awareness imbued with good will equal to the great earth — abundant, expansive, immeasurable, free from hostility, free from ill will.' That's how you should train yourselves.

 

 

 

 

"Suppose that a man were to come along carrying lac, yellow orpiment, indigo, or crimson, saying, 'I will draw pictures in space, I will make pictures appear.' Now, what do you think — would he draw pictures in space & make pictures appear?"

 

"No, lord. Why is that? Because space is formless & featureless. It's not easy to draw pictures there and to make them appear. The man would reap only a share of weariness & disappointment."

 

"In the same way, monks, there are these five aspects of speech by which others may address you... In any event, you should train yourselves: 'Our minds will be unaffected and we will say no evil words. We will remain sympathetic to that person's welfare, with a mind of good will, and with no inner hate. We will keep pervading him with an awareness imbued with good will and, beginning with him, we will keep pervading the all-encompassing world with an awareness imbued with good will equal to space — abundant, expansive, immeasurable, free from hostility, free from ill will.' That's how you should train yourselves.

"Suppose that a man were to come along carrying a burning grass torch and saying, 'With this burning grass torch I will heat up the river Ganges and make it boil.' Now, what do you think — would he, with that burning grass torch, heat up the river Ganges and make it boil?"

"No, lord. Why is that? Because the river Ganges is deep & enormous. It's not easy to heat it up and make it boil with a burning grass torch. The man would reap only a share of weariness & disappointment."

"In the same way, monks, there are these five aspects of speech by which others may address you... In any event, you should train yourselves: 'Our minds will be unaffected and we will say no evil words. We will remain sympathetic to that person's welfare, with a mind of good will, and with no inner hate. We will keep pervading him with an awareness imbued with good will and, beginning with him, we will keep pervading the all-encompassing world with an awareness imbued with good will equal to the river Ganges — abundant, expansive, immeasurable, free from hostility, free from ill will.' That's how you should train yourselves.

"Suppose there were a catskin bag — beaten, well-beaten, beaten through & through, soft, silky, free of rustling & crackling — and a man were to come along carrying a stick or shard and saying, 'With this stick or shard I will take this catskin bag — beaten, well-beaten, beaten through & through, soft, silky, free of rustling & crackling — and I will make it rustle & crackle.' Now, what do you think — would he, with that stick or shard, take that catskin bag — beaten, well-beaten, beaten through & through, soft, silky, free of rustling & crackling — and make it rustle & crackle?"

 

"No, lord. Why is that? Because the catskin bag is beaten, well-beaten, beaten through & through, soft, silky, free of rustling & crackling. It's not easy to make it rustle & crackle with a stick or shard. The man would reap only a share of weariness & disappointment."

"In the same way, monks, there are these five aspects of speech by which others may address you... In any event, you should train yourselves: 'Our minds will be unaffected and we will say no evil words. We will remain sympathetic to that person's welfare, with a mind of good will, and with no inner hate. We will keep pervading him with an awareness imbued with good will and, beginning with him, we will keep pervading the all-encompassing world with an awareness imbued with good will equal to a catskin bag — abundant, expansive, immeasurable, free from hostility, free from ill will.' That's how you should train yourselves.

"Monks, even if bandits were to carve you up savagely, limb by limb, with a two-handled saw, he among you who let his heart get angered even at that would not be doing my bidding. Even then you should train yourselves: 'Our minds will be unaffected and we will say no evil words. We will remain sympathetic, with a mind of good will, and with no inner hate. We will keep pervading these people with an awareness imbued with good will and, beginning with them, we will keep pervading the all-encompassing world with an awareness imbued with good will — abundant, expansive, immeasurable, free from hostility, free from ill will.' That's how you should train yourselves.

 

"Monks, if you attend constantly to this admonition on the simile of the saw, do you see any aspects of speech, slight or gross, that you could not endure?"

"No, lord."

"Then attend constantly to this admonition on the simile of the saw. That will be for your long-term welfare & happiness."

MN 21

"Chư Tỷ-kheo, có năm loại ngôn ngữ mà các Người có thể dùng khi nói với các người khác:
-Đúng thời hay phi thời,
-Chơn thực hay không chơn thực,
-Nhu nhuyến hay thô bạo,
-Có lợi ích hay không lợi ích,
-Với từ tâm hay với sân tâm.
Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Người có thể nói đúng thời hay phi thời.
Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Người có thể nói lời chơn thực hay nói lời không chơn thực.
Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Người có thể nói lời nhu nhuyến hay nói lời thô bạo.
Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Người có thể nói lời lợi ích hay nói lời không lợi ích.
Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Người có thể nói với từ tâm hay với sân tâm.
Chư Tỷ-kheo, ở tại đây, các Người cần phải học tập như sau:
-Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm, chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ, chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận.
-Chúng ta sẽ sống bao phủ người này với tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng địa vô biên, không hận, không sân".
Chư Tỷ-kheo, như vậy các Người cần phải học tập.

"Chư Tỷ-kheo, ví như một người đến, cầm xẻng và thúng, nói như sau: "Tôi sẽ làm cho đất lớn này không thành đất nữa", và người ấy đào chỗ này chỗ kia, rải đất chỗ này chỗ kia, nhổ nước miếng chỗ này chỗ kia, đi tiểu tiện chỗ này chỗ kia, với ý nghĩ: "Ngươi trở thành không phải đất, Ngươi trở thành không phải đất". Chư Tỷ-kheo, nghĩ thế nào? Người ấy có thể làm cho đất lớn này trở thành không phải đất chăng?"

"Bạch Thế Tôn, không. Vì sao vậy? Vì đất lớn này thâm sâu và vô lượng, không dễ gì khiến cho đất lớn này trở thành không phải đất, trước khi người ấy bị mệt nhoài và bị thất bại."

"Cũng vậy, này chư Tỷ-kheo, có năm loại ngôn ngữ này mà các Ông có thể nói với người khác:
-Đúng thời hay phi thời,
-Chơn thực hay không chơn thực,
-Nhu nhuyến hay thô bạo,
-Có lợi ích hay không lợi ích,
-Với từ tâm hay với sân tâm".
Các Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Ông có thể nói:
Đúng thời hay phi thời,
-Chơn thực hay không chơn thực,
-Nhu nhuyến hay thô bạo,
-Có lợi ích hay không lợi ích,
-Với từ tâm hay với sân tâm.
Các Tỷ-kheo, ở tại đây, các Ông cần phải học tập như sau:
Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm; chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ;
Chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận;
Chúng ta sẽ sống biến mãn người này với tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới, với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
Các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như vậy.

"Chư Tỷ-kheo, ví như một người đến, cầm màu sơn, màu vàng, màu xanh sẫm hay màu đỏ tía; người ấy có thể nói như sau: "Ta sẽ viết các hình sắc trên hư không này. Ta sẽ làm cho các hình sắc hiển hiện". Các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Người ấy có thể viết các hình sắc trên hư không và làm cho các hình sắc hiển hiện được không?"

"Bạch Thế Tôn, không thể được. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn, hư không là vô sắc, không thể thấy được. Ở đây, không dễ gì viết các hình sắc và làm hình sắc hiển hiện, trước khi người ấy bị mệt nhoài và bị thất bại."

"Cũng vậy, chư Tỷ-kheo, có năm loại ngôn ngữ mà các Ông có thể dùng khi nói với các người khác... Chư Tỷ-kheo, ở tại đây, các Ông cần phải học tập như sau: "Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm, chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ; chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận. Chúng ta sẽ sống biến mãn người này với tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân" Chư Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như vậy.

"Chư Tỷ-kheo, ví như một người đến, cầm một bó cỏ khô đang cháy và nói như sau: "Ta với bó cỏ khô đang cháy này sẽ hâm nóng và đun sôi sông Hằng này. Chư Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Người ấy, với bỏ cỏ khô đang cháy có thể hâm nóng và đun sôi sông Hằng được không?"

"Bạch Thế Tôn, không. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn, vì sông Hằng thâm sâu và vô lượng, không dễ gì với bó cỏ khô đang cháy có thể hâm nóng và đun sôi sông Hằng được, trước khi người ấy mệt nhoài và bị thất bại."

"Cũng vậy, chư Tỷ-kheo, có năm loại ngôn ngữ mà các Ông có thể dùng khi nói với các người khác... Chư Tỷ-kheo, ở tại đây, các Ông cần phải học tập như sau: "Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm, chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ; chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận. Chúng ta sẽ sống biến mãn người này với tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân" Chư Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như vậy.

"Chư Tỷ-kheo, ví như một cái bị bằng da mèo, đã được thuộc chín, khéo thuộc, khéo thuộc cùng khắp, nhu nhuyến, như bông, không còn tiếng xì tiếng xọp, và một người đến, cầm gậy hay cầm mẻ sành và nói như sau: "Ta sẽ lấy cái gậy hay với cái mẻ sành làm cho cái bị bằng da mèo này, đã được thuộc chín, khéo thuộc, khéo thuộc cùng khắp, nhu nhuyễn, như bông, không còn tiếng xì, tiếng xọp, phát ra tiếng xì, tiếng xọp". Chư Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Người ấy có thể, với cái gậy hay với cái mẻ sành làm cho cái bị bằng da mèo này đã được thuộc chín, khéo thuộc, khéo thuộc cùng khắp, nhu nhuyễn, như bông, không còn tiếng xì, tiếng xọp, phát ra tiếng xì, tiếng xọp được không?"

"Bạch Thế Tôn, không. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn, cái bị bằng da mèo này đã được thuộc chín, khéo thuộc, khéo thuộc cùng khắp, nhu nhuyễn, như bông, không còn tiếng xì, tiếng xọp, không dễ gì làm cho cái bị ấy phát ra tiếng xì, tiếng xọp được, trước khi người ấy bị mệt nhoài và bị thất bại."

"Cũng vậy, chư Tỷ-kheo, có năm loại ngôn ngữ mà các Ông có thể dùng khi nói với các người khác... Chư Tỷ-kheo, ở tại đây, các Ông cần phải học tập như sau: "Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm, chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ; chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận. Chúng ta sẽ sống biến mãn người này với tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân" Chư Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như vậy.

"Chư Tỷ-kheo, như những kẻ đạo tặc hạ liệt, dùng cưa hai lưỡi mà cưa tay, cưa chân; dầu vậy, nếu một ai ở đây khởi ý nhiễm loạn, người ấy do vậy không phải là người thực hành giáo pháp của Ta. Ở đây, chư Tỷ-kheo các Ông phải học tập như sau: "Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm; chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ; chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận. Chúng ta sẽ sống bao phủ người này với tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân". Chư Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như vậy.

"Và này chư Tỷ-kheo, nếu các Ông luôn luôn suy tư lời dạy ví dụ cái cưa này, thì này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy loại ngôn ngữ nào, dầu tế nhị hay thô bạo mà các Ông không kham nhẫn được chăng?"

"Bạch Thế Tôn, không."

"Chư Tỷ-kheo, do vậy, hãy luôn luôn suy tư lời dạy ví như cái cưa này, và các Ông sẽ được hạnh phúc an lạc lâu ngày."

MN   21

 

This is to be done by one skilled in aims
who wants to break through to the state of peace:
Be capable, upright, & straightforward,
easy to instruct, gentle, & not conceited,
content & easy to support,
with few duties, living lightly,
with peaceful faculties, masterful,
modest, & no greed for supporters.

Do not do the slightest thing
that the wise would later censure.

Think: Happy, at rest,
may all beings be happy at heart.
Whatever beings there may be,
weak or strong, without exception,
long, large,
middling, short,
subtle, blatant,
seen & unseen,
near & far,
born & seeking birth:
May all beings be happy at heart.

Let no one deceive another
or despise anyone anywhere,
or through anger or irritation
wish for another to suffer.

As a mother would risk her life
to protect her child, her only child,
even so should one cultivate a limitless heart
with regard to all beings.
With good will for the entire cosmos,
cultivate a limitless heart:
Above, below, & all around,
unobstructed, without hostility or hate.
Whether standing, walking,
sitting, or lying down,
as long as one is alert,
one should be resolved on this mindfulness.
This is called a sublime abiding
here & now.

Not taken with views,
but virtuous & consummate in vision,
having subdued desire for sensual pleasures,
one never again
will lie in the womb.


Khp 9

 

 

Vị thiện xảo mục đích,
Cần phải làm như sau:
Sau khi hiểu thông suốt,
Con đường an tịnh ấy,
Có khả năng trực tánh,
Thật sự, khéo chân trực,
Dễ nói và nhu hòa,
Không có gì cao mạn.
Sống cảm thấy vừa đủ,
Nuôi sống thật dễ dàng,
Ít có sự rộn ràng,
Sống đạm bạc, giản dị.
Các căn được tịnh lạc,
Khôn ngoan và thận trọng,
Không xông xáo gia đình,
Không tham ái, tham vọng.
Các hành sở của mình,
Không nhỏ nhen, vụn vặt,
Khiến người khác có trí,
Có thể sanh chỉ trích,
Mong mọi loài chúng sanh,
Ðược an lạc, an ổn,
Mong chúng chứng đạt được,
Hạnh phúc và an lạc.
Mong tất cả những ai,
Hữu tình có mạng sống,
Kẻ yếu hay kẻ mạnh,
Không bỏ sót một ai,
Kẻ dài hay kẻ lớn,
Trung thấp, loài lớn, nhỏ.
Loài được thấy, không thấy,
Loài sống xa, không xa,
Các loài hiện đang sống,
Các loài sẽ được sanh,
Mong mọi loài chúng sanh,
Sống hạnh phúc an lạc.
Mong rằng không có ai,
Lường gạt, lừa dối ai,
Không có ai khinh mạn,
Tại bất cứ chỗ nào,
Không vì giận hờn nhau,,
Không vì tưởng chống đối.
Lại có người mong muốn,
Làm đau khổ cho nhau.
Như tấm lòng người mẹ,
Ðối với con của mình,
Trọn đời lo che chở,
Con độc nhất mình sanh.
Cũng vậy, đối tất cả
Các hữu tình chúng sanh,
Hãy tu tập tâm ý,
Không hạn lượng, rộng lớn.
Hãy tu tập từ tâm,
Trong tất cả thế giới,
Hãy tu tập tâm ý,
Không hạn lượng, rộng lớn,
Phía trên và phía dưới,
Cũng vậy cả bề ngang,
Không hạn chế, trói buộc,
Không hận, không thù địch.
Khi đứng hay khi ngồi,
Khi ngồi hay khi nằm,
Lâu cho đến khi nào,
Khi đang còn tỉnh thức,
Hãy an trú niệm này,
Nếp sống này như vậy.
Ðược đời đề cập đến,
Là nếp sống tối thượng.
Ai từ bỏ tà kiến,
Giữ giới, đủ chánh kiến,
Nhiếp phục được tham ái,
Ðối với các dục vọng,
Không còn phải tái sanh,
Ði đến thai tạng nữa.

Khp 9

"Wise & mindful, you should develop immeasurable concentration [i.e., concentration based on immeasurable good will, compassion, appreciation, or equanimity]. When, wise & mindful, one has developed immeasurable concentration, five realizations arise right within oneself. Which five?

"The realization arises right within oneself that 'This concentration is blissful in the present and will result in bliss in the future.'

"The realization arises right within oneself that 'This concentration is noble & not connected with the baits of the flesh.'

"The realization arises right within oneself that 'This concentration is not obtained by base people.'

"The realization arises right within oneself that 'This concentration is peaceful, exquisite, the acquiring of serenity, the attainment of unity, not kept in place by the fabrications of forceful restraint.'

"The realization arises right within oneself that 'I enter into this concentration mindfully, and mindfully I emerge from it.'

"Wise & mindful, you should develop immeasurable concentration. When, wise & mindful, one has developed immeasurable concentration, these five realizations arise right within oneself."

AN 5.27

"Này các Tỷ-kheo, thông minh, thường niệm, hãy tu tập vô lượng định. Với ai thông minh thường niệm, tu tập vô lượng định, tự mỗi người ấy khởi lên năm trí. Thế nào là năm?

"Định này hiện tại lạc và tương lai có quả dị thục lạc, trong mỗi người, trí (như vậy) khởi lên.

"Định này thuộc bậc Thánh, không thuộc vật chất, trong mỗi người, trí (như vậy) khởi lên.

"Định này không do người ác thực hiện, trong mỗi người, trí (như vậy) khởi lên.

"Định này an tịnh, thù diệu đem đến khinh an, đạt được nhất tâm, không phải là sự chế ngự gò ép thường xuyên, trong mỗi người, trí (như vậy) khởi lên.

"An tịnh, ta nhập định này. An tịnh, ta xuất khỏi định này", trong mỗi người trí (như vậy) khởi lên.

"Này các Tỷ-kheo, thông minh, thường niệm, hãy tu tập vô lượng định. Với ai thông minh, thường niệm, hãy tu tập vô lượng định, tự mỗi người ấy, khởi lên năm trí này."

AN 5.27

"Monks, for one whose awareness-release through good will is cultivated, developed, pursued, given a means of transport, given a grounding, steadied, consolidated, and well-undertaken, eleven benefits can be expected. Which eleven?

"One sleeps easily, wakes easily, dreams no evil dreams. One is dear to human beings, dear to non-human beings. The devas protect one. Neither fire, poison, nor weapons can touch one. One's mind gains concentration quickly. One's complexion is bright. One dies unconfused and — if penetrating no higher — is headed for the Brahma worlds.

"These are the eleven benefits that can be expected for one whose awareness-release through good will is cultivated, developed, pursued, given a means of transport, given a grounding, steadied, consolidated, and well-undertaken."

AN 11.16

"Này các Tỷ-kheo, từ tâm giải thoát được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được tác thành cỗ xe, được tác thành căn cứ địa, được tiếp tục an trú, được tích tập, được khéo khởi sự thời được chờ đợi là mười một lợi ích. Thế nào là mười một ?

"Ngủ an lạc, thức an lạc, không ác mộng, được loài Người ái mộ, được phi nhân ái một, chư Thiên bảo hộ, không bị lửa, thuốc độc, kiếm xúc chạm, tâm được định mau chóng, sắc mặt trong sáng, mệnh chung không hôn ám; nếu chưa thể nhập thượng pháp (A-la-hán quả) ; được sanh lên Phạm thiên giới.

"Này các Tỷ-kheo, từ tâm giải thoát được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được tác thành cỗ xe, được tác thành căn cứ địa, được tiếp tục an trú, được tích tập, được khéo khởi sự thời được chờ đợi là mười một lợi ích."

AN 11.16

"Having abandoned the taking of life, he refrains from taking life... [the disciple of the noble ones] refrains from stealing... he refrains from illicit sex... he refrains from lies... he refrains from divisive speech... he refrains from abusive speech... he refrains from idle chatter. Having abandoned covetousness, he becomes uncovetous. Having abandoned malevolence & anger, he becomes one with a mind of no malevolence. Having abandoned wrong views, he becomes one who has right views.

 

"That disciple of the noble ones, headman — thus devoid of covetousness, devoid of malevolence, unbewildered, alert, mindful — keeps pervading the first direction [the east] with an awareness imbued with good will, likewise the second, likewise the third, likewise the fourth. Thus above, below, & all around, everywhere, in its entirety, he keeps pervading the all-encompassing cosmos with an awareness imbued with good will — abundant, expansive, immeasurable, without hostility, without malevolence. Just as a strong conch-trumpet blower can notify the four directions without any difficulty, in the same way, when awareness-release through good will is thus developed, thus pursued, any deed done to a limited extent no longer remains there, no longer stays there.

 

"That disciple of the noble ones... keeps pervading the first direction with an awareness imbued with compassion... appreciation... equanimity, likewise the second, likewise the third, likewise the fourth. Thus above, below, & all around, everywhere, in its entirety, he keeps pervading the all-encompassing cosmos with an awareness imbued with equanimity — abundant, expansive, immeasurable, without hostility, without malevolence. Just as a strong conch-trumpet blower can notify the four directions without any difficulty, in the same way, when awareness-release through equanimity is thus developed, thus pursued, any deed done to a limited extent no longer remains there, no longer stays there."

SN 42.8

 

 

"Do đoạn tận sát sanh, người ấy trở thành người không sát sanh. Do đoạn tận lấy của không cho, người ấy trở thành người không lấy của không cho. Do đoạn tận sống theo tà hạnh trong các dục, người ấy trở thành người không sống theo tà hạnh trong các dục. Do đoạn tận nói láo, người ấy trở thành người từ bỏ nói láo. Do đoạn tận nói hai lưỡi, người ấy trở thành người từ bỏ nói hai lưỡi. Do đoạn tận nói lời độc ác, người ấy trở thành người từ bỏ nói lời độc ác. Do đoạn tận lời nói phù phiếm, người ấy trở thành người từ bỏ nói lời phù phiếm. Đoạn tận tham, không có tham lam, đoạn tận sân, không có sân tâm, đoạn tận tà kiến, người ấy trở thành người theo chánh kiến.

"Này Thôn trưởng, vị Thánh đệ tử ấy từ bỏ tham, từ bỏ sân, từ bỏ si, chánh niệm, tỉnh giác, với tâm câu hữu với từ, sống biến mãn một phương. Như vậy, phương thứ hai. Như vậy, phương thứ ba. Như vậy, phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại vô biên, không hận, không sân. Ví như, này Thôn trưởng, một người lực sĩ thổi tù và (bằng con ốc), với ít mệt nhọc làm cho bốn phương được biết. Cũng vậy, này Thôn trưởng, tu tập từ tâm giải thoát như vậy, làm cho tăng trưởng như vậy, phàm nghiệp làm có hạn lượng, ở đây, sẽ không còn dư tàn; ở đây, sẽ không còn tồn tại.

"Này Thôn trưởng, vị Thánh đệ tử ấy, như vậy từ bỏ tham, từ bỏ sân, từ bỏ si, chánh niệm, tỉnh giác, với tâm câu hữu với bi... với tâm câu hữu với hỷ... với tâm câu hữu với xả, sống biến mãn một phương. Như vậy, phương thứ hai. Như vậy, phương thứ ba. Như vậy, phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới trên dưới bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại vô biên, không hận, không sân. Ví như, này Thôn trưởng, một người lực sĩ thổi tù và, với ít mệt nhọc làm cho bốn phương được biết. Cũng vậy, này Thôn trưởng, tu tập xả tâm giải thoát như vậy, làm cho tăng trưởng như vậy, phàm nghiệp làm có hạn lượng, ở đây, sẽ không còn dư tàn; ở đây, sẽ không còn tồn tại."

SN 42.8

"Monks, I don't speak of the wiping out of intentional acts that have been done & accumulated without [their results] having been experienced, either in the here & now or in a further state hereafter. Nor do I speak of the act of putting an end to suffering and stress without having experienced [the results of] intentional acts that have been done & accumulated.1

"That disciple of the noble ones — thus devoid of covetousness, devoid of ill will, unbewildered, alert, mindful — keeps pervading the first direction [the east] with an awareness imbued with good will, likewise the second, likewise the third, likewise the fourth. Thus above, below, & all around, everywhere, in its entirety, he keeps pervading the all-encompassing cosmos with an awareness imbued with good will — abundant, expansive, immeasurable, without hostility, without ill will. He discerns, 'Before, this mind of mine was limited & undeveloped. But now this mind of mine is immeasurable & well developed. And whatever action that was done in a measurable way does not remain there, does not linger there.'

"What do you think, monks: If that youth, from childhood, were to develop awareness-release through good will, would he do any evil action?"

"No, lord."

"Not doing any evil action, would he touch suffering?"

"No, lord, for when one does no evil action, from where would he touch suffering?"

"This awareness-release through good will should be developed whether one is a woman or a man. Neither a woman nor a man can go taking this body along. Death, monks, is but a gap of a thought away. One [who practices this awareness-release] discerns, 'Whatever evil action has been done by this body born of action, that will all be experienced here [in this life]. It will not come to be hereafter.' Thus developed, awareness-release through good will leads to non-returning for the monk who has gained gnosis here and has penetrated to no higher release.

 

"That disciple of the noble ones — thus devoid of covetousness, devoid of ill will, unbewildered, alert, mindful — keeps pervading the first direction [the east] with an awareness imbued with compassion...

"That disciple of the noble ones — thus devoid of covetousness, devoid of ill will, unbewildered, alert, mindful — keeps pervading the first direction [the east] with an awareness imbued with appreciation...

"That disciple of the noble ones — thus devoid of covetousness, devoid of ill will, unbewildered, alert, mindful — keeps pervading the first direction [the east] with an awareness imbued with equanimity, likewise the second, likewise the third, likewise the fourth. Thus above, below, & all around, everywhere, in its entirety, he keeps pervading the all-encompassing cosmos with an awareness imbued with equanimity — abundant, expansive, immeasurable, without hostility, without ill will. He discerns, 'Before, this mind of mine was limited & undeveloped. But now this mind of mine is immeasurable & well developed. And whatever action that was done in a measurable way does not remain there, does not linger there.'

 

 

 

 

 

 

"What do you think, monks: If that youth, from childhood, were to develop awareness-release through equanimity, would he do any evil action?"

"No, lord."

"Not doing any evil action, would he touch suffering?"

"No, lord, for when one does no evil action, from where would he touch suffering?"

"This awareness-release through equanimity should be developed whether one is a woman or a man. Neither a woman nor a man can go taking this body along. Death, monks, is but a gap of a thought away. One [who practices this awareness-release] discerns, 'Whatever evil action has been done by this body born of action, that will all be experienced here [in this life]. It will not come to be hereafter.' Thus developed, awareness-release through equanimity leads to non-returning for the monk who has gained gnosis here and has penetrated to no higher release."

AN 10.208

 

"Ta không tuyên bố rằng, này các Tỷ-kheo, các nghiệp được tư niệm, được làm, được tích tập, nếu không cảm thọ (kết quả) thời không có chấm dứt, dầu quả ấy thuộc trong đời hiện tại, hay trong đời sau. Ta cũng không tuyên bố rằng, này các Tỷ-kheo, các nghiệp được tư niệm, được làm, được tích tập, nếu không cảm thọ (kết quả) thời không có chấm dứt.

 

 

"Vị Thánh đệ tử ấy, này các Tỷ-kheo, như vậy từ bỏ tham, từ bỏ sân, từ bỏ si, tỉnh giác, chánh niệm, với tâm câu hữu với từ, an trú biến mãn một phương ; cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư, như vậy phía trên, phía dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Vị ấy biết rõ như sau : "Trước kia, tâm này của ta là nhỏ, không tu tập. Nhưng nay, tâm này của ta là vô lượng, khéo tu tập. Lại nữa, phàm nghiệp gì được làm có giới hạn, nay nó sẽ không sống trong giới hạn ấy nữa.

"Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, nếu đứa trẻ này, từ tuổi trẻ trở lên tu tập từ tâm giải thoát, nó có thể làm nghiệp ác không ?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Do không làm điều ác, nó có cảm giác khổ hay không ?
- Thưa không, bạch Thế Tôn. Không làm điều ác, bạch Thế Tôn, từ đâu nó sẽ cảm giác khổ được ?

"Này các Tỷ-kheo, từ tâm giải thoát này cần phải tu tập bởi nữ nhân hay nam nhân. Này các Tỷ-kheo, thân này không bị nam nhân hay nữ nhân cầm lấy rồi mang đi. Này các Tỷ-kheo, con đường phải chết này ở giữa những tư tưởng. Vị ấy rõ biết như sau : "Phàm ác nghiệp nào do ta làm từ trước với cái thân do nghiệp làm ra này, tất cả cần phải cảm thọ ở đây, nó không thể theo ta và được hiện hữu về sau". Như vậy, này các Tỷ-kheo, từ tâm giải thoát được tu tập đưa đến không có trở lui, đối với Tỷ-kheo có trí tuệ, có được trong đời này, nhưng vị ấy chưa thể nhập sự giải thoát hơn thế nữa.

Vị Thánh đệ tử ấy, này các Tỷ-kheo, với tâm câu hữu với bi, vị ấy biến mãn một phương và an trú, như vậy phương thứ hai, như vậy phương thứ ba, như vậy phương thứ tư. Như vậy phía trên, phía dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với bi, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Vị ấy biết rõ như sau : "Trước kia, tâm này của ta là nhỏ, không tu tập. Nhưng nay, tâm này của ta là vô lượng, khéo tu tập. Lại nữa, phàm nghiệp gì được làm có giới hạn, nay nó sẽ không sống trong giới hạn ấy nữa".

Vị Thánh đệ tử ấy, này các Tỷ-kheo, với tâm cầu hữu với hỷ, vị ấy biến mãn một phương và an trú, như vậy phương thứ hai, như vậy phương thứ ba, như vậy phương thứ tư. Như vậy phía trên, phía dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với hỷ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Vị ấy biết rõ như sau : "Trước kia, tâm này của ta là nhỏ, không tu tập. Nhưng nay, tâm này của ta là vô lượng, khéo tu tập. Lại nữa, phàm nghiệp gì được làm có giới hạn, nay nó sẽ không sống trong giới hạn ấy nữa".

Vị Thánh đệ tử ấy, này các Tỷ-kheo, với tâm câu hữu với xả, vị ấy biến mãn một phương và an trú, như vậy phương thứ hai, như vậy phương thứ ba, như vậy phương thứ tư. Như vậy phía trên, phía dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Vị ấy biết rõ như sau : "Trước kia, tâm này của ta là nhỏ, không tu tập. Nhưng nay, tâm này của ta là vô lượng, khéo tu tập. Lại nữa, phàm nghiệp gì được làm có giới hạn, nay nó sẽ không sống trong giới hạn ấy nữa".

 

Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, nếu đứa trẻ này, từ tuổi trẻ trở lên tu tập xả tâm giải thoát, nó có thể làm nghiệp ác không ?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Do không làm điều ác, nó có cảm giác khổ hay không ?
- Thưa không, bạch Thế Tôn. Không làm điều ác, bạch Thế Tôn, từ đâu nó sẽ cảm giác khổ được.

 

"Này các Tỷ-kheo, xả tâm giải thoát này cần phải tu tập bởi nữ nhân hay nam nhân. Này các Tỷ-kheo, thân này không bị nam nhân hay nữ nhân cầm lấy rồi đem đi. Này các Tỷ-kheo, con người phải chết này ở giữa những tư tưởng. Vị ấy rõ biết như sau : "Phàm ác nghiệp nào do ta làm từ trước với cái thân do nghiệp làm ra này, tất cả cần phải cảm thọ ở đây, nó không thể theo và được hiện hữu về sau". Như vậy, này các Tỷ-kheo, xả tâm này được tu tập, đưa đến không có trở lui, đối với Tỷ-kheo có trí tuệ, có được trong đời này, nhưng vị ấy chưa thể nhập sự giải thoát hơn thế nữa."

AN 10.208

Notes

1.
F. L. Woodward — the PTS translator of the Anguttara Tens and Elevens — notes that this sutta seems patched together from various sources. As proof, he cites the abrupt breaks between this paragraph and the next, and between the next and the one following it.

999

 

"Monks, for anyone who says, 'In whatever way a person makes kamma, that is how it is experienced,' there is no living of the holy life, there is no opportunity for the right ending of stress. But for anyone who says, 'When a person makes kamma to be felt in such & such a way, that is how its result is experienced,' there is the living of the holy life, there is the opportunity for the right ending of stress.

 

 

"There is the case where a trifling evil deed done by a certain individual takes him to hell. There is the case where the very same sort of trifling deed done by another individual is experienced in the here & now, and for the most part barely appears for a moment.

 

"Now, a trifling evil deed done by what sort of individual takes him to hell? There is the case where a certain individual is undeveloped in [contemplating] the body, undeveloped in virtue, undeveloped in mind, undeveloped in discernment: restricted, small-hearted, dwelling with suffering. A trifling evil deed done by this sort of individual takes him to hell.

 

"Now, a trifling evil deed done by what sort of individual is experienced in the here & now, and for the most part barely appears for a moment? There is the case where a certain individual is developed in [contemplating] the body, developed in virtue, developed in mind, developed in discernment: unrestricted, large-hearted, dwelling with the immeasurable [awareness-release]. A trifling evil deed done by this sort of individual is experienced in the here & now, and for the most part barely appears for a moment.

 

 

"Suppose that a man were to drop a salt crystal into a small amount of water in a cup. What do you think? Would the water in the cup become salty because of the salt crystal, and unfit to drink?"

"Yes, lord. Why is that? There being only a small amount of water in the cup, it would become salty because of the salt crystal, and unfit to drink."

 

"Now suppose that a man were to drop a salt crystal into the River Ganges. What do you think? Would the water in the River Ganges become salty because of the salt crystal, and unfit to drink?"

"No, lord. Why is that? There being a great mass of water in the River Ganges, it would not become salty because of the salt crystal or unfit to drink."

"In the same way, there is the case where a trifling evil deed done by one individual [the first] takes him to hell; and there is the case where the very same sort of trifling deed done by the other individual is experienced in the here & now, and for the most part barely appears for a moment...

 

"There is the case where a certain person is thrown into jail for half a dollar (kahapana), is thrown into jail for a dollar, is thrown into jail for one hundred dollars. And there is the case where another person is not thrown into jail for half a dollar, is not thrown into jail for a dollar, is not thrown into jail for one hundred dollars. Now what sort of person is thrown into jail for half a dollar... for a dollar... for one hundred dollars? There is the case where a person is poor, of little wealth, of few possessions. This is the sort of person who is thrown into jail for half a dollar... for a dollar... for one hundred dollars. And what sort of person is not thrown into jail for half a dollar... for a dollar... for one hundred dollars? There is the case where a person is wealthy, with many belongings, many possessions. This is the sort of person who is not thrown into jail for half a dollar... for a dollar... for one hundred dollars.

 

 

"In the same way, there is the case where a trifling evil deed done by one individual takes him to hell; and there is the case where the very same sort of trifling deed done by the other individual is experienced in the here & now, and for the most part barely appears for a moment...

"It's just as when a goat butcher is empowered to beat or bind or slay or treat as he likes a certain person who steals a goat, but is not empowered to beat or bind or slay or treat as he likes another person who steals a goat. Now, when what sort of person has stolen a goat is the goat butcher empowered to beat him or bind him or slay him or treat him as he likes? There is the case where a person is poor, of little wealth, of few possessions. This is the sort of person who, when he has stolen a goat, the goat butcher is empowered to beat or bind or slay or treat as he likes. And when what sort of person has stolen a goat is the goat butcher not empowered to beat him or bind him or slay him or treat him as he likes? There is the case where a person is wealthy, with many belongings, many possessions; a king or a king's minister. This is the sort of person who, when he has stolen a goat, the goat butcher is not empowered to beat or bind or slay or treat as he likes. All he can do is go with his hands clasped before his heart and beg: 'Please, dear sir, give me a goat or the price of a goat.'

 

 

 

 

"In the same way, there is the case where a trifling evil deed done by one individual takes him to hell; and there is the case where the very same sort of trifling deed done by the other individual is experienced in the here & now, and for the most part barely appears for a moment.

 

"Now, a trifling evil deed done by what sort of individual takes him to hell? There is the case where a certain individual is undeveloped in [contemplating] the body, undeveloped in virtue, undeveloped in mind, undeveloped in discernment: restricted, small-hearted, dwelling with suffering. A trifling evil deed done by this sort of individual takes him to hell.

 

"Now, a trifling evil deed done by what sort of individual is experienced in the here & now, and for the most part barely appears for a moment? There is the case where a certain individual is developed in [contemplating] the body, developed in virtue, developed in mind, developed in discernment: unrestricted, large-hearted, dwelling with the immeasurable [awareness-release]. A trifling evil deed done by this sort of individual is experienced in the here & now, and for the most part barely appears for a moment.

 

"Monks, for anyone who says, 'In whatever way a person makes kamma, that is how it is experienced,' there is no living of the holy life, there is no opportunity for the right ending of stress. But for anyone who says, 'When a person makes kamma to be felt in such & such a way, that is how its result is experienced,' there is the living of the holy life, there is the opportunity for the right ending of stress."

AN 3.99

 

 

 

Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo, :
-"Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy". Nếu sự kiện là vậy, này các Tỷ-kheo, thời không có đời sống Phạm hạnh, không có cơ hội để nêu rõ đau khổ được nêu rõ chơn chánh đoạn diệt. Và này các Tỷ-kheo, ai nói như sau : "Người này làm nghiệp được cảm thọ như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ quả dị thục như vậy, như vậy". Nếu sự kiện là vậy, này các Tỷ-kheo, thời có đời sống Phạm hạnh, có cơ hội để nêu rõ đau khổ được nêu rõ chơn chánh đoạn diệt.

"Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người làm nghiệp ác nhỏ mọn, và nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa ngục. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tợ, và nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút ít cũng không thấy được (trong đời sau), nói gì là nhiều.

Hạng người như thế nào, này các Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn, và nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa ngục ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập, hạn hẹp, tự ngã nhỏ nhen, sống chịu khổ ít oi. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, làm nghiệp ác nhỏ mọn, và nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa ngục.

"Hạng người như thế nào, này các Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tợ, và nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút ít cũng không thấy được (trong đời sau), nói gì là nhiều ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người thân được tu tập, giới được tu tập, tâm được tu tập, tuệ được tu tập, hạn hẹp, tự ngã to lớn, sống đời vô lượng. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tợ, và nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút ít cũng không thấy được (trong đời sau), nói gì là nhiều.

-"Ví như, này các Tỷ-kheo, có người bỏ một nắm muối vào trong một chén nước nhỏ. Các Thầy nghĩ như thế nào, này các Tỷ-kheo, nước trong chén ấy có vì nắm muối trở thành mặn và không uống được phải không ?"
- "Thưa đúng vậy, bạch Thế Tôn. Vì cớ sao ? Nước trong chén nhỏ này là ít, do nắm muối này, nước trở thành mặn, không uống được."

 

-" Ví như, này các Tỷ-kheo, có người bỏ một nắm muối vào sông Hằng. Các Thầy nghĩ như thế nào, này các Tỷ-kheo, sông Hằng có vì nắm muối trở thành mặn và không uống được phải không ?"
-" Thưa không, bạch Thế Tôn. Vì cớ sao ? Lớn là cả khối nước sông Hằng. Khối nước ấy không vì nắm muối này, nước trở thành mặn và không uống được."

"Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây, có người làm nghiệp ác nhỏ mọn, và nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa ngục. Ở đây, có người làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tợ, và nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút ít cũng không thấy được (trong đời sau), nói gì là nhiều.

"Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người bị tù tội vì nửa đồng tiền, bị tù tội vì một đồng tiền, bị tù tội vì một trăm đồng tiền. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, có người không bị tù tội vì nửa đồng tiền, không bị tù tội vì một đồng tiền, không bị tù tội vì một trăm đồng tiền. Như thế nào, này các Tỷ-kheo, bị tù tội vì nửa đồng tiền, bị tù tội vì một đồng tiền, bị tù tội vì một trăm đồng tiền ?
-Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người nghèo khổ, ít sở hữu, ít tài sản. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, có người bị tù tội vì nửa đồng tiền, bị tù tội vì một đồng tiền, bị tù tội vì một trăm đồng tiền. Như thế nào, này các Tỷ-kheo, không bị tù tội vì nửa đồng tiền, không bị tù tội vì một đồng tiền, không bị tù tội vì một trăm đồng tiền ?
-Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người giàu có, có tiền của lớn, có tài sản lớn. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, không bị tù tội vì nửa đồng tiền, không bị tù tội vì một đồng tiền, không bị tù tội vì một trăm đồng tiền.

"Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây có người làm nghiệp ác nhỏ mọn, nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa ngục. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tự, nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút ít cũng không thấy được, còn nói gì là nhiều.

"Ví dụ một người đồ tể hay người giết dê, này các Tỷ-kheo, đối với một số người đánh cắp dê, có thể giết hay trói, hay tịch thu tài sản, hay làm như ý muốn. Đối với một số người cũng đánh cắp dê, không có thể giết, không có thể trói, không có thể tịch thu tài sản, hay không có thể làm như ý muốn. Như thế nào, này các Tỷ-kheo, người đồ tể hay người giết dê, đối với một số người đánh cắp dê, có thể giết, có thể trói, có thể tịch thu tài sản, hay có thể làm như ý người ấy muốn ?
-Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người nghèo khổ, ít sở hữu tài sản. Kẻ đồ tể hay người giết dê, đối với kẻ đánh cắp dê như vậy có thể giết, hay trói, hay có thể tịch thu tài sản, hay có thể làm như ý người ấy muốn. Như thế nào, này các Tỷ-kheo, người đồ tể hay người giết dê, đối với kẻ đánh cắp dê như vậy không có thể giết, không có thể trói, không có thể tịch thu tài sản, hay không có thể làm như ý muốn ?
-Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người giàu có, có sở hữu lớn, hay nhà vua, hay đại thần của nhà vua. Người đồ tể hay người giết dê, đối với kẻ đánh cắp dê như vậy không có thể giết, không có thể trói, không có thể tịch thu tài sản, hay không có thể làm như ý người ấy muốn. Không có gì phải làm khác hơn là chắp tay và cầu xin như sau : "Thưa ngài, hãy cho con lại con dê hay giá tiền con dê".

"Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây, đối với một số người có làm nghiệp ác nhỏ mọn, và nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa ngục. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, đối với một số người làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tự, và nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút ít cũng không thấy được, còn nói gì là nhiều.

"Hạng người như thế nào, này các Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn, và nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa ngục ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người có người thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập, hạn hẹp, tự ngã nhỏ nhen, sống chịu khổ ít oi. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, làm nghiệp ác nhỏ mọn. nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa ngục.

"Hạng người như thế nào, này các Tỷ-kheo, có người làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tự, nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút ít cũng không thấy được, còn nói gì là nhiều ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người thân được tu tập, giới được tu tập, tâm được tu tập, tuệ được tu tập, không có hạn hẹp, tự ngã to lớn, đời sống vô lượng. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tự, nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút ít cũng không thấy được, còn nói gì là nhiều.

"Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo : "Người này làm nghiệp ác như thế nào, như thế nào người ấy sẽ cảm thọ (quả) như vậy, như vậy". Nếu sự kiện là vậy, này các Tỷ-kheo, thời không có đời sống Phạm hạnh, không có cơ hội để nêu rõ đau khổ được chơn chánh đoạn diệt. Và này các Tỷ-kheo, có ai nói như sau : "Người này làm nghiệp ác như thế nào, như thế nào người ấy sẽ cảm thọ quả dị thục như vậy, như vậy". Nếu sự kiện là vậy, này các Tỷ-kheo, thời có đời sống Phạm hạnh, có cơ hội để nêu rõ đau khổ được chơn chánh đoạn diệt."

AN 3.99

"There is the case where a monk might say, 'Although good will has been developed, pursued, handed the reins, taken as a basis, steadied, consolidated, and well-undertaken by me as my awareness-release, still ill will keeps overpowering my mind.' He should be told, 'Don't say that. You shouldn't speak in that way. Don't misrepresent the Blessed One, for it's not right to misrepresent the Blessed One, and the Blessed One wouldn't say that. It's impossible, there is no way that — when good will has been developed, pursued, handed the reins, taken as a basis, steadied, consolidated, and well-undertaken as an awareness-release — ill will would still keep overpowering the mind. That possibility doesn't exist, for this is the escape from ill will: good will as an awareness-release.'

"Furthermore, there is the case where a monk might say, 'Although compassion has been developed, pursued, handed the reins, taken as a basis, steadied, consolidated, and well-undertaken by me as my awareness-release, still viciousness keeps overpowering my mind.' He should be told, 'Don't say that. You shouldn't speak in that way. Don't misrepresent the Blessed One, for it's not right to misrepresent the Blessed One, and the Blessed One wouldn't say that. It's impossible, there is no way that — when compassion has been developed, pursued, handed the reins, taken as a basis, steadied, consolidated, and well-undertaken as an awareness-release — viciousness would still keep overpowering the mind. That possibility doesn't exist, for this is the escape from viciousness: compassion as an awareness-release.'

"Furthermore, there is the case where a monk might say, 'Although appreciation has been developed, pursued, handed the reins, taken as a basis, steadied, consolidated, and well-undertaken by me as my awareness-release, still resentment keeps overpowering my mind.' He should be told, 'Don't say that. You shouldn't speak in that way. Don't misrepresent the Blessed One, for it's not right to misrepresent the Blessed One, and the Blessed One wouldn't say that. It's impossible, there is no way that — when appreciation has been developed, pursued, handed the reins, taken as a basis, steadied, consolidated, and well-undertaken as an awareness-release — resentment would still keep overpowering the mind. That possibility doesn't exist, for this is the escape from resentment: appreciation as an awareness-release.'

"Furthermore, there is the case where a monk might say, 'Although equanimity has been developed, pursued, handed the reins, taken as a basis, steadied, consolidated, and well-undertaken by me as my awareness-release, still passion keeps overpowering my mind.' He should be told, 'Don't say that. You shouldn't speak in that way. Don't misrepresent the Blessed One, for it's not right to misrepresent the Blessed One, and the Blessed One wouldn't say that. It's impossible, there is no way that — when equanimity has been developed, pursued, handed the reins, taken as a basis, steadied, consolidated, and well-undertaken as an awareness-release — passion would still keep overpowering the mind. That possibility doesn't exist, for this is the escape from passion: equanimity as an awareness-release.'"

AN 6.13

 

"Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nói như sau : "Ta đã tu từ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, sân tâm vẫn ngự trị tâm ta". Vị ấy cần phải được nói như sau : "Chớ có như vậy, Hiền giả chớ có nói như vậy. Chớ có xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn như vậy không tốt. Thế Tôn không nói như vậy. Này Hiền giả, sự kiện không phải như vậy, trường hợp không phải như vậy. Ai tu tập từ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, sân tâm vẫn ngự trị, an trú ; sự kiện như vậy không xảy ra, này Hiền giả, cái này có khả năng giải thoát sân tâm, tức là từ tâm giải thoát".

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo nói như sau : "Ta đã tu tập, bi tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, hại tâm vẫn ngự trị tâm ta". Vị ấy cần phải được nói như sau : "Chớ có như vậy, Hiền giả chớ có nói như vậy. Chớ có xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn như vậy không tốt. Thế Tôn không nói như vậy. Này Hiền giả, sự kiện không phải như vậy. Trường hợp không phải như vậy. Ai tu tập bi tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, hại tâm vẫn ngự trị, an trú ; sự kiện không xảy ra như vậy. Này Hiền giả, cái này có khả năng giải thoát hạt tâm, tức là bi tâm giải thoát".

"Này các Tỷ-kheo, ở đây vị Tỷ-kheo nói như sau : "Ta đã tu tập hỷ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, bất lạc tâm vẫn ngự trị tâm ta". Vị ấy cần phải được nói như sau : "Chớ có như vậy. Hiền giả chớ nói như vậy. Chớ có xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn như vậy thật không tốt. Thế Tôn không nói như vậy. Trường hợp không phải như vậy. Nếu tu tập hỷ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, bất lạc tâm vẫn ngự trị, an trú ; sự kiện không xảy ra như vậy. Này Hiền giả, cái này có khả năng giải thoát bất lạc tâm, tức là hỷ tâm giải thoát".

 

"Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo nói như sau : "Ta đã tu tập xả tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, tham tâm vẫn ngự trị tâm ta". Vị ấy cần được nói : "Chớ có như vậy, Hiền giả chớ nói như vậy. Chớ có xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn như vậy thật không tốt. Thế Tôn không nói như vậy. Này Hiền giả, sự kiện không phải như vậy. Trường hợp không phải như vậy. Nếu tu tập xả tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, tham tâm vẫn ngự trị an trú ; sự kiện không xảy ra như vậy. Này Hiền giả, cái này có khả năng giải thoát tham tâm, tức là xả tâm giải thoát".

AN 6.13

"And how is awareness-release through good will developed, what is its destiny, what is its excellence, its reward, & its consummation?

"There is the case where a monk develops mindfulness as a factor for Awakening accompanied by good will, dependent on seclusion... dispassion... cessation, resulting in letting go. He develops analysis of qualities as a factor for Awakening... persistence as a factor for Awakening... rapture as a factor for Awakening... serenity as a factor for Awakening... concentration as a factor for Awakening... equanimity as a factor for Awakening accompanied by good will, dependent on seclusion... dispassion... cessation, resulting in letting go. If he wants, he remains percipient of loathsomeness in the presence of what is not loathsome. If he wants, he remains percipient of unloathsomeness in the presence of what is loathsome. If he wants, he remains percipient of loathsomeness in the presence of what is not loathsome & what is. If he wants, he remains percipient of unloathsomeness in the presence of what is loathsome & what is not. If he wants — in the presence of what is loathsome & what is not — cutting himself off from both, he remains equanimous, alert, & mindful. Or he may enter & remain in the beautiful liberation. I tell you, monks, awareness-release through good will has the beautiful as its excellence — in the case of one who has penetrated to no higher release.

"And how is awareness-release through compassion developed, what is its destiny, what is its excellence, its reward, & its consummation?

"There is the case where a monk develops mindfulness as a factor for Awakening accompanied by compassion... etc... If he wants — in the presence of what is loathsome & what is not — cutting himself off from both, he remains equanimous, alert, & mindful. Or, with the complete transcending of perceptions of [physical] form, with the disappearance of perceptions of resistance, and not heeding perceptions of diversity, [perceiving,] 'Infinite space,' he enters & remains in the sphere of the infinitude of space. I tell you, monks, awareness-release through compassion has the sphere of the infinitude of space as its excellence — in the case of one who has penetrated to no higher release.

"And how is awareness-release through appreciation developed, what is its destiny, what is its excellence, its reward, & its consummation?

"There is the case where a monk develops mindfulness as a factor for Awakening accompanied by appreciation... etc... If he wants — in the presence of what is loathsome & what is not — cutting himself off from both, he remains equanimous, alert, & mindful. Or, with the complete transcending of the sphere of infinitude of space, thinking 'Infinite consciousness,' he enters & remains in the sphere of the infinitude of consciousness. I tell you, monks, awareness-release through appreciation has the sphere of the infinitude of consciousness as its excellence — in the case of one who has penetrated to no higher release.

"And how is awareness-release through equanimity developed, what is its destiny, what is its excellence, its reward, & its consummation?

"There is the case where a monk develops mindfulness as a factor for Awakening accompanied by equanimity... etc... If he wants — in the presence of what is loathsome & what is not — cutting himself off from both, he remains equanimous, alert, & mindful. Or, with the complete transcending of the sphere of infinitude of consciousness, thinking 'There is nothing,' he enters & remains in the sphere of nothingness. I tell you, monks, awareness-release through equanimity has the sphere of nothingness as its excellence — in the case of one who has penetrated to no higher release."

— SN 46.54

 

 

 

"There is the case where an individual keeps pervading the first direction [the east] — as well as the second direction, the third, & the fourth — with an awareness imbued with good will. Thus he keeps pervading above, below, & all around, everywhere & in every respect the all-encompassing cosmos with an awareness imbued with good will: abundant, expansive, immeasurable, free from hostility, free from ill will. He savors that, longs for that, finds satisfaction through that. Staying there — fixed on that, dwelling there often, not falling away from that — then when he dies he reappears in conjunction with the devas of Brahma's retinue. The devas of Brahma's retinue, monks, have a life-span of an eon. A run-of-the-mill person having stayed there, having used up all the life-span of those devas, goes to hell, to the animal womb, to the state of the hungry shades. But a disciple of the Blessed One, having stayed there, having used up all the life-span of those devas, is unbound right in that state of being. This, monks, is the difference, this the distinction, this the distinguishing factor, between an educated disciple of the noble ones and an uneducated run-of-the-mill person, when there is a destination, a reappearing.

"Again, there is the case where an individual keeps pervading the first direction [the east] — as well as the second direction, the third, & the fourth — with an awareness imbued with compassion.... Staying there — fixed on that, dwelling there often, not falling away from that — then when he dies he reappears in conjunction with the Abhassara (Radiant) devas.1 The Abhassara devas, monks, have a life-span of two eons. A run-of-the-mill person having stayed there, having used up all the life-span of those devas, goes to hell, to the animal womb, to the state of the hungry shades. But a disciple of the Blessed One, having stayed there, having used up all the life-span of those devas, is unbound right in that state of being. This, monks, is the difference, this the distinction, this the distinguishing factor, between an educated disciple of the noble ones and an uneducated run-of-the-mill person, when there is a destination, a reappearing.2

 

 

"Again, there is the case where an individual keeps pervading the first direction [the east] — as well as the second direction, the third, & the fourth — with an awareness imbued with appreciation.... Staying there — fixed on that, dwelling there often, not falling away from that — then when he dies he reappears in conjunction with the Subhakinha (Beautiful Black) devas. The Subhakinha devas, monks, have a life-span of four eons. A run-of-the-mill person having stayed there, having used up all the life-span of those devas, goes to hell, to the animal womb, to the state of the hungry shades. But a disciple of the Blessed One, having stayed there, having used up all the life-span of those devas, is unbound right in that state of being. This, monks, is the difference, this the distinction, this the distinguishing factor, between an educated disciple of the noble ones and an uneducated run-of-the-mill person, when there is a destination, a reappearing.

 

 

 

"Again, there is the case where an individual keeps pervading the first direction [the east] — as well as the second direction, the third, & the fourth — with an awareness imbued with equanimity. Thus he keeps pervading above, below, & all around, everywhere & in every respect the all-encompassing cosmos with an awareness imbued with equanimity: abundant, expansive, immeasurable, free from hostility, free from ill will. He savors that, longs for that, finds satisfaction through that. Staying there — fixed on that, dwelling there often, not falling away from that — then when he dies he reappears in conjunction with the Vehapphala (Sky-fruit) devas. The Vehapphala devas, monks, have a life-span of 500 eons. A run-of-the-mill person having stayed there, having used up all the life-span of those devas, goes to hell, to the animal womb, to the state of the hungry shades. But a disciple of the Blessed One, having stayed there, having used up all the life-span of those devas, is unbound right in that state of being. This, monks, is the difference, this the distinction, this the distinguishing factor, between an educated disciple of the noble ones and an uneducated run-of-the-mill person, when there is a destination, a reappearing."

AN 4.125

"Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người với tâm, cùng khởi với từ, biến mãn một phương rồi an trú; cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư, như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới. Vị ấy an trú biến mãn với tâm cùng khởi với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Vị ấy nếm được vị ngọt của Thiền ấy, ái luyến Thiền ấy và do vậy tìm được an lạc; an trú trên ấy, chú tâm trên ấy, sống phần lớn với Thiền ấy, không có thối đọa; khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên ở cõi Phạm chúng Thiên. Tại đấy, kẻ phàm phu, sau khi an trú cho đến hết tuổi thọ ấy, sau khi sống trọn vẹn tuổi thọ của chư Thiên, đi đến địa ngục, đi đến bàng sanh, đi đến ngạ quỷ. Còn đệ tử Như Lai, tại đấy, sau khi an trú cho đến hết vẹn tuổi thọ của chư Thiên ấy, nhập Niết-bàn trong hiện hữu ấy. Này các Tỷ-kheo, đây là sự đặc thù, đây là sự thù thắng, đây là sự sai khác giữa Thánh đệ tử có nghe pháp và kẻ phàm phu không nghe pháp, tức là vấn đề sanh thú.

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có hạng người với tâm cùng khởi với bi, biến mãn một phương rồi an trú; cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư, như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới. Vị ấy an trú biến mãn với tâm cùng khởi với bi, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Vị ấy nếm được vị ngọt của Thiền ấy, ái luyến Thiền ấy và do vậy tìm được an lạc; an trú trên ấy, chú tâm trên ấy, sống phần lớn với Thiền ấy, không có thối đọa; khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên ở cõi Quang âm Thiên. Hai Đại kiếp, này các Tỷ-kheo, là thọ mạng của các chư Thiên ở Quang âm Thiên. Tại đấy, kẻ phàm phu, sau khi an trú cho đến hết tuổi thọ ấy, sau khi sống trọn vẹn tuổi thọ của chư Thiên, đi đến địa ngục, đi đến bàng sanh, đi đến ngạ quỷ. Còn đệ tử Như Lai, tại đấy, sau khi an trú cho đến hết vẹn tuổi thọ của chư Thiên ấy, nhập Niết-bàn trong hiện hữu ấy. Này các Tỷ-kheo, đây là sự đặc thù, đây là sự thù thắng, đây là sự sai khác giữa Thánh đệ tử có nghe pháp và kẻ phàm phu không nghe pháp, tức là vấn đề sanh thú.

"Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người với tâm, cùng khởi với hỷ, biến mãn một phương rồi an trú; cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư, như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới. Vị ấy an trú biến mãn với tâm cùng khởi với hỷ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Vị ấy nếm được vị ngọt của Thiền ấy, ái luyến Thiền ấy và do vậy tìm được an lạc; an trú trên ấy, chú tâm trên ấy, sống phần lớn với Thiền ấy, không có thối đọa; khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên ở cõi Biến tịnh Thiên . Bốn Đại kiếp, này các Tỷ-kheo, là thọ mạng của các chư Thiên ở cõi Biến tịnh Thiên . Tại đấy, kẻ phàm phu, sau khi an trú cho đến hết tuổi thọ ấy, sau khi sống trọn vẹn tuổi thọ của chư Thiên, đi đến địa ngục, đi đến bàng sanh, đi đến ngạ quỷ. Còn đệ tử Như Lai, tại đấy, sau khi an trú cho đến hết vẹn tuổi thọ của chư Thiên ấy, nhập Niết-bàn trong hiện hữu ấy. Này các Tỷ-kheo, đây là sự đặc thù, đây là sự thù thắng, đây là sự sai khác giữa Thánh đệ tử có nghe pháp và kẻ phàm phu không nghe pháp, tức là vấn đề sanh thú.

"Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người với tâm, cùng khởi với xả, biến mãn một phương rồi an trú; cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư, như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới. Vị ấy an trú biến mãn với tâm cùng khởi với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Vị ấy nếm được vị ngọt của Thiền ấy, ái luyến Thiền ấy và do vậy tìm được an lạc; an trú trên ấy, chú tâm trên ấy, sống phần lớn với Thiền ấy, không có thối đọa; khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên ở cõi Quảng quả Thiên. Năm trăm Đại kiếp, này các Tỷ-kheo, là thọ mạng của các chư Thiên ở cõi Quảng quả Thiên. Tại đấy, kẻ phàm phu, sau khi an trú cho đến hết tuổi thọ ấy, sau khi sống trọn vẹn tuổi thọ của chư Thiên, đi đến địa ngục, đi đến bàng sanh, đi đến ngạ quỷ. Còn đệ tử Như Lai, tại đấy, sau khi an trú cho đến hết vẹn tuổi thọ của chư Thiên ấy, nhập Niết-bàn trong hiện hữu ấy. Này các Tỷ-kheo, đây là sự đặc thù, đây là sự thù thắng, đây là sự sai khác giữa Thánh đệ tử có nghe pháp và kẻ phàm phu không nghe pháp, tức là vấn đề sanh thú."

AN 4.125

 

Notes

1.
The Abhassara, Subhakinha, and Vehapphala devas are all Brahmas on the level of form.
2.
This sutta, read in conjunction with AN 4.123, has given rise to the belief that the development of good will as an immeasurable state can lead only to the first jhana, and that the next two immeasurable states — compassion and appreciation — can lead, respectively, only to the second and third jhanas. However, as AN 8.63 shows below, all four immeasurable states can lead all the way to the fourth jhana. The difference between that discourse and this lies in how the person practicing these states relates to them. In that sutta, the person deliberately uses the state as a basis for developing all the jhanas. In this sutta, the person simply enjoys the state and remains in it.

 

 

 

 

999

 

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

  Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật trình bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

Trang trước | Trang kế| trở về đầu trang | Home page |