Contents [go up]


Contents [go up]

Introduction [go up]

Although early Buddhism is widely believed to take a negative attitude toward the body, the texts of the Pali canon do not support this belief. They approach the body both in its positive role, as an object of meditation to develop mindfulness, concentration, and the mental powers based on concentration; and in its negative role as an object for unskillful states of mind. Even in its negative role, the body is not the culprit: the problem is the mind's attachment to the body. Once the body can be used in its positive role, to develop mindfulness and concentration, those mental qualities can be used to free the mind of its attachments to the body. Then, as many a modern meditation master has noted, the mind and body can live in peace.

Lời giới thiệu [go up]

Mặc dầu Phật Giáo thời xưa phần lớn đều tin tưởng rằng xác thân là vật thứ yếu, những văn bản của kinh điển Pali không phù hợp với sự tin tưởng này. Những văn bản này chấp nhận thân trong cả hai vai tṛ chính và phụ, trong vai tṛ chính, thân là một đối tượng của thiền định được dùng để phát triển chánh niệm và chánh định, và sức mạnh của tâm dựa theo sự tập trung; và trong vai tṛ phụ thuộc thân là một đối tượng của t́nh trạng tâm bất thiện. Ngay cả trong vai tṛ phụ thuộc, thân cũng không mang tội nghiệp; vấn đề trở ngại là sự ràng buột của trí tuệ vào thân xác. Một khi thân xác có thể được dùng trong vai tṛ hữu ích của nó để phát triển chánh niệm và chánh định, th́ những giá trị tinh thần này có thể làm cho tâm không ràng buộc vào thân. Thật vậy, cũng như rất nhiều vị thiền sư khác, một vị thiền sư của thời đại này đă ghi nhận, tâm và thân có thể cùng sống trong an lạc

This study guide focuses on the primary sutta in the Pali canon dealing with the contemplation of the body: The Discourse on Mindfulness Immersed in the Body (MN 119). The first section, The Context, establishes the general principles underlying the practice of mindfulness immersed in the body, showing why attachment to the body is considered problematic in the first place. The second section presents the sutta itself. The remaining sections expand on points raised in the sutta: Section Three dealing with the advantages of practicing mindfulness immersed in the body, and Section Four expanding on the drawbacks of attachment to the body.

Trang Phật Giáo Toán Thư này đặt trọng tâm trên căn bản kinh điển Pali giảng giải sự quan sát thân: Trong bài Thân Hành Niệm (MN 119). Phần thứ nhất, mạch văn dựa trên cơ bản tổng quát dặt trọng tâm trong việc tu tập của thân hành niệm, chỉ ra tại sao sự gắn bó đến thân được coi như là chướng ngại đầu tiên. Phần thứ hai tŕnh bày y' chính của kinh điển. Những phần c̣n lại khai triển rộng răi những đề tài trong kinh điển: Phần thứ ba nói lên sự lợi ích của sự tu tập thân hành niệm, và Phần thứ tư

Because the sutta treats the body both as an object of mindfulness and as an object of jhana, or mental absorption, it raises questions concerning the relationship between these two mental qualities in the practice of meditation. There is a widespread belief that they represent two sides of a great divide in Buddhist meditation practice, with mindfulness on one side, joined with vipassana (insight) and discernment; and jhana on the other side joined with samatha (tranquillity). The Pali canon, however, presents a much more complex picture of the interrelated roles these mental qualities in the pursuit of Awakening. And in fact, the "Great Divide" picture of Buddhist meditation practice conflates what the Pali canon treats as three separate, albeit related issues: the relationship between samatha and vipassana, the relationship between mindfulness and jhana, and the relationship between jhana and discernment. To convey the original parameters of these issues, this study guide ends with three sections focused on precisely these relationships.

Bởi v́ trong bài kinh giải thích Thân trong cả hai chủ đề, như chủ đề chánh niệm và chủ đề của tầng thiền, hoặc thấm vào tâm, một câu hỏi được khởi lên về sự liên hệ giữa hai giá trị tinh thần trong việc tu tập thiền. Nhiều người tin tưởng rằng giá trị này biểu tượng cho cả hai khía cạnh của sự phân chia trong việc tu tập thiền, với chánh niệm trong một phía, hoà nhập với việc chiếu kiến nội tâm (insight) và phân biệt tưởng (discernment). Về khía cạnh kia th́ tầng thiền hoà nhập với thiền tĩnh lặng (Samatha). Tuy nhiên kinh điển Pali diễn đạt rất nhiều về h́nh ảnh phức tạp của những tương quan trong các vai tṛ của những giá trị tinh thần này trong việc theo đuổi Giác Ngộ. Và thật vậy h́nh ảnh "Sự phân chia to lớn" của việc tu tập thiền định Phật Giáo, dù kết quả liên hệ: sự liên hệ giữa thiền tĩnh lặng và thiền minh sát tuệ, sự liên hệ giữa tỉnh thức và tầng thiền, và sự liên hệ giữa tầng thiền và phân biệt tưởng. Để truyền đạt cội nguồn tham biến của những kết quả này, bản Phật Giáo Toàn Thư này đúc kết với ba phần đặt trọng tâm chính vào những sự tương quan này.

For supplemental reading on the issues of jhana, mindfulness, and insight, see the articles, "The Path of Mindfulness and Concentration" and "One Tool Among Many."

Để bổ sung thêm tài liệu về tầng thiền, chánh niệm và chiếu kiến nội tâm, coi tại Con đường của Chánh Niệm và Tập Trung Một Pháp trong tất cả

For further reading on contemplation of the body, see:

Đọc thêm về quán thân tại:

I. [go up]
The Context

"Monks, I lived in refinement, utmost refinement, total refinement. My father even had lotus ponds made in our palace: one where red-lotuses bloomed, one where white lotuses bloomed, one where blue lotuses bloomed, all for my sake. I used no sandalwood that was not from Varanasi. My turban was from Varanasi, as were my tunic, my lower garments, & my outer cloak. A white sunshade was held over me day & night to protect me from cold, heat, dust, dirt, & dew.

I. [go up]
Mạch Văn

"Này các Tỷ-kheo, Ta được nuôi dưỡng tế nhị, cứu cánh nuôi dưỡng tế nhị. Này các Tỷ-kheo, trong nhà Phụ vương ta, có các hồ nước được xây lên, trong một hồ có hoa sen xanh, trong một hồ có hoa sen đỏ, trong một hồ có hoa sen trắng, tất cả phục vụ cho ta. Không một hương chiên đàn nào ta dùng, này các Tỷ-kheo, là không từ Kàsi đến. Bằng vải Kàsi là khăn của ta, này các Tỷ-kheo. Bằng vải kàsi là áo cánh, bằng vải kàsi là nội y, bằng vải kàsi là thượng y. Đêm và ngày, một lọng trắng được che cho ta để tránh xúc chạm lạnh, nóng, bụi, cỏ hay xương.

"I had three palaces: one for the cold season, one for the hot season, one for the rainy season. During the four months of the rainy season I was entertained in the rainy-season palace by minstrels without a single man among them, and I did not once come down from the palace. Whereas the servants, workers, & retainers in other people's homes are fed meals of lentil soup & broken rice, in my father's home the servants, workers, & retainers were fed wheat, rice, and meat.

"Này các Tỷ-kheo, ba lâu đài được xây dựng cho Ta, một cái cho mùa đông, một cái cho mùa hạ, một cái cho mùa mưa. Và Ta, này các Tỷ-kheo, tại lâu đài mùa mưa, trong bốn tháng mưa, được những nữ nhạc công đoanh vây, Ta không có xuống dưới lầu. Trong các nhà của người khác, các đầy tớ, làm công được cho ăn gạo, thịt gà và cơm nấu.

"Even though I was endowed with such fortune, such total refinement, the thought occurred to me: 'When an untaught, run-of-the-mill person, himself subject to aging, not beyond aging, sees another who is aged, he is horrified, humiliated, & disgusted, oblivious to himself that he too is subject to aging, not beyond aging. If I — who am subject to aging, not beyond aging — were to be horrified, humiliated, & disgusted on seeing another person who is aged, that would not be fitting for me.' As I noticed this, the [typical] young person's intoxication with youth entirely dropped away.

"Với Ta, này các Tỷ-kheo, được đầy đủ với sự giàu sang như vậy, được cứu cánh nuôi dưỡng tế nhị như vậy, ta suy nghĩ rằng : "Kẻ vô văn phàm phu tự ḿnh bị già, không vượt qua khỏi già, khi thấy người khác bị già, lại bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm, quên rằng ḿnh cũng như vậy. Ta cũng bị già, không vượt qua khỏi già, sau khi thấy người khác bị già, ta có thể bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm ? Như vậy, thật không xứng đáng cho ta". Sau khi quan sát về ta như vậy, này các Tỷ-kheo, sự kiêu mạn của tuổi trẻ trong tuổi trẻ được đoạn trừ hoàn toàn.

"Even though I was endowed with such fortune, such total refinement, the thought occurred to me: 'When an untaught, run-of-the-mill person, himself subject to illness, not beyond illness, sees another who is ill, he is horrified, humiliated, & disgusted, oblivious to himself that he too is subject to illness, not beyond illness. And if I — who am subject to illness, not beyond illness — were to be horrified, humiliated, & disgusted on seeing another person who is ill, that would not be fitting for me.' As I noticed this, the healthy person's intoxication with health entirely dropped away.

"Kẻ vô văn phàm phu tự ḿnh bị bệnh, không vượt khỏi bệnh, khi thấy người khác bị bệnh, lại bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm, quên rằng ḿnh cũng như vậy. Ta cũng bị bệnh, không vượt qua khỏi bệnh, sau khi thấy người khác bị già, ta có thể bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm ? Như vậy, thật không xứng đáng cho ta". Sau khi quan sát về ta như vậy, này các Tỷ-kheo, sự kiêu mạn của không bệnh trong không bệnh được đoạn trừ hoàn toàn.

"Even though I was endowed with such fortune, such total refinement, the thought occurred to me: 'When an untaught, run-of-the-mill person, himself subject to death, not beyond death, sees another who is dead, he is horrified, humiliated, & disgusted, oblivious to himself that he too is subject to death, not beyond death. And if I — who am subject to death, not beyond death — were to be horrified, humiliated, & disgusted on seeing another person who is dead, that would not be fitting for me.' As I noticed this, the living person's intoxication with life entirely dropped away.

"Kẻ vô văn phàm phu tự ḿnh bị chết, không vượt khỏi chết, khi thấy người khác bị chết, lại bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm, quên rằng ḿnh cũng như vậy. Ta cũng bị chết, không vượt qua khỏi chết, sau khi thấy người khác chết, ta có thể bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm ? Như vậy, thật không xứng đáng cho ta". Sau khi quan sát về ta như vậy, này các Tỷ-kheo, sự kiêu mạn của sự sống trong sự sống được đoạn trừ hoàn toàn.

"Monks, there are these three forms of intoxication. Which three? Intoxication with youth, intoxication with health, intoxication with life.

"Có ba kiêu mạn này, này các Tỷ-kheo, Thế nào là ba ? Kiêu mạn của tuổi trẻ, Kiêu mạn của không bệnh, Kiêu mạn của sự sống.

"Drunk with the intoxication of youth, an uninstructed, run-of-the-mill person engages in bodily misconduct, verbal misconduct, & mental misconduct. Having engaged in bodily misconduct, verbal misconduct, & mental misconduct, he — on the break-up of the body, after death — reappears in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell.

"Say sưa trong Kiêu mạn của tuổi trẻ, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành về ư. Do làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành về ư, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

"Drunk with the intoxication of health, an uninstructed, run-of-the-mill person engages in bodily misconduct, verbal misconduct, & mental misconduct. Having engaged in bodily misconduct, verbal misconduct, & mental misconduct, he — on the break-up of the body, after death — reappears in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell.

"Say sưa trong Kiêu mạn của không bệnh, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành về ư. Do làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành về ư, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

"Drunk with the intoxication of life, an uninstructed, run-of-the-mill person engages in bodily misconduct, verbal misconduct, & mental misconduct. Having engaged in bodily misconduct, verbal misconduct, & mental misconduct, he — on the break-up of the body, after death — reappears in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell... "

AN 3.38

"Say sưa trong kiêu mạn của sự sống, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành về ư. Do làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành về ư, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

AN 3.38

"Before my Awakening, when I was still an unawakened Bodhisatta, being subject myself to birth, aging, illness, death, sorrow, and defilement, I sought [happiness in] what was subject to birth, aging, illness, death, sorrow, and defilement. The thought occurred to me: 'Why am I, being subject myself to birth...defilement, seeking what is subject to birth...defilement? What if I...were to seek the unborn, unaging, unailing, undying, sorrowless, undefiled, unsurpassed security from bondage: Unbinding.'"

— MN 26

Này các Tỷ-kheo, Ta cũng vậy, trước khi Giác Ngộ, khi chưa chứng Chánh Đẳng Giác, khi c̣n là Bồ-tát, tự ḿnh bị sanh lại t́m cầu cái bị sanh, tự ḿnh bị già, lại t́m cầu cái bị già, tự ḿnh bị bệnh... tự ḿnh bị chết... tự ḿnh bị sầu"... tự ḿnh bị ô nhiễm lại t́m cầu cái bị ô nhiễm. Này các Tỷ-kheo, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Tại sao Ta, tự ḿnh bị sanh lại t́m cầu cái bị sanh, tự ḿnh bị già... (như trên)... tự ḿnh bi ô nhiễm lại t́m cầu cái bị ô nhiễm? Vậy Ta, tự ḿnh bị sanh, sau khi biết rơ sự nguy hại của bị sanh, hăy t́m cầu cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự ḿnh bị già... cái không già... tự ḿnh bị bệnh... cái không bệnh... tự ḿnh bị chết... cái bất tử... tự ḿnh bị sầu... cái không sầu... tự ḿnh bi ô nhiễm, sau khi biết rơ sự nguy hại của cái bị nhiễm, hăy t́m cầu cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn.

"I tell you, friend, that it isn't possible by traveling to know or see or reach a far end of the cosmos where one doesn't take birth, age, die, pass away, or reappear. But at the same time, I tell you that there is no making an end of suffering & stress without reaching the end of the cosmos. Yet it is just within this fathom-long body, with its perception & intellect, that I declare that there is the cosmos, the origination of the cosmos, the cessation of the cosmos, and the path of practice leading to the cessation of the cosmos."

