PAÑCADASAMO PARICCHEDO


CHƯƠNG THỨ MƯỜI LĂM

 

1/- Gimhāne paṭhame māse puṇṇamāse uposathe,
āgatā jambudīpamhā vasimha pabbatuttame.


(Ngài Mahinda nói với đức vua rằng): “Vào ngày trăng tròn Uposatha của tháng thứ nhất thuộc mùa nóng, chúng tôi đã từ Jambudīpa đi đến cư ngụ ở ngọn núi tuyệt vời.

 

2/- Pañcamāse na vuṭṭhamhā tissārāme ca pabbate,
gacchāma jambudīpānaṃ anujāna rathesabha.


Trong năm tháng, chúng tôi đã không lìa xa tu viện Tissārāma và ngọn núi, giờ chúng tôi sẽ đi Jambudīpa. Tâu bệ hạ, xin ngài hãy chấp thuận.”

 

3/- Tappema annapānehi vatthasenāsanehi ca,
saraṇaṃ gato jano sabbo kuto vo anabhirati.
4/- Abhivādanapaccuṭṭhānamañjaliṅgarudassanaṃ,
ciraṃ diṭṭho mahārāja sambuddhaṃ dipaduttamaṃ.


(Đức vua): “Chúng tôi đã nỗ lực về cơm nước, y phục, và chỗ ngụ. Tất cả mọi người đều đã quy y. Vì sao các ngài lại không hoan hỷ việc đảnh lễ, đứng dậy, chắp tay, thành kính, và chiêm ngưỡng?” (Ngài Mahinda): “Tâu đại vương, đã lâu nay tôi không được nhìn thấy đấng Chánh Đẳng Giác, bậc tối thượng của loài người.”

 

5/- Aññātaṃ vatāhaṃ bhante karomi thūpam uttamaṃ,
vijānātha bhūmikammaṃ thūpaṃ kāhāmi satthuno.


(Đức vua): “Thưa ngài, đương nhiên trẫm hiểu được. Trẫm sẽ xây dựng ngôi bảo tháp hạng nhất. Xin các ngài quan tâm đến việc lựa chọn khu đất, trẫm sẽ xây dựng ngôi bảo tháp cho bậc Đạo Sư.”

 

6/- Ehi tvaṃ sumana gantvā pāṭaliputtapuruttamaṃ ,
asokaṃ dhammarājānaṃ evaṃ c’ārocayāhi tvaṃ.


(Ngài Mahinda nói với sa-di Sumana): “Này Sumana, con hãy đi đến kinh đô Pāṭaliputta và con hãy thưa với đức vua công chính Asoka như vầy:

 

7/- Sāhāyo te mahārāja pasanno buddhasāsane,
dehi dhātuvaraṃ tassa thūpaṃ kāhāti satthuno.


"Tâu đại vương, người bạn của ngài đã có niềm tin vào Phật Pháp. Xin ngài hãy bố thí xá-lợi cao quý đến ông ấy, ông ấy sẽ xây dựng ngôi bảo tháp cho bậc Đạo Sư.”

 

8/- Bahussuto sutadharo subbaco vacanakkhamo,
iddhiyā pāramippatto acalo suppatiṭṭhito.


Sumana là vị đa văn, ghi nhớ điều đã học, dễ dạy, nhẫn nhịn, thành tựu ba-la-mật và thần thông, không dao động, và khéo an trú.

 

9/- Pattacīvaramādāya khaṇe pakkami pabbatā,
asokaṃ dhammarājānaṃ ārocesi yathākathaṃ.


Sau khi cầm lấy y và bình bát, trong phút chốc vị ấy đã rời khỏi ngọn núi và đã trình bày với đức vua công chính Asoka đúng như lời dặn dò:

 

10/- Upajjhāyassa me rāja suṇohi vacanaṃ tuvaṃ,
sahāyo te mahārāja pasanno buddhasāsane,
dehi dhātuvaraṃ tassa thūpaṃ kāhati satthuno.


“Tâu bệ hạ, xin ngài hãy lắng nghe lời nói của thầy tế độ tôi rằng: ‘Tâu đại vương, người bạn của ngài đã có niềm tin vào Phật Pháp. Xin ngài hãy bố thí xá-lợi cao quý đến ông ấy, ông ấy sẽ xây dựng ngôi bảo tháp cho bậc Đạo Sư.’”

 

11/- Sutvāna vacanaṃ rājā tuṭṭho saṃviggamānaso,
dhātupattam apūresi khippaṃ gacchāhi subbata.


Lắng nghe lời nói, đức vua trở nên hoan hỷ và có tâm tư phấn chấn đã chứa xá-lợi đầy bình bát (nói rằng): “Thưa bậc đạo đức, xin ngài hãy mau chóng khởi hành.”

 

12/- Tato dhātuṃ gahetvāna subbaco vacanakkhamo,
vehāsaṃ abbhuggantvā’gamā kosiyasantike.


Sau khi nhận lấy xá-lợi từ nơi ấy, vị dễ dạy, nhẫn nhịn đã bay lên không trung rồi đi đến gặp vị thần Kosiya.1

 

13/- Subbaco anupasaṅkamma kosiyaṃ etadabravī,
upajjhāyassa me rāja suṇohi vacanaṃ tuvaṃ.


Vị dễ dạy đã đi đến gần rồi đã nói với vị thần Kosiya điều này: “Tâu bệ hạ, xin ngài hãy lắng nghe lời nói của thầy tế độ tôi rằng:

 

14/- Devānaṃpiyo rājā so pasanno buddhasāsane,
dehi dhātuvaraṃ tassa kāhati thūpamuttamaṃ.


‘Đức vua Devānampiya ấy đã có niềm tin vào Phật Pháp. Xin ngài hãy bố thí xá-lợi cao quý đến ông ấy, ông ấy sẽ xây dựng ngôi bảo tháp tuyệt vời.’”

 

15/- Sutvāna vacanaṃ tassa kosiyo tuṭṭhamānaso,
dakkhiṇakkhakaṃ pādāsi khippaṃ gacchāhi subbata.


Lắng nghe lời nói của vị ấy, với tâm hoan hỷ vị thần Kosiya đã trao (xá-lợi) xương đòn phía bên phải (nói rằng): “Thưa bậc đạo đức, xin ngài hãy mau chóng khởi hành.”

 

16/- Sāmaṇero ca sumano gantvā kosiyasantike,
dakkhiṇakkhakaṃ gahetvāna’patiṭṭhito pabbatuttame.


Và sau khi đi đến gặp vị thần Kosiya và nhận lấy (xá-lợi) xương đòn phía bên phải, vị sa-di Sumana đã về lại ngọn núi tuyệt vời.

 

17/- Sampannahirottappako garubhāvo ca paṇḍito,
pesito therarājena patiṭṭhito pabbatuttame.


Bậc trí tuệ có đầy đủ tàm quý và có bản chất đáng kính được vị đứng đầu các trưởng lão phái đi, giờ đã hiện diện tại ngọn núi tuyệt vời.

 

18/- Sabhātuko mahāseno bhikkhusaṅghe varuttame,
paccuggami tadā rājā buddhaseṭṭhassa dhātuyo.


Khi ấy, đức vua cùng với các người em trai và đoàn quân đông đảo đã đi ra đón rước các viên xá-lợi của đức Phật tối cao ở nơi hội chúng tỳ khưu cao quý tối thượng

 

19/- Cātumāsaṃ komudiyaṃ divasaṃ puṇṇarattiyā,
āgato ca mahāvīro gajakumbhe patiṭṭhito.


Vào dịp lễ hội Cātumāsa nhằm đêm trăng tròn của ngày rằm tháng Kattika, (xá-lợi của) đấng Đại Hùng đã đến, ngự ở trên đầu của con voi.

 

20/- Akāsi so kuñcanādaṃ kaṃsathālaggiyāhataṃ,
akampi tattha paṭhavī paccantamāgate muni.


Con voi đã rống lên tiếng rống của loài voi như tiếng cồng gõ. Tại nơi ấy, trái đất đã rúng động khi (xá-lợi) của đấng Mâu Ni đang tiến vào khu vực lân cận.

 

21/- Saṅkhapanavaninnādo bherisaddo samāhato,
khattiyo parivāretvā pūjesi purisuttamaṃ.


Âm thanh của tiếng tù và cùng với tiếng trống con đã hòa âm điệu.Vị Sát-đế-lỵ đã tháp tùng tôn vinh bậc vĩ nhân.

 

22/- Pacchāmukho hatthināgo pakkami pattisammukhā,
puratthimena dvārena nagaraṃ pāvisi tadā.


Khi ấy, con long tượng đầu quay về hướng tây đã bước ra dẫn đầu đoàn bộ binh và đã đi vào thành phố bằng cổng thành ở hướng đông.

 

23/- Sabbagandhaṃ ca mālaṃ ca pūjenti naranāriyo,
dakkhiṇena ca dvārena nikkhamitvā gajuttamo.


Đoàn người nam nữ cúng dường mọi thứ hương thơm và vòng hoa. Và con voi chúa đã đi ra (khỏi thành phố) bằng cổng thành phía nam.

 

24/- Kakusandhe ca satthari konāgamane ca kassape,
patiṭṭhite bhūmibhāge porāṇa isinaṃ pure.


Và ở tại khuôn viên khu đất ở trong thành phố của các vị ẩn sĩ thời xưa đã được các bậc Đạo Sư Kakusandha, Konāgamana, và Kassapa ngự đến.

 

25/- Upāgato hatthirājā bhūmisīsaṃ gajuttamo,
dhātuyo sakyaputtassa patiṭṭhesi narāsabho.


Con voi chúa, đứng đầu loài voi, đã đi lên phía trên đỉnh đồi. Đức vua đã an vị các xá-lợi của đức Thích Ca.

 

26/- Saha patiṭṭhite dhātu devā tattha pamoditā,
akampi tattha paṭhavī abbhūtaṃ lomahaṃsanaṃ.


Chư thiên ở nơi ấy đã hoan hỷ với việc xá-lợi được an vị. Tại nơi ấy, trái đất đã rúng động. Thật là trạng thái kỳ diệu khiến lông tóc dựng đứng.

 

27/- Sabhātuko pasādetvā mahāmacce saraṭṭhake,
thūpiṭṭhikaṃ ca kāresi sāmaṇero mahiddhiko.


(Đức vua) cùng với các người em trai đã tạo niềm tin cho các quan đại thần và dân cư trong xứ sở. Và vị sa-di có đại thần lực đã cho thực hiện gạch để xây dựng ngôi bảo tháp.

 

28/- Paccekapūjañcākaṃsu khattiyā thūpam uttamaṃ,
vararatanasaṃchannaṃ dhātudīpaṃ varuttamaṃ.


Các vị Sát-đế-lỵ đã thực hiện sự cúng dường của cá nhân đến ngôi bảo tháp tối thượng có xá-lợi vô cùng cao quý rực sáng như ngọn đèn và được che phủ châu ngọc quý giá.

 

29/- Setacchattaṃ ca paccekachattañcānekakaṃ yathā,
tathārūpaṃ alaṃkāraṃ vālavījani dassati.


Và có lọng che màu trắng, lọng đơn hoặc kép đều giống nhau. Tương tợ như thế, cây quạt lông thú được xem là vật trang sức.

 

30/- Thūpaṭṭhāne catuddisā padīpehi vibhātakā,
sataraṃsi udente va upasobhanti samantato.


Ở tại vị trí của ngôi bảo tháp, có những tia sáng từ những ngọn đèn tỏa sáng ở bốn phía xung quanh giống như mặt trời đang mọc.

 

31/- Pattharitehi dussehi nānāraṅgehi cittiyo,
ākāso vigatabbho ca uparūpari sobhati.


Có những bức tranh vẽ với những tấm vải nhiều màu được căng lên và không gian là bầu trời quang đãng chiếu sáng ở phía bên trên.

 

32/- Ratanamayaparikkhittaṃ aggiyaphalikāni ca,
kañcanavitānaṃ chattaṃ sovaṇṇamāli vicittakaṃ.


Có mái che bằng vàng được viền quanh bằng châu ngọc và những viên ngọc pha-lê quý giá, và có chiếc lọng che với vòng hoa bằng vàng đa dạng.

 

33/- Imaṃ passati sambuddho kakusandho vināyako,
cattālīsasahassehi tādīhi parivārito.


Là vị lãnh đạo được tháp tùng bởi bốn mươi ngàn vị tương tợ như Ngài, đấng Chánh Đẳng Giác Kakusandha đã quan sát nơi này.

 

34/- Karuṇā codito buddho satte passati cakkhumā,
ojadīpe’bhayapure dukkhappatte ca mānuse.


Thúc giục bởi lòng bi mẫn, đức Phật bậc Hữu Nhãn đã nhìn thấy chúng sanh và nhân loại đang chịu khổ hình trong thành Abhaya ở trên hòn đảo Ojadīpa.

 

35/- Bodhesi te bahū satte bodhaneyye mahājane,
buddharaṃsānubhāvena ādicco padumaṃ yathā.


Với năng lực hào quang của vị Phật, Ngài đã thức tỉnh số đông chúng sanh ấy là những người có khả năng giác ngộ, tương tợ như mặt trời đánh thức đóa hoa sen.

 

36/- Cattālīsasahassehi bhikkhūhi parivārito,
abbhuṭṭhitova suriyo ojadīpe patiṭṭhito.


Được tháp tùng bởi bốn mươi ngàn vị tỳ khưu, Ngài đã ngự trên hòn đảo Ojadīpa giống như ánh mặt trời mọc.

 

37/- Kakusandho mahādevo devakūṭo ca pabbato,
ojadīpe’bhayapure abhayo nāma khattiyo.


Ngài Kakusandha có tên là Mahādeva, ngọn núi là Devakūṭa, và vị Sát-đế-lỵ là Abhaya ở trong thành Abhaya trên hòn đảo Ojadīpa.

 

38/- Nagaraṃ kadambakokāse nadīto āsi māpitaṃ,
suvibhattaṃ dassaneyyaṃ ramaṇīyaṃ manoramaṃ.


Thành phố đã được kiến tạo cạnh bờ sông trong khu vực Kadambaka, và khéo được phân bố, đáng nhìn, xinh đẹp, lộng lẫy.

 

39/- Puṇṇakanarako nāma pajjaro āsi kakkhalo,
jano saṃsayamāpanno macchāva kumināmukhe.


Có cơn sốt khủng khiếp tên là Puṇṇakanaraka đã xảy ra và dân chúng đã bị hoang mang giống như những con cá ở nơi miệng lưới.

 

40/- Buddhassa ānubhāvena pakkanto pajjaro tadā,
desite amate dhamme sāsane ca patiṭṭhite.
41/- Caturāsītisahassānaṃ dhammābhisamayo ahu,
paṭiyārāmo tadā āsi dhammakarakacetiyaṃ.


Khi ấy, do nhờ năng lực của đức Phật cơn sốt đã biến mất. Khi Pháp Bất Tử được thuyết giảng và Giáo Hội được thiết lập là thời điểm chứng ngộ Giáo Pháp của tám mươi bốn ngàn người. Khi ấy đã có tu viện Paṭiyārāma và bảo tháp Dhammakaraka (thờ vật dụng lọc nước).

 

42/- Bhikkhusahassaparivuto mahādevo mahiddhiko,
pakkanto ca jino tamhā sayamev’aggapuggalo’ti.


Vị Mahādeva có đại thần lực được tháp tùng bởi một ngàn vị tỳ khưu. Và đấng Chiến Thắng đã rời khỏi nơi ấy, chính vị ấy là bậc “Tối Thượng Nhân.”

 

43/- Imaṃ passati sambuddho konāgamano mahāmuni,
tiṃsabhikkhusahassehi samantā parivārito.


Là vị đại hiền triết được tháp tùng xung quanh bởi ba mươi ngàn vị tỳ khưu, đấng Chánh Đẳng Giác Konāgamana đã quan sát nơi này.

 

44/- Dasasahasse sambuddho karuṇaṃ pharati cakkhumā.
varadīpe mahāvīro dukkhite passati nare.


Bậc Chánh Đẳng Giác, đấng Hữu Nhãn, đã phát tâm bi mẫn trong mười ngàn (thế giới). Đấng Đại Hùng đã nhìn thấy chúng sanh ở hòn đảo Varadīpa đang chịu khổ đau.

 

45/- Tamhi dīpe pabodhetuṃ bodhaneyye mahājane,
buddharaṃsānubhāvena ādicco padumaṃ yathā.


Nhờ vào năng lực hào quang của vị Phật, Ngài đã thức tỉnh đám đông người có khả năng giác ngộ ở trên hòn đảo ấy, tương tợ như mặt trời đánh thức đóa hoa sen.

 

46/- Tiṃsabhikkhusahassehi sambuddho parivārito,
abbhuṭṭhito va suriyo varadīpe patiṭṭhito.


Được tháp tùng bởi ba mươi ngàn vị tỳ khưu, đấng Chánh Đẳng Giác đã ngự ở hòn đảo Varadīpa, giống như mặt trời mọc.

 

47/- Konāgamano nāma jino samantakūṭapabbato,
dīpe vāsi vaḍḍhamāne samiddho nāma khattiyo.


Đấng Chiến Thắng có tên là Konāgamana, ngọn núi là Samantakūṭa, vị Sát-đế-lỵ là Samiddha cư ngụ tại Vaḍḍhamāna ở trên hòn đảo.

 

48/- Dubbuṭṭhiyo tadā cāsuṃ dubbhikkhe bhayapīḷite,
dubbhikkhadukkhite satte macchā vappodake yathā.


Và khi ấy, có những cơn hạn hán. Trong lúc bị đọa đày vì nỗi hoảng sợ trong cảnh đói kém, chúng sanh bị khốn khổ vì thiếu thức ăn giống như những con cá ở nguồn nước cạn.

 

49/- Āgate lokanāthe ca devo sammābhivassati,
khemo cāsi janapado assāsesi bahujjane.


Khi vị Lãnh Đạo của thế gian đi đến, vị trời đã làm mưa đúng thời, dân cư trở nên an ổn, và Ngài đã an ủi nhiều người.

 

50/- Tissatalākasāmante nagare dakkhiṇāmukhe,
vihāro uttarārāmo kāyabandhanacetiyaṃ.


Ở lối vào phía nam trong thành phố kề cận hồ Tissa, có tu viện Uttarārāmo là điện thờ Kāyabandhanacetiya (nơi thờ sợi dây thắt lưng của đức Phật).

 

51/- Caturāsītisahassānaṃ dhammābhisamayo ahū,
desite amate dhamme suriyo udito yathā.


Khi Pháp Bất Tử được thuyết giảng, ví như mặt trời đã mọc lên, là thời điểm chứng ngộ Giáo Pháp của tám mươi bốn ngàn người.

 

52/- Bhikkhusahassa parivutto mahāsumano patiṭṭhito,
pakkanto cāsi mahāvīro sayamev’aggapuggalo’ti.


Được tháp tùng bởi một ngàn vị tỳ khưu, đấng Đại Hùng Mahāsumana đã trụ lại rồ đã ra đi, chính vị ấy là bậc “Tối Thượng Nhân.”

 

53/- Imaṃ passati sambuddho kassapo lokanāyako,
vīsatibhikkhusahassehi samantā parivārito.


Là vị lãnh đạo thế gian được tháp tùng bởi hai mươi ngàn vị tỳ khưu ở xung quanh, đấng Chánh Đẳng Giác Kassapa (đã) quan sát nơi này.

 

54/- Kassapo ca lokavidū voloketi sadevakaṃ,
buddhacakkhuvisuddhena bodhaneyye ca passati.


Và đấng Thông Suốt Thế Gian Kassapa bằng Phật Nhãn thanh tịnh (đã) xem xét luôn cả thế giới chư thiên và nhận ra những ai có khả năng giác ngộ.

 

55/- Kassapo ca lokavidū āhutīnaṃ paṭiggaho,
pharaṃ mahākaruṇāya vivādena passati pakuppite.


Và đấng Thông Suốt Thế Gian Kassapa, người thọ nhận những vật cúng dường, (đã) phát khởi lòng bi mẫn quảng đại và nhìn thấy những kẻ bị sân hận vì tranh cãi.

 

56/- Maṇḍadīpe bahū satte bodhaneyye ca passati,
buddharaṃsānubhāvena ādicco padumaṃ yathā.


Nhờ vào năng lực hào quang của vị Phật, Ngài nhìn thấy được vô số chúng sanh có khả năng giác ngộ ở trên hòn đảo Maṇḍadīpa, tương tợ như mặt trời chiếu rọi đóa hoa sen,

 

57/- Gacchissāmi maṇḍadīpaṃ jotayissāmi sāsanaṃ,
patiṭṭhapemi sammābhaṃ andhakāraṃva candimā.


(Ngài Kassapa đã nghĩ rằng): “Ta sẽ đi đến Maṇḍadīpa. Ta sẽ làm rạng rỡ Giáo Pháp. Ta sẽ tạo ra vầng hào quang hoàn hảo giống như mặt trăng trong đêm tối.”

 

58/- Bhikkhugaṇaparivuto ākāse pakkamī jino,
patiṭṭhito maṇḍadīpe suriyo abbhuṭṭhito yathā.


Được tháp tùng bởi hội chúng tỳ khưu, đấng Chiến Thắng đã ra đi trong không trung rồi đã ngự đến hòn đảo Maṇḍadīpa, tương tợ như mặt trời mọc lên.

 

59/- Kassapo sabbanando ca subhakūṭo ca pabbato,
visālaṃ nāma nagaraṃ jayanto nāma khattiyo.


Ngài Kassapa có tên là Sabbananda, ngọn núi là Subhakūṭa, thành phố là Visāla, và vị Sát-đế-lỵ tên là Jayanta.

 

60/- Khematalākasāmante nagare pacchime mukhe,
vihāro pācīnārāmo cetiyaṃ dakasāṭakaṃ.


Ở lối vào phía tây trong thành phố lân lận với hồ Khema, có tu viện Pācīnārāma là điện thờ Dakasāṭaka (nơi thờ vải choàng tắm).

 

61/- Assāsetvāna sambuddho katvā samaggabhātuke,
desesi amataṃ dhammaṃ patiṭṭhapesi sāsanaṃ.


Sau khi đã an ủi và khiến cho các anh em đoàn kết lại, đấng Chánh Đẳng Giác đã giảng giải Pháp Bất Tử và đã thiết lập Giáo Hội.

 

62/- Desite amate dhamme patiṭṭhite ca sāsane,
caturāsītisahassānaṃ dhammābhisamayo ahū.


Khi Pháp Bất Tử được giảng giải và Giáo Hội được thiết lập là thời điểm chứng ngộ Giáo Pháp của tám mươi bốn ngàn người.

 

63/- Bhikkhugaṇaparivuto sabbanando mahāyaso,
patiṭṭhito maṇḍadīpe pakkanto lokanāyako’ti.


Được tháp tùng bởi hội chúng tỳ khưu, đấng “Lãnh Đạo Thế Gian Sabbananda là vị có danh tiếng lẫy lừng đã an trú ở tại hòn đảo Maṇḍadīpa và đã ra đi”

 

64/- Ayaṃ hi loke buddho uppanno lokanāyako,
sattānaṃ anukampāya desesi dhammamuttaṃ.


Chính đức Phật này là đấng Lãnh Đạo Thế Gian xuất hiện ở thế gian. Vì lòng thương tưởng chúng sanh Ngài đã thuyết giảng Giáo Pháp cao thượng.

 

65/- S’etaṃ passati sambuddho lokajeṭṭho narāsabho,
nāgānamāsi sagghāmo mahāsenā samāgatā.


Ngài là đấng Chánh Đẳng Giác, bậc Tối Thượng ở đời, chúa tể của nhân loại, là vị có uy tín đã nhìn thấy các loài rồng ấy với đoàn quân đông đảo đã tụ hội lại.

 

66/- Dhūmāyanti pajjalanti verāyanti caranti te,
mahabbhayaṃ samuppattaṃ dīpaṃ nāsenti pannagā.


Lũ rồng ấy tỏa khói, phun lửa, thù hằn, tạo nên nỗi lo sợ khủng khiếp khiến làm cho hòn đảo đã được thành tựu bị hủy hoại.

 

67/- Āgamā ekībhūto’va gacchāmi dīpam uttamaṃ,
mātulaṃ bhāgineyyaṃ ca nibbāpessāmi pannage.


Ngài đã đi đến chỉ có một mình (nghĩ rằng): “Ta sẽ đi đến hòn đảo tối thắng và sẽ hòa giải các con rồng cậu và cháu.

 

68/- Ahaṃ gotamasambuddho pabbate cetināmake,
anurādhapure ramme tisso nāmāsi khattiyo.


Ta là đấng Chánh Đẳng Giác Gotama, ngọn núi có tên là Cetiya, ở trong thành Anurādhapura xinh đẹp có vị Sát-đế-lỵ tên là Tissa.”

 

69/- Kusinārāyaṃ bhagavā mallānamupavattane,
anupādisesā buddho nibbuto upadhikkhaye.


Ở Kusinārā, tại (khu rừng) Upavattana của xứ Malla, đức Phật khi đã cạn kiệt mầm tái sanh đã Niết Bàn không còn dư sót.

 

70/- Vasse dvisatā’tīte chattiṃsa ca vassake tathā,
mahindo nāma nāmena jotayissati sāsanaṃ.


(Đức Phật đã xác định rằng): “Như thế, khi đã trải qua hai trăm ba mươi sáu năm, vị có tên là Mahinda sẽ làm rạng rỡ Giáo Pháp.

 

71/- Nagarassa dakkhiṇato bhūmibhāge manorame,
ārāmo ca ramaṇīyo thūpārāmo’ti suyyare.


Ở khuôn viên vùng đất hữu tình thuộc khu vực phía nam của thành phố sẽ có tu viện xinh xắn tên là ‘Thūpārāma.’

 

72/- Tambapaṇṇīti nāmena dīpo cāyam bhavissati,
sārīrikā mama dhātuṃ patiṭṭhissaṃ sādhukaṃ.


Và hòn đảo này sẽ có tên là Tambapaṇṇi. Xá-lợi di thể của ta sẽ được an trí một cách tốt đẹp.”

 

73/- Buddhe pasannā dhamme ca saṅghe ca ujudiṭṭhikā,
bhave cittaṃ virājeti anulā nāma khattiyā.


Nữ Sát-đế-lỵ tên Anulā là có niềm tin với đức Phật, đức Pháp, đức Tăng, có tri kiến đúng đắn, và đã đoạn trừ tâm (vướng mắc) trong hiện hữu.

 

74/- Deviyā vacanaṃ sutvā rājā theraṃ id’abravī,
buddhe pasannā dhamme ca saṅghe ca ujudiṭṭhikā.


Nghe được lời nói của hoàng hậu, đức vua đã nói với vị trưởng lão điều này: “Hoàng hậu có niềm tin với đức Phật, đức Pháp, đức Tăng, và có tri kiến đúng đắn.

 

75/- Bhave cittaṃ virājeti pabbājetha anūlakaṃ,
akappiyā mahārāja thita’pabbajā bhikkhuno.


Nàng đã đoạn trừ tâm (vướng mắc) trong hiện hữu. Xin ngài hãy xuất gia cho nàng Anulā.” (Ngài Mahinda): “Tâu đại vương, việc xuất gia (cho hoàng hậu) được thực hiện bởi các vị tỳ khưu là không đúng phép.

 

76/- Āgamissati me rāja bhaginī saṅghamittakā,
pabbājetvāna mocetuṃ anulaṃ sabbabandhanā.


Tâu bệ hạ, em gái của tôi là Saṅghamittā sẽ đi đến để cho (hoàng hậu) Anulā xuất gia và để giải thoát (hoàng hậu) khỏi mọi sự trói buộc.

 

77/- Saṅghamittā mahāpaññā uttarā ca vicakkhaṇā,
hemā ca māsagallā ca aggimittā mitāvadā.


Saṅghamittā có đại trí tuệ, Uttarā thông minh, Hemā, Māsagallā, và Aggimittā nói năng khiêm tốn.

 

78/- Tappā pabbatachinnā ca mallā ca dhammadāsikā,
ettakā tā bhikkhuniyo dhutarāgā samāhitā.


Tappā, Pabbatachinnā, Mallā, Dhammadāsikā, các vị tỳ khưu ni ấy đều đoạn lìa ái dục, được định tĩnh.

 

79/- Odātamanasaṅkappā saddhammavinaye ratā,
khīṇāsavā vasippattā tevijjā iddhikodidā.


(Các vị ni ấy có) tâm tư thanh tịnh, thỏa thích trong Chánh Pháp và Luật, các lậu hoặc đã cạn kiệt, thành tựu sự thu thúc, có tam minh, và thuần thục về thần thông.

 

80/- Uttamante ṭhitā tattha āgamissanti tā idha,
mahāmaccaparivuto nisinno khattiyo tadā.


Các vị ni ấy đã an trú vào vị thế tối thượng ở tại nơi ấy và sẽ đi đến nơi đây.” Được tùy tùng bởi các quan đại thần, khi ấy vị Sát-đế-lỵ đã ngồi xuống.

 

81/- Mantitukāmo nisīditvā maccānaṃ etadabravī,
ariṭṭho nāma khattiyo sutvā devassa bhāsitaṃ.


Với ý định thỉnh mời (các vị tỳ khưu ni), sau khi ngồi xuống đức vua đã nói với các vị quan đại thần điều ấy. Vị Sát-đế-lỵ tên là Ariṭṭha đã lắng nghe lời nói của đức vua.

 

82/- Therassa vacanaṃ sutvā uggahetvāna sāsanaṃ,
dāyakaṃ anusāsetvā pakkami uttarāmukho.


Sau khi lắng nghe lời nói của vị trưởng lão, vị ấy đã ghi nhớ lời dặn dò, đã nhắn nhủ người cung cấp, rồi đã ra đi về hướng bắc.

 

83/- Nagarass’ekadesamhi gharaṃ katvāna khattiyā,
dasasīlaṃ samādinnā anulā pamukhā ca tā.


Có hoàng hậu Anulā lãnh đạo, các nữ Sát-đế-lỵ ấy đã thiết lập nhà ở tại một khu vực của thành phố, đã thọ trì mười học giới.

 

84/- Sabbā pañcasatā kaññā abhijātā jutindharā,
anulaṃ parivāretvā sāyaṃ pāto upaṭṭhisuṃ.


Toàn thể năm trăm công nương xuất thân cao quý, thông minh, đều quây quần hiện diện sáng tối bên Anulā.

 

85/- Nāvatitthamupagantvā āropetvāna nāvakaṃ,
sāgaraṃ samatikkanto thale patvā patiṭṭhito.


Sau khi đi đến bến tàu, Ariṭṭha đã lên thuyền, vượt qua biển khơi, rồi đã cập bến, và đứng ở trên đất liền.

 

86/- Viñjhāṭaviṃ atikkanto mahāmacco mahabbalo,
pāṭaliputtānuppatto gato devassa santikaṃ.


Sau khi vượt qua khu rừng ở rặng núi Viñjha, vị quan đại thần có nhiều quyền lực đã đến được thành Pāṭaliputta gặp được đức vua (xứ Jambudīpa).

 

87/- Putto deva mahārāja ahū yo piyadassano,
mahindo nāma so thero pesito tava santikaṃ.


“Tâu đại vương, phải chăng là ngài Piyadassana? Vị trưởng lão ấy tên là Mahinda, tức là người con trai của bệ hạ, đã phái thần đi đến gặp ngài.

 

88/- Devānampiyo rājā sahāyo piyadassano,
buddhe abhippasanno so pesito tava santikaṃ.


Thưa ngài Piyadassana, đức vua Devānampiya là bạn của ngài đã vững tin vào đức Phật, vị ấy đã phái thần đi đến gặp ngài.”

 

89/- Bhātuko saṅghamittāya avacīdaṃ mahā isi,
rājakaññā suppasannā anulā nāma khattiyā.


(Nói với tỳ khưu ni Saṅghamittā): “Vị đại ẩn sĩ là người anh trai của Saṅghamittā đã nói điều này: ‘Người con gái của đức vua tên là Anulā là nữ Sát-đế-lỵ đã tròn đủ niềm tin.

 

90/- Sabbā taṃ apalokenti pabbajjāya purakkhakā,
bhātuno sāsanaṃ sutvā saṅghamittā vicakkhaṇā.
91/- Turitā upasaṅkamma rājānaṃ idamabravī,
anujāna mahārāja gacchāmi dīpalaṅkataṃ
.


Hết thảy những người nữ quý phái đều trông mong ni sư về việc xuất gia.’” Sau khi nghe được lời nhắn của người anh trai, Saṅghamittā khôn khéo đã nhanh chóng đi đến gặp đức vua và nói lời này: “Tâu đại vương, xin ngài hãy chấp thuận. Thần sẽ đi đến hòn đảo Laṅkā.

 

92/- Bhātuno vacanaṃ mayhaṃ na sakkā deva vārituṃ,
bhāgineyyo ca sumano putto ca jeṭṭhabhātuko.


Tâu bệ hạ, lời nói của người anh trai của thần là không thể ngăn cản.” (Đức vua): “Người cháu trai Sumana và người con trai (của trẫm) tức là người anh trai lớn (của con).

 

93/- Gatā tava piyodāni gamanaṃ vāremi dhītuyā,
bhāriyaṃ me mahārāja bhātuno vacanaṃ mama.


Các người yêu quý của con đã đi rồi. Giờ đây, trẫm ngăn cản việc ra đi của con gái trẫm.” (Saṅghamittā): “Tâu đại vương, lời nói của anh trai con đối với con là quan trọng.

 

94/- Rājakaññā mahārāja anulā nāma khattiyā,
sabbā maṃ apalokenti pabbajjāya purakkhakā.


Tâu đại vương, người con gái của đức vua tên Anulā là nữ Sát-đế-lỵ. Hết thảy những người nữ quý phái đều trông mong con về việc xuất gia.”

 

Pañcadasamo paricchedo.


Chương thứ mười lăm.

 

Bhāṇavāraṃ paṇṇarasamaṃ.


Dứt tụng phẩm thứ mười lăm.

Ðầu trang | Mục lục | 01 | 02| 03| 04| 05| 06| 07| 08| 09| 10| 11| 12| 13| 14| 15| 16| 17| 18| 19| 20| 21| 22|
Cập nhập ngày: 28-11-2006

Kỹ thuật trình bày: Minh Hạnh & Chánh Hạnh