Summary

A Refuge in Skillful Action

Is human action real or illusory? If real, is it effective? If it is effective, does one have a choice in what one does? If one has a choice, can one choose to act in a way that will lead to genuine happiness? If so, what is that way? These are questions that lie at the heart of the way we conduct our lives. The way we answer them will determine whether we look for happiness through our own abilities, seek happiness through outside help, or abandon the quest for a higher-than-ordinary happiness altogether.

Tóm Lượt

Quy Y trong Thiện Pháp

Hành vi của con người là thực hay ảo? Nếu là thật, thì nó có hiệu quả không? Nếu nó có hiệu quả, liệu người ta có quyền lựa chọn cái gì không? Nếu một người có quyền lựa chọn, người ta có thể chọn hành động theo cách dẫn đến hạnh phúc thực sự không? Nếu có, đó là cách gì? Đây là những câu hỏi ở trọng tâm của cách chúng ta tiến hành cuộc sống của mình. Cách chúng ta trả lời sẽ quyết định liệu chúng ta tìm kiếm hạnh phúc thông qua khả năng của chính mình, tìm kiếm hạnh phúc thông qua sự giúp đỡ từ bên ngoài, hay từ bỏ hoàn toàn nhiệm vụ tìm kiếm một hạnh phúc cao hơn bình thường.

These questions were precisely the ones that led Siddhattha Gotama — the Bodhisatta, or Buddha-to-be — to undertake his quest for Awakening. He felt that there was no honor, no value in life, if true happiness could not be found through one's own efforts. Thus he put his life on the line to see how far human effort could go. Eventually he found that effort, skillfully applied, could lead to an Awakening to the Deathless. The lessons he learned about action and effort in the course of developing that skill, and which were confirmed by the experience of his Awakening, formed the basis of his doctrine of kamma (in Sanskrit: karma). This doctrine lies at the heart of his teaching, and forms the essence of the Triple Refuge. Put briefly, it states that action is real, effective, and the result of one's own choice. If one chooses to act skillfully and works to develop that skill, one's actions can lead to happiness, not only on the ordinary sensory level, but also on a level that transcends all the dimensions of time and the present. To understand this doctrine and get a sense of its full implications, we must first have some background on how the Buddha arrived at it. This will help us to see how kamma can act as a refuge, and what kind of refuge it provides.

Những câu hỏi này chính xác là những câu hỏi đã khiến Siddhattha Gotama - Đức Bồ Tát, hay Phật Tổ - thực hiện sự tìm Giác Ngộ. Ngài cảm thấy rằng không có vinh dự, không có giá trị trong cuộc sống, nếu hạnh phúc thực sự không thể tìm thấy bằng nỗ lực của chính mình. Vì vậy, Ngài đã đặt cuộc sống của mình vào ranh giới để xem nỗ lực của con người có thể đi được bao xa. Cuối cùng, Ngài nhận thấy rằng nỗ lực, được áp dụng một cách khéo léo, có thể dẫn đến Giác Ngộ đối với sự bất tử. Những bài học mà Ngài đã học được về hành động và nỗ lực trong quá trình phát triển kỹ năng đó, và được xác nhận bởi kinh nghiệm về sự Giác Ngộ của Ngài, đã hình thành nền tảng cho học thuyết về nghiệp của Ngài (trong tiếng Phạn: karma). giáo lý nằm ở trọng tâm của giáo lý của ngài, và tạo thành cốt lõi của Quy y Tam bảo. Nói một cách ngắn gọn, nó nói rằng hành động là thực tế, hiệu quả và là kết quả của sự lựa chọn của chính mình. Nếu một người chọn hành động thiện và nỗ lực để phát triển kỹ năng đó, hành động của người đó có thể dẫn đến hạnh phúc, không chỉ ở mức độ giác quan thông thường, mà còn ở mức độ vượt qua mọi chiều thời gian và hiện tại. Để hiểu giáo lý này và hiểu được toàn bộ hàm ý của nó, trước tiên chúng ta phải có một số nền tảng về cách Đức Phật đến với nó. Điều này sẽ giúp chúng ta thấy nghiệp có thể hoạt động như một nơi nương tựa như thế nào và nó cung cấp loại nương tựa nào.

Background

People often believe that the Buddha simply picked up the doctrine of kamma from his environment, but nothing could be further from the truth. Northern India at his time was a place of great intellectual activity, and — as science made new advances and called many of the old, established beliefs into question — all of the great philosophical and religious issues of human life were up for grabs. The foremost science at that time was astronomy. New, precise observations of planetary movements, combined with new advances in mathematics, had led astronomers to conclude that time was measured in eons, incomprehensibly long cycles that repeat themselves endlessly. Philosophers of the time tried to work out the implications of this vast temporal frame for the drama of human life and the quest for ultimate happiness. These philosophers fell into two broad camps: those who conducted their speculations within the traditions of the Vedas, orthodox religious and ritual texts; and other, unorthodox groups, called the Samanas (contemplatives), who questioned the authority of the Vedas.

Quá trình tu tập

Mọi người thường tin rằng Đức Phật chỉ đơn giản tiếp thu giáo lý về nghiệp từ hoàn cảnh chung quanh của Ngài, nhưng không có gì có thể xa hơn từ chân đế. Miền Bắc Ấn Độ vào thời của Đức Phật là một nơi có hoạt động trí thức lớn, và - khi khoa học đạt được những tiến bộ mới và khiến nhiều người trong số những niềm tin lâu đời, đã được khẳng định là vấn đề đáng nghi ngờ - tất cả các vấn đề triết học và tôn giáo lớn của cuộc sống con người đều được quan tâm. Khoa học quan trọng nhất lúc bấy giờ là thiên văn học. Những quan sát mới, chính xác về chuyển động của các hành tinh, kết hợp với những tiến bộ mới trong toán học, đã khiến các nhà thiên văn học kết luận rằng thời gian được đo bằng đơn vị niên đại (eons), chu kỳ dài không thể hiểu được lặp lại liên tục. Các triết gia thời đó đã cố gắng tìm ra tác động của khung thời gian rộng lớn này đối với kịch tính của cuộc sống con người và hành trình tìm kiếm hạnh phúc cuối cùng. Các triết gia này rơi vào hai phe lớn: những người tiến hành các suy đoán của họ trong các truyền thống của kinh Veda, các văn bản tôn giáo và nghi lễ chính thống; và các nhóm khác, không chính thống, được gọi là Samana (những người chiêm niệm), những người đã đặt câu hỏi về thẩm quyền của kinh Veda.

By the time of Siddhattha Gotama, philosophers of the Vedic and Samana schools had developed widely differing views of the laws of nature and how they affected the pursuit of true happiness. Their main points of disagreement were two:

1) Personal identity. Most Vedic and Samana philosophers assumed that a person's identity extended beyond this lifetime, eons before birth back into the past, and after death on into the future. There was some disagreement, however, as to whether one's identity from life to life would change or remain the same. The Vedas had viewed rebirth in a positive light, but by the time of Prince Siddhattha the influence of the newly discovered astronomical cycles had led those who believed in rebirth to regard the cycles as pointless and confining, and release as the only possibility for true happiness. There was, however, a Samana school of hedonist materialists, called Lokayatans, who denied the existence of any identity beyond death and insisted that happiness could be found only by indulging in sensual pleasures here and now.

Vào thời Siddhattha Gotama, các triết gia thuộc trường phái Vệ Đà và trường phái Samana đã phát triển những quan điểm khác nhau rộng rãi về các quy luật tự nhiên và cách chúng ảnh hưởng đến việc theo đuổi hạnh phúc đích thực. Hai điểm bất đồng chính của họ là:

1) Bản sắc cá nhân. Hầu hết các nhà triết học Vệ Đà và Samana đều cho rằng danh tính của một người kéo dài ngoài kiếp sống này, trước khi sinh ra trở về quá khứ, và sau khi chết vào tương lai. Tuy nhiên, có một số bất đồng về việc liệu danh tính của một người từ đời này sang đời khác sẽ thay đổi hay giữ nguyên. Kinh Veda đã coi sự tái sinh trong một ánh sáng tích cực, nhưng vào thời của Thái tử Siddhattha, ảnh hưởng của các chu kỳ thiên văn mới được phát hiện đã khiến những người tin vào sự tái sinh coi các chu kỳ là vô nghĩa và hạn chế, và giải phóng là khả năng duy nhất cho hạnh phúc thực sự . Tuy nhiên, có một trường phái duy vật theo chủ nghĩa khoái lạc Samana, được gọi là đoạn kiến (Lokayatans), người phủ nhận sự tồn tại của bất kỳ danh tính nào ngoài cái chết và khẳng định rằng hạnh phúc chỉ có thể tìm thấy bằng cách tận hưởng thú vui nhục dục ở đây và bây giờ.

2) Action and causality. The ancient Vedas had formulated a doctrine of kamma, or action, which stated that correctly performed actions played a causal role in providing for one's happiness in the life after death. The primary actions recognized by these texts, though, were ritualistic: ritually performed sacrifices, often involving the slaughter of animals, and gifts to brahmans. To be effective, the ritual actions had to be correctly performed. This concern for correct performance led the Vedists to compose ritual manuals prescribing in minute detail the proper things to do and say in the course of their rituals. They even included special chants and spells to compensate for any inadvertent mistakes in the course of a particular ritual, so great was their conviction that the quality of an act depends on its physical expression.

2) Hành động và nhân quả. Kinh Veda cổ đại đã xây dựng một học thuyết về nghiệp, hay hành vi tạo tác, trong đó nói rằng những hành động được thực hiện chính xác đóng một vai trò nhân quả trong việc mang lại hạnh phúc cho một người trong cuộc sống sau khi chết. Tuy nhiên, những hành động đó được các văn bản này công nhận là mang tính nghi lễ: tế lễ được thực hiện theo nghi thức, thường liên quan đến việc giết mổ động vật và tặng quà cho người Bà la môn. Để có hiệu quả, các hành động nghi lễ phải được thực hiện một cách chính xác. Mối quan tâm về việc thực hiện chính xác đã khiến các Vedist biên soạn các sổ tay nghi lễ quy định chi tiết từng phút những điều thích hợp cần làm và nói trong quá trình thực hiện nghi lễ của họ. Họ thậm chí còn đưa vào các câu thần chú và phép thuật đặc biệt để bù đắp cho bất kỳ sai lầm vô ý nào trong quá trình thực hiện một nghi lễ cụ thể, họ tin chắc rằng chất lượng của một hành động phụ thuộc vào biểu hiện thể chất của nó.

The Samana schools rejected the Vedic teachings on kamma, but for a variety of different reasons. One set of Samana schools, called the Ajivakas, asserted that an individual's actions were not in the least bit responsible for the course of his/her life. One branch of the Ajivakas taught that all action in the cosmos is illusory, as the only truly existing things are the unchanging substances of which the cosmos is made. Thus there is no such thing as right or wrong, good or evil, for in the ultimate sense there is no such thing as action.

Các trường phái Samana bác bỏ các giáo lý Vệ Đà về nghiệp, nhưng vì nhiều lý do khác nhau. Một tập hợp các trường phái Samana, được gọi là Ajivakas, khẳng định rằng hành động của một cá nhân không có chút trách nhiệm nào đối với quá trình sống của anh ta / cô ta. Một nhánh của Ajivakas đã dạy rằng mọi hành động trong vũ trụ đều là ảo tưởng, vì những thứ thực sự tồn tại duy nhất là những vật chất không thay đổi mà vũ trụ được tạo ra. Vì vậy, không có cái gọi là đúng hay sai, thiện hay ác, vì theo nghĩa cuối cùng thì không có cái gọi là hành động

Another branch of the Ajivakas taught that action was real but totally subject to fate: deterministic causal laws that left no room for free will. Thus they insisted that release from the round of rebirth came only when the round worked itself out. Peace of mind could be found by accepting one's fate and patiently waiting for the cycle, like a ball of string unwinding, to come to its end. Although these two positions derived from two very different pictures of the cosmos, they both led to the same conclusion: good and evil were illusory social conventions, human beings were not responsible for their acts, and human action had no role in shaping one's experience of the cosmos.

The Lokayatans came to a similar conclusion, but for different reasons. They agreed with the Vedists that physical action was real, but they maintained that it bore no results. There was no way to observe any invariable cause-effect relationship between events, they said; as a result, all events were spontaneous and self-caused. This meant that human actions had no consequences, and thus there were no such things as good and evil because no action could have a good or evil effect on anything else. They concluded that one could safely ignore moral rules in one's pursuit of sensual pleasure, and would be a fool to deny oneself immediate gratification of one's desires whenever the opportunity appeared.

Một nhánh khác của Ajivakas dạy rằng hành động là có thật nhưng hoàn toàn phụ thuộc vào số phận: các luật nhân quả xác định không còn chỗ cho ý chí tự do. Vì vậy họ nhấn mạnh rằng việc thoát ra khỏi vòng tái sinh chỉ xuất hiện khi vòng này tự chấm dứt. Bạn có thể tìm thấy sự thanh thản trong tâm hồn bằng cách chấp nhận số phận của mình và kiên nhẫn chờ đợi chu kỳ, giống như một sợi dây căng thẳng, sắp kết thúc. Mặc dù hai vị trí này xuất phát từ hai bức tranh rất khác nhau về vũ trụ, nhưng cả hai đều dẫn đến cùng một kết luận: thiện và ác là những quy ước xã hội ảo tưởng, con người không phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình, và hành động của con người không có vai trò định hình trải nghiệm của một người về vũ trụ

Trường phái Lokayatans cũng đưa ra kết luận tương tự, nhưng vì những lý do khác nhau. Họ đồng ý với những người theo thuyết Vệ đà rằng hành động thể chất là có thật, nhưng họ vẫn khẳng định rằng nó không mang lại kết quả gì. Họ nói rằng không có cách nào để quan sát bất kỳ mối quan hệ nhân-quả bất biến nào giữa các sự kiện; kết quả là tất cả các sự kiện đều là tự phát và tự gây ra. Điều này có nghĩa là hành động của con người không có hậu quả, và do đó không có những thứ gọi là tốt và xấu bởi vì không có hành động nào có thể có ảnh hưởng tốt hay xấu đến bất cứ điều gì khác. Họ kết luận rằng một người có thể bỏ qua các quy tắc đạo đức một cách an toàn để theo đuổi khoái cảm nhục dục, và sẽ là một kẻ ngu ngốc khi từ chối sự thỏa mãn ngay lập tức cho những ham muốn của bản thân bất cứ khi nào có cơ hội.

Another school, the Jains, accepted the Vedic premise that one's actions shaped one's experience of the cosmos, but they differed from the Vedas in the way they conceived of action. All action, according to them, was a form of violence. The more violent the act, the more it produced effluents, conceived as sticky substances that bound the soul to the round of rebirth. Thus they rejected the Vedic assertion that ritual sacrifice produced good kamma, for the violence involved in killing the sacrificial animals was actually a form of very sticky bad kamma. In their eyes, the only way to true happiness was to try to escape the round of kamma entirely. This was to be done by violence against themselves: various forms of self-torture that were supposed to burn away the effluents, the "heat" of pain being a sign that the effluents were burning. At the same time, they tried to create as little new kamma as possible. This practice would culminate in total abstinence from physical action, resulting in suicide by starvation, the theory being that if old kamma were completely burned away, and no new kamma created, there would be no more effluents to bind the soul to the cosmos. Thus the soul would be released.

Một trường phái khác, Jains, chấp nhận tiền đề Vệ Đà rằng hành động của một người định hình kinh nghiệm của một người về vũ trụ, nhưng chúng khác với kinh Veda ở cách họ quan niệm về hành động. Tất cả các hành động, theo họ, là một hình thức bạo lực. Hành động càng bạo lực, nó càng tạo ra nhiều chất thải, được coi là chất kết dính buộc linh hồn vào vòng tái sinh. Vì vậy, họ bác bỏ khẳng định của Vệ Đà rằng hy sinh theo nghi lễ tạo ra nghiệp tốt, vì bạo lực liên quan đến việc giết các động vật hiến tế thực sự là một hình thức của nghiệp xấu rất dính. Trong mắt họ, cách duy nhất để đạt được hạnh phúc thực sự là cố gắng thoát khỏi vòng nghiệp chướng hoàn toàn. Điều này phải được thực hiện bằng bạo lực đối với chính họ: nhiều hình thức tự tra tấn được cho là để đốt cháy các dòng nước thải, "sức nóng" của sự đau đớn là dấu hiệu cho thấy các dòng nước thải đang bốc cháy. Đồng thời, họ cố gắng tạo ra càng ít nghiệp mới càng tốt. Thực hành này lên đến đỉnh điểm là kiêng hoàn toàn các hành động thể chất, dẫn đến việc tự sát vì đói, lý thuyết cho rằng nếu nghiệp cũ bị đốt cháy hoàn toàn, và không có nghiệp mới nào được tạo ra, thì sẽ không còn dòng nước thải nào để ràng buộc linh hồn với vũ trụ. Như vậy linh hồn sẽ được giải thoát

Despite the differences between the Vedic and Jain views of action, they shared some important similarities: Both believed that the physical performance of an action, rather than the mental attitude behind it, determined its kammic result. And, both saw kamma as acting under deterministic, linear laws. Kamma performed in the present would not bear fruit until the future, and the relationship between a particular action and its result was predictable and fixed.

Mặc dù sự khác biệt giữa quan điểm của Vệ Đà và Jain về hành động, nhưngg họ có một số điểm tương đồng quan trọng: Cả hai đều tin rằng hiệu quả của một hành động bằng thể chất, chứ không phải thái độ tinh thần đằng sau nó, quyết định kết quả nghiệp của nó. Và, cả hai đều thấy nghiệp hoạt động tiền định, xác định. Nghiệp được thực hiện trong hiện tại sẽ không kết quả cho đến tương lai, và mối quan hệ giữa một hành động cụ thể và kết quả của nó là có thể dự đoán và cố định

These divergent viewpoints on the nature of action formed the backdrop for the Bodhisatta's quest for ultimate happiness. On the one side stood the Ajivakas and Lokayatans, who insisted for various reasons that human action was ineffective: either non-existent, chaotic, or totally pre-determined. On the other side stood the Vedic and Jain thinkers, who taught that physical action was effective, but that it was subject to deterministic and linear laws, and could not lead to true happiness beyond the round of rebirth. The Buddha's position on kamma broke from both sides of the issue, largely because he approached the question from a radically new direction.

Những quan điểm khác biệt này về bản chất của hành động đã tạo nên bối cảnh cho hành trình tìm kiếm hạnh phúc tối thượng của Đức Bồ Tát. Một bên là Ajivakas và Lokayatans, những người khẳng định vì nhiều lý do rằng hành động của con người là không cho nghiệp: hoặc không tồn tại, hỗn loạn, hoặc hoàn toàn được xác định trước. Ở phía bên kia, các nhà tư tưởng Vệ Đà và Kỳ Na Giáo (Jain), những người đã dạy rằng hành động thể chất tạo ra nghiệp, nhưng nó phải tuân theo các quy luật xác định và tuyến tính, và không thể dẫn đến hạnh phúc thực sự ngoài vòng tái sinh. Quan điểm của Đức Phật về nghiệp đã phá vỡ từ cả hai phía của vấn đề, phần lớn là do Ngài tiếp cận câu hỏi từ một hướng hoàn toàn mới.

The Principle of Skillful Action

Instead of arguing from abstract science, the Bodhisatta focused directly on the level of immediate experience and explored the implications of truths that both sides overlooked. Instead of fixing on the content of the views expressed, he considered the actions of those who were expressing the views. If views of determinism and total chaos were followed to their logical end, there would be no point in purposeful action, and yet the proponents of both theories continued to act in purposeful ways. If only physical acts bore consequences, there would be no point in teaching a proper understanding of the nature of action — for the mental act of understanding, right or wrong, would have no consequences — and yet all sides agreed that it was important to understand reality in the right way. The fact that each side insisted that the other used unskillful forms of observation and argumentation to advance its views implied that mental skills were crucial in determining the truth. Thus the Bodhisatta looked directly at skillful mental action in and of itself, followed its implications in developing knowledge itself as a skill — rather than as a body of facts — and found that those implications carried him all the way to release.

Yếu Tố Cơ Bản của Hành Động Thiện

Thay vì tranh luận từ khoa học trừu tượng, Đức Bồ Tát tập trung trực tiếp vào mức độ trải nghiệm tức thời và khám phá hàm ý của chân đế mà cả hai bên đều bỏ qua. Thay vì sửa chữa nội dung của quan điểm được bày tỏ, Ngài đã xem xét hành động của những người đang bày tỏ quan điểm. Nếu các quan điểm về thuyết quyết định và sự hỗn loạn hoàn toàn được theo một cách hợp lý của chúng, thì sẽ chẳng có ích lợi gì cho hành động có mục đích, và những người ủng hộ cả hai lý thuyết này vẫn tiếp tục hành động theo những cách có mục đích. Nếu chỉ có những hành động thể xác mới mang lại hậu quả, thì sẽ chẳng có ích gì khi dạy cho chúng ta hiểu đúng về bản chất của hành động - đối với hành động tinh thần mà hiểu, đúng hay sai, sẽ không có hậu quả gì - và tất cả các bên đều đồng ý rằng điều quan trọng là phải hiểu thực tế theo đúng cách. Việc mỗi bên khăng khăng rằng bên kia sử dụng các hình thức quan sát và lập luận thiếu khéo léo để nâng cao quan điểm của mình ngụ ý rằng kỹ năng tinh thần là yếu tố quan trọng trong việc xác định sự thật. Do đó, Đức Bồ Tát đã nhìn thẳng vào trong ý thức hành động thiện và của chính nó, tuân theo các hàm ý của nó trong việc phát triển kiến ​​thức như một kỹ năng - chứ không phải là một cơ thể của sự kiện - và nhận thấy rằng những tác động đó đưa Ngài bằng mọi cách để giải thoát.

The most basic lesson he learned was that mental skills can be developed. As one of the Pali discourses notes, he found that thoughts imbued with passion, aversion, and delusion were harmful; thoughts devoid of these qualities were not harmful; and he could shepherd his thoughts in such a way to avoid harm. The fact that he could develop this skill meant that mental action is not illusory, that it actually gives results. Otherwise, there would be no such thing as skill, for no actions would be more effective than others. The fact of skillfulness also implies that some results are preferable to others, for otherwise there would be no point in trying to develop skills. In addition, the fact that it is possible to learn from mistakes in the course of developing a skill — so that one's future actions may be more skillful — implies that the cycle of action, result, and reaction is not entirely deterministic. Acts of perception, attention, and intention can actually provide new input as the cycle goes through successive turns.

Bài học cơ bản nhất mà Ngài học được là các kỹ năng tinh thần có thể được phát triển. Như một trong những chú giải của các bài kinh Pali, Ngài cho thấy rằng những suy nghĩ thấm nhuần đam mê, chán ghét và si mê là có hại; những suy nghĩ không có những phẩm chất này không có hại; và Ngài có thể điều khiển suy nghĩ của mình theo cách để tránh bị tổn hại. Thực tế là Ngài có thể phát triển kỹ năng này có nghĩa là hành động của ý thức không phải là ảo tưởng, mà nó thực sự mang lại kết quả. Nếu không, sẽ không có thứ gọi là kỹ năng, vì không có hành động nào hiệu quả hơn những hành động khác. Thực tế của việc thiện cũng ngụ ý rằng một số kết quả sẽ tốt hơn những kết quả khác, vì nếu không thì sẽ chẳng ích gì khi cố gắng phát triển các kỹ năng. Ngoài ra, thực tế là có thể học hỏi từ những sai lầm trong quá trình phát triển kỹ năng - để các hành động trong tương lai của một người có thể có hành động thiện hơn - ngụ ý rằng chu kỳ của hành động, kết quả và phản ứng không hoàn toàn mang tính xác định. Các hành vi nhận thức, chú ý, và chủ tâm thực sự có thể cung cấp những dữ kiện mới khi chu kỳ tiếp diễn liên tục.

The important element in this input is attention. Anyone who has mastered a skill will realize that the process of attaining mastery requires attention to three things: (1) to pre-existing conditions, (2) to what one is doing in relation to those conditions, and (3) to the results that come from one's actions. This threefold focus enables one to monitor one's actions and adjust them accordingly. In this way, attention to conditions, actions, and effects allows the results of an action to feed back into future action, thus allowing for refinement in one's skill.

Yếu tố quan trọng trong việc cung cấp những dữ kiện là sự chú ý. Bất kỳ ai đã thành thạo một kỹ năng sẽ nhận ra rằng quá trình đạt được thành thạo đòi hỏi phải chú ý đến ba điều: (1) các điều kiện có sẵn, (2) những gì một người đang làm liên quan đến các điều kiện đó, và (3) đến kết quả đến từ hành động của một người. Trọng tâm gấp ba lần này cho phép người ta theo dõi hành động của một người và điều chỉnh chúng cho phù hợp. Bằng cách này, sự chú ý đến các điều kiện, hành động và hiệu ứng cho phép kết quả của một hành động trở thành hành động trong tương lai, do đó cho phép cải tiến kỹ năng của một người.

In the first stage of his practice, the Bodhisatta refined the skillfulness of his mind until it reached a state of jhana, or concentrated mental absorption, marked by perfect equanimity and mindfulness. The question that occurred at that point was how much further the principle of skillful action could be applied. Did intentional action directly or indirectly explain all experience in the world, or only some of it? If all of it, could the same principle be used to gain escape from the suffering inherent in the world, or were the Jains right in saying that action could only keep one bound to the cycle of suffering?

Trong giai đoạn đầu tiên của sự tu tập, tâm Đức Bồ Tát đã tu tập kỹ năng tinh xảo cho đến khi đạt đến trạng thái thiền, hay sự tập trung tinh thần, đạt được sự tĩnh lặng và chánh niệm hoàn hảo. Câu hỏi đặt ra vào thời điểm đó là nguyên tắc hành động khéo léo có thể được áp dụng thêm bao nhiêu. Hành động có chủ đích giải thích trực tiếp hay gián tiếp tất cả trải nghiệm trên thế giới hay chỉ một số trong đó? Nếu tất cả những điều đó, liệu cùng một nguyên tắc có thể được sử dụng để thoát khỏi những đau khổ vốn có trên thế gian hay không, hay Jains đã đúng khi nói rằng hành động chỉ có thể giữ một người bị ràng buộc vào vòng đau khổ?

As the texts tell us, the Bodhisatta's first attempt to answer these questions was to direct his mind — now stable, bright, clear, and malleable — to knowledge of previous lifetimes. If it were true that he had been born before, his actions from past lives might explain experiences in this life — such as the circumstances into which he was born — for which no actions in this life could account. He found that he could indeed remember previous lives, many thousands of them: what he had been born as, where, what his experience of pleasure and pain, how he had died and then experienced rebirth as something else.

Như các bản chú giải cho chúng ta biết, nỗ lực đầu tiên của Đức Bồ Tát để trả lời những câu hỏi này trực tiếp tâm của ngài là - bây giờ tĩnh lặng, trong sáng, rõ ràng và thích nghi - Túc Mạng Minh là tuệ biết rỏ những kiếp quá khứ, việc nhận biết về các kiếp trước. Nếu đúng là Ngài đã được sinh ra trước đây, thì những hành động của Ngài từ kiếp trước có thể giải thích những trải nghiệm trong cuộc sống này - chẳng hạn như hoàn cảnh mà Ngài được sinh ra - mà không có hành động nào trong cuộc sống này có thể giải thích được. Ngài thấy rằng Ngài thực sự có thể nhớ các kiếp trước, hàng ngàn người trong số : Ngài đã được sinh ra như thế nào, ở đâu, trải nghiệm của Ngài về niềm vui và nỗi đau, Ngài đã chết như thế nào và sau đó trải qua tái sinh như một cái gì khác.

This first insight, however, did not fully answer his question. He needed to know if kamma was indeed the principle that shaped life, not only in terms of the narrative of his own lives, but also as a cosmic principle effecting the lives of all beings. So he directed his mind to knowledge of the passing away and arising of beings throughout the cosmos, and found that he could indeed see beings dying and gaining rebirth, that the pleasure and pain of their new lives was shaped by the quality of their kamma, and the kamma in turn was dependent on the views that gave rise to it. Right views — believing that good kamma, based on skillful intentions, gave rise to happiness — lay behind good kamma, while wrong views — not believing these principles — lay behind bad.

(Thiên Nhãn Minh) Tuy nhiên, cái tuệ đầu tiên này đã không trả lời đầy đủ câu hỏi của Ngài. Ngài cần biết nghiệp có thực sự là căn bản hình thành sự sống, không chỉ về mặt miêu tả cuộc sống của chính Ngài, mà còn là nguyên lý vũ trụ ảnh hưởng đến cuộc sống của tất cả chúng sinh. Vì vậy, Ngài hướng tâm trí của mình đến sự nhận biết về sự ra đi và sự phát sinh của chúng sinh trên khắp vũ trụ, và nhận thấy rằng Ngài thực sự có thể nhìn thấy chúng sinh chết và tái sinh, rằng niềm vui và nỗi đau của cuộc sống mới của họ được định hình bởi phẩm chất của nghiệp của họ, và nghiệp lại phụ thuộc vào những quan điểm đã tạo ra nó. Chánh kiến - tin rằng nghiệp thiện, dựa trên những ý định thiện, sinh ra hạnh phúc - nằm sau nghiệp tốt, trong khi tà kiến - không tin những nguyên tắc này - ẩn sau điều xấu.

Even this second insight, however, didn't fully answer his question. To begin with, there was no guarantee that the visions providing this knowledge were true or complete. And, even if they were, they did not tell whether there was a form of right view that would underlie a level of skillful kamma that would lead, not simply to a pleasant rebirth within the cycle of rebirth, but to release from the cycle altogether.

Tuy nhiên, ngay cả ở tuệ thứ hai này cũng không trả lời đầy đủ câu hỏi của Ngài. Đầu tiên, không có gì đảm bảo rằng tầm nhìn cung cấp kiến thức này là đúng hoặc đầy đủ. Và, ngay cả khi có, họ cũng không biết liệu có một dạng chánh kiến nào làm nền tảng cho một cấp độ thiện xảo dẫn đến nghiệp, không chỉ đơn giản là đến một sự tái sinh dễ chịu trong vòng tái sinh, mà là giải thoát hoàn toàn khỏi chu kỳ.

Here was where the Bodhisatta turned to look again at the events in the mind, in and of themselves in the present, and in particular at the process of developing of skillfulness, to see if it offered any clues as to what a right view leading out of the cycle of rebirth might be. As we noted above, the process of skillfulness implies two things: a non-linear principle of cause and effect, involving feedback loops to allow for greater skillfulness; and the fact that some results are preferable to others. The Bodhisatta used these principles, in their most basic form, to divide experience into four categories based on two sets of variables: cause and effect on one hand, and stress and its cessation on the other. He then dropped the categories in which the first two knowledges had been expressed. In other words, he dropped the sense of "self" and "others" in which the narrative of the first knowledge had been expressed; and the sense of "beings" inhabiting a "world" in which the cosmology of the second knowledge had been expressed. In his place, he analyzed experience in categories empty of those concepts, simply in terms of the direct experience of stress, its cause, its cessation, and the path of mental factors leading to its cessation.

(Lậu tận minh) Đây là nơi mà Đức Bồ Tát nhìn lại các sự kiện trong tâm, trong và của bản thân trong hiện tại, và đặc biệt là trong quá trình phát triển kỹ năng, để xem liệu nó có đưa ra bất kỳ manh mối nào về cái nhìn đúng đắn dẫn đến không. có thể là của chu kỳ tái sinh. Như chúng ta đã lưu ý ở trên, quá trình khéo léo bao hàm hai điều: một nguyên tắc nhân quả phi tuyến tính, liên quan đến các vòng phản hồi để cho phép kỹ năng cao hơn; và thực tế là một số kết quả thích hợp hơn những kết quả khác. Đức Bồ Tát đã sử dụng những nguyên tắc này, ở dạng cơ bản nhất của chúng, để chia trải nghiệm thành bốn loại dựa trên hai nhóm biến số: một mặt là nguyên nhân và kết quả, và căng thẳng và sự chấm dứt của nó ở mặt khác. Sau đó, Ngài bỏ các hạng mục mà hai kiến ​​thức đầu tiên đã được thể hiện. Nói cách khác, Ngài đã bỏ đi ý thức về "ta" và "họ", trong đó sự tường thuật của tri thức đầu tiên đã được thể hiện; và ý thức về "chúng sinh" đang sinh sống trong một "thế giới" trong đó vũ trụ học của tri thức thứ hai đã được thể hiện. Thay vào đó, Ngài phân tích trải nghiệm theo các phạm trù không có khái niệm đó, đơn giản là về sự khổ, sự không hài lòng, không thoả mãn, áp lưc căng thẳng (Khổ Thánh Đế), nguyên nhân cuả sự không thoả mãn này là sự ham muốn, muốn trở thành, muốn không trở thành;(Khổ Tập Thánh Đế), sự chấm dứt của nó (Diệt Khổ Thánh Đế) và con đường tu tập dẫn đến sự chấm dứt khổ(Đạo Diệt Khổ Thánh Đế) .

In the first round of this new insight, he was able to identify each of these categories: stress, in ultimate terms, was attachment to anything that might be identified as a "self." The cause of stress was craving, which in turn was based on ignorance about the true nature of stress. The cessation of stress was the total abandoning of craving, while the path to the cessation of stress was a cluster of eight factors: right view, right resolve, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness, and right concentration. In the second round of this insight, he realized the duties that had to be performed with regard to each of these categories. Stress was to be comprehended, its cause abandoned, its cessation realized, and the path developed. He then pursued those duties until the mental powers of the path were so fully developed that stress was totally comprehended. This meant that there were no more objects on which craving could land, and so it was naturally abandoned. Thus in the third round of this insight he realized that the duties with regard to all four truths had been fulfilled. At that point there was nothing further for the mind to do — there was nothing more it could do in these terms. Right view and concentration — the mental qualities lying at the heart of the path — had done such a thorough job of ferreting out stress and craving that, as their final act, they detected the subtle stress and craving inherent in the act of right view and right concentration themselves. Thus, as its final act, the mind let go even of these path factors, just as a carpenter would let go of his tools when they had finished their job.

Trong tuệ thứ nhất (Túc Mạng Minh), Ngài đã có thể xác định từng loại: phiền não, trong những điều khoản cuối cùng, là sự gắn bó với bất cứ thứ gì có thể được xác định là "tự ngã". Nguyên nhân của phiền não là do thèm muốn, cái mà dựa trên sự thiếu hiểu biết về bản chất thực sự của phiền não. Sự chấm dứt căng thẳng là hoàn toàn từ bỏ tham ái, trong khi con đường dẫn đến sự chấm dứt phiền não là Bát Thánh Đạo: chánh kiến, chánh định, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định. Trong tuệ thứ hai Thiên Nhãn Minh, Ngài nhận ra các nhiệm vụ phải thực hiện đối với từng hạng mục này. Phiền não cần được thấu hiểu, nguyên nhân của nó bị loại bỏ, sự chấm dứt của nó được nhận ra, và con đường tu tập. Sau đó Ngài theo đuổi những nhiệm vụ đó cho đến khi sức mạnh tinh thần của con đường tu tập phát triển đầy đủ cho phiền não hoàn toàn được thấu hiểu. Điều này có nghĩa là không còn đối tượng nào mà sự thèm muốn có thể nắm bắt, và vì vậy nó tự nhiên bị bỏ rơi. Vì vậy, trong tuệ thứ ba (Lậu Tận Minh) Ngài nhận ra rằng các bổn phận liên quan đến cả Tứ Diệu Đế đã được hoàn thành. Tại thời điểm đó, tâm không thể làm gì thêm nữa - không thể làm gì hơn nữa mà nó không thể làm được trong những điều kiện này. Chánh kiến ​​và sự tập trung - những phẩm chất tinh thần nằm ở trung tâm của con đường - đã thực hiện một công việc triệt để xua tan phiền não và thèm muốn đến nỗi, như hành động cuối cùng của chúng, chúng phát hiện ra sự phiền não và thèm muốn tinh vi vốn có trong hành động của chính kiến ​​và chính mình tập trung. Vì vậy, hành động cuối cùng của nó, tâm hãy buông bỏ ngay cả những yếu tố con đường này, giống như một người thợ mộc sẽ buông bỏ công cụ của mình khi họ đã hoàn thành công việc của mình.

As a result, all present mental input into the processes of experience naturally came to a halt in a state of non-fashioning. This state opened onto an experience of total liberation, called Unbinding (nibbana; in Sanskrit, nirvana). Realizing that this Unbinding was the total cessation of suffering and of the processes of death and rebirth as generated in the mind, the Bodhisatta, now the Buddha, knew that his questions had been answered. Skillful action, based on right view in the form of the four categories based around stress — which he termed the four noble truths — could indeed bring about a total happiness free from the limitations of birth, aging, illness, and death.

Kết quả là, tất cả tư liệu tinh thần được đưa vào các quá trình trải nghiệm tự nhiên ở trạng thái không hình thức. Trạng thái này mở ra một trải nghiệm về sự giải thoát hoàn toàn, được gọi là Giải thoát (niết-bàn, trong tiếng Phạn, nirvana). Nhận ra rằng sự Không ràng buộc này là sự chấm dứt hoàn toàn của đau khổ và của các quá trình chết và tái sinh như được tạo ra trong tâm, Đức Bồ Tát, bây giờ là Đức Phật, biết rằng các câu hỏi của ngài đã được giải đáp. Hành động thiện, dựa trên chánh kiến dưới dạng bốn loại dựa trên phiền não - mà Ngài gọi là Tứ Diệu Đế - thực sự có thể mang lại một hạnh phúc toàn diện, không còn những giới hạn của sinh, lão, bệnh, tử.

The Teaching of Right View

The texts tell us that the Buddha spent the first seven weeks after his Awakening experiencing that happiness and freedom. Then he decided to teach the way to that happiness to others. His teachings were based on the three insights that had led to his own experience of Awakening. Because right view lay at the heart of his analysis of kamma and the way out of kamma, his teachings focused in particular on the two forms of right view that he learned in the course of those insights: the form he learned in the second insight, which led to a favorable rebirth; and the form he learned in the third insight, which led out from the cycle of death and rebirth once and for all.

The first level of right view the Buddha termed mundane right view. He expressed it in these terms:

Học Thuyết Chánh Kiến

Các bản chú giải cho chúng ta biết rằng Đức Phật đã trải qua bảy tuần đầu tiên sau khi Giác Ngộ của Ngài để trải nghiệm hạnh phúc và tự do đó. Rồi Ngài quyết định dạy con đường dẫn đến hạnh phúc đó cho người khác. Giáo lý của Ngài dựa trên ba hiểu biết đã dẫn đến kinh nghiệm Giác Ngộ của chính Ngài. Bởi vì chánh kiến nằm ở trọng tâm của sự phân tích nghiệp và con đường thoát khỏi nghiệp, những lời dạy của Ngài đặc biệt tập trung vào hai dạng chánh kiến mà Ngài học được trong quá trình thấu hiểu đó: dạng mà Ngài học được trong tuệ thứ hai, dẫn đến một sự tái sinh thuận lợi; và hình thức mà Ngài học được trong tuệ thứ ba, dẫn đến vòng luân hồi của cái chết và sự tái sinh một lần và mãi mãi.

Cấp độ chánh kiến đầu tiên mà Đức Phật gọi là chánh kiến trần tục. Ngài thể hiện điều đó bằng những điều khoản sau:

There is what is given, what is offered, what is sacrificed. There are fruits and results of good and bad actions. There is this world and the next world. There is mother and father. There are spontaneously reborn beings; there are brahmans and contemplatives who, faring rightly and practicing rightly, proclaim this world and the next after having directly known and realized it for themselves.

M 117

Có bố thí, có cúng dường, có tế tự, có quả báo các nghiệp thiện ác, có đời này, có đời khác, có mẹ, có cha, có các loại hóa sanh; ở đời có các vị Sa-môn, Bà-la-môn, chánh hướng, chánh hạnh, sau khi với thượng trí tự mình chứng đạt đời này và đời khác lại tuyên bố lên. Như vậy, này các Tỷ-kheo là chánh kiến hữu lậu, thuộc phước báo, đưa đến quả sanh y

M 117

This passage means that there is merit in generosity; that the moral qualities of good and bad are inherent in the universe, and not simply social conventions; that there is life after death; that one has a true moral debt to one's parents; and that there are people who have lived the renunciate's life properly in such a way that they have gained true and direct knowledge of these matters. These beliefs form the minimum prerequisite for following the path of skillful action that will lead to happy results within the cycle of rebirth. Thus this might be termed right view for the purpose of a happy rebirth.

Đoạn kinh này có nghĩa là có công đức bố thí; đó là những phẩm chất đạo đức tốt và xấu vốn có trong vũ trụ, và không chỉ đơn giản là những quy ước xã hội; đó là có sự sống sau cái chết; đó là một người có một món nợ đạo đức thực sự đối với cha mẹ của mình; và rằng có những người đã sống cuộc sống của người xuất gia một cách đúng đắn theo cách mà họ đã đạt được tri kiến chân chính và trực tiếp về những vấn đề này. Những niềm tin này tạo thành điều kiện tiên quyết tối thiểu để đi theo con đường hành động thiện sẽ dẫn đến kết quả hạnh phúc trong vòng tái sinh. Vì vậy, đây có thể được gọi là chánh kiến cho mục đích tái sinh hạnh phúc

The second level of right view, which the Buddha termed transcendent right view, he expressed simply as:

Knowledge in terms of stress, knowledge in terms of the origination of stress, knowledge in terms of the cessation of stress, knowledge in terms of the way of practice leading to the cessation of stress.

D 22

In other words, this level of right view consists of knowledge in terms of the four noble truths, and might be called right view for the purpose of escaping from rebirth altogether.

Cấp độ chánh kiến thứ hai, Đức Phật gọi là chánh tri kiến , ngài diễn đạt đơn giản là:

Này các Tỷ kheo, tri kiến về Khổ, tri kiến về Khổ tập, tri kiến về Khổ diệt, tri kiến về Khổ diệt đạo. Này các Tỷ kheo, như vậy gọi là Chánh tri kiến..

D 22

Trong cách nói khác, cấp độ chánh kiến này bao gồm tri kiến về bốn chân lý cao cả, và có thể được gọi là chánh kiến với mục đích hoàn toàn thoát khỏi tái sinh..

Just as the third insight grew out of the first two insights, the second level of right view grows out of the first. Its purpose is impossible to fathom if taken outside of the context of mundane good and bad kamma and their good and bad results. Together, the two levels of right view provide a complete and complementary picture of the nature of kamma as viewed from two different perspectives. The first level views kamma as a cosmic principle at work in the narrative of each individual's many lives. The second form views kamma as a principle at work in the present moment, approached from a frame of mind empty of the categories of self and other, being and non-being, which lie at the essence of narratives and cosmologies.

Cũng giống như tuệ thứ ba phát triển từ hai tuệ đầu, tuệ thứ hai phát triển từ tuệ thứ nhất. Mục đích của nó là không thể hiểu được nếu đặt ngoài bối cảnh của nghiệp trần tục tốt và xấu và kết quả tốt và xấu của chúng. Kết hợp với nhau, hai cấp độ chánh kiến cung cấp một bức tranh hoàn chỉnh và bổ sung về bản chất của nghiệp khi nhìn từ hai khía cạnh khác nhau. Cấp độ đầu tiên xem nghiệp như một nguyên lý vũ trụ đang hoạt động trong diễn tả về nhiều kiếp sống của mỗi cá nhân. Hình thức thứ hai xem nghiệp như một nguyên tắc đang hoạt động trong thời điểm hiện tại, được tiếp cận từ một khung tâm thức trống rỗng về các phạm trù ngã và khác, hữu thể và phi hữu thể, nằm ở bản chất của tường thuật và vũ trụ học.

To see how these two levels of right view complement one another in shaping the form and content of the Buddha's teachings, we can look at his most common mode of presenting his teachings: the "graduated discourse" (anupubbi-katha), beginning with the principle of good and bad kamma and gradually building up through the topics of generosity, virtue, heaven, drawbacks, and renunciation, ending with the topic of the four noble truths. There were several reasons for this gradual approach, but primarily they came down to the fact that the four truths were too abstract to appear immediately relevant, and the goal of escape from rebirth made no sense unless viewed in the proper context. The role of the graduated discourse was to provide that sense of relevance and context.

Để thấy được hai cấp độ chánh kiến này bổ sung cho nhau như thế nào trong việc định hình thức và nội dung của giáo lý Đức Phật, chúng ta có thể xem phương thức phổ biến nhất của Ngài trong việc trình bày giáo lý của mình: “bài giảng tốt nghiệp” (anupubbi-katha - Pháp đi theo tuần tự), bắt đầu bằng nguyên tắc nghiệp tốt và xấu và dần dần xây dựng qua các chủ đề về bố thí, đức hạnh, thiện lương, hạn chế và xuất gia, kết thúc với chủ đề Tứ diệu đế. Có một số lý do giải thích cho cách tiếp cận dần dần này, nhưng chủ yếu họ đi đến thực tế là bốn sự thật quá trừu tượng để có vẻ phù hợp ngay lập tức, và mục tiêu thoát khỏi sự tái sinh sẽ không có ý nghĩa gì nếu không được xem xét trong bối cảnh thích hợp. Vai trò của diễn ngôn tốt nghiệp là cung cấp cảm giác liên quan và bối cảnh.

Starting with the first level of right view, the Buddha would describe good actions under two main categories: generosity and virtue. Together, the two categories could be stretched to cover almost any type of good physical, verbal, or mental deeds. For example, generosity covers not only the giving of material gifts, but also generosity with one's time, knowledge, gratitude, and forgiveness. Virtue begins with the five precepts — against killing, stealing, illicit sex, lying, and taking intoxicants — includes prohibitions against five forms of wrong livelihood — selling slaves, intoxicants, poisons, weapons, and animals to be killed for food — and goes on to cover abstention from all forms of harmful behavior. Thus good behavior, taken under the categories of generosity and virtue, means both refraining from harmful behavior and performing actions that are beneficial.

Bắt đầu với cấp độ đầu tiên của chánh kiến, Đức Phật mô tả những hành động tốt dưới hai phạm trù chính: bố thí và đức hạnh. Cùng với nhau, hai đề mục có thể được mở rộng để bao gồm hầu hết mọi loại hành động thiện về thể chất, lời nói hoặc tinh thần. Ví dụ, sự hào phóng không chỉ bao gồm việc tặng những món quà vật chất mà còn bao gồm cả sự hào phóng với thời gian, tri kiến, lòng biết ơn và sự tha thứ của một người. Đức hạnh bắt đầu với năm giới - không sát sanh,không trộm cắp, không quan hệ tình dục bất chính, không nói dối và không uống các chất say - bao gồm những điều cấm chống lại năm hình thức sinh kế sai trái - bán nô lệ, bán chất say, bán chất độc, bán vũ khí và động vật bị giết để làm thực phẩm - và tiếp tục để bao gồm việc kiêng đối với tất cả các hình thức hành vi có hại. Vì vậy, hành động thiện, được xem xét dưới các phạm trù của lòng rộng lượng và đức hạnh, có nghĩa là cả việc kiềm chế hành vi ác hại và thực hiện các hành động thiện có lợi.

Having described good actions, the Buddha would describe their rewards, as results of the cosmic principle of kamma. The rewards here include both those visible in this world and those to be anticipated in the next. The Buddhist texts contain glowing descriptions both of the sense of well-being in the immediate present that results from good actions, and of the exquisite pleasures that rebirth in heaven entails. Implicit in these descriptions is the dark side of the principle of kamma: the inherent punishments that come from bad behavior, again both in this world and in the next: in the various levels of hell and other lower births — such as a common animal — and again in this world on one's return to the human state.

Sau khi định rõ những hành động thiện, Đức Phật cho biết phước báu từ những hành động thiện, là kết quả yếu tố hài hoà cơ bản của nghiệp. Phước báu ở đây bao gồm cả những thứ có thể nhìn thấy trong thế giới này và những thứ sẽ nhận được trong tương lai. Các Kinh Phật giáo có những mô tả rực rỡ về cả cảm giác hạnh phúc trong hiện tại tức thời là kết quả của những hành động thiện và những hạnh phúc vi tế mà việc tái sinh trên thiên giới đưa đến. Ẩn chứa trong những mô tả này là mặt tối của nguyên lý nghiệp: những hình phạt cố hữu đến từ hành vi bất thiện, một lần nữa ở cả thế gian này và đời sau: trong các tầng địa ngục khác nhau và các hạ sinh khác - chẳng hạn như động vật thông thường - và một lần nữa trong thế giới này khi một người trở lại trạng thái con người.

However — because finite actions can't produce infinite results — the rewards of kamma, good or bad, are not eternal. This point led naturally to the next topic in the discourse: the drawbacks of the cycle of rebirth as a whole. No happiness within the cycle is permanent; even the most refined heavenly pleasures must end when the force of one's good kamma ends, and one is forced to return to the rough and tumble of lower realms of being. The changeability of the mind lying behind the creation of kamma means that the course of an individual's life through the realms of rebirth is not necessarily ever upward. In fact, as the Buddha saw from his remembrance of his own lives, the course leading from one rebirth to another is filled with aimless ups and downs, like a stick thrown into the air: sometimes landing on this end, sometimes on the other end, sometimes in the middle. The amount of suffering and stress suffered in the course of these many throws is more than can be measured.

Tuy nhiên - bởi vì những hành động hữu hạn không thể tạo ra kết quả vô hạn - phước báu của nghiệp, tốt hay xấu, không phải là vĩnh cửu. Điểm này tự nhiên dẫn đến chủ đề tiếp theo trong bài luận: những mặt hạn chế của chu kỳ tái sinh nói chung. Không có hạnh phúc nào trong chu kỳ là vĩnh viễn; ngay cả những hạnh phúc tinh khiết nhất trên cõi trời cũng phải kết thúc khi lực của nghiệp thiện của một người kết thúc, và người ta buộc phải quay trở lại cảnh giới thô và lộn xộn của chúng sinh. Khả năng thay đổi của tâm nằm sau việc tạo nghiệp có nghĩa là quá trình cuộc sống của một cá nhân thông qua các cảnh giới tái sinh không nhất thiết phải trở lên. Trên thực tế, như Đức Phật đã thấy từ việc hồi tưởng lại cuộc đời của chính mình, quá trình dẫn từ tái sinh này đến tái sinh khác chứa đầy những thăng trầm không mục đích, giống như một cây gậy ném vào không trung: đôi khi hạ cánh ở đầu này, đôi khi ở đầu kia , đôi khi ở giữa. Số lượng đau khổ và phiền não phải chịu trong quá trình ném ra nhiều hơn có thể được đo lường

These considerations led naturally to the next topic of the discourse: renunciation. Having realized the fleeting nature of even the most refined pleasures in the round of rebirth, the sensitive listener would be prepared to look favorably on the idea of renouncing any aspiration for happiness within the round, and cultivating the path to release. The texts compare this mental preparation to the act of washing a cloth so that it would be ready to take dye. This was when the Buddha would take the listener beyond the level of mundane right view and broach the transcendent level.

Những nghiên cứu này đương nhiên dẫn đến chủ đề tiếp theo của bài viết: sự quên mình. Sau khi nhận ra bản chất thoáng qua của ngay cả những thú vui tinh tế nhất trong vòng tái sinh, người nghe nhạy cảm sẽ sẵn sàng nhìn nhận thuận lợi về ý tưởng từ bỏ bất kỳ khát vọng hạnh phúc nào trong vòng tái sinh, và trau dồi con đường giải thoát. Các bản văn so sánh sự chuẩn bị tinh thần này với hành động giặt một tấm vải để sẵn sàng đem đi nhuộm. Đây là lúc Đức Phật đưa người nghe vượt ra khỏi cấp độ của chánh kiến trần tục và truyền bá cấp độ siêu việt.

The texts describing the steps of the graduated discourse describe this step simply as "the teaching special to the Buddhas: stress, its origination, its cessation, and the path," i.e., the four noble truths. However, the four noble truths are simply one out of three interrelated versions of transcendent right view taught in the texts: (1) this/that conditionality (idappaccayata), (2) dependent co-arising (paticca samuppada), and (3) the four noble truths (ariya sacca). In order to gain a full picture of the Buddha's teachings on the nature of kamma, we should look at all three.

Các bài văn mô tả các bước của bài pháp được phân chia mô tả bước này đơn giản là "giáo lý đặc biệt dành cho chư Phật: Khổ, Nguyên Nhân khổ, diệt khổ và con đường tu tập để diệt khổ," tức là Tứ Diệu Đế. Tuy nhiên, bốn chân lý cao cả chỉ đơn giản là một trong ba phiên bản có liên quan với nhau của chánh tri kiến được giảng dạy trong các bài kinh: (1) có cái này / thì có cái kia (idappaccayata), (2) lý duyên khởi (paticca samuppada), và (3) Tứ Diệu Đế (ariya sacca). Để có được bức tranh đầy đủ về lời dạy của Đức Phật về bản chất của nghiệp, chúng ta nên xem xét cả ba.

This/That Conditionality

The most basic version of right view is simply the causal principle of feedback loops that the Buddha found in the process of developing skillful action. He called this principle "this/that conditionality" because it explains experience in terms that are immediately present to awareness — events that can be pointed to in the mind as "this" or "that" — rather than principles hidden from awareness. He expressed this principle in a simple-looking formula:

"(1) When this is, that is.
(2) From the arising of this comes the arising of that.
(3) When this isn't, that isn't.
(4) From the stopping of this comes the stopping of that."

A X.92

This/That Conditionality

Hầu hêt các bản dịch cơ bản nhất của chánh kiến chỉ đơn giản là nguyên lý nhân quả của các vòng luân hồi mà Đức Phật đã tìm ra trong quá trình tu tập hành động thiện. Ngài gọi nguyên tắc này là "điều kiện này / điều kiện đó" bởi vì nó giải thích kinh nghiệm theo các thuật ngữ hiện diện ngay lập tức đối với nhận thức - các sự kiện có thể được chỉ ra trong tâm là "điều này" hoặc "điều đó" - chứ không phải là các nguyên tắc ẩn khỏi nhận thức. Ngài đã diễn đạt nguyên tắc này trong một công thức đơn giản:

"(1) Do cái này có, cái kia có..
(2) Do cái này sanh, cái kia sanh..
(3)Do cái này không có, cái kia không có..
(4) Do cái này diệt, cái kia diệt."

A X.92

Of the many possible ways of interpreting this formula, only one does justice both to the way the formula is worded and to the complex, fluid manner in which specific examples of causal relationships are described in the texts. That way is to view the formula as the interplay of two causal principles: one diachronic, acting over time; and the other synchronic, acting in a single instant of time. The two principles combine to form a non-linear pattern. The diachronic principle — taking (2) and (4) as a pair — connects events over time; the synchronic principle — (1) and (3) — connects objects and events in the present moment. The two principles intersect, so that any given event is influenced by two sets of conditions: input from the past and input from the present.

Trong số rất nhiều cách có thể diễn giải công thức này, chỉ có một cách phù hợp với cả cách thức được diễn đạt của công thức và cách phức tạp, linh hoạt trong đó các ví dụ cụ thể về mối quan hệ nhân quả được mô tả trong các kinh sách. Theo cách đó, coi công thức như là sự tác động lẫn nhau của hai nguyên tắc nhân quả: một là diachronic, hoạt động theo thời gian; và đồng bộ khác, hoạt động trong một khoảnh khắc thời gian. Hai nguyên tắc kết hợp để tạo thành một mô hình phi tuyến tính. Nguyên lý song điện tử - lấy (2) và (4) làm một cặp - kết nối các sự kiện theo thời gian; nguyên tắc đồng bộ - (1) và (3) - kết nối các đối tượng và sự kiện trong thời điểm hiện tại. Hai nguyên tắc giao nhau, do đó bất kỳ sự kiện nhất định nào cũng chịu ảnh hưởng của hai bộ điều kiện: đưa vào vào từ quá khứ và đưa vào vào từ hiện tại.

Although each principle seems simple, their interaction makes their consequences very complex. To begin with, every act has repercussions in the present moment together with reverberations extending into the future. Depending on the intensity of the act, these reverberations can last for a very short or a very long time. Thus every event takes place in a context determined by the combined effects of past events coming from a wide range in time, together with the effects of present acts. These effects can intensify one another, can coexist with little interaction, or can cancel one another out. Thus, even though it is possible to predict that a certain type of act will tend to give a certain type of result — for example, acting on anger will lead to pain — there is no way to predict when or where that result will make itself felt.

Mặc dù mỗi yếu tố cơ bản có vẻ đơn giản, nhưng sự tương tác của chúng làm cho hậu quả của chúng rất phức tạp. Để bắt đầu, mọi hành động đều có kết quả trong thời điểm hiện tại cùng với âm vang kéo dài đến tương lai. Tùy thuộc vào cường độ của hành động, những âm vang này có thể kéo dài trong một thời gian rất ngắn hoặc rất dài. Vì vậy, mọi sự kiện diễn ra trong bối cảnh được xác định bởi tác động tổng hợp của các sự kiện trong quá khứ đến từ một phạm vi rộng về thời gian, cùng với tác động của các hành vi hiện tại. Những tác động này có thể tăng cường lẫn nhau, có thể cùng tồn tại với ít tương tác hoặc có thể triệt tiêu lẫn nhau. Do đó, mặc dù có thể dự đoán rằng một loại hành động nhất định sẽ có xu hướng mang lại một loại kết quả nhất định - ví dụ, hành động trong cơn tức giận sẽ dẫn đến đau khổ - không có cách nào để dự đoán khi nào hoặc ở đâu kết quả đó sẽ tự tạo ra.

The complexity of the system is further enhanced by the fact that both causal principles meet at the mind. Through its views and intentions, the mind keeps both principles active. Through its sensory powers, it is affected by the results of the causes it has set in motion. This allows for the causal principles to feed back into themselves, as the mind reacts to the results of its own actions. These reactions can form positive feedback loops, intensifying the original input and its results, much like the howl in a speaker placed next to the microphone feeding into it. They can also create negative feedback loops, counteracting the original input, in the same way that a thermostat turns off a heater when the temperature in a room is too high, and turns it on again when it gets too low. Because the results of actions can be immediate, and the mind can react to them immediately, these feedback loops can sometimes quickly spin out of control; at other times, they may provide skillful checks on one's behavior. For example, a man may act out of anger, which gives him an immediate sense of dis-ease to which he may react with further anger, thus creating a snowballing effect. On the other hand, he may come to understand that the anger is causing his dis-ease, and so immediately attempt to stop it. However, there can also be times when the results of his past actions may obscure his present dis-ease, so that he doesn't immediately react to it at all. This means that, although there are general patterns relating habitual acts to their results, there is no set one-for-one, tit-for-tat, relationship between a particular action and its results. Instead, the results are determined by the entire context of the act, shaped by the actions that preceded or followed it, and by one's state of mind at the time of acting or experiencing the result.

Sự phức tạp của hệ thống được nâng cao hơn nữa bởi thực tế là cả hai nguyên tắc nhân quả đều gặp nhau ở tâm. Thông qua quan điểm và chủ ý của nó, tâm giữ cho cả hai nguyên tắc hoạt động. Thông qua sức mạnh cảm giác của nó, nó bị ảnh hưởng bởi kết quả của những nguyên nhân đã đưa ra trong hành động. Điều này cho phép các nguyên tắc nhân quả phản ứng lại chúng, khi tâm phản ứng với kết quả của các hành động của chính nó. Những phản ứng này có thể tạo thành các vòng phản hồi tích cực dữ kiện ban đầu và kết quả của nó, giống như tiếng hú trong loa đặt bên cạnh micrô truyền vào đó. Chúng cũng có thể tạo ra các vòng phản hồi tiêu cực chống lại những dữ kiện ban đầu, giống như cách bộ điều nhiệt tắt máy sưởi khi nhiệt độ trong phòng quá cao và bật lại khi xuống quá thấp. Bởi vì kết quả của các hành động có thể ngay lập tức và tâm có thể phản ứng với chúng ngay lập tức, những vòng phản hồi này đôi khi có thể nhanh chóng vượt ra ngoài tầm kiểm soát; vào những thời điểm khác, họ có thể kiểm tra kỹ lưỡng hành vi của một người. Ví dụ, một người đàn ông có thể hành động vì tức giận, điều này mang lại cho anh ta cảm giác không thoải mái ngay lập tức mà anh ta có thể phản ứng bằng cách tức giận hơn nữa, do đó tạo ra hiệu ứng ném tuyết. Mặt khác, anh ta có thể hiểu rằng cơn giận đang khiến anh ấy khó chịu, và vì vậy ngay lập tức cố gắng ngăn chặn nó. Tuy nhiên, đôi khi kết quả của những hành động trong quá khứ của anh ấy có thể che lấp đi sự không thoải mái hiện tại của anh ấy, khiến anh ấy không phản ứng ngay lập tức với nó. Điều này có nghĩa là, mặc dù có những khuôn mẫu chung liên quan đến hành vi thói quen với kết quả của chúng, nhưng không có mối quan hệ nào là ăn miếng trả miếng giữa một hành động cụ thể và kết quả của nó. Thay vào đó, kết quả được xác định bởi toàn bộ bối cảnh của hành động, được định hình bởi các hành động xảy ra trước hoặc theo sau nó, và bởi trạng thái tâm của một người tại thời điểm hành động hoặc trải nghiệm kết quả

In this way, the combination of two causal principles — influences from the past interacting with those in the immediate present — accounts for the complexity of causal relationships on the level of immediate experience. However, the combination of the two principles also opens the possibility for finding a systematic way to break the causal web. If causes and effects were entirely linear, the cosmos would be totally deterministic, and nothing could be done to escape from the machinations of the causal process. If they were entirely synchronic, there would be no relationship from one moment to the next, and all events would be arbitrary. The web could break down totally or reform spontaneously for no reason at all. However, with the two modes working together, one can learn from causal patterns observed from the past and apply one's insights to disentangling the same causal patterns acting in the present. If one's insights are true, one can then gain freedom from those patterns. This allows for escape from the cycle of kamma altogether by developing kamma at a heightened level of skill by pursuing the noble eightfold path.

Theo cách này, sự kết hợp của hai nguyên tắc nhân quả - những ảnh hưởng từ quá khứ tương tác với những điều kiện trong hiện tại - giải thích sự phức tạp của các mối quan hệ nhân quả ở mức độ trải nghiệm tức thời. Tuy nhiên, sự kết hợp của hai nguyên tắc cũng mở ra khả năng tìm ra một cách có hệ thống để phá vỡ mạng lưới nhân quả. Nếu nguyên nhân và kết quả là hoàn toàn tuyến tính, vũ trụ sẽ hoàn toàn xác định, và không thể làm gì để thoát khỏi máy móc của quá trình nhân quả. Nếu chúng hoàn toàn đồng bộ, sẽ không có mối quan hệ từ thời điểm này sang thời điểm tiếp theo, và tất cả các sự kiện sẽ là tùy ý. Mạng lưới có thể bị hỏng hoàn toàn hoặc cải tổ một cách tự nhiên không vì lý do gì. Tuy nhiên, với hai phương thức hoạt động cùng nhau, người ta có thể học hỏi từ các mô hình nhân quả quan sát được từ quá khứ và áp dụng những hiểu biết của mình để tách rời các mô hình nhân quả giống nhau đang hoạt động trong hiện tại. Nếu những hiểu biết của một người là đúng, thì người ta có thể đạt được tự do khỏi những khuôn mẫu đó. Điều này cho phép bạn thoát khỏi vòng luân hồi của nghiệp hoàn toàn bằng cách phát triển nghiệp ở cấp độ kỹ năng cao hơn bằng cách tu tập con đường bát chánh đạo cao cả.

In addition, the non-linearity of this/that conditionality explains why heightened skillfulness, when focused on the present moment, can succeed in leading to the end of the kamma that has formed the experience of the entire cosmos. All non-linear processes exhibit what is called scale invariance, meaning that the behavior of the process on any one scale is similar to its behavior on smaller or larger scales. To understand, say, the large-scale pattern of a particular non-linear process, one need only focus on its behavior on a smaller scale that is easier to observe, and one will see the same pattern at work. In the case of kamma, one need only focus on the process of kamma in the immediate present, in the course of developing heightened skillfulness, and the large-scale issues over the expanses of space and time will become clear as one gains release from them.

Ngoài ra, tính phi tuyến tính của điều kiện này / điều kiện kia giải thích tại sao kỹ năng cao độ, khi tập trung vào khoảnh khắc hiện tại, có thể thành công trong việc dẫn đến sự kết thúc của nghiệp đã hình thành kinh nghiệm của toàn bộ vũ trụ. Tất cả các quy trình phi tuyến tính thể hiện cái được gọi là bất biến quy mô, có nghĩa là hành vi của quy trình trên bất kỳ quy mô nào cũng tương tự như hành vi của quy trình trên quy mô nhỏ hơn hoặc lớn hơn. Ví dụ, để hiểu mô hình quy mô lớn của một quy trình phi tuyến tính cụ thể, người ta chỉ cần tập trung vào hành vi của nó ở quy mô nhỏ hơn, dễ quan sát hơn và người ta sẽ thấy mô hình tương tự ở nơi làm việc. Trong trường hợp của nghiệp, người ta chỉ cần tập trung vào quá trình tạo nghiệp trong hiện tại, trong quá trình phát triển kỹ năng cao độ, và các vấn đề quy mô lớn trong phạm vi không gian và thời gian sẽ trở nên rõ ràng khi người ta thu được lợi ích từ chúng.

Dependent Co-arising

The teaching on dependent co-arising helps to provide more detailed instructions on this point, showing precisely where the cycle of kamma provides openings for more skillful present input. In doing so, it both explains the importance of the act of attention in developing heightened skillfulness, and acts as a guide for focusing attention on present experience in appropriate ways.

Nhân duyên sinh

Việc giảng dạy về lý nhân duyên sinh giúp cung cấp những hướng dẫn chi tiết hơn về điểm này, chỉ ra chính xác nơi chu kỳ của nghiệp cung cấp những cơ hội mở ra cho những dữ kiện đưa vào hiện tại khéo léo hơn. Khi làm như vậy, nó vừa giải thích tầm quan trọng của hành động chú ý trong việc phát triển kỹ năng nâng cao, vừa đóng vai trò như một hướng dẫn để tập trung ý thức vào trải nghiệm hiện tại theo những cách thích hợp.

Dependent co-arising shows how the cosmos, when viewed in the context of how it is directly experienced by a person developing skillfulness, is subsumed entirely under factors immediately present to awareness: the five aggregates of form, feeling, perception, mental fabrication, and consciousness, and the six sense media — i.e., the five senses plus the mind. The standard list of causal factors runs as follows: the suffering and stress of aging, illness, and death depend on birth; birth in turn depends on becoming; and so on down through clinging, craving, feeling, sensory contact, the six senses, name and form (mental and physical phenomena), sensory consciousness, mental fabrications, and ignorance. Although the list reads like a linear pattern, the precise definitions of the terms show that it is filled with many feedback loops. Because it is non-linear, it thus functions on several scales: "birth," for instance, refers both to the birth of a physical organism and to the birth of a sense of being in the mind.

Lý Nhân Duyên Sinh cho thấy vũ trụ, khi được nhìn trong bối cảnh như thế nào nó được trải nghiệm trực tiếp bởi một người đang phát triển kỹ năng, được gộp lại hoàn toàn dưới các yếu tố ngay lập tức hiện diện trong nhận thức: năm uẩn; sắc, thọ, tưởng, hành, và thức, và sáu phương tiện giác quan - tức là năm giác quan cộng với tâm. Danh sách tiêu chuẩn của các yếu tố nhân quả như sau: sự đau khổ và phiền não của tuổi già, bệnh tật và cái chết phụ thuộc vào ngày sinh; sinh ra lần lượt phụ thuộc vào việc trở thành; và cứ tiếp tục như vậy qua bám víu, tham ái, cảm thọ, xúc giác, sáu giác quan, danh và sắc (các hiện tượng tinh thần và vật chất), ý thức giác quan, sự ngụy tạo của tinh thần và vô minh. Mặc dù danh sách đọc giống như một mô hình tuyến tính, các định nghĩa chính xác của các thuật ngữ cho thấy rằng nó chứa đầy nhiều vòng luân hồi. Bởi vì nó là phi tuyến tính, do đó nó hoạt động trên một số quy mô: ví dụ: "sự sinh ra", đề cập đến cả sự ra đời của một sinh vật vật chất và sự ra đời của cảm giác tồn tại trong tâm.

Included in this list is the Buddha's ultimate analysis of kamma and rebirth. For instance, the nexus of kamma, clinging, becoming, and birth accounts for the realm in which birth takes place. Kamma (covered under the factors of name and form) gives rise to the five aggregates, which form the objects for craving and clinging. Once there is clinging, there is a "coming-into-being" in any of three realms: the sensual realm, the realm of form, and the formless realm. These realms refer not only to levels of being on the cosmic scale, but also to levels of mental states. Some mental states are concerned with sensual images, others with forms, and still others with formless abstractions. The relationship between birth and becoming can be compared to the process of falling asleep and dreaming. As drowsiness leads the mind to lose contact with waking reality, a dream image of another place and time will appear in it. The appearance of this image is called becoming. The act of entering into this image and taking on a role or identity within it — and thus entering the world of the dream and falling asleep — is birth. The commentaries to the Pali texts maintain that precisely the same process is what enables rebirth to follow the death of the body. At the same time, the analogy between falling asleep and taking birth explains why release from the cycle of becoming is called Awakening.

Nằm trong danh sách này là sự phân tích cuối cùng của Đức Phật về nghiệp và tái sinh. Ví dụ, mối liên hệ của nghiệp, sự dính mắc, sự trở thành, và sinh ra là cảnh giới mà sự sinh ra đời diễn ra. Nghiệp (được bao gồm bởi các yếu tố danh và sắc) làm phát sinh năm uẩn, là những đối tượng cho tham ái và sự dính mắc. Một khi có sự dính mắc, thì sẽ có một "hiện sinh" trong bất kỳ cõi nào trong ba cõi: cõi dục, cõi sắc, và cõi vô sắc. Những cảnh giới này không chỉ đề cập đến các cấp độ của phạm vi vũ trụ, mà còn là các cấp độ của trạng thái tinh thần. Một số trạng thái tinh thần quan tâm đến những hình ảnh gợi cảm, một số trạng thái khác với hình thức, và những trạng thái khác với những hình ảnh trừu tượng vô hình. Mối quan hệ giữa sinh ra và trở thành có thể được so sánh với quá trình chìm vào giấc ngủ và mơ. Khi buồn ngủ khiến tâm trí mất liên lạc với thực tại đang thức giấc, hình ảnh giấc mơ về một địa điểm và thời gian khác sẽ xuất hiện trong đó. Sự xuất hiện của hình ảnh này được gọi là đang trở thành. Hành động đi vào hình ảnh này và đảm nhận một vai trò hoặc danh tính bên trong nó - và do đó đi vào thế giới của giấc mơ và chìm vào giấc ngủ - là sự sinh ra. Các chú giải cho các kinh sách tiếng Pali cho rằng chính xác thì cùng một quá trình là điều cho phép tái sinh sau cái chết của cơ thể. Đồng thời, sự tương đồng giữa chìm vào giấc ngủ và sinh nở giải thích tại sao sự giải phóng khỏi chu kỳ trở thành được gọi là Giác Ngộ.

Once there is birth in a particular realm, the nexus of name-and-form with consciousness accounts for the arising and survival of the active organism within that realm. Without consciousness, the mental and physical organism would die. Without the mental and physical organism, consciousness would have no place to land and develop. This nexus also explains the feedback loops that can lead to skillful action. "Name" includes the sub-factors of attention, intention, feeling, perception, and contact, which are precisely the factors at work in the process of kamma and its result. The first lesson of skillfulness is that the essence of an action lies in the intention motivating it: an act motivated by the intention for greater skillfulness will give results different from those of an act motivated by greed, aversion, or delusion. Intention, in turn, is influenced by the appropriateness or inappropriateness of the act of attention to one's circumstances. The less an act of attention is clouded by delusion, the more clearly it will see things in appropriate terms. The combination of attention and intention in turn determines the quality of the feeling and the physical events ("form") that result from the act. The more skilled the action, the more refined these results will be. Perceptions arise with regard to those results, some more appropriate than others. The act of attention selects which ones to focus on, thus feeding back into another round in the cycle of action. Underlying the entire cycle is the fact that all its factors are in contact with consciousness.

Một khi có sự sinh ra trong một cảnh giới cụ thể, mối liên hệ giữa danh-và-sắc với ý thức giải thích cho sự phát sinh và tồn tại của sinh vật hoạt động trong cõi đó. Nếu không có ý thức, sinh vật tinh thần và thể chất sẽ chết. Nếu không có cơ quan tinh thần và vật chất, ý thức sẽ không có chỗ để hạ cánh và phát triển. Mối liên hệ này cũng giải thích các vòng lặp phản hồi có thể dẫn đến hành động khéo léo. “Danh” bao gồm các yếu tố phụ của sự chú ý, ý định, cảm giác, tri giác và tiếp xúc, chính xác là những yếu tố hoạt động trong quá trình nghiệp và kết quả của nó. Bài học đầu tiên về sự khéo léo là bản chất của một hành động nằm ở ý định thúc đẩy hành động đó: một hành động được thúc đẩy bởi ý định để có sự khéo léo hơn sẽ cho kết quả khác với những hành động được thúc đẩy bởi lòng tham, sự chán ghét hoặc si mê. Ngược lại, ý định bị ảnh hưởng bởi sự phù hợp hay không thích hợp của hành động chú ý đến hoàn cảnh của một người. Hành động chú ý càng ít bị ảo tưởng làm vẩn đục, thì hành động đó sẽ càng nhìn rõ mọi thứ theo những nghĩa thích hợp. Đến lượt nó, sự kết hợp của sự chú ý và ý định quyết định chất lượng của cảm giác và các sự kiện vật chất ("hình thức") là kết quả của hành động. Hành động càng khéo léo, những kết quả này sẽ càng tinh tế hơn. Nhận thức nảy sinh liên quan đến những kết quả đó, một số thích hợp hơn những kết quả khác. Hành động chú ý sẽ chọn cái nào để tập trung vào, do đó quay trở lại một vòng khác trong chu kỳ hành động. Cơ bản của toàn bộ chu trình là thực tế là tất cả các yếu tố của nó đều tiếp xúc với ý thức

This interplay of name, form, and consciousness provides an answer to the quandary of how the stress and suffering inherent in the cycle of action can be ended. If one tried simply to stop the cycle through a direct intention, the intention itself would count as kamma, and thus as a factor to keep the cycle going. This double bind can be dissolved, however, if one can watch as the contact between consciousness and the cycle naturally falls away. This requires, not inaction, but more and more appropriate attention to the process of kamma itself. When one's attention to and mastery of the process becomes fully complete, there occurs a point of equipoise called "non-fashioning" (atammayata), in which the contact between the processes of kamma and consciousness — still fully conscious — naturally becomes disengaged. One modern teacher has compared this disengagement to that of a fruit naturally falling, when fully ripened, from the tree. This is how the cycle of action comes to an end in the moment of Awakening.

Sự tác động lẫn nhau giữa danh, sắc và ý thức này cung cấp câu trả lời cho vấn đề nan giải là làm thế nào để chấm dứt phiền não và đau khổ vốn có trong chu kỳ hành động. Nếu một người chỉ cố gắng dừng chu kỳ thông qua một ý định trực tiếp, thì bản thân ý định đó sẽ được coi là nghiệp, và do đó là một yếu tố để giữ cho chu kỳ tiếp tục. Tuy nhiên, mối ràng buộc kép này có thể bị giải thể, nếu người ta có thể quan sát thấy mối liên hệ giữa ý thức và chu kỳ tự nhiên biến mất. Điều này đòi hỏi, không phải là không hành động, mà là sự quan tâm ngày càng thích hợp hơn đến quá trình nghiệp của chính nó. Khi sự chú ý và làm chủ quá trình của một người trở nên hoàn toàn đầy đủ, sẽ xảy ra một điểm trang bị được gọi là "tháo gỡ" (atammayata), trong đó sự tiếp xúc giữa các quá trình của nghiệp và ý thức - vẫn hoàn toàn ý thức - tự nhiên trở nên không còn nữa. Một giáo viên hiện đại đã so sánh sự thảnh thơi này giống như một trái cây rơi tự nhiên, khi chín hoàn toàn, từ trên cây. Đây là cách chu kỳ hành động kết thúc trong khoảnh khắc của Giác Ngộ.

As this analysis shows, the most important obstacle to release is the ignorance that keeps attention from being fully perceptive. As the Buddha traced the element of ignorance that underlay the processes of mental fabrication, he found that it came down to ignorance of the four noble truths: the identity of the truths, the duties appropriate to each, and the mastery of those duties. When this ignorance is fully overcome, the craving that keeps the cycle going will have nothing to fasten on, for all its possible objects are seen for what they are: suffering and stress. With no place to land, craving disappears, and the cycle can come to an end.

Như phân tích này cho thấy, trở ngại quan trọng nhất để giải thoát là sự thiếu hiểu biết khiến sự chú ý không được nhận thức đầy đủ. Khi Đức Phật truy tìm yếu tố vô minh làm nền tảng cho các quá trình hành động của tinh thần, Ngài nhận thấy rằng do vô minh đối với bốn chân lý cao quý: danh tính của các chân lý, các bổn phận phù hợp với mỗi chân lý, và sự thuần thục của các bổn phận đó. Khi sự vô minh này được khắc phục hoàn toàn, sự thèm muốn tiếp tục chu kỳ sẽ không còn gì để kìm hãm nữa, vì tất cả các đối tượng có thể có của nó đều được nhìn thấy là: đau khổ và phiền não. Không còn nơi nào để hạ cánh, sự thèm muốn biến mất, và chu kỳ có thể kết thúc.  

The Four Noble Truths

Because knowledge in terms of the four noble truths is what ends ignorance and craving, the Buddha most often expressed transcendent right view in their terms. These truths focus the analysis of kamma directly on the question of stress and suffering: issues at the heart of the narratives that people make of their own life experiences. As the Buddha noted in his second insight, his memory of previous lives included his experience of pleasure and pain in each life, and most people — when recounting their own lives — tend to focus on these issues as well. The four truths, however, do not stop simply with tales about stress: they approach it from the problem-solving perspective of a person engaged in developing a skill. What this means for the meditator trying to master heightened skillfulness is that these truths cannot be fully comprehended by passive observation. Only by participating sensitively in the process of developing skillful powers of mindfulness, concentration, and discernment — and gaining a practical feel for the relationship of cause and effect among the mental factors that shape that process — can one eradicate the ignorance that obstructs the ending of kamma. Thus, only through developing skillfulness to the ultimate degree can the cycle be brought to equilibrium and, as a result, disband.

Tứ Diệu Đế

Bởi vì sự hiểu biết về Tứ Diệu Đế chấm dứt vô minh và tham ái, Đức Phật thường thể hiện chánh tri kiến trong các thuật ngữ của chúng. Những Diệu Đế này tập trung phân tích nghiệp quả trực tiếp vào câu hỏi phiền não và đau khổ: những vấn đề trọng tâm của những câu chuyện mà mọi người đúc kết từ kinh nghiệm sống của chính họ. Như Đức Phật đã lưu ý trong lần thấu hiểu tuệ thứ hai, ký ức của Ngài về những kiếp trước bao gồm kinh nghiệm về niềm vui và nỗi đau của Ngài trong mỗi kiếp sống, và hầu hết mọi người - khi kể lại cuộc đời của mình - cũng có xu hướng tập trung vào những vấn đề này. Tuy nhiên, Tứ Diệu Đế không chỉ dừng lại ở những câu chuyện về phiền não: chúng tiếp cận từ góc độ giải quyết vấn đề của một người tham gia vào việc phát triển một kỹ năng. Điều này có nghĩa là gì đối với hành giả đang cố gắng làm chủ kỹ năng cao độ là những chân lý này không thể được lĩnh hội đầy đủ bằng quan sát thụ động. Chỉ bằng cách tham gia một cách nhạy bén vào quá trình tu tập những năng lực kỹ năng của chánh niệm, sự tập trung và sự sáng suốt - và đạt được một cảm nhận thực tế về mối quan hệ của nhân và quả giữa các yếu tố tinh thần hình thành quá trình đó - người ta mới có thể loại bỏ sự vô minh cản trở sự kết thúc của nghiệp. Do đó, chỉ thông qua việc phát triển kỹ năng ở mức độ cao nhất, chu kỳ mới có thể được đưa về trạng thái cân bằng và kết quả là tan rã.

The Knowledge of Unbinding

The truth of the Buddha's understanding of the processes of kamma — as informed by this/that conditionality, dependent co-arising, and the four noble truths — was confirmed by the knowledge of Unbinding that followed immediately on his mastery of heightened skillfulness. He found that when skillfulness is intentionally brought to a point of full consummation, as expressed in the direct awareness of this/that conditionality, it leads to a state of non-fashioning that opens to a level of consciousness in which all experience of the cosmos has fallen away. When one's experience of the cosmos resumes after the experience of Awakening, one sees clearly that it is composed entirely of the results of old kamma; with no new kamma added to the process, all experience of the cosmos will eventually run out — or, in the words of the texts, "will grow cold right here." This discovery confirmed the basic premise that kamma not only plays a role in shaping experience of the cosmos, it plays the primary role. If this were not so, then even when kamma was ended there would still remain the types of experience that came from other sources. But because none of the limitations of the cosmos — time, space, etc. — remain when all present kamma disbands, and none resume after all old kamma runs out, kamma must be the factor accounting for all experience of those limitations. This fact implies that even the limiting factors that one encounters in terms of sights, sounds, etc., are actually the fruit of past kamma in thought, word, and deed — committed not only in this, but also in many preceding lifetimes. Thus, even though the Buddha's development of heightened skillfulness focused on the present moment, the resulting Awakening gave insights that encompassed all of time.

Buông xã ngay sau khi Lãnh Hội

Sự thật về sự hiểu biết của Đức Phật về các quá trình của nghiệp - như được biết bởi có điều này / thì có điều kia, lý duyên khởi và Tứ Diệu Đế - đã được xác nhận bởi sự hiểu biết về sự Không Ràng Buộc ngay sau đó dựa trên khả năng thành thạo cao độ của Ngài. Ngài đã phát hiện ra rằng khi các thiện pháp được cố ý đưa đến điểm viên mãn, như được thể hiện trong nhận thức trực tiếp về điều kiện này / điều kiện kia, nó dẫn đến trạng thái tháo gỡ, mở ra một mức độ ý thức trong đó mọi trải nghiệm về vũ trụ đã sụp đổ. Khi kinh nghiệm của một người về vũ trụ tiếp tục sau trải nghiệm Giác Ngộ, người ta thấy rõ ràng rằng nó được cấu tạo hoàn toàn bởi các kết quả của nghiệp cũ; nếu không có nghiệp mới nào được thêm vào quá trình này, tất cả kinh nghiệm về vũ trụ cuối cùng sẽ cạn kiệt - hoặc, theo cách nói của các kinh sách, "sẽ trở nên nguội lạnh ngay tại đây." Khám phá này khẳng định tiền đề cơ bản rằng nghiệp không chỉ đóng vai trò định hình kinh nghiệm về vũ trụ, mà nó còn đóng vai trò chính. Nếu điều này không đúng như vậy, thì ngay cả khi nghiệp đã kết thúc, vẫn sẽ còn lại những loại kinh nghiệm đến từ các nguồn khác. Nhưng bởi vì không có giới hạn nào của vũ trụ - thời gian, không gian, v.v. - vẫn còn khi tất cả nghiệp hiện tại tan rã, và không có nghiệp nào tiếp tục sau khi hết nghiệp cũ, nên nghiệp phải là yếu tố giải thích cho tất cả kinh nghiệm của những giới hạn đó. Sự kiện này ngụ ý rằng ngay cả những yếu tố giới hạn mà một người gặp phải về cảnh, âm thanh, v.v., thực sự là kết quả của nghiệp quá khứ trong tư tưởng, lời nói và việc làm - không chỉ phạm phải trong điều này, mà còn trong nhiều kiếp trước. Do đó, mặc dù sự phát triển của Đức Phật về sự khéo léo cao độ tập trung vào thời điểm hiện tại, kết quả là sự Giác Ngộ đã mang lại những hiểu biết sâu sắc bao trùm mọi thời đại.

Faith in the Principle of Kamma

From this discussion it should become clear why kamma, as an article of faith, is a necessary factor in the path of Buddhist practice. The teaching on kamma, in its narrative and cosmological forms, provides the context for the practice, giving it direction and urgency. Because the cosmos is governed by the laws of kamma, those laws provide the only mechanism by which happiness can be found. But because good and bad kamma, consisting of good and bad intentions, simply perpetuate the ups and downs of experience in the cosmos, a way must be found out of the mechanism of kamma by mastering it in a way that allows it to disband in an attentive state of non-intention. And, because there is no telling what sudden surprises the results of one's past kamma may still hold in store, one should try to develop that mastery as quickly as possible.

Niềm tin vào yếu tố cơ bản của nghiệp

Từ cuộc thảo luận này, cần phải hiểu rõ lý do tại sao nghiệp, như một tín ngưỡng, là một yếu tố cần thiết trong con đường tu tập Phật giáo. Việc giảng dạy về nghiệp, dưới dạng tường thuật và vũ trụ học của nó, cung cấp bối cảnh cho việc tu tập, mang lại định hướng và tính cấp bách. Bởi vì vũ trụ được điều chỉnh bởi các quy luật của nghiệp, những quy luật đó cung cấp cơ chế duy nhất để có thể tìm thấy hạnh phúc. Nhưng bởi vì nghiệp tốt và xấu, bao gồm cả ý định tốt và xấu, chỉ đơn giản là kéo dài những thăng trầm của kinh nghiệm trong vũ trụ, nên phải tìm ra cách thoát khỏi cơ chế của nghiệp bằng cách làm chủ nó theo cách làn cho nó tan rã trong một trạng thái chăm chú không chủ định. Và, bởi vì không thể nói trước được điều gì bất ngờ đột ngột mà kết quả của nghiệp trong quá khứ của một người có thể vẫn còn lưu giữ, người ta nên cố gắng phát triển điều đó càng nhanh càng tốt.

In its "empty" mode — i.e., focusing on the process of action, without referring to questions of whether or not there is a self or a being behind the processes — the teaching on kamma accounts for the focus and the terms of analysis used in the practice. It also accounts for the mental qualities needed to attain and maintain that level of focus and analysis.

Trong sự "trống rỗng" của nó - tức là, tập trung vào quá trình hành động, không đề cập đến các câu hỏi liệu có hay không một bản ngã hay một thực thể đằng sau các quá trình - việc giảng dạy về nghiệp chiếm trọng tâm và các thuật ngữ phân tích được sử dụng trong việc luyện tập. Nó cũng thể hiện những phẩm chất tinh thần cần thiết để đạt được và duy trì mức độ tập trung và phân tích đó.

In terms of focus, the principle of scale invariance means that the complexities of kamma can be mastered by giving total attention to phenomena in and of themselves in the immediate present. These phenomena are then analyzed in terms of the four noble truths, the terms used in observing and directing the experience of developing the qualities of skillful action. The most immediate skillful kamma that can be observed on this level is the mastery of the very same mental qualities that are supporting this refined level of focus and analysis: mindfulness, concentration, and discernment, together with the more basic qualities on which they are based. Thus, these mental qualities act not only as supports to the focus and analysis, but also as their object. Ultimately, discernment becomes so refined that the focus and analysis take as their object the act of focusing and analyzing, in and of themselves. The cycle of action then short-circuits as it reaches culmination, and Unbinding occurs.

Về trọng tâm, nguyên tắc bất biến tỷ lệ có nghĩa là sự phức tạp của nghiệp có thể được làm chủ bằng cách tập trung toàn bộ vào các hiện tượng của chúng trong hiện tại ngay lập tức. Những hiện tượng này sau đó được phân tích theo Tứ Diệu Đế, những thuật ngữ được sử dụng trong việc quan sát và chỉ đạo kinh nghiệm phát triển các phẩm chất của hành động thiện. Nghiệp thiện xảo tức thời nhất có thể quan sát được ở cấp độ này là việc làm chủ các phẩm chất tinh thần giống nhau đang hỗ trợ cho cấp độ tập trung và phân tích tinh tế này: chánh niệm, tập trung và sự sáng suốt, cùng với những phẩm chất cơ bản hơn mà chúng dựa trên đó. . Do đó, những phẩm chất tinh thần này không chỉ đóng vai trò hỗ trợ cho sự tập trung và phân tích, mà còn là đối tượng của chúng. Cuối cùng, sự phân biệt trở nên tinh tế đến mức trọng tâm và phân tích coi đối tượng của chúng là hành động tập trung và phân tích, trong và của chính chúng. Chu kỳ hoạt động sau đó ngắn mạch khi nó đạt đến cực điểm và xảy ra Hiện tượng buông xả.

It is entirely possible that a person with no firm conviction in the principle of kamma can follow parts of the Buddhist path, including mindfulness and concentration practices, and gain positive results from them. For instance, one can pursue mindfulness practice for the sense of balance, equanimity, and peace it gives to one's daily life, or for the sake of bringing the mind to the present for the purpose of spontaneity and "going with the flow." The full practice of the path, however, is a skillful diverting of the flow of the mind from its habitual kammic streams to the stream of Unbinding. As the Buddha said, this practice requires a willingness to "develop and abandon" to an extreme degree. The developing requires a supreme effort aimed at full and conscious mastery of mindfulness, concentration, and discernment to the point of non-fashioning and on to release. A lack of conviction in the principle of kamma would undercut the patience and commitment, the desire, persistence, intent, and refined powers of discrimination needed to pursue concentration and discernment to the most heightened levels, beyond what is needed for a general sense of peace or spontaneity. The abandoning involves uprooting the most deeply buried forms of clinging and attachment that maintain bondage to the cycle of rebirth. Some of these forms of clinging — such as views and theories about self-identity — are so entrenched in the narrative and cosmological modes in which most people function that only firm conviction in the benefits to be had by abandoning them will be able to pry them loose. This is why the Buddha insisted repeatedly that conviction in the fact of his Awakening necessarily involves conviction in the principle of kamma, and that both forms of conviction are needed for the full mastery of the kamma of heightened skillfulness leading to release.

Hoàn toàn có thể xảy ra trường hợp một người không có niềm tin vững chắc vào giáo lý nghiệp có thể đi theo các phần của con đường Phật giáo, bao gồm thực hành chánh niệm và tập trung, và đạt được kết quả tích cực từ chúng. Ví dụ, người ta có thể theo đuổi thực hành chánh niệm vì cảm giác cân bằng, thanh thản và bình an mà nó mang lại cho cuộc sống hàng ngày của mình, hoặc để đưa tâm về hiện tại với mục đích tự nhiên và "trôi theo dòng chảy." Tuy nhiên, việc thực hành đầy đủ con đường là một sự chuyển hướng khéo léo của dòng chảy tâm từ dòng kammic quen thuộc của nó sang dòng không ràng buộc. Như Đức Phật đã nói, sự thực hành này đòi hỏi sự sẵn sàng “phát triển và từ bỏ” ở một mức độ cao nhất. Sự phát triển đòi hỏi một nỗ lực tối cao nhằm mục đích làm chủ hoàn toàn và có ý thức về chánh niệm, sự tập trung và sự sáng suốt đến mức được tháo gỡ và tiếp tục giải thoát. Thiếu niềm tin vào nguyên lý nghiệp sẽ làm giảm đi sự kiên nhẫn và cam kết, mong muốn, sự bền bỉ, ý định và khả năng phân biệt tinh vi cần thiết để theo đuổi sự tập trung và sự sáng suốt ở mức độ cao nhất, vượt quá những gì cần thiết cho một cảm giác bình an chung. hoặc tính tự phát. Việc từ bỏ liên quan đến việc nhổ bỏ những hình thức bám víu và dính mắc bị chôn vùi sâu sắc nhất duy trì sự trói buộc vào chu kỳ tái sinh. Một số hình thức bám víu này - chẳng hạn như quan điểm và lý thuyết về danh tính bản thân - quá cố gắng trong các phương thức tường thuật và vũ trụ học, trong đó hầu hết mọi người hoạt động mà chỉ có niềm tin chắc chắn vào những lợi ích có được bằng cách từ bỏ chúng thì mới có thể khai thác chúng. lỏng lẻo. Đây là lý do tại sao Đức Phật nhấn mạnh nhiều lần rằng sự tin chắc vào sự thật của sự Giác Ngộ của Ngài nhất thiết phải liên quan đến sự tin chắc vào nguyên lý của nghiệp, và rằng cả hai hình thức xác tín đều cần thiết để làm chủ hoàn toàn nghiệp của sự khéo léo cao độ dẫn đến sự giải thoát.

There are many well-known passages in the Canon where the Buddha asks his listeners not to accept his teachings simply on faith, but these remarks were directed to people just beginning the practice. Beginners need only accept the general principles of skillful action on a trial basis, focusing on the input that their intentions are putting into the causal system at the present moment, and exploring the connection between skillful intentions and favorable results. The more complex issues of kamma come into play at this level only in forcing one to be patient with the practice. Many times skillful intentions do not produce their favorable results immediately, aside from the sense of well-being — sometimes clearly perceptible, sometimes barely — that comes with acting skillfully. Were it not for this delay, the principle of kamma would be self-evident, no one would dare act on unskillful intentions, and there would be no need to take the principle on faith. The complexity of this/that conditionality is the major cause of the confusion and lack of skill with which most people live their lives. The ability to master this process takes time.

Có nhiều đoạn Kinh điển nổi tiếng trong đó Đức Phật yêu cầu người nghe không chấp nhận những lời dạy của Ngài chỉ đơn thuần về đức tin, nhưng những lời nói này hướng đến những người mới bắt đầu tu tập. Người mới bắt đầu chỉ cần chấp nhận các nguyên tắc chung của hành động thiện trên cơ sở thử nghiệm, tập trung dữ kiện mà ý định của họ đang đưa vào lý thuyết nhân quả ở thời điểm hiện tại và khám phá mối liên hệ giữa ý thức thiện và kết quả thuận lợi. Ở cấp độ này, các vấn đề phức tạp hơn của nghiệp chỉ bắt buộc người ta phải kiên nhẫn với việc thực hành. Nhiều khi những ý thức thiện không tạo ra kết quả thuận lợi ngay lập tức, ngoài cảm giác hạnh phúc - đôi khi có thể cảm nhận rõ ràng, đôi khi không - đi kèm với hành động thiện. Nếu không có sự chậm trễ này, nguyên tắc nghiệp sẽ tự hiển nhiên, không ai dám hành động theo ý đồ bất thiện, và sẽ không cần phải lấy nguyên tắc trên đức tin. Sự phức tạp của điều kiện này / điều kiện kia là nguyên nhân chính của sự nhầm lẫn và thiếu kỹ năng mà hầu hết mọi người sống cuộc sống của họ. Khả năng làm chủ quá trình này cần có thời gian.

As one progresses on the path, however — and as the process of developing skillfulness in and of itself gradually comes to take center stage in one's awareness — the actual results of developing skillfulness should give greater and greater reason for conviction in the principle of kamma. Except in cases where people fall into the trap of heedlessness or complacency, these results can spur and inspire one to hold to the principle of kamma with the increasing levels of firmness, focus, and refinement needed for Awakening.

Tuy nhiên, khi một người tiến bộ trên con đường tu tập - và khi quá trình phát triển thiện pháp trong và bản thân nó dần dần trở thành giai đoạn trung tâm trong nhận thức của một người - kết quả thực tế của việc phát triển thiện pháp sẽ cung cấp lý do ngày càng lớn hơn cho niềm tin vào nguyên tắc nghiệp. Ngoại trừ những trường hợp người ta rơi vào bẫy của sự thiếu chú ý hoặc tự mãn, những kết quả này có thể thúc đẩy và truyền cảm hứng cho người ta nắm giữ nguyên tắc nghiệp với mức độ ngày càng vững chắc, tập trung và tinh luyện cần thiết cho sự Giác Ngộ.

This, then, is the sense in which kamma, or intentional action, forms the basic refuge for the person on the path. On the one hand, as a doctrine, it provides guidance to the proper path of action, and encouragement to muster the energy needed to follow the path. On the other hand, as the actual principle by which skillful action is brought to a pitch of non-fashioning on the threshold of the Deathless, it provides the mechanism by which human effort and action can bring about the ultimate in genuine happiness.

Do đó, đây là ý thức mà nghiệp, hay hành động có chủ định, tạo thành nơi nương tựa căn bản cho con người trên con đường tu tập. Một mặt, với tư cách là một học thuyết, nó cung cấp hướng dẫn cho con đường tu tập đúng và khuyến khích tập hợp năng lượng cần thiết để đi theo con đường tu tập. Mặt khác, với tư cách là nguyên tắc thực tế mà hành động thiện được đưa đến một mức độ tháo gỡ trước ngưỡng cửa của Thần chết, nó cung cấp cơ chế mà nỗ lực và hành động của con người có thể mang lại hạnh phúc đích thực cuối cùng.

Glossary

Arahant:
A "worthy one" or "pure one;" a person whose mind is free of defilement and thus is not destined for further rebirth. A title for the Buddha and the highest level of his noble disciples. The lower three levels of disciples are, in descending order: non-returners, those whose minds are freed from sensuality and will be reborn in the highest levels of heaven, there to attain nibbana, never again to return to this world; once-returners, those who will be reborn in this world once more before attaining nibbana; and stream-winners, those who have had their first glimpse of nibbana, leading them to abandon three fetters that bind them to the round of rebirth — self-identity views, doubt, and attachment to precepts and practices — and who are destined to be reborn at most only seven more times.
Asava:
Fermentation; effluent. Four qualities — sensuality, views, becoming, and ignorance — that "flow out" of the mind and create the flood of the round of death and rebirth.
Bodhisatta (Bodhisattva)::
"A being (striving for) Awakening;" the term used to describe the Buddha from his first aspiration to become a Buddha until the time of his full Awakening.
Deva:
Literally, "shining one." An inhabitant of the heavenly realms.
Dhamma (Dharma):
Event; phenomenon; the way things are in and of themselves; their inherent qualities; the basic principles underlying their behavior. Also, principles of human behavior, qualities of mind, both in a neutral and in a positive sense. By extension, "Dhamma" is used also to denote any doctrine that teaches such things. Thus the Dhamma of the Buddha denotes both his teachings and the direct experience of the quality of nibbana at which those teachings are aimed.
Jhana:
Mental absorption. A state of strong concentration focused in a single sensation or mental notion.
Kamma (Karma):
Intentional acts that results in states of becoming and rebirth.
Nibbana (Nirvana):
Literally, the "unbinding" of the mind from passion, aversion, and delusion, and from the entire round of death and rebirth. As this term also denotes the extinguishing of a fire, it carries connotations of stilling, cooling, and peace. "Total nibbana" in some contexts denotes the experience of Awakening; in others, the final passing away of an arahant.
Pali:
The canon of texts preserved by the Theravada school and, by extension, the language in which those texts are composed.
Patimokkha:
Basic code of monastic discipline, composed of 227 rules for monks and 310 rules for nuns.
Sangha:
On the conventional (sammati) level, this term denotes the communities of Buddhist monks and nuns; on the ideal (ariya) level, it denotes those followers of the Buddha, lay or ordained, who have attained at least their first glimpse of nibbana.
Tathagata:
Literally, "one who has become real (tatha-agata)," or one who is "really gone (tatha-gata)"; an epithet used in ancient India for a person who has attained the highest religious goal. In Buddhism, it usually refers specifically to the Buddha, although occasionally it also refers to any of his disciples who have attained the Buddhist goal.
Vinaya:
The monastic discipline, whose rules and traditions comprise six volumes in printed text. The Buddha's own term for the religion he founded was "this Dhamma-Vinaya."

Abbreviations

AAnguttara Nikaya
CvCullavagga
DDigha Nikaya
DhpDhammapada
ItiItivuttaka
MMajjhima Nikaya
MvMahavagga
SSamyutta Nikaya
SnSutta Nipata
ThigTherigatha
UdUdana

References to D, M, and Iti are to discourse. References to Dhp are to verse. References to Mv and Cv are to chapter, section, and sub-section. References to the remaining texts are to chapter (vagga, nipata, or samyutta) and discourse.

Sabbe satta sada hontu
Avera sukha-jivino
Katam puñña-phalam
Sabbe bhagi bhavantu te.

May all beings always live happily
Free from animosity
May all share in the blessings
Springing from the good I have done.

Glossary

Arahant:
A "worthy one" or "pure one;" a person whose mind is free of defilement and thus is not destined for further rebirth. A title for the Buddha and the highest level of his noble disciples. The lower three levels of disciples are, in descending order: non-returners, those whose minds are freed from sensuality and will be reborn in the highest levels of heaven, there to attain nibbana, never again to return to this world; once-returners, those who will be reborn in this world once more before attaining nibbana; and stream-winners, those who have had their first glimpse of nibbana, leading them to abandon three fetters that bind them to the round of rebirth — self-identity views, doubt, and attachment to precepts and practices — and who are destined to be reborn at most only seven more times.
Asava:
Fermentation; effluent. Four qualities — sensuality, views, becoming, and ignorance — that "flow out" of the mind and create the flood of the round of death and rebirth.
Bồ Tát:
"Một chúng sinh (phấn đấu cho) Giác Ngộ; "thuật ngữ được sử dụng để mô tả Đức Phật từ nguyện vọng đầu tiên của Ngài để trở thành một vị Phật cho đến khi Ngài hoàn toàn Giác Ngộ.
Deva:
Literally, "shining one." An inhabitant of the heavenly realms.
Dhamma (Dharma):
Event; phenomenon; the way things are in and of themselves; their inherent qualities; the basic principles underlying their behavior. Also, principles of human behavior, qualities of mind, both in a neutral and in a positive sense. By extension, "Dhamma" is used also to denote any doctrine that teaches such things. Thus the Dhamma of the Buddha denotes both his teachings and the direct experience of the quality of nibbana at which those teachings are aimed.
Jhana:
Mental absorption. A state of strong concentration focused in a single sensation or mental notion.
Kamma (Karma):
Intentional acts that results in states of becoming and rebirth.
Nibbana (Nirvana):
Literally, the "unbinding" of the mind from passion, aversion, and delusion, and from the entire round of death and rebirth. As this term also denotes the extinguishing of a fire, it carries connotations of stilling, cooling, and peace. "Total nibbana" in some contexts denotes the experience of Awakening; in others, the final passing away of an arahant.
Pali:
The canon of texts preserved by the Theravada school and, by extension, the language in which those texts are composed.
Patimokkha:
Basic code of monastic discipline, composed of 227 rules for monks and 310 rules for nuns.
Sangha:
On the conventional (sammati) level, this term denotes the communities of Buddhist monks and nuns; on the ideal (ariya) level, it denotes those followers of the Buddha, lay or ordained, who have attained at least their first glimpse of nibbana.
Tathagata:
Literally, "one who has become real (tatha-agata)," or one who is "really gone (tatha-gata)"; an epithet used in ancient India for a person who has attained the highest religious goal. In Buddhism, it usually refers specifically to the Buddha, although occasionally it also refers to any of his disciples who have attained the Buddhist goal.
Vinaya:
The monastic discipline, whose rules and traditions comprise six volumes in printed text. The Buddha's own term for the religion he founded was "this Dhamma-Vinaya."

Abbreviations

AAnguttara Nikaya
CvCullavagga
DDigha Nikaya
DhpDhammapada
ItiItivuttaka
MMajjhima Nikaya
MvMahavagga
SSamyutta Nikaya
SnSutta Nipata
ThigTherigatha
UdUdana

References to D, M, and Iti are to discourse. References to Dhp are to verse. References to Mv and Cv are to chapter, section, and sub-section. References to the remaining texts are to chapter (vagga, nipata, or samyutta) and discourse.

Sabbe satta sada hontu
Avera sukha-jivino
Katam puñña-phalam
Sabbe bhagi bhavantu te.

May all beings always live happily
Free from animosity
May all share in the blessings
Springing from the good I have done.

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

  Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại phamdang0308@gmail.com
Cập nhập ngày: Chủ Nhật ngày 18-11-2020

Kỹ thuật trình bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

Trang trước | Trang kế| trở về đầu trang | Home page |