AN 4.45

Này Hiền giả, Ta tuyên bố rằng : "Tại chỗ nào không bị sanh, không bị già, không bị chết, không có từ bỏ (đời này), không có sanh khởi (đời khác), không có thể đi đến để thấy, để biết, để đạt đến chỗ tận cùng của thế giới". Nhưng này Hiền giả, trong cái thân dài độ mấy tấc này, với những tưởng, những tư duy của nó, Ta tuyên bố về thế giới, về thế giới tập khởi, về thế giới đoạn diệt, về con đường đưa đến thế giới đoạn diệt.

AN 4.45

"Now this is the noble truth of stress: Birth is stressful, aging is stressful, death is stressful; sorrow, lamentation, pain, distress, & despair are stressful; association with the unbeloved is stressful, separation from the loved is stressful, not getting what is wanted is stressful. In short, the five clinging-aggregates are stressful.

"Đây là Thánh đế về Khổ, này các Tỷ-kheo. Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu, bi, khổ, ưu, năo là khổ, oán gặp nhau là khổ, ái biệt ly là khổ, cầu không được là khổ. Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ.

"And this is the noble truth of the origination of stress: the craving that makes for further becoming — accompanied by passion & delight, relishing now here & now there — i.e., craving for sensuality, craving for becoming, craving for non-becoming.

"Đây là Thánh đế về Khổ tập, này các Tỷ-kheo, chính là ái này đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, t́m cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia. Tức là dục ái, hữu ái, phi hữu ái.

"And this is the noble truth of the cessation of stress: the remainderless fading & cessation, renunciation, relinquishment, release, & letting go of that very craving.

"Đây là Thánh đế về Khổ diệt, này các Tỷ-kheo, chính là ly tham, đoạn diệt, không có dư tàn khát ái ấy, sự quăng bỏ, từ bỏ, giải thoát, không có chấp trước.

"And this is the noble truth of the way of practice leading to the cessation of stress: precisely this Noble Eightfold Path — right view, right resolve, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness, right concentration.

"Đây là Thánh đế về Con Đường đưa đến Khổ diệt, này các Tỷ-kheo, chính là con đường Thánh đạo Tám ngành, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.

"'This noble truth of stress is to be comprehended' ... 'This noble truth of the origination of stress is to be abandoned' ... 'This noble truth of the cessation of stress is to be directly experienced' ... 'This noble truth of the way of practice leading to the cessation of stress is to be developed' ... "

SN 56.11

"'Đây là Thánh đế về Khổ cần phải liễu tri'... 'Đây là Thánh đế về Khổ tập cần phải liễu tri'... 'Đây là Thánh đế về Khổ diệt cần phải liễu tri'... 'Đây là Thánh đế về Con Đường đưa đến khổ diệt cần phải liễu tri'..."

SN 56.11

"And what, monks, is right view? Knowledge with regard to stress, knowledge with regard to the origination of stress, knowledge with regard to the stopping of stress, knowledge with regard to the way of practice leading to the stopping of stress: This, monks, is called right view.

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh tri kiến ? Này các Tỷ-kheo, chính là trí về khổ, trí về khổ tập, trí về khổ diệt, trí về con đường đưa đến khổ diệt. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh tri kiến.

"And what, monks, is right resolve? Being resolved on renunciation, on freedom from ill will, on harmlessness: This, monks, is called right resolve.

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh tư duy ? Này các Tỷ-kheo, chính là xuất ly tư duy, vô sân tư duy, vô hại tư duy. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh tư duy.

"And what, monks, is right speech? Abstaining from lying, abstaining from divisive speech, abstaining from abusive speech, abstaining from idle chatter: This, monks, is called right speech.

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh ngữ? Này các Tỷ-kheo, chính là từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh ngữ.

"And what, monks, is right action? Abstaining from taking life, abstaining from stealing, abstaining from sexual intercourse: This, monks, is called right action.

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh nghiệp ? Này các Tỷ-kheo, chính là từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ phi Phạm hạnh. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh nghiệp.

"And what, monks, is right livelihood? There is the case where a disciple of the noble ones, having abandoned dishonest livelihood, keeps his life going with right livelihood: This, monks, is called right livelihood.

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh mạng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử đoạn trừ tà mạng, nuôi sống với chánh mạng. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh mạng.

"And what, monks, is right effort? (i) There is the case where a monk generates desire, endeavors, activates persistence, upholds & exerts his intent for the sake of the non-arising of evil, unskillful qualities that have not yet arisen. (ii) He generates desire, endeavors, activates persistence, upholds & exerts his intent for the sake of the abandonment of evil, unskillful qualities that have arisen. (iii) He generates desire, endeavors, activates persistence, upholds & exerts his intent for the sake of the arising of skillful qualities that have not yet arisen. (iv) He generates desire, endeavors, activates persistence, upholds & exerts his intent for the maintenance, non-confusion, increase, plenitude, development, & culmination of skillful qualities that have arisen: This, monks, is called right effort.

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh tinh tấn ? (i)Ở đây, này các Tỷ-kheo, với mục đích khiến cho các ác, bất thiện pháp từ trước chưa sanh không cho sanh khởi.(ii)Khởi lên ư muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tấn, tŕ tâm; với mục đích khiến cho các ác, bất thiện pháp đă sanh được trừ diệt.(iii)Khởi lên ư muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tấn, tŕ tâm; với mục đích khiến cho các thiện pháp từ trước chưa sanh nay được sanh khởi.(vi)Khởi lên ư muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tấn, tŕ tâm; với mục đích khiến cho các thiện pháp đă được sanh có thể duy tŕ, không có lu mờ, được tăng trưởng, được quảng đại, được tu tập, được viên măn, Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh tinh tấn.

"And what, monks, is right mindfulness? (i) There is the case where a monk remains focused on the body in & of itself — ardent, aware, & mindful — putting away greed & distress with reference to the world. (ii) He remains focused on feelings in & of themselves — ardent, aware, & mindful — putting away greed & distress with reference to the world. (iii) He remains focused on the mind in & of itself — ardent, aware, & mindful — putting away greed & distress with reference to the world. (iv) He remains focused on mental qualities in & of themselves — ardent, aware, & mindful — putting away greed & distress with reference to the world. This, monks, is called right mindfulness.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh niệm? (i)Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, với mục đích điều phục tham ưu ở đời.(ii)Tỷ-kheo sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời.(iii)Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời.(iv)Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh niệm.

"And what, monks, is right concentration? (i) There is the case where a monk — quite withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful (mental) qualities — enters & remains in the first jhana: rapture & pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation. (ii) With the stilling of directed thought & evaluation, he enters & remains in the second jhana: rapture & pleasure born of concentration, unification of awareness free from directed thought & evaluation — internal assurance. (iii) With the fading of rapture, he remains in equanimity, mindful & alert, and physically sensitive of pleasure. He enters & remains in the third jhana, of which the Noble Ones declare, 'Equanimous & mindful, he has a pleasurable abiding.' (iv) With the abandoning of pleasure & pain — as with the earlier disappearance of elation & distress — he enters & remains in the fourth jhana: purity of equanimity & mindfulness, neither pleasure nor pain. This, monks, is called right concentration."

SN 45.8

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh định? (i)Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ.(ii)Làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tỉnh, nhất tâm.(iii)Vị ấy ly hỷ trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba.(iv)Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh định."

SN 45.8

II. [go up]
Mindfulness Immersed in the Body

II. [go up]
Tu Tập Thân Hành Niệm

Kayagata-sati Sutta (MN 119)

I have heard that on one occasion the Blessed One was staying in Savatthi at Jeta's Grove, Anathapindika's monastery. Now at that time a large number of monks, after the meal, on returning from their alms round, had gathered at the meeting hall when this discussion arose: "Isn't it amazing, friends! Isn't it astounding! — the extent to which mindfulness immersed in the body, when developed & pursued, is said by the Blessed One who knows, who sees — the worthy one, rightly self-awakened — to be of great fruit & great benefit." And this discussion came to no conclusion.

Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi, (Xá-vệ) Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tịnh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Rồi một số đông Tỷ-kheo, sau buổi ăn, sau khi đi khất thực trở về, đang ngồi tụ họp trong hội trường, câu chuyện này được khởi lên giữa chúng Tăng: "Thật vi diệu thay, chư Hiền giả ! Thật hy hữu thay, chư Hiền giả ! Thân hành niệm, khi được tu tập và làm cho sung măn, có được quả lớn, có được công đức lớn, như đă được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố." Và câu chuyện này giữa các Tỷ-kheo ấy đă bị gián đoạn.

Then the Blessed One, emerging from his seclusion in the late afternoon, went to the meeting hall and, on arrival, sat down on a seat made ready. As he was sitting there, he addressed the monks: "For what topic are you gathered together here? And what was the discussion that came to no conclusion?"

Thế Tôn vào buổi chiều, từ Thiện tịnh độc cư đứng dậy, đi đến hội trường, sau khi đến ngồi lên chỗ soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo : "Ở đây, này các Tỷ-kheo, các Ông hiện nay đang ngồi bàn vấn đề ǵ ? Câu chuyện ǵ của các Ông bị gián đoạn?"

"Just now, lord, after the meal, on returning from our alms round, we gathered at the meeting hall when this discussion arose: 'Isn't it amazing, friends! Isn't it astounding! — the extent to which mindfulness immersed in the body, when developed & pursued, is said by the Blessed One who knows, who sees — the worthy one, rightly self-awakened — to be of great fruit & great benefit.' This was the discussion that had come to no conclusion when the Blessed One arrived."

"Ở đây, bạch Thế Tôn, sau khi ăn xong, sau khi đi khất thực trở về, chúng con ngồi tụ họp tại hội trường, và câu chuyện sau này được khởi lên: 'Thật vi diệu thay, chư Hiền giả ! Thật hy hữu thay, chư Hiền giả ! Thân hành niệm này được tu tập, được làm cho sung măn, có quả lớn, có công đức lớn, đă được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố.' Bạch Thế Tôn, câu chuyện này của chúng con chưa bàn xong thời Thế Tôn đến."

[The Blessed One said:] "And how is mindfulness immersed in the body developed, how is it pursued, so as to be of great fruit & great benefit?

"Và này các Tỷ-kheo, thân hành niệm tu tập như thế nào, làm cho sung măn như thế nào, có quả lớn, có công đức lớn ?

"There is the case where a monk — having gone to the wilderness, to the shade of a tree, or to an empty building — sits down folding his legs crosswise, holding his body erect and setting mindfulness to the fore. Always mindful, he breathes in; mindful he breathes out.

"Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống và ngồi kiết-già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt. Chánh niệm, vị ấy thở vô. Chánh niệm, vị ấy thở ra.

"Breathing in long, he discerns that he is breathing in long; or breathing out long, he discerns that he is breathing out long. Or breathing in short, he discerns that he is breathing in short; or breathing out short, he discerns that he is breathing out short. He trains himself to breathe in sensitive to the entire body and to breathe out sensitive to the entire body. He trains himself to breathe in calming bodily fabrication (the breath) and to breathe out calming bodily fabrication. And as he remains thus heedful, ardent, & resolute, any memories & resolves related to the household life are abandoned, and with their abandoning his mind gathers & settles inwardly, grows unified & centered. This is how a monk develops mindfulness immersed in the body.

"Hay thở vô dài, vị ấy biết : "Tôi thở vô dài". Hay thở ra dài vị ấy biết: " Tôi thở ra dài" . Hay thở vô ngắn, vị ấy biết : "Tôi thở vô ngắn". Hay thở ra ngắn, vị ấy biết : "Tôi thở ra ngắn". "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở ra". An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vi ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập thân hành niệm.

"Furthermore, when walking, the monk discerns that he is walking. When standing, he discerns that he is standing. When sitting, he discerns that he is sitting. When lying down, he discerns that he is lying down. Or however his body is disposed, that is how he discerns it. And as he remains thus heedful, ardent, & resolute, any memories & resolves related to the household life are abandoned, and with their abandoning his mind gathers & settles inwardly, grows unified & centered. This is how a monk develops mindfulness immersed in the body.

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi, biết rằng : "Tôi đi". Hay đứng, biết rằng : "Tôi đứng". Hay ngồi, biết rằng : "Tôi ngồi". Hay nằm, biết rằng : "Tôi nằm". Thân thể được sử dụng như thế nào, vị ấy biết thân thể như thế ấy. Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập thân hành niệm.

"Furthermore, when going forward & returning, he makes himself fully alert; when looking toward & looking away...when bending & extending his limbs...when carrying his outer cloak, his upper robe & his bowl...when eating, drinking, chewing, & savoring...when urinating & defecating...when walking, standing, sitting, falling asleep, waking up, talking, & remaining silent, he makes himself fully alert. And as he remains thus heedful, ardent, & resolute, any memories & resolves related to the household life are abandoned, and with their abandoning his mind gathers & settles inwardly, grows unified & centered. This is how a monk develops mindfulness immersed in the body.

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi bước tới, bước lui biết rơ việc ḿnh đang làm; khi ngó tới ngó lui biết rơ việc ḿnh đang làm; khi co tay, khi duỗi tay, biết rơ việc ḿnh đang làm; khi mang áo tăng-già-lê (sanghati), mang bát, mang y, biết rơ việc ḿnh đang làm; khi ăn, uống, nhai, nếm, biết rơ việc ḿnh đang làm; khi đứng, ngồi, ngủ, thức, nói, im lặng biết rơ việc ḿnh đang làm. Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập thân hành niệm.

"Furthermore, the monk reflects on this very body from the soles of the feet on up, from the crown of the head on down, surrounded by skin and full of various kinds of unclean things: 'In this body there are head hairs, body hairs, nails, teeth, skin, flesh, tendons, bones, bone marrow, kidneys, heart, liver, pleura, spleen, lungs, large intestines, small intestines, gorge, feces, bile, phlegm, pus, blood, sweat, fat, tears, skin-oil, saliva, mucus, fluid in the joints, urine.' Just as if a sack with openings at both ends were full of various kinds of grain — wheat, rice, mung beans, kidney beans, sesame seeds, husked rice — and a man with good eyesight, pouring it out, were to reflect, 'This is wheat. This is rice. These are mung beans. These are kidney beans. These are sesame seeds. This is husked rice'; in the same way, the monk reflects on this very body from the soles of the feet on up, from the crown of the head on down, surrounded by skin and full of various kinds of unclean things: 'In this body there are head hairs, body hairs, nails, teeth, skin, flesh, tendons, bones, bone marrow, kidneys, heart, liver, pleura, spleen, lungs, large intestines, small intestines, gorge, feces, bile, phlegm, pus, blood, sweat, fat, tears, skin-oil, saliva, mucus, fluid in the joints, urine.' And as he remains thus heedful, ardent, & resolute, any memories & resolves related to the household life are abandoned, and with their abandoning his mind gathers & settles inwardly, grows unified & centered. This is how a monk develops mindfulness immersed in the body.

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát thân này, dưới từ bàn chân trở lên, trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt: "Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, phân, mật, đàm (niêm dịch), mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu". Này các Tỷ-kheo, cũng như một bao đồ, hai đầu trống đựng đầy các loại hột như gạo, lúa, đậu xanh, đậu lớn, mè, gạo đă xay rồi. Một người có mắt, đổ các hột ấy ra và quán sát : "Đây là hột gạo, đây là hột lúa, đây là đậu xanh, đây là đậu lớn, đây là mè, đây là hột lúa đă xay rồi". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo quán sát thân này dưới từ bàn chân trở lên, trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt : ‘Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu". Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập thân hành niệm.

"Furthermore, the monk contemplates this very body — however it stands, however it is disposed — in terms of properties: 'In this body there is the earth property, the liquid property, the fire property, & the wind property.' Just as a skilled butcher or his apprentice, having killed a cow, would sit at a crossroads cutting it up into pieces, the monk contemplates this very body — however it stands, however it is disposed — in terms of properties: 'In this body there is the earth property, the liquid property, the fire property, & the wind property.' And as he remains thus heedful, ardent, & resolute, any memories & resolves related to the household life are abandoned, and with their abandoning his mind gathers & settles inwardly, grows unified & centered. This is how a monk develops mindfulness immersed in the body.

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát thân này về các vị trí các giới và sự sắp đặt các giới : "Trong thân này có địa đại, thủy đại, hỏa đại, và phong đại". Này các Tỷ-kheo, như một người đồ tể thiện xảo, hay đệ tử của một người đồ tể giết một con ḅ, ngồi cắt chia từng thân phần tại ngă tư đường; cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo quán sát thân này về vị trí các giới và về sự sắp đặt các giới : "Trong thân này có địa đại, thủy đại, hỏa đại và phong đại". Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập thân hành niệm.

"Furthermore, as if he were to see a corpse cast away in a charnel ground — one day, two days, three days dead — bloated, livid, & festering, he applies it to this very body, 'This body, too: Such is its nature, such is its future, such its unavoidable fate'...

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể quăng bỏ trong nghĩa địa một ngày, hai ngày, ba ngày, thi thể ấy trương phồng lên, xanh đen lại, nát thối ra; Tỷ-kheo quán thân ấy như sau : "Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi bản chất ấy".

"Or again, as if he were to see a corpse cast away in a charnel ground, picked at by crows, vultures, & hawks, by dogs, hyenas, & various other creatures...a skeleton smeared with flesh & blood, connected with tendons...a fleshless skeleton smeared with blood, connected with tendons...a skeleton without flesh or blood, connected with tendons...bones detached from their tendons, scattered in all directions — here a hand bone, there a foot bone, here a shin bone, there a thigh bone, here a hip bone, there a back bone, here a rib, there a breast bone, here a shoulder bone, there a neck bone, here a jaw bone, there a tooth, here a skull...the bones whitened, somewhat like the color of shells...piled up, more than a year old...decomposed into a powder: He applies it to this very body, 'This body, too: Such is its nature, such is its future, such its unavoidable fate.'

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể quăng bỏ trong nghĩa địa bị các loài quạ ăn, hay bị các loài diều hâu ăn, hay bị các chim kên ăn, hay bị các loài chó ăn, hay bị các loài giả can ăn, hay bị các loài côn trùng ăn... Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, với các bộ xương c̣n liên kết với nhau, c̣n dính thịt và máu, c̣n được các đường gân cột lại... với các bộ xương c̣n liên kết với nhau, không c̣n dính thịt nhưng c̣n dính máu, c̣n được các đường gân cột lại... chỉ c̣n có xương không dính lại với nhau, rải rác chỗ này chỗ kia. Ở đây là xương tay, ở đây là xương chân, ở đây là xương ống, ở đây là xương bắp vế, ở đây là xương mông, ở đây là xướng sống, ở đây là xương đầu; Tỷ-kheo quán thân ấy như sau : "Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi bản chất ấy".

"And as he remains thus heedful, ardent, & resolute, any memories & resolves related to the household life are abandoned, and with their abandoning his mind gathers & settles inwardly, grows unified & centered. This is how a monk develops mindfulness immersed in the body.

"Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập thân hành niệm.

The Four Jhanas

Bốn tầng Thiền

"Furthermore, quite withdrawn from sensual pleasures, withdrawn from unskillful mental qualities, he enters & remains in the first jhana: rapture & pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation. He permeates & pervades, suffuses & fills this very body with the rapture & pleasure born from withdrawal. Just as if a skilled bathman or bathman's apprentice would pour bath powder into a brass basin and knead it together, sprinkling it again & again with water, so that his ball of bath powder — saturated, moisture-laden, permeated within & without — would nevertheless not drip; even so, the monk permeates ... this very body with the rapture & pleasure born of withdrawal. There is nothing of his entire body unpervaded by rapture & pleasure born from withdrawal. And as he remains thus heedful, ardent, & resolute, any memories & resolves related to the household life are abandoned, and with their abandoning his mind gathers & settles inwardly, grows unified & centered. This is how a monk develops mindfulness immersed in the body.

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly dục, ly ác pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm và tứ. Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung măn tràn đầy thân ḿnh với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, như một người hầu tắm lăo luyện hay đệ tử người hầu tắm; sau khi rắc bột tắm trong thau bằng đồng, liền nhồi bột ấy với nước, cục bột tắm ấy được thấm nhuần nước ướt, trào trộn với nước ướt, thấm ướt cả trong lẫn ngoài với nước, nhưng không chảy thành giọt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung măn, tràn đầy thân ḿnh với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần. Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập thân hành niệm.

"Then, with the stilling of directed thought & evaluation, he enters & remains in the second jhana: rapture & pleasure born of composure, unification of awareness free from directed thought & evaluation — internal assurance. He permeates & pervades, suffuses & fills this very body with the rapture & pleasure born of composure. Just like a lake with spring-water welling up from within, having no inflow from the east, west, north, or south, and with the skies supplying abundant showers time & again, so that the cool fount of water welling up from within the lake would permeate & pervade, suffuse & fill it with cool waters, there being no part of the lake unpervaded by the cool waters; even so, the monk permeates ... this very body with the rapture & pleasure born of composure. There is nothing of his entire body unpervaded by rapture & pleasure born of composure. And as he remains thus heedful, ardent, & resolute, any memories & resolves related to the household life are abandoned, and with their abandoning his mind gathers & settles inwardly, grows unified & centered. This is how a monk develops mindfulness immersed in the body.

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy diệt tầm và tứ, chứng và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Tỷ-kheo ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung măn, tràn đầy thân ḿnh với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, ví như một hồ nước, nước tự trong dâng lên, phương Đông không có lỗ nước chảy ra, phương Tây không có lỗ nước chảy ra, phương Bắc không có lỗ nước chảy ra, phương Nam không có lỗ nước chảy ra và thỉnh thoảng trời lại mưa lớn. Suối nước mát từ hồ nước ấy phun ra thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung măn tràn đầy hồ nước ấy, với nước mát lạnh, không một chỗ nào của hồ nước ấy không được nước mát lạnh thấm nhuần. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thấm nhuần tẩm ướt, làm cho sung măn tràn đầy thân ḿnh với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân, không được hỷ lạc do đính sanh ấy thấm nhuần. Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập thân hành niệm.

"Then, with the fading of rapture, he remains in equanimity, mindful & alert, and physically sensitive of pleasure. He enters & remains in the third jhana, of which the noble ones declare, 'Equanimous & mindful, he has a pleasurable abiding.' He permeates & pervades, suffuses & fills this very body with the pleasure divested of rapture. Just as in a lotus pond, some of the lotuses, born & growing in the water, stay immersed in the water and flourish without standing up out of the water, so that they are permeated & pervaded, suffused & filled with cool water from their roots to their tips, and nothing of those lotuses would be unpervaded with cool water; even so, the monk permeates ... this very body with the pleasure divested of rapture. There is nothing of his entire body unpervaded with pleasure divested of rapture. And as he remains thus heedful, ardent, & resolute, any memories & resolves related to the household life are abandoned, and with their abandoning his mind gathers & settles inwardly, grows unified & centered. This is how a monk develops mindfulness immersed in the body.

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là "Xả niệm lạc trú", chứng và an trú Thiền thứ ba. Tỷ-kheo, thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung măn tràn đầy thân ḿnh với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân, không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, ví như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng, hồ sen trắng, có những sen xanh, sen hồng hay sen trắng. Những bông sen ấy sanh trong nước, lớn lên trong nước, không vượt khỏi nước, nuôi sống dưới nước, từ đầu ngọn cho đến gốc rễ đều thấm nhuần, tẩm ướt, đầy tràn thấu suốt bởi nước mát lạnh ấy, không một chỗ nào của toàn thể sen xanh, sen hồng hay sen trắng không được nước mát lạnh ấy thấm nhuần. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung măn, tràn đầy thân ḿnh với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần. Như vậy Tỷ-kheo an trú không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập thân hành niệm.

"Then, with the abandoning of pleasure & pain — as with the earlier disappearance of elation & distress — he enters & remains in the fourth jhana: purity of equanimity & mindfulness, neither-pleasure-nor-pain. He sits, permeating the body with a pure, bright awareness. Just as if a man were sitting covered from head to foot with a white cloth so that there would be no part of his body to which the white cloth did not extend; even so, the monk sits, permeating the body with a pure, bright awareness. There is nothing of his entire body unpervaded by pure, bright awareness. And as he remains thus heedful, ardent, & resolute, any memories & resolves related to the household life are abandoned, and with their abandoning his mind gathers & settles inwardly, grows unified & centered. This is how a monk develops mindfulness immersed in the body.

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo, xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ trước, chứng và an trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Tỷ-kheo ấy ngồi, thấm nhuần toàn thân ḿnh với tâm thuần tịnh trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, ví như một người ngồi, dùng tấm vải trắng trùm đầu, không một chỗ nào trên toàn thân không được vải trắng ấy che thấu; cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ngồi thấm nhuần toàn thân ḿnh với tâm thuần tịnh, trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần. Trong khi vị ấy sống an trú không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập thân hành niệm.

Fullness of Mind

Chánh niệm

"Monks, whoever develops & pursues mindfulness immersed in the body encompasses whatever skillful qualities are on the side of clear knowing. Just as whoever pervades the great ocean with his awareness encompasses whatever rivulets flow down into the ocean, in the same way, whoever develops & pursues mindfulness immersed in the body encompasses whatever skillful qualities are on the side of clear knowing.

"Này các Tỷ-kheo, đối với vị nào tu tập, làm cho sung măn thân hành niệm, các thiện pháp của vị ấy đi vào nội tâm (antogadha ?) đều thuộc về minh phần (vijjabhagiya). Ví như, này các Tỷ-kheo, biến lớn của ai được thấm nhuần bởi tâm, thời các con sông của vị ấy đi vào trong biển, đều thuộc về biển lớn; cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối với vị nào tu tập làm cho sung măn thân hành niệm, các thiện pháp của vị ấy đi vào nội tâm, đều thuộc về minh phần.

"In whomever mindfulness immersed in the body is not developed, not pursued, Mara gains entry, Mara gains a foothold.

"Này các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo nào không tu tập thân hành niệm, không làm cho sung măn, thời Ma (vương) có cơ hội với vị ấy, Ma (vương) có cơ duyên với vị ấy.

"Suppose that a man were to throw a heavy stone ball into a pile of wet clay. What do you think, monks — would the heavy stone ball gain entry into the pile of wet clay?"

"Yes, venerable sir."

"Ví như này các Tỷ-kheo, có người quăng một ḥn đá nặng vào một đống đất sét ướt nhuyễn, này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào ? Có phải ḥn đá nặng ấy có cơ hội (lún sâu) vào đống đất sét ướt nhuyễn ấy ?

"Thưa vâng, bạch Thế Tôn."

"In the same way, in whomever mindfulness immersed in the body is not developed, not pursued, Mara gains entry, Mara gains a foothold.

"Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối với ai không tu tập thân hành niệm, không làm cho sung măn, Ma (vương) có cơ hội với vị ấy, Ma (vương) có cơ duyên với vị ấy.

"Now, suppose that there were a dry, sapless piece of timber, and a man were to come along with an upper fire-stick, thinking, 'I'll light a fire. I'll produce heat.' What do you think — would he be able to light a fire and produce heat by rubbing the upper fire-stick in the dry, sapless piece of timber?"

"Yes, venerable sir."

"Ví như, này các Tỷ-kheo, một cây khô không có nhựa, có người đến cầm phần phía trên của đồ quay lửa và nói : "Tôi sẽ làm cho ngọn lửa sanh ra, tôi sẽ làm cho sức nóng hiện lên". Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào ? Người ấy mang đến phần phía trên của đồ quay lửa, quay với cành cây khô không có nhựa ấy, người ấy có làm cho ngọn lửa sanh ra, có làm cho sức nóng hiện lên không ?

"Thưa vâng, bạch Thế Tôn."

"In the same way, in whomever mindfulness immersed in the body is not developed, not pursued, Mara gains entry, Mara gains a foothold.

"Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối với ai không tu tập thân hành niệm, không làm cho sung măn, Ma (vương) có cơ hội với người ấy, Ma (vương) có cơ duyên với người ấy.

"Now, suppose that there were an empty, hollow water-pot set on a stand, and a man were to come along carrying a load of water. What do you think — would he get a place to put his water?"

"Yes, venerable sir."

"Ví như, này các Tỷ-kheo, một b́nh nước, trống rỗng, trống không, được đặt trên cái giá, có một người đi đến, mang theo đầy nước. Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào ? Người ấy có thể đổ nước (vào b́nh) không?"

"Thưa vâng, bạch Thế Tôn."

"In the same way, in whomever mindfulness immersed in the body is not developed, not pursued, Mara gains entry, Mara gains a foothold.

"Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị nào không tu tập thân hành niệm, không làm cho sung măn, Ma (vương) có cơ hội với vị ấy, Ma (vương) có cơ duyên với vị ấy.

"Now, in whomever mindfulness immersed in the body is developed, is pursued, Mara gains no entry, Mara gains no foothold. Suppose that a man were to throw a ball of string against a door panel made entirely of heartwood. What do you think — would that light ball of string gain entry into that door panel made entirely of heartwood?"

"No, venerable sir."

"Này các Tỷ-kheo, vị nào có tu tập thân hành niệm, làm cho sung măn, Ma (vương) không có cơ hội với vị ấy. Ma (vương) không có duyên với vị ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, có người quăng một trái banh dây nhẹ vào một cánh cửa làm hoàn toàn bằng lơi cây. Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào ? Trái banh dây nhẹ ấy có cơ hội đối với cánh cửa làm hoàn toàn bằng lơi cây không?"

"Thưa không, bạch Thế Tôn."

"In the same way, in whomever mindfulness immersed in the body is developed, is pursued, Mara gains no entry, Mara gains no foothold.

"Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối với vị nào có tu tập thân hành niệm, làm cho sung măn, Ma (vương) không có cơ hội đối với vị ấy, Ma (vương) không có cơ duyên đối với vị ấy.

"Now, suppose that there were a wet, sappy piece of timber, and a man were to come along with an upper fire-stick, thinking, 'I'll light a fire. I'll produce heat.' What do you think — would he be able to light a fire and produce heat by rubbing the upper fire-stick in the wet, sappy piece of timber?"

"No, venerable sir."

"Ví như, này các Tỷ-kheo, một cây ướt có nhựa, rồi một người đi đến mang theo phần trên đồ quay lửa và nói : "Tôi sẽ làm cho lửa sinh ra, tôi sẽ làm cho hơi nóng hiện lên". Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào ? Người ấy mang theo phần trên đồ quay lửa, quay với các cây ướt và có nhựa, có thể làm cho lửa sanh ra, làm cho hơi nóng hiện lên được không?"

"Thưa không, bạch Thế Tôn."

"In the same way, in whomever mindfulness immersed in the body is developed, is pursued, Mara gains no entry, Mara gains no foothold.

"Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối với vị nào có tu tập thân hành niệm, làm cho sung măn, Ma (vương) không có cơ hội đối với vị ấy, Ma (vương) không có cơ duyên đối với vị ấy.

"Now, suppose that there were a water-pot set on a stand, full of water up to the brim so that crows could drink out of it, and a man were to come along carrying a load of water. What do you think — would he get a place to put his water?"

"No, lord."

"Ví như, này các Tỷ-kheo, một b́nh nước đầy tràn nước đến nỗi con quạ có thể uống được, được đặt trên cái giá, rồi có người đi đến, mang theo đầy nước. Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào ? Người ấy có thể đổ được nước vào (b́nh ấy) không?"

"Thưa không, bạch Thế Tôn."

"In the same way, in whomever mindfulness immersed in the body is developed, is pursued, Mara gains no entry, Mara gains no foothold.

"Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối với vị nào tu tập thân hành niệm, làm cho sung măn, Ma (vương) không có cơ hộ đối với người ấy, Ma (vương) không có cơ duyên đối với người ấy.

An Opening to the Higher Knowledges

Chứng ngộ nhờ thắng tri

"When anyone has developed & pursued mindfulness immersed in the body, then whichever of the six higher knowledges he turns his mind to know & realize, he can witness them for himself whenever there is an opening.

"Này các Tỷ-kheo, đối với vị nào tu tập thân hành niệm, làm cho sung măn, vị ấy hướng tâm đă được chứng ngộ nhờ thắng trí đến pháp nào cần phải chứng ngộ nhờ thắng trí, vị ấy đối mặt đạt được sự tinh xảo, (của pháp ấy) dầu thuộc giới xứ nào (sati sati ayatane).

"Suppose that there were a water jar, set on a stand, brimful of water so that a crow could drink from it. If a strong man were to tip it in any way at all, would water spill out?"

"Yes, lord."

"Ví như, này các Tỷ-kheo, một b́nh đầy tràn nước đến nỗi con quạ có thể uống được, được đặt trên cái giá và có người lực sĩ đến và lắc qua lắc lại cái b́nh ấy, như vậy nước có thể trào ra ngoài không?"

"Thưa vâng, bạch Thế Tôn."

"In the same way, when anyone has developed & pursued mindfulness immersed in the body, then whichever of the six higher knowledges he turns his mind to know & realize, he can witness them for himself whenever there is an opening.

"Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối với vị nào tu tập thân hành niệm, làm cho sung măn, vị ấy hướng tâm đă được chứng ngộ nhờ thắng trí đến pháp nào cần phải chứng ngộ nhờ thắng trí, vị ấy đối mặt được sự tinh xảo (của pháp ấy) dầu thuộc giới xứ nào.

"Suppose there were a rectangular water tank — set on level ground, bounded by dikes — brimful of water so that a crow could drink from it. If a strong man were to loosen the dikes anywhere at all, would water spill out?"

"Yes, lord."

"Ví như có một hồ nước trên một miếng đất bằng, bốn phía có đê đắp làm cho vững chắc, và tràn đầy nước đến nỗi con quạ có thể uống được. Rồi có người lực sĩ đến và phá một khúc đê, nước có thể tràn ra ngoài không?"

"Thưa vâng, bạch Thế Tôn."

"In the same way, when anyone has developed & pursued mindfulness immersed in the body, then whichever of the six higher knowledges he turns his mind to know & realize, he can witness them for himself whenever there is an opening.

"Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối với vị nào tu tập thân hành niệm, làm cho sung măn, vị ấy hướng tâm đă được chứng ngộ nhờ thắng trí đến pháp nào cần phải chứng ngộ nhờ thắng trí, vị ấy đối mặt được sự tinh xảo (của pháp ấy) dầu thuộc giới xứ nào.

"Suppose there were a chariot on level ground at four crossroads, harnessed to thoroughbreds, waiting with whips lying ready, so that a skilled driver, a trainer of tamable horses, might mount and — taking the reins with his left hand and the whip with his right — drive out & back, to whatever place & by whichever road he liked; in the same way, when anyone has developed & pursued mindfulness immersed in the body, then whichever of the six higher knowledges he turns his mind to know & realize, he can witness them for himself whenever there is an opening.

"Ví như, này các Tỷ-kheo, trên đất bằng tại chỗ ngă tư có một chiếc xe đậu, thắng với những con ngựa thuần thục, có roi ngựa đặt ngang sẵn sàng, có người mă thuật sư thiện xảo, người đánh xe điều ngự các con ngựa đáng được điều ngự, leo lên xe ấy, tay trái nắm dây cương, tay mặt cầm lấy roi ngựa, có thể đánh xe ngựa ấy đi tới đi lui, tại chỗ nào và như thế nào theo ư ḿnh muốn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối với vị nào tu tập thân hành niệm, làm cho sung măn, vị ấy hướng tâm đă được chứng ngộ nhờ thắng trí đến pháp nào cần phải chứng ngộ nhờ thắng trí, vị ấy đối mặt được sự tinh xảo (của pháp ấy), dầu thuộc giới xứ nào.

Ten Benefits

Mười công đức

"Monks, for one in whom mindfulness immersed in the body is cultivated, developed, pursued, given a means of transport, given a grounding, steadied, consolidated, & well-undertaken, ten benefits can be expected. Which ten?

"Này các Tỷ-kheo, thân hành niệm được thực hành, được tu tập, được làm cho sung măn, được làm như thành cỗ xe, được làm như thành căn cứ địa, được làm cho kiên tŕ, được làm cho tích tập, được khéo tinh cần thực hành, thời mười công đức này có thể được mong đợi. Thế nào là mười ?

"[1] He conquers displeasure & delight, and displeasure does not conquer him. He remains victorious over any displeasure that has arisen.

"[1]Lạc bất lạc được nhiếp phục, và bất lạc không nhiếp phục vị ấy, và vị ấy sống luôn luôn nhiếp phục bất lạc được khởi lên.

"[2] He conquers fear & dread, and fear & dread to not conquer him. He remains victorious over any fear & dread that have arisen.

"[2]Khiếp đảm sợ hăi được nhiếp phục, và khiếp đảm sợ hăi không nhiếp phục vị ấy, và vị ấy luôn luôn nhiếp phục khiếp đảm sợ hăi được khởi lên.

"[3] He is resistant to cold, heat, hunger, thirst, the touch of gadflies & mosquitoes, wind & sun & creeping things; to abusive, hurtful language; he is the sort that can endure bodily feelings that, when they arise, are painful, sharp, stabbing, fierce, distasteful, disagreeable, deadly.

"[3]Vị ấy kham nhẫn được lạnh, nóng, đói, khát, sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, mặt trời, các loài rắn rết, các cách nói khó chịu, khó chấp nhận. Vị ấy có khả năng chịu đựng được những cảm thọ về thân khởi lên, khổ đau, nhói đau, thô bạo, chói đau, bất khả ư, bất khả ái, đưa đến chết điếng.

"[4] He can attain at will, without trouble or difficulty, the four jhanas — heightened mental states providing a pleasant abiding in the here & now.

"[4]Tùy theo ư muốn, không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức, vị ấy chứng được bốn Thiền, thuần túy tâm tư, hiện tại lạc trú.

"[5] He wields manifold supranormal powers. Having been one he becomes many; having been many he becomes one. He appears. He vanishes. He goes unimpeded through walls, ramparts, & mountains as if through space. He dives in & out of the earth as if it were water. He walks on water without sinking as if it were dry land. Sitting crosslegged he flies through the air like a winged bird. With his hand he touches & strokes even the sun & moon, so mighty & powerful. He exercises influence with his body even as far as the Brahma worlds.

"[5] Vị ấy chứng được các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện một thân; hiện h́nh biến đi ngang qua vách, qua tường, qua núi như đi ngang hư không; độn thổ trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước; đi trên nước không ch́m như đi trên đất liền; ngồi kiết-già đi trên hư không như con chim; với bàn tay, chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy; có thể, thân có thần thông bay cho đến Phạm thiên.

"[6] He hears — by means of the divine ear-element, purified & surpassing the human — both kinds of sounds: divine & human, whether near or far.

"[6]Với thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân, có thể nghe hai loại tiếng, chư Thiên và loài Người, ở xa hay ở gần.

"[7] He knows the awareness of other beings, other individuals, having encompassed it with his own awareness. He discerns a mind with passion as a mind with passion, and a mind without passion as a mind without passion. He discerns a mind with aversion as a mind with aversion, and a mind without aversion as a mind without aversion. He discerns a mind with delusion as a mind with delusion, and a mind without delusion as a mind without delusion. He discerns a restricted mind as a restricted mind, and a scattered mind as a scattered mind. He discerns an enlarged mind as an enlarged mind, and an unenlarged mind as an unenlarged mind. He discerns an excelled mind [one that is not at the most excellent level] as an excelled mind, and an unexcelled mind as an unexcelled mind. He discerns a concentrated mind as a concentrated mind, and an unconcentrated mind as an unconcentrated mind. He discerns a released mind as a released mind, and an unreleased mind as an unreleased mind.

"[7]Với tâm của vị ấy, vị ấy biết tâm của các chúng sanh, các loại người; tâm có tham, biết tâm có tham; tâm không tham, biết tâm không tham; tâm có sân, biết tâm có sân; tâm không sân, biết tâm không sân; tâm có si, biết tâm có si; tâm không si, biết tâm không si; tâm chuyên chú, biết tâm chuyên chú; tâm tán loạn, biết tâm tán loạn; tâm đại hành, biết tâm đại hành; tâm không đại hành, biết tâm không đại hành; tâm chưa vô thượng, biết tâm chưa vô thượng; tâm vô thượng, biết tâm vô thượng; tâm Thiền định, biết tâm Thiền định; tâm không Thiền định, biết tâm không Thiền định; tâm giải thoát, biết tâm giải thoát; tâm không giải thoát, biết tâm không giải thoát.

"[8] He recollects his manifold past lives (lit: previous homes), i.e., one birth, two births, three births, four, five, ten, twenty, thirty, forty, fifty, one hundred, one thousand, one hundred thousand, many aeons of cosmic contraction, many aeons of cosmic expansion, many aeons of cosmic contraction & expansion, [recollecting], 'There I had such a name, belonged to such a clan, had such an appearance. Such was my food, such my experience of pleasure & pain, such the end of my life. Passing away from that state, I re-arose there. There too I had such a name, belonged to such a clan, had such an appearance. Such was my food, such my experience of pleasure & pain, such the end of my life. Passing away from that state, I re-arose here.' Thus he remembers his manifold past lives in their modes & details.

"[8]Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ như một đời, hai đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Ta nhớ rằng: "Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, ḍng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sinh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, ḍng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mực như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây". Như vậy vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ với các nét đại cương và các chi tiết.

"[9] He sees — by means of the divine eye, purified & surpassing the human — beings passing away & re-appearing, and he discerns how they are inferior & superior, beautiful & ugly, fortunate & unfortunate in accordance with their kamma: 'These beings — who were endowed with bad conduct of body, speech, & mind, who reviled the noble ones, held wrong views and undertook actions under the influence of wrong views — with the break-up of the body, after death, have re-appeared in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell. But these beings — who were endowed with good conduct of body, speech, & mind, who did not revile the noble ones, who held right views and undertook actions under the influence of right views — with the break-up of the body, after death, have re-appeared in the good destinations, in the heavenly world.' Thus — by means of the divine eye, purified & surpassing the human — he sees beings passing away & re-appearing, and he discerns how they are inferior & superior, beautiful & ugly, fortunate & unfortunate in accordance with their kamma.

"[9]Với thiên nhăn thuần tịnh, siêu nhân, vị ấy thấy sự sống và sự chết của chúng sanh. Vị ấy biết rơ rằng chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, lời và ư, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. C̣n những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời và ư, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, cơi Trời, trên đời này. Như vậy, vị ấy với Thiên nhăn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết rơ rằng chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ.

"[10] Through the ending of the mental effluents, he remains in the effluent-free awareness-release & discernment-release, having known and made them manifest for himself right in the here & now.

"[10]Với sự diệt trừ các lậu hoặc, sau khi tự ḿnh chứng tri với thượng trí, vị ấy chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại, tâm giải thoát, tuệ giải thoát không có lậu hoặc.

"Monks, for one in whom mindfulness immersed in the body is cultivated, developed, pursued, given a means of transport, given a grounding, steadied, consolidated, & well-undertaken, these ten benefits can be expected."

That is what the Blessed One said. Gratified, the monks delighted in the Blessed One's words.

MN 119

"Này các Tỷ-kheo, thân hành niệm được thực hành, được tu tập, được làm cho sung măn, được làm như cỗ xe, được làm như thành căn cứ địa, được làm cho kiên tŕ, được làm cho tích tập, được khéo tinh cần thực hành, thời mười công đức này có thể mong đợi."

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.

MN 119

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

Trang kế | trở về đầu trang | Home page |