<

 

"Indeed, the Blessed One is worthy and rightly self-awakened, consummate in knowledge & conduct, well-gone, an expert with regard to the world, unexcelled as a trainer for those people fit to be tamed, the Teacher of divine & human beings, awakened, blessed."

— AN XI.12

"Thật thế, Đức Thế Tôn là bậc Ứng Cúng A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác,Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.......

— AN XI.12

 

This selection of excerpts from the Pali canon provides a rough outline of the life of the Buddha. I hope you will find enough in this anthology to gain at least an inkling both of the range of the Buddha's teachings and of the sweeping trajectory of his extraordinary life.
For more thorough accounts of the Buddha's life, please see these two excellent anthologies: The Splendour of Enlightenment: A Life of the Buddha (two volumes), compiled by Phra Khantipalo (Bangkok: Mahamakut Rajavidyalaya Press, 1976), and The Life of the Buddha by Bhikkhu Ñanamoli (Kandy: Buddhist Publication Society, 1992).

Trang này được chọn lọc từ kinh điển Pali để cung cấp đại cương về đời sống của Đức Phật. Tôi hy vọng rằng bạn có thể t́m thấy đầy đủ trong bản văn này sự lợi ích ít nhất từ những lời gợi ư cho cả hai lănh vực giảng dậy của Đức Phật và quỹ đạo ảnh hưởng sâu rộng của đời sống đặc biệt của Đức Phật
Để cho thấu đáo hơn về đời sống của Đức Phật, xin xem hai bài viết xuất sắc ở đây: Sự rực rỡ của Giác Ngộ - Splendour or Enlightenment: Đời sống của Đức Phật (A Life of the Buđdha (hai tập)), biên soạn bởi Phra Khantipalo (Bangkok: Mahamakut Rajavidyalaya Press, 1976), và The Life of the Buđdha (Đời sống của Đức Phật) viết bởi Bhikkhu Nanamoli (Kandy: Buđdhist Publication Society, 1992)

 

The Bodhisatta (Buddha-to-be)

Asita, the seer, visits the newborn prince

[Date: -80 BE]

Asita the seer, in his mid-day meditation,
saw the devas of the Group of Thirty
— exultant, ecstatic —
dressed in pure white, honoring Indra,
holding up banners, cheering wildly,
& on seeing the devas so joyful & happy,
having paid his respects, he said:

Bồ Tát (Sẽ thành Phật)

Asita, the seer, visits the newborn prince

[Date: -80 BE]

679. ẩn sĩ Asita,
Trong lúc giữa ban ngày,
Thấy chúng các chư Thiên
Cơi trời Ba mươi ba,
Họ hoan hỷ vui vẻ,
Với y áo, thanh tịnh,
Họ cung kính In-đa,
Các vị ấy cầm áo
Với nhiệt t́nh nói lên,
Những lời khen tán thán.
Thấy chư Thiên hoan hỷ,
Dơng dạc và phấn chấn,
Với tâm tư cung kính,
Ở đây, vị ấy nói.

 

"Why is the deva community
so wildly elated?
Why are they holding up banners
& waving them around?

V́ sao chúng chư Thiên
Lại nhiệt t́nh hoan hỷ?
Họ cầm áo vui múa,
Là do nhân duyên ǵ?

 

Even after the war with the Asuras
— when victory was the devas'.
the Asuras defeated —
even then there was no excitement like this.
Seeing what marvel
are the devas so joyful?

Trong thời gian chiến trận,
Với các Asura,
Dững sĩ được thắng trận
Asura bại trận,
Thời gian ấy họ không,
Lông tóc dựng ngược dậy,
Họ thấy ǵ hy hữu,
Chư Thiên hoan hỷ vậy.

 

They shout,
they sing,
play music,
clap their hands,
dance.
So I ask you, who live on Mount Meru's summit.
Please dispel my doubt quickly, dear sirs."

Họ la lớn ca hát,
Và họ tấu nhạc trời,
Họ múa tay, vỗ tay,
Họ múa nhảy vũ điệu,
Nay ta hỏi các Ông,
Trú đảnh núi Meru,
Các Ngài hăy mau chóng,
Giải tỏa điều ta nghĩ.

 

"The Bodhisatta, the foremost jewel,
unequaled,
has been born for welfare & ease
in the human world,
in a town in the Sakyan countryside,
Lumbini.
That's why we're all so wildly elated.
He, the highest of all beings,
the ultimate person,
a bull among men, foremost of all people,
will set turning the Wheel [of Dhamma]
in the grove named after the seers,
like a strong, roaring lion,
the conqueror of beasts."

Tại xứ Lumbini
Trong làng các Thích-ca,
Có sanh vị Bồ Tát,
Báu tối thắng, vô tỷ,
Ngài sanh, đem an lạc,
Hạnh phúc cho loài Người,
Do vậy chúng tôi mừng,
Tâm vô cùng hoan hỷ.

684. Ngài, chúng sanh tối thượng,
Ngài loài Người tối thắng,
Bậc Ngưu vương loài Người,
Thượng thủ mọi sanh loại;
Ngài sẽ chuyển Pháp luân,
Trong khu rừng ẩn sĩ,
Rống tiếng rống sư tử,
Hùng mạnh nhiếp loài thú.

 

Hearing these words,
Asita quickly descended [from heaven]
and went to Suddhodana's dwelling.
There, taking a seat, he said to the Sakyans:
"Where is the prince?
I, too, want to see him."

Sau khi nghe lời ấy,宠sĩ Asita,
Liền vội vàng bước xuống,
Và đi đến đầu đài,
Của đức vua Tịnh Phạn.
Đến nơi Ngài ngồi xuống,
Nói với các Thích-Ca:
"Hoàng tử nay ở đâu,
Ta nay muốn thấy Ngài".

 

The Sakyans then showed
to the seer named Asita
their son, the prince,
like gold aglow,
burnished by a most skillful smith
in the mouth of the furnace,
blazing with glory, flawless in color.
On seeing the prince blazing like flame,
pure like the bull of the stars
going across the sky
— the burning sun,
released from the clouds of autumn —
he was exultant, filled with abundant rapture.

Thấy Thái tử chói sáng
Rực rỡ như vàng chói
Trong ḷ đúc nấu vàng,
Được thợ khéo luyện thành,
Bừng sáng và rực rỡ,
Với dung sắc tuyệt mỹ,
Họ Thích tŕnh Thái-tử,
Cho ẩn sĩ Tư-đà.

Sau khi thấy Thái tử
Chói sáng như lửa ngọn,
Thanh tịnh như sao ngưu
Vận hành giữa hư không,
Sáng chiếu như mặt trời
Giữa trời thu, mây tịnh,ĩ tâm hân hoan
Được hỷ lạc rộng lớn.

 

The devas held in the sky
a many-spoked sunshade
of a thousand circles.
Gold-handled whisks
waved up & down,
but those holding the whisks & the sunshade
couldn't be seen.

Chư Thiên cầm ngôi lọng
Đưa lên giữa hư không,
Cây lọng có nhiều cành,
Có hàng ngàn ṿng chuyền.
Họ quạt với phất trần,
Có tán vàng, lông thú,
Nhưng không ai thấy được,
Kẻ cầm lọng, phất trần.

 

The matted-haired seer
named Dark Splendor,
seeing the boy, like an ornament of gold
on the red woolen blanket,
a white sunshade held over his head,
received him, happy & pleased.
And on receiving the bull of the Sakyans,
longingly, the master of mantras & signs
exclaimed with a confident mind:
"This one is unsurpassed,
the highest of the biped race."
Then, foreseeing his own imminent departure,
he, dejected, shed tears.
On seeing him weeping,
the Sakyans asked:
"But surely there will be
no danger for the prince?"

Bậc ẩn sĩ bện tóc,
Tên Kà-ha-xi-ri,
Thấy Thái tử nằm dài
Trên tấm chăn màu vàng,
Như đồng tiền bằng vàng,
Lại trên đầu Thái tử
Có lông trắng đưa lên,
Tâm ẩn sĩ phấn khởi,
Đẹp ư, ḷng hân hoan
Đưa tay bồng Thái tử.

Sau khi ẩm bồng lên
Con trai ḍng họ Thích,
Bậc cầu đạo t́m hiểu,
Vượt khổ, nhờ tướng, chú,
Tâm tư được hoan hỷ,
Thốt lên lời như sau:
Vị này bậc Vô thượng,
"Tối thượng loài hai chân".

Khi vị ấy nghĩ đến,
Số mệnh của tự ḿnh,
Số mệnh không tốt đẹp,
Vị ấy rơi nước mắt,
Thấy vậy, các Thích Ca,
Hỏi ẩn sĩ đang khóc;
"Có sự ǵ chướng ngại
Sẽ xảy cho Thái tử?".

 

On seeing the Sakyans' concern
he replied, "I foresee for the prince
no harm.
Nor will there be any danger for him.
This one isn't lowly: be assured.
This prince will touch
the ultimate self-awakening.
He, seeing the utmost purity,
will set rolling the Wheel of Dhamma
through sympathy for the welfare of many.
His holy life will spread far & wide.

Thấy họ Thích lo lắng,
Vị ẩn sĩ trả lời:
"Ta không thấy bất hạnh
Xảy đến cho Thái tử,
Đối với Thái tử ấy,
Chướng ngại sẽ không có,
Vị này không hạ liệt,
Chớ có lo lắng ǵ.

693. Thái tử này sẽ chứng
Tối thượng quả Bồ đề,
Sẽ chuyển bánh xe pháp,
Thấy thanh tịnh tối thắng,
V́ ḷng tử thương xót,
V́ hạnh phúc nhiều người,
Và đời sống Phạm hạnh,
Được truyền bá rộng răi.

 

But as for me,
my life here has no long remainder;
my death will take place before then.
I won't get to hear
the Dhamma of this one with the peerless role.
That's why I'm stricken,
afflicted, & pained."

Snp III.11

Thọ mạng ta ở đời
C̣n lại không bao nhiêu,
Đến giữa đời sống Ngài
Ta sẽ bị mệnh chung.
Ta không được nghe pháp,
Bậc tinh cần vô tỷ,
Do vậy ta sầu năo,
Bất hạnh và khổ đau".

HT Thích Minh Châu dịch-Kinh Tập-Kinh Nalaka-Snp III.11

 

The young prince grows disenchanted with his life of luxury

ĐƯỢC NUÔI DƯỠNG TẾ NHỊ

 

"Monks, I lived in refinement, utmost refinement, total refinement. My father even had lotus ponds made in our palace: one where red-lotuses bloomed, one where white lotuses bloomed, one where blue lotuses bloomed, all for my sake. I used no sandalwood that was not from Varanasi. My turban was from Varanasi, as were my tunic, my lower garments, & my outer cloak. A white sunshade was held over me day & night to protect me from cold, heat, dust, dirt, & dew.

1. - Này các Tỷ-kheo, Ta được nuôi dưỡng tế nhị, cứu cánh nuôi dưỡng tế nhị. Này các Tỷ-kheo, trong nhà Phụ vương ta, có các hồ nước được xây lên, trong một hồ có hoa sen xanh, trong một hồ có hoa sen đỏ, trong một hồ có hoa sen trắng, tất cả phục vụ cho ta. Không một hương chiên đàn nào ta dùng, này các Tỷ-kheo, là không từ Kàsi đến. Bằng vải Kàsi là khăn của ta, này các Tỷ-kheo. Bằng vải kàsi là áo cánh, bằng vải kàsi là nội y, bằng vải kàsi là thượng y.

 

"I had three palaces: one for the cold season, one for the hot season, one for the rainy season. During the four months of the rainy season I was entertained in the rainy-season palace by minstrels without a single man among them, and I did not once come down from the palace. Whereas the servants, workers, & retainers in other people's homes are fed meals of lentil soup & broken rice, in my father's home the servants, workers, & retainers were fed wheat, rice, and meat.

Đêm và ngày, một lọng trắng được che cho ta để tránh xúc chạm lạnh, nóng, bụi, cỏ hay xương. Này các Tỷ-kheo, ba lâu đài được xây dựng cho Ta, một cái cho mùa đông, một cái cho mùa hạ, một cái cho mùa mưa. Và Ta, này các Tỷ-kheo, tại lâu đài mùa mưa, trong bốn tháng mưa, được những nữ nhạc công đoanh vây, Ta không có xuống dưới lầu. Trong các nhà của người khác, các đầy tớ, làm công được cho ăn gạo, thịt gà và cơm nấu.

 

"Even though I was endowed with such fortune, such total refinement, the thought occurred to me: 'When an untaught, run-of-the-mill person, himself subject to aging, not beyond aging, sees another who is aged, he is horrified, humiliated, & disgusted, oblivious to himself that he too is subject to aging, not beyond aging. If I — who am subject to aging, not beyond aging — were to be horrified, humiliated, & disgusted on seeing another person who is aged, that would not be fitting for me.' As I noticed this, the [typical] young person's intoxication with youth entirely dropped away.

Với Ta, này các Tỷ-kheo, được đầy đủ với sự giàu sang như vậy, được cứu cánh nuôi dưỡng tế nhị như vậy, ta suy nghĩ rằng : "Kẻ vô văn phàm phu tự ḿnh bị già, không vượt qua khỏi già, khi thấy người khác bị già, lại bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm, quên rằng ḿnh cũng như vậy. Ta cũng bị già, không vượt qua khỏi già, sau khi thấy người khác bị già, ta có thể bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm ? Như vậy, thật không xứng đáng cho ta". Sau khi quan sát về ta như vậy, này các Tỷ-kheo, sự kiêu mạn của tuổi trẻ trong tuổi trẻ được đoạn trừ hoàn toàn.

 

"Even though I was endowed with such fortune, such total refinement, the thought occurred to me: 'When an untaught, run-of-the-mill person, himself subject to illness, not beyond illness, sees another who is ill, he is horrified, humiliated, & disgusted, oblivious to himself that he too is subject to illness, not beyond illness. And if I — who am subject to illness, not beyond illness — were to be horrified, humiliated, & disgusted on seeing another person who is ill, that would not be fitting for me.' As I noticed this, the healthy person's intoxication with health entirely dropped away.

Kẻ vô văn phàm phu tự ḿnh bị bệnh, không vượt khỏi bệnh, khi thấy người khác bị bệnh, lại bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm, quên rằng ḿnh cũng như vậy. Ta cũng bị bệnh, không vượt qua khỏi bệnh, sau khi thấy người khác bị già, ta có thể bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm ? Như vậy, thật không xứng đáng cho ta". Sau khi quan sát về ta như vậy, này các Tỷ-kheo, sự kiêu mạn của không bệnh trong không bệnh được đoạn trừ hoàn toàn.

 

"Even though I was endowed with such fortune, such total refinement, the thought occurred to me: 'When an untaught, run-of-the-mill person, himself subject to death, not beyond death, sees another who is dead, he is horrified, humiliated, & disgusted, oblivious to himself that he too is subject to death, not beyond death. And if I — who am subject to death, not beyond death — were to be horrified, humiliated, & disgusted on seeing another person who is dead, that would not be fitting for me.' As I noticed this, the living person's intoxication with life entirely dropped away."

AN III.38

Kẻ vô văn phàm phu tự ḿnh bị chết, không vượt khỏi chết, khi thấy người khác bị chết, lại bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm, quên rằng ḿnh cũng như vậy. Ta cũng bị chết, không vượt qua khỏi chết, sau khi thấy người khác chết, ta có thể bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm ? Như vậy, thật không xứng đáng cho ta". Sau khi quan sát về ta như vậy, này các Tỷ-kheo, sự kiêu mạn của sự sống trong sự sống được đoạn trừ hoàn toàn.

 

At age 29, the young prince goes forth into homelessness

[Date: -51 BE]

Tại tuổi 29, Thái Tử xuất gia

 

[The Buddha is speaking to Saccaka Aggivessana:]

"Before my Awakening, when I was still an unawakened Bodhisatta, the thought occurred to me: 'The household life is crowded, a dusty road. Life gone forth is the open air. It isn't easy, living in a home, to lead the holy life that is totally perfect, totally pure, a polished shell. What if I, having shaved off my hair & beard and putting on the ochre robe, were to go forth from the home life into homelessness?'

{Đức Phật nói với Saccaka Aggivessana}

Ở đây, này Aggivessana, trước khi Ta giác ngộ, chưa chứng Chánh Đẳng Giác, khi c̣n là Bồ-tát, Ta suy nghĩ như sau: "Đời sống gia đ́nh bị g̣ bó, con đường đầy những bụi đời. Đời sống xuất gia như sống giữa hư không. Thật rất khó sống tại gia đ́nh mà có thể sống hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh đời sống phạm hạnh thuần tịnh. Hăy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh".

 

"So at a later time, when I was still young, black-haired, endowed with the blessings of youth in the first stage of life, having shaved off my hair & beard — though my parents wished otherwise and were grieving with tears on their faces — I put on the ochre robe and went forth from the home life into homelessness."

MN 36

Rồi này Aggivessana, sau một thời gian, khi Ta c̣n trẻ, niên thiếu, tóc đen nhánh, đầy đủ huyết khí của tuổi thanh xuân, trong thời vàng son cuộc đời, mặc dầu cha mẹ không bằng ḷng, nước mắt đầy mặt, than khóc, Ta cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh.

MN 36

 

Passers-by take notice of his serene radiance and mindfulness

I will describe the Going Forth,
how he, the One-with-Vision, went forth,
how he reasoned and chose the Going Forth.
"Household life is crowded,
a realm of dust,
while going forth
is the open air."
Seeing this, he went forth.

Passers-by take notice of his serene radiance and mindfulness
Xuất gia, tôi tán thán,
Như Pháp nhăn xuất gia,
Sau khi Ngài quán sát,
Chấp thuận hạnh xuất gia.
Trói buộc, sống gia đ́nh,
Tụ hội mọi bụi đời,
Phóng khoáng, đời xuất gia,
Thấy vậy nên xuất gia.

 

On going forth,
he avoided evil deeds in body.
Abandoning verbal misconduct,
he purified his livelihood.

Sau khi Ngài xuất gia,
Thân ác nghiệp Ngài tránh,
Từ bỏ lời nói ác,
Mạng sống Ngài thanh tịnh.

 

Then he, the Buddha, went to Rajagaha,
the mountain fortress of the Magadhans,
and wandered for alms,
endowed with all the foremost marks.

Phật đi đến Vương Xá,
Đến chỗ núi bao vây,
Tại nước Ma-kiệt-đà,
Ngài sống hạnh khất sĩ,
Mang theo thật đầy đủ,
Các tướng tốt quang minh.

 

King Bimbisara, standing in his palace, saw him,
and on seeing him, consummate in marks,
said: "Look at this one, sirs.
How handsome, stately, pure!
How consummate his demeanor!
Mindful, his eyes downcast,
looking only a plow-length before him,
as one who's not from a lowly lineage:
Send the royal messengers at once
to see where this monk will go."

B́nh Sa vương thấy Ngài,
Đứng trên sân lầu thượng,
Thấy đầy đủ tướng tốt,
Bèn nói lên lời này:

410. Các Ông hăy chăm sóc
Người đẹp, lớn, thanh tịnh,
Thành tựu với hạnh đức,
Chỉ nh́n vừa một tầm.

411. Mắt nh́n xuống, chánh niệm,
Gia đ́nh không hạ tiện,
Hăy cho sứ giả theo,
Tỷ-kheo sẽ đi đâu?

 

They — the messengers dispatched —
followed behind him.
"Where will this monk go?
Where will his dwelling place be?"
As he went from house to house —
well-restrained, his sense-doors guarded,
mindful, alert —
his bowl filled quickly.
Then he, the sage, completing his alms round,

Được sai, sứ giả ấy
Đi theo sau lưng Ngài,
Tỷ-kheo sẽ đi đâu?
Trú xứ sẽ chỗ nào?

413. Khất thực, từng nhà một,
Căn hộ tŕ chế ngự,
B́nh bát được mau đầy,
Tỉnh giác và chánh niệm.

 

left the city, headed for Mount Pandava.
"That's where his dwelling will be."
Seeing him go to his dwelling place,
three messengers sat down,
while one returned to tell the king.

Sau khi đi khất thực,đi ra khỏi thành,
Leo lên Pandava,
Sẽ trú xứ tại đấy.

415. Thấy vị ấy đến chỗ,
Các sứ giả ngồi chờ,
C̣n một vị đi về,
Kể lại chuyện vua hay.

 

"That monk, your majesty,
on the flank of Pandava,
sits like a tiger, a bull,
a lion in a mountain cleft."

Snp III.1

Đại vương, Tỷ-kheo ấy,
Phía đông Pandava,
Ngồi như cọp, ḅ chúa,
Như sư tử trong hang.

bản dịch của HT Thích Minh Châu - Tương Ưng Bộ Kinh-Snp III.1

 

A king wonders: "Why have you gone forth?"

Hearing the messenger's words,
the noble warrior king
straight away went by royal coach,
out to Mount Pandava.
Going as far as the coach would go,
he got down, went up on foot,
and on arrival sat down.

Vua B́nh Sa Vương: "Tại sao Ngài xuất gia?"

Nghe sứ giả, đức vua
Với cỗ xe thù thắng,
Vội vàng ra khỏi thành,
Đi đến Pandava.

418. Đi được, vua đi xe,
Rồi xuống xe đi bộ,
Đức vua tiến lại gần,
Và vào chỗ Ngài ở.

 

Sitting there,
he exchanged courteous greetings,
then said:
"You are young, youthful,
in the first stage of youth,
endowed with the stature & coloring
of a noble-warrior.
You would look glorious

Ngồi xuống, vua nói lên
Lời hỏi thăm chào đón,
Lời lẽ chào đón xong,
Vua nói lên nghĩa này.

420. Người thanh niên tuổi trẻ,
Ngây thơ, bước vào đời,
Đẹp cao được đầy đủ,
Thiện sanh ḍng Sát-ly.

 

in the vanguard of an army,
arrayed with an elephant squadron.
I offer you wealth : enjoy it.
I ask your birth : inform me."

Trang hoàng binh đội ngũ,
Trước mắt cả binh đoàn,
Tài sản ta cho Người,
Hăy hưởng và trả lời
Về vấn đề thọ sanh.

 

"Straight ahead, your majesty,
by the foothills of the Himalayas,
is a country consummate
in energy & wealth,
inhabited by Kosalans:

Trên sườn núi Tuyết sơn,
Sống dân tộc đoạn trực,
Tài sản nghị lực đủ,
Ở xứ Kosala.

 

Solar by clan,
Sakyans by birth.
From that lineage I have gone forth,
but not in search of sensual pleasures.
Seeing the danger in sensual pleasures
— and renunciation as rest —
I go to strive.
That's where my heart delights."

bản dịch của HT Thích Minh Châu - Tương Ưng Bộ Kinh-Snp III.1

Ḍng họ thuộc mặt trời,
Sanh tộc là Thích-ca,
Từ bỏ gia tộc ấy,
Thưa vua, Ta xuất gia,
Ta không có tha thiết,
Đối với các loại dục.

424. Thấy nguy hiểm trong dục,
Bỏ chúng, là an ổn,
Ta sẽ đi, tinh tấn,٠Ta, được hoan hỷ

bản dịch của HT Thích Minh Châu - Tương Ưng Bộ Kinh-Snp III.1

 

The Bodhisatta soon surpasses the accomplishments of his teachers

"Having gone forth in search of what might be skillful, seeking the unexcelled state of sublime peace, I went to Alara Kalama and, on arrival, said to him: 'Friend Kalama, I want to practice in this doctrine & discipline.'

Vị Bồ Tát không lâu vượt trội hơn tài năng của Thầy dậy.

Ta xuất gia như vậy, một người đi t́m cái ǵ chí thiện, t́m cầu vô thượng tối thắng an tịnh đạo lộ. Ta đến chỗ Alara Kalama ở, khi đến xong liền thưa với Alara Kalama: "Hiền giả Kalama, tôi muốn sống phạm hạnh trong pháp luật này".

 

"When this was said, he replied to me, 'You may stay here, my friend. This doctrine is such that a wise person can soon enter & dwell in his own teacher's knowledge, having realized it for himself through direct knowledge.'

Này Aggivessana, được nghe nói vậy, Alara Kalama nói với Ta: "Này Tôn giả, hăy sống (và an trú). Pháp này là như vậy, khiến kẻ có trí, không bao lâu như vị Bổn sư của ḿnh (chỉ dạy), tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú"

 

"It was not long before I learned the doctrine. As far as mere lip-reciting & repetition, I could speak the words of knowledge, the words of the elders, and I could affirm that I knew & saw — I, along with others.

Này Aggivessana, và không bao lâu Ta đă thông suốt pháp ấy một cách mau chóng. Và này Aggivessana, cho đến vấn đề khua môi và vấn đề phát ngôn mà nói, thời Ta nói giáo lư của kẻ trí và giáo lư của bậc Trưởng lăo (Thượng tọa), và Ta tự cho rằng Ta như kẻ khác cũng vậy, Ta biết và Ta thấy.

 

"I thought: 'It isn't through mere conviction alone that Alara Kalama declares, "I have entered & dwell in this Dhamma, having realized it for myself through direct knowledge." Certainly he dwells knowing & seeing this Dhamma.' So I went to him and said, 'To what extent do you declare that you have entered & dwell in this Dhamma?' When this was said, he declared the dimension of nothingness.

Này Aggivessana, Ta suy nghĩ như sau: "Alara Kalama tuyên bố pháp này không phải chỉ v́ ḷng tin: "Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, Ta mới an trú". Chắc chắn Alara Kalama biết pháp này, thấy pháp này rồi mới an trú". Này các Tỷ-kheo, rồi Ta đi đến chỗ Alara Kalama ở, sau khi đến Ta nói với Alara Kalama: "Hiền giả Kalama, cho đến mức độ nào, Ngài tự tri, tự chứng, tự đạt, và tuyên bố pháp này?" Này Aggivessana, được nói vậy, Alara Kalama tuyên bố về Vô sở hữu xứ.

 

"I thought: 'Not only does Alara Kalama have conviction, persistence, mindfulness, concentration, & discernment. I, too, have conviction, persistence, mindfulness, concentration, & discernment. What if I were to endeavor to realize for myself the Dhamma that Alara Kalama declares he has entered & dwells in, having realized it for himself through direct knowledge.' So it was not long before I quickly entered & dwelled in that Dhamma, having realized it for myself through direct knowledge. I went to him and said, 'Friend Kalama, is this the extent to which you have entered & dwell in this Dhamma, having realized it for yourself through direct knowledge?'

Rồi này Aggivessana, Ta suy nghĩ: "Không phải chỉ có Alara Kalama có ḷng tin, Ta cũng có ḷng tin. Không phải chỉ có Alara Kalama mới có tinh tấn, Ta cũng có tinh tấn. Không phải chỉ có Alara Kalama mới có niệm, Ta cũng có niệm. Không phải chỉ có Alara Kalama mới có định, Ta cũng có định. Không phải chỉ có Alara Kalama mới có tuệ, Ta cũng có tuệ. Vậy Ta hăy cố gắng chứng cho được pháp mà Alara Kalama tuyên bố: "Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, ta an trú". Rồi này Aggivessana, không bao lâu sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt pháp ấy một cách mau chóng, Ta an trú. Rồi này các Tỷ-kheo, Ta đi đến chỗ Alara Kalama ở, sau khi đến, Ta nói với Alara Kalama: "Này Hiền giả Kalama, có phải Hiền giả đă tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy?"

 

"'Yes, my friend...'

--"Vâng, Hiền giả

 

"'This, friend, is the extent to which I, too, have entered & dwell in this Dhamma, having realized it for myself through direct knowledge.'

tôi đă tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy

 

"'It is a gain for us, my friend, a great gain for us, that we have such a companion in the holy life. So the Dhamma I declare I have entered & dwell in, having realized it for myself through direct knowledge, is the Dhamma you declare you have entered & dwell in, having realized it for yourself through direct knowledge. And the Dhamma you declare you have entered & dwell in, having realized it for yourself through direct knowledge, is the Dhamma I declare I have entered & dwell in, having realized it for myself through direct knowledge. The Dhamma I know is the Dhamma you know; the Dhamma you know is the Dhamma I know. As I am, so are you; as you are, so am I. Come friend, let us now lead this community together.'

--"Thật lợi ích thay cho chúng tôi, Thật khéo lợi ích thay cho chúng tôi, khi chúng tôi được thấy một đồng phạm hạnh như Tôn giả! Pháp mà tôi tự tri, tự chứng, tự đạt, và tuyên bố, chính pháp ấy Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú; pháp mà Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú, chính pháp ấy tôi tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố; pháp mà tôi biết, chính pháp ấy Hiền giả biết; pháp mà Hiền giả biết, chính pháp ấy tôi biết. Tôi như thế nào, Hiền giả là như vậy; Hiền giả như thế nào, tôi là như vậy. Nay hăy đến đây, Hiền giả, hai chúng ta hăy chăm sóc hội chúng này!"

 

"In this way did Alara Kalama, my teacher, place me, his pupil, on the same level with himself and pay me great honor. But the thought occurred to me, 'This Dhamma leads not to disenchantment, to dispassion, to cessation, to stilling, to direct knowledge, to Awakening, nor to Unbinding (nibbana), but only to reappearance in the dimension of nothingness.' So, dissatisfied with that Dhamma, I left.

Như vậy, này Aggivessana, Alara Kalama là Đạo Sư của Ta, lại đặt Ta, đệ tử của vị ấy ngang hàng với ḿnh, và tôn sùng Ta với sự tôn sùng tối thượng. Này Aggivessana, rồi Ta tự suy nghĩ: "Pháp này không hướng đến yểm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn, mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Vô sở hữu xứ". Như vậy, này Aggivessana, Ta không tôn kính pháp này, và từ bỏ pháp ấy, Ta bỏ đi.

 

"In search of what might be skillful, seeking the unexcelled state of sublime peace, I went to Uddaka Ramaputta and, on arrival, said to him: 'Friend Uddaka, I want to practice in this doctrine & discipline.'

Rồi này Aggivessana, Ta, kẻ đi t́m cái ǵ chí thiện, t́m cầu vô thượng tối thắng an tịnh đạo lộ. Ta đi đến chỗ Uddaka Ramaputta, khi đến xong Ta nói với Uddaka Ramaputta: "Hiền giả, tôi muốn sống phạm hạnh trong pháp luật này"

 

"When this was said, he replied to me, 'You may stay here, my friend. This doctrine is such that a wise person can soon enter & dwell in his own teacher's knowledge, having realized it for himself through direct knowledge.'

Được nói vậy, này Aggivessana, Uddaka Ramaputta nói với Ta: "Này Tôn giả, hăy sống (và an trú), pháp này là như vậy, khiến người có trí không bao lâu như vị Bổn sư của ḿnh (chỉ dạy) tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú".

 

"It was not long before I quickly learned the doctrine. As far as mere lip-reciting & repetition, I could speak the words of knowledge, the words of the elders, and I could affirm that I knew & saw — I, along with others.

Này Aggivessana, Ta đă thông suốt pháp ấy một cách mau chóng. Và này Aggivessana, cho đến vấn đề khua môi và vấn đề phát ngôn mà nói, thời Ta nói giáo lư của kẻ trí, và giáo lư của bậc Trưởng lăo (Thượng Tọa), và Ta tự cho rằng Ta như người khác cũng vậy, Ta biết và Ta thấy.

 

"I thought: 'It wasn't through mere conviction alone that Rama declared, "I have entered & dwell in this Dhamma, having realized it for myself through direct knowledge." Certainly he dwelled knowing & seeing this Dhamma.' So I went to Uddaka and said, 'To what extent did Rama declare that he had entered & dwelled in this Dhamma?' When this was said, Uddaka declared the dimension of neither perception nor non-perception.

Này Aggivessana, Ta suy nghĩ như sau: "Rama tuyên bố pháp này không phải v́ ḷng tin: "Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, ta mới an trú". Chắc chắn Rama thấy pháp này, biết pháp này, rồi mới an trú". Này Aggivessana, rồi Ta đi đến chỗ Uddaka Ramaputta ở, sau khi đến Ta nói với Uddaka Ramaputta: "Hiền giả Rama, cho đến mức độ nào, Ngài tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này?" Này Aggivessana, được nghe nói vậy, Uddaka Ramaputta tuyên bố về Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

 

"I thought: 'Not only did Rama have conviction, persistence, mindfulness, concentration, & discernment. I, too, have conviction, persistence, mindfulness, concentration, & discernment. What if I were to endeavor to realize for myself the Dhamma that Rama declared he entered & dwelled in, having realized it for himself through direct knowledge.' So it was not long before I quickly entered & dwelled in that Dhamma, having realized it for myself through direct knowledge. I went to Uddaka and said, 'Friend Uddaka, is this the extent to which Rama entered & dwelled in this Dhamma, having realized it for himself through direct knowledge?'

Rồi này Aggivessana, Ta suy nghĩ: "Không phải chỉ có Rama mới có ḷng tin. Ta cũng có ḷng tin. Không phải chỉ có Rama mới có tinh tấn, Ta cũng có tinh tấn. Không phải chỉ có Rama mới có niệm, Ta cũng có niệm. Không phải chỉ có Rama mới có định, Ta cũng có định. Không phải chỉ có Rama mới có tuệ, Ta cũng có tuệ. Vậy ta hăy cố gắng chứng cho được pháp mà Rama tuyên bố: "Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, tự an trú". Rồi này Aggivessana, không bao lâu sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt pháp ấy một cách mau chóng, Ta an trú. Rồi này Aggivessana, Ta đi đến chỗ Uddaka Ramaputta ở, sau khi đến, Ta nói với Uddaka Ramaputta: "Này Hiền giả Rama, có phải Hiền giả đă tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy?"

 

"'Yes, my friend...' "'This, friend, is the extent to which I, too, have entered & dwell in this Dhamma, having realized it for myself through direct knowledge.'

--"Vâng Hiền giả, tôi đă tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy".

 

"'It is a gain for us, my friend, a great gain for us, that we have such a companion in the holy life. So the Dhamma Rama declared he entered & dwelled in, having realized it for himself through direct knowledge, is the Dhamma you declare you have entered & dwell in, having realized it for yourself through direct knowledge. And the Dhamma you declare you have entered & dwell in, having realized it for yourself through direct knowledge, is the Dhamma Rama declared he entered & dwelled in, having realized it for himself through direct knowledge. The Dhamma he knew is the Dhamma you know; the Dhamma you know is the Dhamma he knew. As he was, so are you; as you are, so was he. Come friend, lead this community.'

--"Này Hiền giả, tôi cũng đă tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy." Thật lợi ích thay cho chúng tôi! Thật khéo lợi ích thay cho chúng tôi, khi chúng tôi được thấy một đồng phạm hạnh như Tôn giả! Pháp mà tôi, tự tri tự chứng, tự đạt và tuyên bố, chính pháp ấy Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú; pháp mà Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú, chính pháp ấy tôi tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố; pháp mà tôi biết, chính pháp ấy Hiền giả biết; pháp mà Hiền giả biết, chính pháp ấy tôi biết. Tôi như thế nào, Hiền giả là như vậy; Hiền giả như thế nào, Tôi là như vậy. Nay hăy đến đây, Hiền giả, hai chúng ta hăy chăm sóc hội chúng này!"

 

"In this way did Uddaka Ramaputta, my companion in the holy life, place me in the position of teacher and pay me great honor. But the thought occurred to me, 'This Dhamma leads not to disenchantment, to dispassion, to cessation, to stilling, to direct knowledge, to Awakening, nor to Unbinding (nibbana), but only to reappearance in the dimension of neither perception nor non-perception.' So, dissatisfied with that Dhamma, I left."

MN 36

Như vậy, này Aggivessana, Uddaka Ramaputta là Đạo Sư của Ta, lại đặt Ta, đệ tử của vị ấy ngang hàng với ḿnh, và tôn sùng Ta với sự tôn sùng tối thượng. Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: "Pháp này không hướng đến yểm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn, mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Phi tưởng phi phi tưởng xứ". Như vậy, này Aggivessana, Ta không tôn kính pháp ấy và từ bỏ pháp ấy, Ta bỏ đi.

MN 36

 

He practices extreme austerities in the forest

Ngài thực hành khổ hạnh nơi rừng sâu

 

"I thought: 'Suppose that I, clenching my teeth and pressing my tongue against the roof of my mouth, were to beat down, constrain, & crush my mind with my awareness.' So, clenching my teeth and pressing my tongue against the roof of my mouth, I beat down, constrained, & crushed by mind with my awareness. Just as a strong man, seizing a weaker man by the head or the throat or the shoulders, would beat him down, constrain, & crush him, in the same way I beat down, constrained, & crushed my mind with my awareness. As I did so, sweat poured from my armpits. And although tireless persistence was aroused in me, and unmuddled mindfulness established, my body was aroused & uncalm because of the painful exertion. But the painful feeling that arose in this way did not invade my mind or remain.

Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: "Ta hăy nghiến răng, dán chặt lên lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm!" Này Aggivessana, rồi Ta nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm. Khi Ta đang nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, mồ hôi thoát ra từ nơi nách của Ta. Này Aggivessana, như một người lực sĩ nắm lấy đầu một người ốm yếu hay nắm lấy vai, có thể chế ngự, nhiếp phục và đánh bại người ấy. Này Aggivessana, khi Ta đang nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, mồ hôi thoát ra từ nơi nách của Ta, này Aggivessana, dầu cho Ta có chí tâm tinh cần, tinh tấn, tận lực, dầu cho niệm được an trú không dao động, nhưng thân của Ta vẫn bị khích động, không được khinh an, v́ Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy. Tuy vậy, này Aggivessana, khổ thọ ấy khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.

 

"I thought: 'Suppose I were to become absorbed in the trance of non-breathing.' So I stopped the in-breaths & out-breaths in my nose & mouth. As I did so, there was a loud roaring of winds coming out my earholes, just like the loud roar of winds coming out of a smith's bellows... So I stopped the in-breaths & out-breaths in my nose & mouth & ears. As I did so, extreme forces sliced through my head, just as if a strong man were slicing my head open with a sharp sword... Extreme pains arose in my head, just as if a strong man were tightening a turban made of tough leather straps around my head... Extreme forces carved up my stomach cavity, just as if a butcher or his apprentice were to carve up the stomach cavity of an ox... There was an extreme burning in my body, just as if two strong men, grabbing a weaker man by the arms, were to roast & broil him over a pit of hot embers. And although tireless persistence was aroused in me, and unmuddled mindfulness established, my body was aroused & uncalm because of the painful exertion. But the painful feeling that arose in this way did not invade my mind or remain.

Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta hăy tu Thiền nín thở". Và này Aggivessana, rồi Ta nín thở vô, thở ra ngang qua miệng và ngang qua mũi. Này Aggivessana, khi Ta nín thở vô, thở ra ngang qua miệng và ngang qua mũi, th́ một tiếng gió động kinh khủng thổi lên, ngang qua lỗ tai. Này Aggivessana, ví như tiếng kinh khủng phát ra từ ống thổi bệ đang thổi của người thợ rèn. Cũng vậy, này Aggivessana, khi Ta nín thở vô, thở ra ngang qua miệng và ngang qua mũi, thời một tiếng gió động kinh khủng thổi lên, ngang qua lỗ tai. Này Aggivessana, dầu cho Ta có chí tâm tinh cần, tinh tấn, tận lực, dầu cho niệm được an trú không dao động, nhưng thân của Ta vẫn bị kích động, không được khinh an, v́ Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy. Tuy vậy, này Aggivessana, khổ thọ ấy khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.

 

"Devas, on seeing me, said, 'Gotama the contemplative is dead.' Other devas said, 'He isn't dead, he's dying.' Others said, 'He's neither dead nor dying, he's an arahant, for this is the way arahants live.'

Lại nữa, này Aggivessana, chư Thiên thấy vậy nói như sau: "Sa-môn Gotama đă chết rồi". Một số chư Thiên nói như sau: "Sa-môn Gotama chưa chết, nhưng Sa-môn Gotama sắp sửa chết". Một số chư Thiên nói như sau: "Sa-môn Gotama chưa chết. Sa-môn Gotama, cũng không phải sắp chết. Sa-môn Gotama là bậc A-la-hán, đời sống của một A-la-hán là như vậy".

 

"I thought: 'Suppose I were to practice going altogether without food.' Then devas came to me and said, 'Dear sir, please don't practice going altogether without food. If you go altogether without food, we'll infuse divine nourishment in through your pores, and you will survive on that.' I thought, 'If I were to claim to be completely fasting while these devas are infusing divine nourishment in through my pores, I would be lying.' So I dismissed them, saying, 'Enough.'

Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta hăy hoàn toàn tuyệt thực". Rồi này Aggivessana, chư Thiên đến Ta và nói như sau: "Này Thiện hữu, Hiền giả chớ có hoàn toàn tuyệt thực. Này Thiện hữu, nếu Hiền giả có hoàn toàn tuyệt thực, chúng tôi sẽ đổ các món ăn chư Thiên ngang qua các lỗ chân lông cho Hiền giả, và nhờ vậy Hiền giả vẫn sống". Rồi này Aggivessana, Ta suy nghĩ như sau: "Nếu Ta hoàn toàn tuyệt thực và chư Thiên này đổ các món ăn chư Thiên ngang qua các lỗ chân lông cho Ta và nhờ vậy Ta vẫn sống, thời như vậy Ta tự dối Ta". Này Aggivessana, Ta bác bỏ chư Thiên ấy và nói: "Như vậy là đủ".

 

"I thought: 'Suppose I were to take only a little food at a time, only a handful at a time of bean soup, lentil soup, vetch soup, or pea soup.' So I took only a little food at a time, only handful at a time of bean soup, lentil soup, vetch soup, or pea soup. My body became extremely emaciated. Simply from my eating so little, my limbs became like the jointed segments of vine stems or bamboo stems... My backside became like a camel's hoof... My spine stood out like a string of beads... My ribs jutted out like the jutting rafters of an old, run-down barn... The gleam of my eyes appeared to be sunk deep in my eye sockets like the gleam of water deep in a well... My scalp shriveled & withered like a green bitter gourd, shriveled & withered in the heat & the wind... The skin of my belly became so stuck to my spine that when I thought of touching my belly, I grabbed hold of my spine as well; and when I thought of touching my spine, I grabbed hold of the skin of my belly as well... If I urinated or defecated, I fell over on my face right there... Simply from my eating so little, if I tried to ease my body by rubbing my limbs with my hands, the hair — rotted at its roots — fell from my body as I rubbed, simply from eating so little.

Này Aggivessana, rồi Ta tự suy nghĩ như sau: "Ta hăy giảm thiểu tối đa ăn uống, ăn ít từng giọt một, như xúp đậu xanh, xúp đậu đen hay xúp đậu hột hay xúp đậu nhỏ". Và này Aggivessana, trong khi Ta giảm thiểu tối đa sự ăn uống, ăn từng giọt một, như xúp đậu xanh, xúp đậu đen hay xúp đậu hột hay xúp đậu nhỏ, thân của Ta trở thành hết sức gầy yếu. V́ Ta ăn quá ít, tay chân Ta trở thành như những gọng cỏ hay những đốt cây leo khô héo; v́ Ta ăn quá ít, bàn trôn của Ta trở thành như móng chân con lạc đà; v́ Ta ăn quá ít, xương sống phô bày của Ta giống như một chuỗi banh; v́ Ta ăn quá ít, các xương sườn gầy ