Summary of the Ten Recollections

1. Tóm tắt Mười Tùy Niệm

 

One thing — when developed & pursued — leads solely to disenchantment, to dispassion, to cessation, to stilling, to direct knowledge, to self-awakening, to Unbinding. Which one thing? Recollection of the Buddha. This is one thing that — when developed & pursued — leads solely to disenchantment, to dispassion, to cessation, to stilling, to direct knowledge, to self-awakening, to Unbinding.

- Có một pháp, này các Tỳ-khưu, được tu tập, được làm cho sung măn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Một pháp ấy là ǵ? Chính là niệm Phật. Chính một pháp này, này các Tỳ-khưu, được tu tập, được làm cho sung măn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

 

One thing — when developed & pursued — leads solely to disenchantment, to dispassion, to cessation, to stilling, to direct knowledge, to self-awakening, to Unbinding. Which one thing? Recollection of the Dhamma...

- Có một pháp, này các Tỳ-khưu, được tu tập, được làm cho sung măn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Một pháp ấy là ǵ? Chính là niệm Pháp. Chính một pháp này, này các Tỳ-khưu, được tu tập, được làm cho sung măn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

 

One thing — when developed & pursued — leads solely to disenchantment, to dispassion, to cessation, to stilling, to direct knowledge, to self-awakening, to Unbinding. Which one thing? Recollection of the Sangha...

- Có một pháp, này các Tỳ-khưu, được tu tập, được làm cho sung măn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Một pháp ấy là ǵ? Chính là niệm Tăng. Chính một pháp này, này các Tỳ-khưu, được tu tập, được làm cho sung măn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

 

One thing — when developed & pursued — leads solely to disenchantment, to dispassion, to cessation, to stilling, to direct knowledge, to self-awakening, to Unbinding. Which one thing? Recollection of virtue...

Có một pháp, này các Tỳ-khưu, được tu tập, được làm cho sung măn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Một pháp ấy là ǵ? Chính là niệm Giới. Chính một pháp này, này các Tỳ-khưu, được tu tập, được làm cho sung măn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

 

One thing — when developed & pursued — leads solely to disenchantment, to dispassion, to cessation, to stilling, to direct knowledge, to self-awakening, to Unbinding. Which one thing? Recollection of generosity...

- Có một pháp, này các Tỳ-khưu, được tu tập, được làm cho sung măn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Một pháp ấy là ǵ? Chính là niệm Thí. Chính một pháp này, này các Tỳ-khưu, được tu tập, được làm cho sung măn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

 

One thing — when developed & pursued — leads solely to disenchantment, to dispassion, to cessation, to stilling, to direct knowledge, to self-awakening, to Unbinding. Which one thing? Recollection of the devas...

Có một pháp, này các Tỳ-khưu, được tu tập, được làm cho sung măn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Một pháp ấy là ǵ? Chính là niệm Thiên. Chính một pháp này, này các Tỳ-khưu, được tu tập, được làm cho sung măn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

 

One thing — when developed & pursued — leads solely to disenchantment, to dispassion, to cessation, to stilling, to direct knowledge, to self-awakening, to Unbinding. Which one thing? Mindfulness of in-and-out breathing...

Có một pháp, này các Tỳ-khưu, được tu tập, được làm cho sung măn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Một pháp ấy là ǵ? Chính là niệm Hơi thở vô, Hơi thở ra. Chính một pháp này, này các Tỳ-khưu, được tu tập, được làm cho sung măn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

 

One thing — when developed & pursued — leads solely to disenchantment, to dispassion, to cessation, to stilling, to direct knowledge, to self-awakening, to Unbinding. Which one thing? Mindfulness of death...

Có một pháp, này các Tỳ-khưu, được tu tập, được làm cho sung măn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Một pháp ấy là ǵ? Chính là niệm Chết. Chính một pháp này, này các Tỳ-khưu, được tu tập, được làm cho sung măn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

 

One thing — when developed & pursued — leads solely to disenchantment, to dispassion, to cessation, to stilling, to direct knowledge, to self-awakening, to Unbinding. Which one thing? Mindfulness immersed in the body...

Có một pháp, này các Tỳ-khưu, được tu tập, được làm cho sung măn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Một pháp ấy là ǵ? Chính là niệm Thân. Chính một pháp này, này các Tỳ-khưu, được tu tập, được làm cho sung măn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

 

One thing — when developed & pursued — leads solely to disenchantment, to dispassion, to cessation, to stilling, to direct knowledge, to self-awakening, to Unbinding. Which one thing? Recollection of stilling. This is one thing that — when developed & pursued — leads solely to disenchantment, to dispassion, to cessation, to stilling, to direct knowledge, to self-awakening, to Unbinding.

Có một pháp, này các Tỳ-khưu, được tu tập, được làm cho sung măn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Một pháp ấy là ǵ? Chính là niệm Tịch tịnh. Chính một pháp này, này các Tỳ-khưu, được tu tập, được làm cho sung măn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

 

The First Six Recollections

Sáu Tùy Niệm Đầu Tiên

 

I have heard that on one occasion the Blessed One was staying among the Sakyans at Kapilavatthu in the Banyan Park. Now at that time Mahanama... went to the Blessed One and, on arrival, having bowed down, sat to one side. As he was sitting there he said to the Blessed One:
"I have heard that many monks are at work making robes for the Blessed One, [thinking], 'When the robes are finished, at the end of the three months, the Blessed One will set out wandering.' For those of us living by means of various dwelling places [for the mind], by means of which dwelling place should we live?"
"Excellent, Mahanama, excellent! It is fitting for clansmen like you to approach the Tathagata and ask, 'For those of us living by means of various dwelling places [for the mind], by means of which dwelling place should we live?'
"[a] One who is aroused to practice is one of conviction, not without conviction... [b] is one with persistence aroused, not lazy... [c] is one of established mindfulness, not muddled mindfulness... [d] is centered in concentration, not uncentered. [e] One aroused to practice is discerning, not undiscerning.
"Established in these five qualities, you should further develop six qualities:

Một thời, Thế Tôn trú giữa các vị trong bộ tộc Thích-ca, tại Kapilavatthu, khu vườn Nigrodha. Rồi họ Thích Mahànàma đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, họ Thích Mahànàma bạch Thế Tôn:
- Vị Thánh đệ tử này, bạch Thế Tôn, đă đi đến quả, đă liễu giải giáo pháp, đời sống ǵ vị ấy sống một cách sung măn?
- Vị Thánh đệ tử này, bạch Thế Tôn, đă đi đến quả, đă liễu giải giáo pháp, đời sống ǵ vị ấy sống một cách sung măn?
- Này Mahànàma, Thánh đệ tử nào đă đi đến quả, đă liễu giải giáo pháp, với nếp sống này, sống một cách sung măn.

 

[1] "There is the case where you recollect the Tathagata: 'Indeed, the Blessed One is worthy and rightly self-awakened, consummate in knowledge & conduct, well-gone, an expert with regard to the world, unexcelled as a trainer for those people fit to be tamed, the Teacher of divine & human beings, awakened, blessed.' At any time when a disciple of the noble ones is recollecting the Tathagata, his mind is not overcome with passion, not overcome with aversion, not overcome with delusion. His mind heads straight, based on the Tathagata. And when the mind is headed straight, the disciple of the noble ones gains a sense of the goal, gains a sense of the Dhamma, gains joy connected with the Dhamma. In one who is joyful, rapture arises. In one who is rapturous, the body grows calm. One whose body is calmed experiences ease. In one at ease, the mind becomes concentrated.
"Mahanama, you should develop this recollection of the Buddha while you are walking, while you are standing, while you are sitting, while you are lying down, while you are busy at work, while you are resting in your home crowded with children.

1) Ở đây, này Mahànàma, Thánh đệ tử tùy niệm Như Lai: "Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn". Khi nào, này Mahànàma, Thánh đệ tử niệm Như Lai, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối; trong khi ấy, tâm vị ấy được chánh trực nhờ dựa vào Như Lai. Và này Mahànàma, một Thánh đệ tử, với tâm chánh trực, được nghĩa tín thọ, được pháp tín thọ, được hân hoan liên hệ đến pháp. Người có hân hoan, nên hỷ sanh. Người có hỷ, nên thân được khinh an. Với thân khinh an, vị ấy cảm giác lạc thọ. Người có lạc thọ, tâm được định tĩnh.
Này Mahànàma, về vị Thánh đệ tử này, được nói như sau: "Với quần chúng không b́nh thản, vị ấy sống b́nh thản. Với quần chúng có năo hại, vị ấy sống không năo hại. Nhập được pháp lưu, vị ấy tu tập niệm Phật".

 

[2] "Furthermore, there is the case where you recollect the Dhamma: 'The Dhamma is well-expounded by the Blessed One, to be seen here & now, timeless, inviting verification, pertinent, to be realized by the wise for themselves.' At any time when a disciple of the noble ones is recollecting the Dhamma, his mind is not overcome with passion, not overcome with aversion, not overcome with delusion. His mind heads straight, based on the Dhamma. And when the mind is headed straight, the disciple of the noble ones gains a sense of the goal, gains a sense of the Dhamma, gains joy connected with the Dhamma. In one who is joyful, rapture arises. In one who is rapturous, the body grows calm. One whose body is calmed experiences ease. In one at ease, the mind becomes concentrated.
"Mahanama, you should develop this recollection of the Dhamma while you are walking, while you are standing, while you are sitting, while you are lying down, while you are busy at work, while you are resting in your home crowded with children.

(2) Lại nữa, này Mahànàma, Thánh đệ tử tùy niệm Pháp: "Pháp được Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được những bậc trí tự ḿnh giác hiểu!". Này Mahànama, trong khi vị Thánh đệ tử tùy niệm Pháp, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, không bị sân chi phối, không bị si chi phối; trong khi ấy, tâm vị ấy được chánh trực nhờ dựa vào Pháp. Và này Mahànama, Thánh đệ tử với tâm chánh trực, được nghĩa tín thọ, được pháp tín thọ, được hân hoan liên hệ đến Pháp. Người có hân hoan, nên hỷ sanh. Người có hỷ, nên thân được khinh an. Với thân khinh an, vị ấy cảm giác lạc thọ. Người có lạc thọ, tâm được định tĩnh.
Này Mahànàma, về vị Thánh đệ tử này được nói như sau: "Với quần chúng không b́nh thản, vị ấy sống b́nh thản. Với quần chúng có năo hại, vị ấy sống không năo hại. Nhập được pháp lưu, vị ấy tu tập niệm Pháp".

 

[3] "Furthermore, there is the case where you recollect the Sangha: 'The Sangha of the Blessed One's disciples who have practiced well... who have practiced straight-forwardly... who have practiced methodically... who have practiced masterfully — in other words, the four types [of noble disciples] when taken as pairs, the eight when taken as individual types — they are the Sangha of the Blessed One's disciples: worthy of gifts, worthy of hospitality, worthy of offerings, worthy of respect, the incomparable field of merit for the world.' At any time when a disciple of the noble ones is recollecting the Sangha, his mind is not overcome with passion, not overcome with aversion, not overcome with delusion. His mind heads straight, based on the Sangha. And when the mind is headed straight, the disciple of the noble ones gains a sense of the goal, gains a sense of the Dhamma, gains joy connected with the Dhamma. In one who is joyful, rapture arises. In one who is rapturous, the body grows calm. One whose body is calmed experiences ease. In one at ease, the mind becomes concentrated.
"Mahanama, you should develop this recollection of the Sangha while you are walking, while you are standing, while you are sitting, while you are lying down, while you are busy at work, while you are resting in your home crowded with children.

(3) Lại nữa, này Mahànàma, Thánh đệ tử tùy niệm Tăng: "Diệu hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn. Trực hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn. Ứng lư hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn. Chánh hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám vị. Chúng đệ tử Thế Tôn này đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là vô thượng phước điền ở đời". Này Mahànàma, trong khi Thánh đệ tử tùy niệm chúng Tăng, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, không bị sân chi phối, không bị si chi phối; trong khi ấy, tâm vị ấy được chánh trực nhờ dựa vào Tăng. Và này Mahànama, Thánh đệ tử với tâm chánh trực, được nghĩa tín thọ, được pháp tín thọ, được hân hoan liên hệ đến Tăng. Người có hân hoan, nên hỷ sanh. Người có hỷ, nên thân được khinh an. Với thân khinh an, vị ấy cảm giác lạc thọ. Người có lạc thọ, tâm được định tĩnh.
Này Mahànàma, về vị Thánh đệ tử này, được nói như sau: "Với quần chúng không b́nh thản, vị ấy sống b́nh thản. Với quần chúng có năo hại, vị ấy sống không năo hại. Nhập được pháp lưu, vị ấy tu tập niệm Tăng".

 

[4] "Furthermore, there is the case where you recollect your own virtues: '[They are] untorn, unbroken, unspotted, unsplattered, liberating, praised by the wise, untarnished, conducive to concentration.' At any time when a disciple of the noble ones is recollecting virtue, his mind is not overcome with passion, not overcome with aversion, not overcome with delusion. His mind heads straight, based on virtue. And when the mind is headed straight, the disciple of the noble ones gains a sense of the goal, gains a sense of the Dhamma, gains joy connected with the Dhamma. In one who is joyful, rapture arises. In one who is rapturous, the body grows calm. One whose body is calmed experiences ease. In one at ease, the mind becomes concentrated.
"Mahanama, you should develop this recollection of virtue while you are walking, while you are standing, while you are sitting, while you are lying down, while you are busy at work, while you are resting in your home crowded with children.

