NAVAMO PARICCHEDO


CHƯƠNG THỨ CHÍN

 

1/- Laṅkādīpo ayaṃ ahū sīhena sīhalā iti,
dīpuppattiṃ imaṃ vaṃsaṃ suṇātha vacanaṃ mama.


Hòn đảo Laṅkā này gọi là Sīhala dựa theo từ sīha (sư tử). Xin hãy lắng nghe lời nói của tôi về lịch sử phát sanh lên hòn đảo.

 

2/- Vaṅgarājassāyaṃ dhītā araññe vanagocarā,
sīhasaṃvāsamanvāya bhātaro janayī duve.


Người con gái ấy của đức vua Vaṅga thường lai vãng trong khu rừng. Do việc sống chung với sư tử, nàng đã sanh ra hai anh em trai.

 

3/- Sīhabāhu ca sīvalī kumārā cāru dassanā,
mātā ca susimā nāma pitā ca sīhasavhayo.


Hai cậu bé trai Sīhabāhu và Sīvalī có dáng vóc xinh xắn. Mẹ tên là Susimā còn cha được gọi là Sīha (Sư tử).

 

4/- Atikkante soḷasavasse nikkhamitvā guhantarā, māpesi nagaraṃ tattha sīhapuraṃ varuttamaṃ.


Mười sáu năm trôi qua, Sīhabāhu đã rời khỏi hang động rồi đã cho xây dựng ở tại nơi ấy thành phố Sīhapura quý báu nhất hạng.

 

5/- Lāṭaraṭṭhe tahiṃ rājā sīhaputto mahabbalo,
anusāsi mahārajjaṃ sīhapuravaruttame.


Ở nơi ấy tại xứ Lāṭaraṭṭha, người con trai của sư tử có quyền lực lớn lao trở thành vị vua và đã trị vì vương quốc rộng lớn tại thành Sīhapura quý báu nhất hạng.

 

6/- Battiṃsa bhātaro honti sīhaputtassa atrajā,
vijayo ca sumitto ca subhajeṭṭhabhātarā ahū.


Ba mươi hai anh em trai là các hậu duệ của đức vua Sīhabāhu. Vijaya và Sumitta là hai anh em trai xinh đẹp và lớn nhất.

 

7/- Vijayo so kumāro tu pagabbho cātikakkhalo,
karoti vilopakammaṃ atikicchaṃ sudāruṇaṃ.


Nhưng vị hoàng tử Vijaya ấy thì ngỗ ngáo và quá tàn bạo thường gây ra hành động cướp bóc, quấy rối, vô cùng kinh khiếp.

 

8/- Samāgatā jānapadā negamā ca samāgatā,
upasaṅkamma rājānaṃ vijayadosaṃ pakāsayuṃ.


Dân chúng đã tụ họp lại và các thị dân đã tụ họp lại rồi đi đến gặp đức vua trình tấu về sự sái quấy của Vijaya

 

9/- Tesaṃ taṃ vacanaṃ sutvā rājā kupitamānaso,
āṇāpesi amaccānaṃ kumāraṃ nīharatha imaṃ.


Nghe lời trình báo ấy của họ, đức vua nổi giận đã ra lệnh cho các quan đại thần rằng: “Hãy đuổi gã hoàng tử ấy đi.

 

10/- Paricārikā ime sabbe puttadārā ca bandhavā,
dāsidāsakammakare nīharantu janapadā.


Hãy trục xuất tất cả những người hầu cận này, luôn cả vợ con, thân thuộc, tôi trai, tớ gái, và các người làm công ra khỏi xứ sở.”

 

11/- Tato taṃ nīharitvāna visuṃ katvāna bandhave,
āropetvāna te nāvaṃ vuyhittha aṇṇave tadā.


Sau đó, khi đã trục xuất và tách rời vị ấy khỏi các thân quyến, họ đã ép buộc lên thuyền rồi đã để cho lênh đênh giữa biển khơi.

 

12/- Pakkamantu yathā kāmaṃ honti sabbe adassanaṃ,
raṭṭhe janapade vāsaṃ mā puna āgamicchati.


“Hãy để cho họ ra đi theo như ý muốn. Tất cả bọn họ sẽ không còn được trông thấy và cũng chớ có quay trở lại sinh sống ở vương quốc xứ sở nữa.”

 

13/- Kumārānaṃ ārūḷhanāvā gatā dīpaṃ adassanaṃ,
nāmadheyyaṃ tadā āsi naggadīpanti vuccati.


Chiếc thuyền chở những đứa trẻ đã đi đến hòn đảo không được nhìn thấy, khi ấy đã được gọi tên là Naggadīpa.

 

14/- Mahilānaṃ ārūḷhanāvā gatā dīpaṃ avassakaṃ,
nāmadheyyaṃ tadā āsi mahilāraṭṭhanti vuccati.


Chiếc thuyền chở những người đàn bà đã đi đến hòn đảo không có mưa, khi ấy đã được gọi tên là Mahilāraṭṭha.

 

15/- Purisānaṃ ārūḷhanāvā pilavantā ca sāgaraṃ,
vippanaṭṭhā disāmūḷhaṃ gatā suppārapaṭṭanaṃ.


Chiếc thuyền chở những người đàn ông đã bị mất phương hướng và lạc lối đi, trong lúc trôi dật dờ trên biển đã tấp vào bến tàu Suppāra.

 

16/- Orohitvāna suppāraṃ sattasatañca te tadā,
vipulaṃ sakkārasammānaṃ akaṃsu te suppārakā.


Lúc bấy giờ, nhóm bảy trăm người ấy đã đổ bộ xuống Suppāra. Những người ở Suppāra đã thể hiện lòng rộng rãi và sự tôn vinh long trọng đối với họ.

 

17/- Tesu sakkariyamānesu vijayo ca sahāyakā,
sabbe luddāni kammāni kurumānā na bujjhakā.


Trong khi được những người ấy bày tỏ lòng tôn trọng, Vijaya và đám tùy tùng, cả bọn đều là những kẻ không sáng suốt đã gây nên các hành động dã man.

 

18/- Pāṇaṃ adinnaṃ paradāraṃ musāvādañca pesunaṃ,
anācārañca dussīlaṃ ācaranti sudāruṇaṃ.


Họ hành động sái quấy, không kỹ cương, vô cùng kinh khiếp như là uống rượu, trộm cắp, (đoạt) vợ người, nói láo, và nói đâm thọc.

 

19/- Kakkhalaṃ pharusaṃ ghoraṃ kammaṃ katvā sudāruṇaṃ,
ujjhāyetvāna mantiṃsu khippaṃ ghātema dhuttake.


Họ đã tạo hành động tàn bạo, ác độc, ghê rợn, và vô cùng kinh khiếp. Bị gây bực bội, (dân ở đảo) đã bàn bạc rằng: “Chúng ta hãy mau mau giết chết lũ tồi tệ.”

 

20/- Ojadīpo varadīpo maṇḍadīpo’ti vā ahū,
laṅkādīpo ca paṇṇatti tambapaṇṇīti ñāyati.


Hòn đảo Laṅkā (Laṅkādīpa) còn có tên là Ojadīpa, Varadīpa, Maṇḍadīpa, và được biết đến với tên quy định là Tambapaṇṇi.

 

21/- Parinibbānasamaye sambuddho dīpaduttamo,
sīhabāhussā’yaṃ putto vijayo nāma khattiyo.
22/- Laṅkādīpaṃ anuppatto jahetvā jambudīpakaṃ,
byākāsi buddhaseṭṭho so rājā hessati khattiyo.


Vào thời điểm viên tịch Niết Bàn, đấng Chánh Đẳng Giác bậc tối thượng của loài người, đức Phật tối cao đã nói rằng: “Vị Sát-đế-lỵ tên Vijaya ấy, con trai của Sīhabāhu, sau khi bị trục xuất khỏi Jambudīpa (Ấn Độ) và đến được hòn đảo Laṅkā (Tích Lan), vị Sát-đế-lỵ ấy sẽ trở thành đức vua.”

 

23/- Tato āmantayi satthā sakkaṃ devānamissaraṃ,
laṅkādīpassa ussukkaṃ mā pamajjatha kosiya.


Sau đó, bậc Đạo Sư đã nhắn nhủ chúa của chư thiên Sakka rằng: “Này Kosiya, chớ có xao lãng việc quan tâm đối với hòn đảo Laṅkā.”

 

24/- Sambuddhassa vaco sutvā devarājā sujampati,
uppalavaṇṇassa ācikkhi dīpaṃ ārakkhakāraṇaṃ.


Nghe theo lời nói của đấng Chánh Đẳng Giác, vị thiên vương Sujampati đã giao cho Uppalavaṇṇa phận sự hộ trì hòn đảo.

 

25/- Sakkassa vacanaṃ sutvā devaputto mahiddhiko,
laṅkādīpassa ārakkhaṃ sapariso paccupaṭṭhāti.


Nghe theo lời nói của Sakka, vị thiên tử có đại thần lực cùng với tùy tùng đã thiết lập việc bảo vệ hòn đảo Laṅkā.

 

26/- Tayo māse vasitvāna vijayo bhārukacchake,
ujjhāyetvā janakāyaṃ tameva nāvamāruhi.


Sau khi ngụ lại ba tháng và phiền nhiễu dân chúng ở tại Bhārukacchaka, Vijaya đã bước lên chính chiếc thuyền ấy.

 

27/- Ārohitvā sakaṃ navaṃ pilavantāva sāgaraṃ,
ukkhittavātavegena nadīmūḷhā mahājanā.


Sau khi bước lên thuyền của họ và trong lúc đang di chuyển ở biển khơi, đám đông đã bị lạc lối bởi cơn gió mạnh trỗi dậy.

 

28/- Laṅkādīpamupāgamma orohitvā thale ṭhitā,
patiṭṭhitā dharaṇītale atijighacchitā have.


Sau khi đến được hòn đảo Laṅkā, họ đã rời thuyền và đứng ở trên mặt đất. Khi đã ổn định ở trên bề mặt trái đất, họ đã phải chịu đựng cơn đói dữ dội.

 

29/- Pipāsitā kilantāva padasāgamanaṃ akā,
ubho pāṇīhi jannūhi yogaṃ katvāna bhūmiyaṃ.


Trong lúc bị hành hạ bởi cơn khát, họ không thể lê bước chân đi và đã bò lê ở trên mặt đất bằng hai bàn tay và đầu gối.

 

30/- Majjhe vuṭṭhāya ṭhatvāna pāṇī passanti sobhaṇā,
surattaṃ paṃsubhūmibhāge hatthapāṇimhi makkhite.


Sau khi trỗi dậy và đứng lên ở khu trung tâm, họ đã nhìn thấy các bàn tay sáng rực; cánh tay và bàn tay đã bị lấm lem lớp bụi đất màu đỏ sậm.

 

31/- Nāmadheyyaṃ tadā āsi tambapaṇṇīti taṃ ahū,
paṭhamaṃ nagaraṃ tambapaṇṇi laṅkādīpavaruttame.


Từ đó, nơi ấy có tên là Tambapaṇṇi. Và Tambapaṇṇi là thành phố đầu tiên ở trên hòn đảo Laṅkā quý báu nhất hạng.

 

32/- Vijayo tahiṃ vasanto issariyaṃ anusāsi so,
vijayo vijito cāpi sa nāmaṃ anurakena ca.
33/- Accutagāmi upatisso paṭhaman so idh’āgato,
ākiṇṇā naranārīhi khattiyā samāgatā.


Trong khi cư ngụ tại nơi ấy, vị Vijaya ấy đã cai quản lãnh địa. Vijaya, Vijita, cùng với vị tên Anuraka, Accutagāmi, Upatisso là những người đầu tiên đi đến nơi đây. Đông đảo các vị Sát-đế-lỵ cùng với những người nam nữ đã tụ họp lại.

 

34/- Tahiṃ tahiṃ disābhāge nagaraṃ māpesi khattiyo,
tambapaṇṇi dakkhiṇato nadītīre varuttame.


Vị Sát-đế-lỵ đã cho xây dựng thành phố tại khu vực các phương ở nơi này nơi nọ. (Thành phố) Tambapaṇṇi ở về phía nam, bên bờ sông tuyệt vời hạng nhất.

 

35/- Vijayena māpitaṃ nagaraṃ samantā puṭabhedanaṃ,
vijito vijitaṃ māpesi so uruvelaṃ māpayi,
nakkhattanāmako’macco māpesi anurādhapuraṃ.


Thành phố đã được Vijaya cho xây dựng có phố chợ ở xung quanh. Vị Vijita ấy đã cho xây dựng thành Vijita rồi cho xây dựng thành Uruvela. Viên quan đại thần có tên Nakkhatta đã cho xây dựng thành Anurādhapura.

 

36/- Accutagāmi yo nāma ujjeniṃ tattha māpayi,
upatisso upatissaṃ (nagaraṃ) suvibhattantarāpaṇaṃ.


Tại nơi ấy, vị có tên Accutagāmi đã cho xây dựng thành Ujjenī, Upatissa đã cho xây dựng thành Upatissa phía bên trong có cửa tiệm khéo được phân bố.

 

37/- Iddhaṃ pītaṃ suvitthāraṃ ramaṇīyaṃ manoramaṃ,
laṅkādīpavhaye ramme tambapaṇṇimhi issaro.
38/- Vijayo nāma nāmena paṭhamaṃ rajjamakārayi,
āgate sattavassamhi ākiṇṇo janapado ahu.


(Thành Upatissa) là thịnh vượng, giàu có, rất rộng rãi, xinh đẹp, yêu kiều. Vị chúa tể tên Vijaya đã trị vì vương quốc ở xứ Tambapaṇṇi xinh đẹp tên là Laṅkādīpa với danh nghĩa là vị sáng lập. Bảy năm trôi qua, dân chúng đã trở nên đông đảo.

 

39/- Aṭṭhatiṃsati vassāni rajjaṃ kāresi khattiyo,
sambuddhe navame māse yakkhasenaṃ vidhaṃsitaṃ.


Vị Sát-đế-lỵ đã trị vì vương quốc được ba mươi tám năm. Vào tháng thứ chín sau khi chứng quả Toàn Giác, bè lũ dạ-xoa đã bị trừ diệt.

 

40/- Sambuddhe pañcame vasse nāgānaṃ damayī jino,
sambuddhe aṭṭhame vasse samāpatti samappayi.


Vào năm thứ năm sau khi chứng quả Toàn Giác, đấng Chiến Thắng đã khuất phục các con rồng. Vào năm thứ tám sau khi chứng quả Toàn Giác, Ngài đã thể nhập thiền chứng.

 

41/- Imāni tīṇi ṭhānāni idhāgami tathāgato,
sambuddhe pacchime vasse vijayo idhamāgato.


Đấng Như Lai đã ngự đến nơi đây, tại ba địa điểm này. Khi đấng Toàn Giác ở vào năm cuối cùng, Vijaya đã đi đến nơi này.

 

42/- Manussāvāsaṃ akārayi sambuddho dipaduttamo,
anupādisesāya buddho nibbuto upadhisaṅkhaye.


Đấng Chánh Đẳng Giác, bậc Tối Thượng của loài người đã thực hiện (hòn đảo thành) chỗ trú ngụ cho loài người. Khi chủng tử tái sanh đã hoại và mầm sống không còn, đức Phật đã Niết Bàn.

 

43/- Parinibbutamhi sambuddhe dhammarāje pabhaṅkare,
aṭṭhatiṃsati vassāni rajjaṃ kāresi khattiyo.


Sau khi đức Chánh Đẳng Giác, đấng Pháp Vương, bậc Quang Minh viên tịch Niết Bàn, vị Sát-đế-lỵ đã trị vì vương quốc được ba mươi tám năm.

 

44/- Dūtaṃ pāhesi sīhapuraṃ sumittavhassa santike,
lahuṃ āgaccha tumh’eko laṅkādīpavaruttamaṃ.


Vijaya đã phái sứ giả đi đến thành Sīhapura gặp vị tên là Sumitta bảo rằng: “Một mình ngài hãy mau chóng đi đến hòn đảo Laṅkā cao quý nhất hạng.

 

45/- Natthi koci mamaccaye imaṃ rajjānusāsako,
niyyādemi imaṃ dīpaṃ mamaṃ kataparakkamaṃ.


Sau khi trẫm băng hà, không ai là người cai quản vương quốc này, trẫm bàn giao lại hòn đảo đã được trẫm ra sức kiến tạo này.”

 

Navamo paricchedo.
Bhāṇavāraṃ navamaṃ.


Chương thứ chín.
Tụng phẩm thứ chín.

Ðầu trang | Mục lục | 01 | 02| 03| 04| 05| 06| 07| 08| 09| 10| 11| 12| 13| 14| 15| 16| 17| 18| 19| 20| 21| 22|
Cập nhập ngày: 28-11-2006

Kỹ thuật trình bày: Minh Hạnh & Chánh Hạnh