(4) Lại nữa, này Mahànàma, Thánh đệ tử tùy niệm các Giới của ḿnh: "Giới không bị bể vụn, không bị sứt mẻ, không bị vết chấm, không có uế tạp, đưa đến giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến Thiền định". Này Mahànàma, trong khi Thánh đệ tử tùy niệm Giới, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, không bị sân chi phối, không bị si chi phối; trong khi ấy, tâm vị ấy được chánh trực nhờ dựa vào Giới. Và này Mahànama, Thánh đệ tử với tâm chánh trực, được nghĩa tín thọ, được pháp tín thọ, được hân hoan liên hệ đến Giới. Người có hân hoan, nên hỷ sanh. Người có hỷ, nên thân được khinh an. Với thân khinh an, vị ấy cảm giác lạc thọ. Người có lạc thọ, tâm được định tĩnh.
Này Mahànàma, về vị Thánh đệ tử này, được nói như sau: "Với quần chúng không b́nh thản, vị ấy sống b́nh thản. Với quần chúng có năo hại, vị ấy sống không năo hại. Nhập được pháp lưu, vị ấy tu tập niệm Giới".

 

[5] "Furthermore, there is the case where you recollect your own generosity: 'It is a gain, a great gain for me, that — among people overcome with the stain of possessiveness — I live at home, my awareness cleansed of the stain of possessiveness, freely generous, openhanded, delighting in being magnanimous, responsive to requests, delighting in the distribution of alms.' At any time when a disciple of the noble ones is recollecting generosity, his mind is not overcome with passion, not overcome with aversion, not overcome with delusion. His mind heads straight, based on generosity. And when the mind is headed straight, the disciple of the noble ones gains a sense of the goal, gains a sense of the Dhamma, gains joy connected with the Dhamma. In one who is joyful, rapture arises. In one who is rapturous, the body grows calm. One whose body is calmed experiences ease. In one at ease, the mind becomes concentrated.
"Mahanama, you should develop this recollection of generosity while you are walking, while you are standing, while you are sitting, while you are lying down, while you are busy at work, while you are resting in your home crowded with children.

(5) Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử tự ḿnh niệm Thí của ḿnh: "Thật là được lợi cho ta! Thật là khéo được lợi cho ta, v́ rằng với quần chúng bị cấu uế xan tham chi phối, ta sống trong gia đ́nh, với tâm không bị cấu uế của xan tham chi phối, bố thí rộng răi với bàn tay sạch sẽ, ưa thích từ bỏ, sẵn sàng để được yêu cầu, ưa thích phân phát vật bố thí". Này Mahànàma, trong khi vị Thánh đệ tử tùy niệm bố thí, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, không bị sân chi phối, không bị si chi phối; trong khi ấy, tâm vị ấy được chánh trực nhờ dựa vào Thí. Và này Mahànama, Thánh đệ tử với tâm chánh trực, được nghĩa tín thọ, được pháp tín thọ, được hân hoan liên hệ đến Thí. Người có hân hoan, nên hỷ sanh. Người có hỷ, nên thân được khinh an. Với thân khinh an, vị ấy cảm giác lạc thọ. Người có lạc thọ, tâm được định tĩnh.
Này Mahànàma, về vị Thánh đệ tử này, được nói như sau: "Với quần chúng không b́nh thản, vị ấy sống b́nh thản. Với quần chúng có năo hại, vị ấy sống không năo hại. Nhập được pháp lưu, vị ấy tu tập niệm Thí".

 

[6] "Furthermore, you should recollect the devas: 'There are the devas of the Four Great Kings, the devas of the Thirty-three, the devas of the Hours, the Contented Devas, the devas who delight in creation, the devas who have power over the creations of others, the devas of Brahma's retinue, the devas beyond them. Whatever conviction they were endowed with that — when falling away from this life — they re-arose there, the same sort of conviction is present in me as well. Whatever virtue they were endowed with that — when falling away from this life — they re-arose there, the same sort of virtue is present in me as well. Whatever learning they were endowed with that — when falling away from this life — they re-arose there, the same sort of learning is present in me as well. Whatever generosity they were endowed with that — when falling away from this life — they re-arose there, the same sort of generosity is present in me as well. Whatever discernment they were endowed with that — when falling away from this life — they re-arose there, the same sort of discernment is present in me as well.' At any time when a disciple of the noble ones is recollecting the conviction, virtue, learning, generosity, and discernment found both in himself and the devas, his mind is not overcome with passion, not overcome with aversion, not overcome with delusion. His mind heads straight, based on the [qualities of the] devas. And when the mind is headed straight, the disciple of the noble ones gains a sense of the goal, gains a sense of the Dhamma, gains joy connected with the Dhamma. In one who is joyful, rapture arises. In one who is rapturous, the body grows calm. One whose body is calmed experiences ease. In one at ease, the mind becomes concentrated.
"Mahanama, you should develop this recollection of the devas while you are walking, while you are standing, while you are sitting, while you are lying down, while you are busy at work, while you are resting in your home crowded with children."
AN XI.13

(6) Lại nữa, này Mahànama, Thánh đệ tử tu tập tùy niệm Thiên: "Có chư Thiên bốn Thiên vương Thiên, có chư Thiên cơi trời Ba mươi ba, có chư Thiên Yàma, có chư Thiên Tusità (Đâu-suất), có chư Thiên Hóa lạc Thiên, có chư Thiên Tha hóa Tự tại, có chư Thiên Phạm chúng, có chư Thiên cao hơn nữa. Đầy đủ với ḷng tin như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Ḷng tin như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Đầy đủ với giới như vậy, chư Thiên ấy sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Giới như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Đầy đủ với nghe pháp như vậy, chư Thiên ấy sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Nghe pháp như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Đầy đủ với Thí như vậy, chư Thiên ấy sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Thí như vậy cũng có đầy đủ ở nơi ta. Đầy đủ với Tuệ như vậy, chư Thiên ấy sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Tuệ như vậy cũng đầy đủ nơi ta". Khi vị ấy niệm Tín, Giới, nghe Pháp, Thí và Tuệ của tự ḿnh và chư Thiên ấy; trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, không bị si chi phối; trong khi ấy, tâm vị ấy được chánh trực nhờ dựa vào chư Thiên. Và này Mahànàma, Thánh đệ tử với tâm chánh trực được nghĩa tín thọ, được pháp tín thọ, được hân hoan liên hệ đến pháp. Người có hân hoan, nên hỷ sanh. Người có hỷ nên thân được khinh an. Với thân khinh an, vị ấy cảm giác lạc thọ. Người có lạc thọ, tâm được định tĩnh.
Này Mahànàma, về vị Thánh đệ tử này, được nói như sau: "Với quần chúng không b́nh thản, vị ấy sống b́nh thản. Với quần chúng có năo hại, vị ấy sống không năo hại. Nhập được pháp lưu, vị ấy tu tập niệm Thiên".
Này Mahànàma, vị Thánh đệ tử nào đă đi đến quả, đă liễu giải giáo pháp, vị ấy sống một cách sung măn với nếp sống này.
AN XI.13

 

Uposatha

Các Lễ Uposatha

 

I have heard.
That on one occasion the Blessed One was staying in Savatthi at the Eastern Monastery, the palace of Migara's mother. Now at that time — it being the Uposatha day — Visakha, Migara's mother, went to the Blessed One in the middle of the day and, on arrival, having bowed down to him, sat to one side. As she was sitting there the Blessed One said to her,
"Well now, Visakha, why are you coming in the middle of the day?"

Như vầy tôi nghe.
1. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), Pubbarama (Đông viên), lâu đài của mẹ Migara. Rồi Visakha, mẹ của Migara, trong ngày Uposatha (Bố-tát trai giới) đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Visakha, mẹ của Migara đang ngồi xuống một bên:
- Này Visàkhà, từ đâu bà đến sáng sớm như thế này?

 

"Today I'm observing the Uposatha, lord."

- Bạch Thế Tôn, hôm nay con thọ trai giới

 

"Visakha, there are these three Uposathas. Which three? The Uposatha of a cowherd, the Uposatha of the Jains, and the Uposatha of the Noble Ones.

Có ba loại trai giới này, này Visàkhà. Thế nào là ba? Trai giới người chăn ḅ, trai giới Niganthà, và trai giới bậc Thánh.

 

"And what is the Uposatha of a cowherd?
Just as when a cowherd returns the cattle to their owners in the evening, he reflects: 'Today the cattle wandered to that spot and this; they drank at this spot and that; tomorrow they will wander to that spot and this; they will drink at this spot and that'; in the same way, there is the case where a certain person observing the Uposatha reflects, 'Today I ate this sort of non-staple food and that sort of staple food. Tomorrow I will eat that sort of non-staple food and this sort of staple food.' He spends the day with an awareness imbued with that covetousness, with that greed. Such is the Uposatha of a cowherd, Visakha. When this Uposatha of a cowherd is undertaken, it is not of great fruit or great benefit, not of great glory or radiance.

Như thế nào, này Visàkhà, là trai giới người chăn ḅ?
Ví như, này Visàkhà, người chăn ḅ vào buổi chiều lùa các con ḅ về cho chủ của chúng. Người ấy suy nghĩ: "Hôm nay, các con ḅ đă ăn cỏ tại chỗ này và chỗ này, đă uống nước tại chỗ này và chỗ này. Ngày mai, các con ḅ sẽ ăn cỏ tại chỗ này và chỗ này, sẽ uống nước tại chỗ này và chỗ này". Cũng vậy, này Visàkhà, ở đây có người giữ trai giới suy nghĩ: "Hôm nay, ta đă ăn loại đồ ăn cứng này, loại đồ ăn cứng này ta đă ăn; ta đă ăn loại đồ ăn mềm này, loại đồ ăn mềm này ta đă ăn. Ngày mai, ta sẽ ăn loại đồ ăn cứng này, loại đồ ăn cứng này ta sẽ ăn; ta sẽ ăn loại đồ ăn mềm này, loại đồ ăn mềm này ta sẽ ăn". Như vậy, người ấy sống cả ngày với tâm đồng hành với tham dục. Như vậy, này Visàkhà, là trai giới người chăn ḅ.

 

"And what is the Uposatha of the Jains?
There are the contemplatives called the Niganthas (Jains). They get their disciple to undertake the following practice: 'Here, my good man. Lay down the rod with regard to beings who live more than 100 leagues to the east... more than 100 leagues to the west... more than 100 leagues to the north... more than 100 leagues to the south.' Thus they get the disciple to undertake kindness & sympathy to some beings, but not to others.

Này Visàkhà, thế nào là trai giới các Niganthà?
Ở đây, này Visàkhà, có hạng Sa-môn tên là Niganthà, họ khích lệ đệ tử như sau: "Ông hăy quăng bỏ trượng đối với các sinh loại sống ở phương Đông, ngoài một trăm do tuần. Hăy quăng bỏ trượng đối với các sinh loại sống ở phương Tây, ngoài một trăm do tuần. Hăy quăng bỏ trượng đối với các sinh loại sống ở phương Bắc, ngoài một trăm do tuần. Hăy quăng bỏ trượng đối với các sinh loại sống ở phương Nam, ngoài một trăm do tuần." Như vậy, họ khích lệ v́ ḷng thương, v́ ḷng từ mẫn đối với một số sinh loại mà thôi, họ không khích lệ v́ ḷng thương, v́ ḷng từ mẫn, đối với một số sinh loại khác.

 

"On the Uposatha day, they get their disciple to undertake the following practice: 'Here, my good man. Having stripped off all your clothing, say this: "I am nothing by anything or of anything. Thus there is nothing by anything or of anything that is mine."' Yet in spite of that, his parents know of him that 'This is our child.' And he knows of them that 'These are my parents.' His wives & children know of him that 'This is our husband & father.' And he knows of them that 'These are my wives & children.' His workers & slaves know of him that 'This is our master.' And he knows of them that 'These are my workers & slaves.' Thus at a time when he should be persuaded to undertake truthfulness, he is persuaded to undertake falsehood. At the end of the night, he resumes the consumption of his belongings, even though they aren't given back to him. This counts as stealing, I tell you. Such is the Uposatha of the Jains, Visakha. When this Uposatha of the Jains is undertaken, it is not of great fruit or great benefit, not of great glory or radiance.

Trong ngày Uposatha, họ khích lệ đệ tử như sau: "Này các Ông, hăy quăng bỏ tất cả áo quần và nói như sau: "Ta không có bất cứ vật ǵ, bất cứ ở đâu, bất cứ chỗ nào. Bất cứ vật ǵ, bất cứ ở đâu, bất cứ chỗ nào, không có cái ǵ là của ta. ""Nhưng cha và mẹ của người ấy biết người ấy là con của ḿnh. Và người ấy biết họ là cha mẹ của ḿnh. Vợ và con người ấy biết người ấy là chồng, là cha của ḿnh, và người ấy biết họ là vợ, là con của ḿnh. Các người nô tỳ làm công biết người ấy là chủ của họ. Và người ấy biết họ là nô tỳ, là nhân viên của ḿnh. Như vậy, trong thời gian đáng phải khích lệ đúng với sự thật, trong thời gian ấy, lại được khích lệ bằng điều nói láo. Đây ta tuyên bố là một sự nói láo. Sau khi đêm ấy đă qua, người ấy thọ hưởng tất cả tài sản chưa đem cho. Đây ta tuyên bố là lấy của không cho. Như vậy, này Visàkhà, là lễ Uposathà của các Niganthà . Được sống thực hành như vậy, này Visàkhà, Uposatha của các Niganthà không quả lớn, không lợi ích lớn, không chói sáng, không ánh sáng lớn.

 

"And what is the Uposatha of the Noble Ones? It is the cleansing of the defiled mind through the proper technique. And how is the defiled mind cleansed through the proper technique?

4. - Và này Visàkhà, thế nào là trai giới các bậc Thánh? Chính là làm thanh tịnh một tâm uế nhiễm với phương pháp thích nghi.

 

"There is the case where the disciple of the noble ones recollects the Tathagata, thus: 'Indeed, the Blessed One is worthy and rightly self-awakened, consummate in knowledge & conduct, well-gone, an expert with regard to the world, unexcelled as a trainer for those people fit to be tamed, the Teacher of divine & human beings, awakened, blessed.' As he is recollecting the Tathagata, his mind is calmed, and joy arises; the defilements of his mind are abandoned, just as when the head is cleansed through the proper technique.

Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Phật: "Đây là Thế Tôn, bậc Ứng Cúng A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn." Do vị ấy niệm Như Lai, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền năo của tâm được đoạn tận. Ví như, này Visàkhà, đầu uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi.

 

And how is the head cleansed through the proper technique?

Through the use of cosmetic paste & clay & the appropriate human effort. This is how the head is cleansed through the proper technique. In the same way, the defiled mind is cleansed through the proper technique.

Và này Visàkhà, thế nào là đầu uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi?

Do duyên bột nhồi, do duyên đất sét, do duyên nước và do duyên nỗ lực thích nghi của con người. Như vậy, này Visàkhà, là đầu uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi. Cũng vậy, này Visàkhà, là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi.

 

And how is the defiled mind cleansed through the proper technique?

There is the case where the disciple of the noble ones recollects the Tathagata... As he is recollecting the Tathagata, his mind is cleansed, and joy arises; the defilements of his mind are abandoned. He is thus called a disciple of the noble ones undertaking the Brahma-Uposatha. He lives with Brahma (= the Buddha). It is owing to Brahma that his mind is calmed, that joy arises, and that whatever defilements there are in his mind are abandoned. This is how the mind is cleansed through the proper technique.

Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi?

Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Như Lai: "Đây là Thế Tôn, bậc Ứng Cúng A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn." Do vị ấy niệm Như Lai, tâm được tịnh tín, hân hoan khởi lên, các phiền năo của tâm được đoạn tận. Này Visàkhà, đây gọi là Thánh đệ tử để thực hành trai giới Phạm Thiên, vị ấy cùng sống với Phạm Thiên. Do duyên Phạm Thiên, tâm vị ấy được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền năo của tâm được đoạn tận. Như vậy, này Visàkhà, là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi.

 

[Again, the Uposatha of the Noble Ones] is the cleansing of the mind through the proper technique. And how is the defiled mind cleansed through the proper technique?

5.-Này Visàkhà, tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi. Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi?

 

"There is the case where the disciple of the noble ones recollects the Dhamma, thus: 'The Dhamma is well-expounded by the Blessed One, to be seen here & now, timeless, inviting verification, pertinent, to be realized by the wise for themselves.' As he is recollecting the Dhamma, his mind is calmed, and joy arises; the defilements of his mind are abandoned, just as when the body is cleansed through the proper technique.

Ở đây, này Visàkhà, vị Thánh đệ tử niệm pháp: "Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự ḿnh giác hiểu". Do vị ấy niệm Pháp, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền năo của tâm được đoạn tận. Ví như, này Visàkhà, thân uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi.

 

And how is the body cleansed through the proper technique?

Through the use of scouring balls & bath powder & the appropriate human effort. This is how the body is cleansed through the proper technique. In the same way, the defiled mind is cleansed through the proper technique.

Và này Visàkhà, thế nào là thân uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi?

Do duyên sottim (một thứ đá bọt dùng để chà lưng), do duyên bột tắm, do duyên nước và do duyên nỗ lực thích nghi của con người. Như vậy, này Visàkhà, là thân uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi. Cũng vậy, này Visàkhà, là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi.

 

And how is the defiled mind cleansed through the proper technique?

There is the case where the disciple of the noble ones recollects the Dhamma... As he is recollecting the Dhamma, his mind is cleansed, and joy arises; the defilements of his mind are abandoned. He is thus called a disciple of the noble ones undertaking the Dhamma-Uposatha. He lives with Dhamma. It is owing to Dhamma that his mind is calmed, that joy arises, and that whatever defilements there are in his mind are abandoned. This is how the mind is cleansed through the proper technique.

Và như thế nào, này Visàkhà, là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi?

Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm pháp: "Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự ḿnh giác hiểu". Do người ấy niệm Pháp, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền năo của tâm được đoạn tận. Này Visàkhà, đây gọi là Thánh đệ tử thực hành pháp trai giới, vị ấy sống với pháp. Chính nhờ pháp, tâm vị ấy tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền năo của tâm được đoạn tận. Như vậy, này Visàkhà, là tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi.

 

[Again, the Uposatha of the Noble Ones] is the cleansing of the mind through the proper technique. And how is the defiled mind cleansed through the proper technique?

"There is the case where the disciple of the noble ones recollects the Sangha, thus: 'The Sangha of the Blessed One's disciples who have practiced well... who have practiced straight-forwardly... who have practiced methodically... who have practiced masterfully — in other words, the four types [of noble disciples] when taken as pairs, the eight when taken as individual types — they are the Sangha of the Blessed One's disciples: worthy of gifts, worthy of hospitality, worthy of offerings, worthy of respect, the incomparable field of merit for the world.' As he is recollecting the Sangha, his mind is calmed, and joy arises; the defilements of his mind are abandoned, just as when clothing is cleansed through the proper technique.

6.- Này Visàkhà, tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi. Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch nhớ phương pháp thích nghi?

Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Tăng: "Diệu hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; Trực hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; Ứng lư hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; Chơn chánh hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn, tức là bốn đôi tám chúng. Chúng đệ tử của Thế Tôn là đáng cung kính, đáng tôn trọng, đáng cúng dường, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời". Do vị ấy niệm Tăng, tâm vị ấy tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền năo của tâm được đoạn tận. Ví như, này Visàkhà, một tấm vải bị uế được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi.

 

And how is clothing cleansed through the proper technique?

Through the use of salt earth & lye & cow dung & the appropriate human effort. This is how clothing is cleansed through the proper technique. In the same way, the defiled mind is cleansed through the proper technique.

Và này Visàkhà, thế nào là một tấm vải bị uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi?

Do duyên usam (đất mặn) do duyên khàram (nước tro), do duyên phân ḅ, do duyên nước, và do duyên nỗ lực thích nghi của con người. Như vậy, này Visàkhà, một tấm vải bị uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi. Cũng vậy, này Visàkhà, là tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi.

 

And how is the defiled mind cleansed through the proper technique?

There is the case where the disciple of the noble ones recollects the Sangha... As he is recollecting the Sangha, his mind is cleansed, and joy arises; the defilements of his mind are abandoned. He is thus called a disciple of the noble ones undertaking the Sangha-Uposatha. He lives with the Sangha. It is owing to the Sangha that his mind is calmed, that joy arises, and that whatever defilements there are in his mind are abandoned. This is how the mind is cleansed through the proper technique.

Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi?

Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Tăng: "Diệu hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; Trực hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; Ứng lư hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; Chơn chánh hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn, tức là bốn đôi tám chúng. Chúng đệ tử của Thế Tôn là đáng cung kính, đáng tôn trọng, đáng cúng dường, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời". Nhờ vị ấy niệm Tăng, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền năo của tâm được đoạn tận. Này Visàkhà, đây gọi là Thánh đệ tử thực hành chúng Tăng trai giới, sống với chúng tăng. Chính nhờ chúng tăng, tâm vị ấy tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền năo của tâm được đoạn tận. Như vậy, này Visàkhà, là tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi.

 

[Again, the Uposatha of the Noble Ones] is the cleansing of the mind through the proper technique. And how is the defiled mind cleansed through the proper technique?
"There is the case where the disciple of the noble ones recollects his own virtues, thus: '[They are] untorn, unbroken, unspotted, unsplattered, liberating, praised by the wise, untarnished, conducive to concentration.' As he is recollecting virtue, his mind is calmed, and joy arises; the defilements of his mind are abandoned, just as when a mirror is cleansed through the proper technique.

And how is a mirror cleansed through the proper technique?
Through the use of oil & ashes & chamois & the appropriate human effort. This is how a mirror is cleansed through the proper technique. In the same way, the defiled mind is cleansed through the proper technique.

And how is the defiled mind cleansed through the proper technique?
There is the case where the disciple of the noble ones recollects his own virtues... As he is recollecting virtue, his mind is cleansed, and joy arises; the defilements of his mind are abandoned. He is thus called a disciple of the noble ones undertaking the virtue-Uposatha. He lives with virtue. It is owing to virtue that his mind is calmed, that joy arises, and that whatever defilements there are in his mind are abandoned. This is how the mind is cleansed through the proper technique.

7.- Này Visàkhà, tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi. Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi?
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Giới: "Không bị phá hoại, không bị đâm cắt, không bị nhiễm ô, không bị uế nhiễm, đem lại giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến Thiền định". Vị ấy nhờ niệm Giới, tâm vị ấy được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền năo của tâm được đoạn tận. Ví như, này Visàkhà, một tấm gương uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi?
Và này Visàkhà, thế nào là một tấm gương uế nhiễm được rửa sạch nhờ phương pháp thích nghi?
Do duyên dầu, do duyên tro, do duyên bàn chải lông và do duyên nỗ lực thích nghi của con người. Như vậy, này Visàkhà, là tấm gương uế nhiễm được rửa sạch với phương pháp thích nghi.
Và này Visàkhà, thế nào là một tấm gương uế nhiễm được rửa sạch nhờ phương pháp thích nghi?
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Giới: "Không bị phá hoại, không bị đâm cắt, không bị nhiễm ô, không bị uế nhiễm, đem lại giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến Thiền định". Vị ấy nhờ niệm Giới, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền năo của tâm được đoạn tận. Này Visàkhà, đây gọi là thánh đệ tử thực hành giới Uposatha, sống chung với giới. Nhờ giới, tâm được tịnh tín, hân hoàn sanh khởi, các phiền năo của tâm được đoạn tận. Như vậy, này Visàkhà, là tâm uế nhiễm được rửa sạch nhờ phương pháp thích nghi?

 

[Again, the Uposatha of the Noble Ones] is the cleansing of the mind through the proper technique. And how is the defiled mind cleansed through the proper technique?
"There is the case where the disciple of the noble ones recollects the devas, thus: 'There are the devas of the Four Great Kings, the devas of the Thirty-three, the devas of the Hours, the Contented Devas, the devas who delight in creation, the devas who have power over the creations of others, the devas of Brahma's retinue, the devas beyond them. Whatever conviction they were endowed with that — when falling away from this life — they re-arose there, the same sort of conviction is present in me as well. Whatever virtue they were endowed with that — when falling away from this life — they re-arose there, the same sort of virtue is present in me as well. Whatever learning they were endowed with that — when falling away from this life — they re-arose there, the same sort of learning is present in me as well. Whatever generosity they were endowed with that — when falling away from this life — they re-arose there, the same sort of generosity is present in me as well. Whatever discernment they were endowed with that — when falling away from this life — they re-arose there, the same sort of discernment is present in me as well.' As he is recollecting the Devas, his mind is calmed, and joy arises; the defilements of his mind are abandoned, just as when a gold is cleansed through the proper technique.
And how is gold cleansed through the proper technique?
Through the use of a furnace, salt earth, red chalk, a blow-pipe, tongs, & the appropriate human effort. This is how gold is cleansed through the proper technique. In the same way, the defiled mind is cleansed through the proper technique.
And how is the defiled mind cleansed through the proper technique?
There is the case where the disciple of the noble ones recollects the Devas... As he is recollecting the Devas, his mind is cleansed, and joy arises; the defilements of his mind are abandoned. He is thus called a disciple of the noble ones undertaking the Deva-Uposatha. He lives with the Devas. It is owing to the Devas that his mind is calmed, that joy arises, and that whatever defilements there are in his mind are abandoned. This is how the mind is cleansed through the proper technique.

8. Này Visàkhà, tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi. Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi?
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Thiên: "Có Chư Thiên bốn Thiên Vương; có Chư Thiên cơi trời Ba mươi ba; có chư Thiên Yàmà; có chư Thiên Tusita (Đâu suất); có chư Thiên Hóa lạc; có chư Thiên Tha hóa tự tại; có chư Thiên Phạm chúng; có chư Thiên cao hơn nữa. Đầy đủ với ḷng tin như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Ḷng tin như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Đầy đủ với giới như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Giới như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Đầy đủ với nghe pháp như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Nghe pháp như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Đầy đủ với thí như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Thí như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Đầy đủ tuệ như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Tuệ như vậy cũng có đầy đủ nơi ta". Khi người ấy niệm tín, giới, nghe pháp, thí và tuệ của tự ḿnh và chư Thiên ấy, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi. Các phiền năo của tâm được đoạn tận. Ví như, này Visàkhà, là vàng bị uế nhiễm được làm cho thanh tịnh nhờ phương pháp thích nghi.
Và này Visàkhà, thế nào là vàng bị uế nhiễm được làm cho thanh tịnh nhờ phương pháp thích nghi?
Do duyên ḷ, do duyên đất muối, do duyên phấn đỏ, do duyên ống bệ, do duyên cái ḱm, và do duyên nỗ lực thích nghi của con người. Như vậy, này Visàkhà, là vàng bị uế nhiễm được làm cho thanh tịnh nhờ phương pháp thích nghi. Cũng vậy, này Visàkhà, là tâm bị uế nhiễm được làm cho thanh tịnh nhờ phương pháp thích nghi?
Và này v́, thế nào là tâm bị uế nhiễm được làm cho thanh tịnh nhờ phương pháp thích nghi.
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Thiên: "Có Chư Thiên bốn Thiên Vương; có Chư Thiên cơi trời ba mươi ba; có chư Thiên Yàmà; có chư Thiên Tusita (Đâu suất); có chư Thiên hóa lạc; có chư Thiên tha hóa tự tại; có chư Thiên Phạm chúng; có chư Thiên cao hơn nữa. Đầy đủ với ḷng tin như vậy, chư Thiên ấy, mạng chung ở chỗ này, được sanh tại chỗ ấy. Ta cũng có ḷng tin như vậy. Đầy đủ với giới như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Giới như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Đầy đủ với nghe pháp như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Nghe pháp như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Đầy đủ với thí như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Thí như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Đầy đủ với trí tuệ như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Ta cũng có trí tuệ như vậy". Khi vị ấy niệm tín, giới, nghe pháp, thí, và tuệ của tự ḿnh và của chư Thiên ấy, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi. Các phiền năo của tâm được đoạn tận. Đây gọi là Thánh đệ tử thực hành Thiên trai giới, sống chung với chư Thiên. Nhờ chư Thiên, tâm vị ấy được tịnh tín, hân hoan sanh khởi. Các phiền năo của tâm được đoạn tận. Như vậy, này Visàkhà, là tâm bị uế nhiễm được làm cho thanh tịnh nhờ phương pháp thích nghi.

 

Furthermore, the disciple of the noble ones reflects thus: 'As long as they live, the arahants — abandoning the taking of life — abstain from the taking of life. They dwell with their rod laid down, their knife laid down, scrupulous, merciful, compassionate for the welfare of all living beings. Today I too, for this day & night — abandoning the taking of life — abstain from the taking of life. I dwell with my rod laid down, my knife laid down, scrupulous, merciful, compassionate for the welfare of all living beings. By means of this factor I emulate the arahants, and my Uposatha will be observed.

9. - Thánh đệ tử ấy, này Visàkhà, suy tư như sau: "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quư, có ḷng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu t́nh. Cũng vậy đêm nay và ngày nay, ta sống từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quí, có ḷng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu t́nh. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới".

 

"'As long as they live, the arahants — abandoning the taking of what is not given — abstains from taking what is not given. They take only what is given, accept only what is given, live not by stealing but by means of a self that has become pure. Today I too, for this day & night — abandoning the taking of what is not given — abstain from taking what is not given. I take only what is given, accept only what is given, live not by stealing but by means of a self that has become pure. By means of this factor I emulate the arahants, and my Uposatha will be observed.

10.- "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ lấy của không cho, chỉ lấy những vật đă cho, chỉ mong những vật đă cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp. Cũng vậy, đêm nay và ngày nay, ta sống từ bỏ lấy của không cho, chỉ lấy những vật đă cho, chỉ mong những vật đă cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới".

 

11. "'As long as they live, the arahants — abandoning uncelibacy — live a celibate life, aloof, refraining from the sexual act that is the villager's way. Today I too, for this day & night — abandoning uncelibacy — live a celibate life, aloof, refraining from the sexual act that is the villager's way. By means of this factor I emulate the arahants, and my Uposatha will be observed.

11.-"Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ tà hạnh, tịnh tu Phạm hạnh, sống giải thoát, từ bỏ dâm dục hèn hạ. Cũng vậy, đêm nay và ngày nay, ta sống từ bỏ tà hạnh, tịnh tu Phạm hạnh, sống giải thoát, từ bỏ dâm dục hèn hạ. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới".

 

12 "'As long as they live, the arahants — abandoning false speech — abstain from false speech. They speak the truth, hold to the truth, are firm, reliable, no deceivers of the world. Today I too, for this day & night — abandoning false speech — abstain from false speech. I speak the truth, hold to the truth, am firm, reliable, no deceiver of the world. By means of this factor I emulate the arahants, and my Uposatha will be observed.

12.-"Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ nói láo, tránh xa nói láo, nói những lời chân thật, y chỉ nơi sự thật chắc chắn, đáng tin cậy, không lừa gạt, không phản lại lời hứa đối với đời. Cũng vậy, đêm nay và ngày nay, ta sống từ bỏ nói láo, tránh xa nói láo, nói những lời chân thật, y chỉ nơi sự thật chắc chắn, đáng tin cậy, không lừa gạt, không phản lại lời hứa đối với đời. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới".

 

13 "'As long as they live, the arahants — abandoning fermented & distilled liquors that cause heedlessness — abstain from fermented & distilled liquors that cause heedlessness. Today I too, for this day & night — abandoning fermented & distilled liquors that cause heedlessness — abstain from fermented & distilled liquors that cause heedlessness. By means of this factor I emulate the arahants, and my Uposatha will be observed.

13.-"Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ rượu men, rượu nấu làm cho đắm say, tránh xa rượu men, rượu nấu làm cho đắm say. Cũng vậy, đêm nay và ngày nay, ta sống từ bỏ rượu men, rượu nấu làm cho đắm say, tránh xa rượu men, rượu nấu làm cho đắm say. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới".

 

14 "'As long as they live, the arahants live on one meal a day, abstaining from food at night, refraining from food at the wrong time of day [from noon until dawn]. Today I too, for this day & night, live on one meal, abstaining from food at night, refraining from food at the wrong time of day. By means of this factor I emulate the arahants, and my Uposatha will be observed.

14.- "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán ăn một ngày một bữa, không ăn ban đêm, không ăn phi thời. Cũng vậy, đêm nay và ngày nay, ta sống ăn một ngày một bữa, không ăn ban đêm, không ăn phi thời. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới".

 

15 "'As long as they live, the arahants abstain from dancing, singing, music, watching shows, wearing garlands, beautifying themselves with perfumes & cosmetics. Today I too, for this day & night, abstain from dancing, singing, music, watching shows, wearing garlands, beautifying myself with perfumes & cosmetics. By means of this factor I emulate the arahants, and my Uposatha will be observed.

15.- "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán tránh xa không xem múa, hát, nhạc, diễn kịch, không trang sức bằng ṿng hoa, hương liệu, dầu thoa và các thời trang. Cũng vậy, đêm nay và ngày nay, ta sống tránh xa không xem múa, hát, nhạc, diễn kịch, không trang sức bằng ṿng hoa, hương liệu, dầu thoa và các thời trang. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới".

 

16 "'As long as they live, the arahants — abandoning high & imposing seats & beds — abstain from high & imposing seats & beds. They make low beds, on a pallet or a spread of straw. Today I too, for this day & night — abandoning high & imposing seats & beds — abstain from high & imposing seats & beds. I make a low bed, on a pallet or a spread of straw.'

16.- "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ giường cao, giường lớn, tránh xa giường cao, giường lớn. Các vị ấy nằm trên giường thấp, trên giường nhỏ hay trên đệm cỏ. Cũng vậy, đêm nay và ngày nay, ta từ bỏ giường cao, giường lớn, tránh xa giường cao, giường lớn. Ta nằm trên giường thấp, trên giường nhỏ hay trên đệm cỏ. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới".

 

Such is the Uposatha of the Noble Ones, Visakha. When this Uposatha of the Noble Ones is undertaken, it is of great fruit & great benefit, of great glory & radiance. And how is it of great fruit & great benefit, of great glory & radiance?

Như vậy, này Visàkhà, là Thánh trai giới, thực hành Thánh trai giới, này Visàkhà, có quả lớn, có lợi ích lớn, có chói sáng lớn, có ánh sáng lớn. - Quả lớn là như thế nào? Lợi ích lớn như thế nào? Chói sáng lớn như thế nào? Ánh sáng lớn như thế nào?

 

17 Suppose that one were to exercise kingship, rule, and sovereignty over these sixteen great lands replete with the seven treasures, i.e., over the Angas, Maghadans, Kasis, Kosalans, Vajjians, Mallas, Cetis, Vansas, Kurus, Pañcalas, Macchas, Surasenas, Assakas, Avantis, Gandharans, & Kambojans: It would not be worth one-sixteenth of this Uposatha endowed with eight factors. Why is that? Kingship over human beings is a meager thing when compared with heavenly bliss.

17 Ví như, này Visàkhà, có người áp đặt chủ quyền trên 16 quốc độ lớn tràn đầy bảy báu như Anga, Magadha, Kàsi, Kosala, Vajji, Mallà, Ceti, Vangà, Kurù, Pancàlà, Macchà, Surasenà, Assakà, Avanti, Gandhàrà, Kambojà, nhưng chủ quyền ấy không bằng một phần mười sáu của một trai giới thực hành đầy đủ cả tám mặt. V́ cớ sao? Nhỏ nhoi thay, này Visàkhà, là vương quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc Chư Thiên!

 

18 Fifty human years are equal to one day & night among the Devas of the Four Great Kings. Thirty such days & nights make a month. Twelve such months make a year. Five hundred such heavenly years is the life-span among the Devas of the Four Great Kings. Now, it is possible that a certain man or woman — from having observed this Uposatha endowed with eight factors — on the break-up of the body, after death, might be reborn among the Devas of the Four Great Kings. It was in reference to this that it was said, 'Kingship over human beings is a meager thing when compared with heavenly bliss.'

18. - Năm mươi năm của một đời người, này Visàkhà, bằng một đêm một ngày của chư Thiên của Bốn Thiên Vương. Ba mươi đêm như vậy, làm thành một tháng. Mười hai tháng như vậy làm thành một năm. Năm mươi năm chư thiên như vậy làm thành thọ mạng của chư Thiên của Bốn Thiên Vương. Sự kiện này có xảy ra, này Visàkhà, ở đây có người đàn bà hay người đàn ông, sau khi thực hiện trai giới đầy đủ cả tám mặt, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên của Bốn Thiên Vương. Chính dựa trên trường hợp này được nói lên rằng: "Nhỏ nhoi thay là vương quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên!"

 

19 A human century is equal to one day & night among the Devas of the Thirty-Three. Thirty such days & nights make a month... One thousand such heavenly years is the life-span among the Devas of the Thirty-three. Now, it is possible that a certain man or woman — from having observed this Uposatha endowed with eight factors — on the break-up of the body, after death, might be reborn among the Devas of the Thirty-three. It was in reference to this that it was said, 'Kingship over human beings is a meager thing when compared with heavenly bliss.'

19.- Một trăm năm của một đời người, này Visàkhà, bằng một ngày một đêm của chư Thiên ở cơi trời Ba mươi ba. Ba mươi đêm như vậy, làm thành một tháng. Mười hai tháng như vậy làm thành một năm. Một ngàn năm chư Thiên như vậy làm thành thọ mạng của chư Thiên ở cơi trời Ba mươi ba. Sự kiện này có xảy ra, này Visàkhà, ở đây có người đàn bà hay người đàn ông, sau khi thực hiện trai giới đầy đủ cả tám mặt, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên ở cơi trời Ba mươi ba. Chính dựa trên trường hợp này được nói lên rằng: "Nhỏ nhoi thay là vương quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên!"

 

20 Two human centuries is equal to one day & night among the Yama Devas... Two thousand such heavenly years is the life-span among the Yama Devas...

20.- Hai trăm năm của một đời người, này Visàkhà, bằng một ngày một đêm của chư Thiên ở cơi trời Yàmà. Ba mươi đêm như vậy, làm thành một tháng. Mười hai tháng như vậy làm thành một năm. Hai ngàn năm chư Thiên như vậy làm thành thọ mạng của chư Thiên ở cơi trời Yàmà. Sự kiện này có xảy ra, này Visàkhà, ở đây có người đàn bà hay người đàn ông, sau khi thực hiện trai giới đầy đủ cả tám mặt, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên ở cơi trời Yàmà. Chính dựa trên trường hợp này được nói lên rằng: "Nhỏ nhoi thay là vương quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên!".

 

21 Four human centuries is equal to one day & night among the Contented Devas... Four thousand such heavenly years is the life-span among the Contented Devas...

21.- Bốn trăm năm của một đời người, này Visàkhà, bằng một ngày một đêm của chư Thiên ở cơi trời Tusita (Đâu-suất). Ba mươi đêm như vậy, làm thành một tháng. Mười hai tháng như vậy làm thành một năm. Bốn ngàn năm chư Thiên như vậy làm thành thọ mạng của chư Thiên ở cơi trời Tusita. Sự kiện này có xảy ra, này Visàkhà, ở đây có người đàn bà hay người đàn ông, sau khi thực hiện trai giới đầy đủ cả tám mặt, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên ở cơi trời Tusita. Chính dựa trên trường hợp này được nói lên rằng: "Nhỏ nhoi thay là vương quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên!".

 

22 Eight human centuries is equal to one day & night among the Devas that Delight in Creation... Eight thousand such heavenly years is the life-span among the Devas that Delight in Creation...

22.- Tám trăm năm của một đời người, này Visàkhà, bằng một ngày một đêm của chư Thiên ở cơi trời Hóa lạc. Ba mươi đêm như vậy, làm thành một tháng. Mười hai tháng như vậy làm thành một năm. Tám ngàn năm chư Thiên như vậy làm thành thọ mạng của chư Thiên ở cơi trời Hóa lạc. Sự kiện này có xảy ra, này Visàkhà, ở đây có người đàn bà hay người đàn ông, sau khi thực hiện trai giới đầy đủ cả tám mặt, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên ở cơi trời Hóa lạc. Chính dựa trên trường hợp này được nói lên rằng: "Nhỏ nhoi thay là vương quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên!".

 

23 Sixteen human centuries is equal to one day & night among the Devas that Rule over the Creations of Others. Thirty such days & nights make a month. Twelve such months make a year. Sixteen thousand such heavenly years is the life-span among the Devas that Rule over the Creations of Others. Now, it is possible that a certain man or woman — from having observed this Uposatha endowed with eight factors — on the break-up of the body, after death, might be reborn among the Devas that Rule over the Creations of Others. It was in reference to this that it was said, 'Kingship over human beings is a meager thing when compared with heavenly bliss.'"

23.- Mười sáu trăm năm của một đời người, này Visàkhà, bằng một ngày một đêm của chư Thiên ở cơi trời Tha Hóa Tự Tại. Ba mươi đêm như vậy, làm thành một tháng, mười hai tháng như vậy làm thành một năm. Mười sáu ngàn năm chư Thiên như vậy làm thành thọ mạng của chư Thiên ở cơi trời Tha Hóa Tự Tại. Sự kiện này có xảy ra, này Visàkhà, ở đây có người đàn bà hay người đàn ông, sau khi thực hành Uposatha đầy đủ cả tám mặt, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên ở cơi trời Tha Hóa Tự Tại. Chính dựa trên trường hợp này, được nói lên rằng: "Nhỏ nhoi thay là vương quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên".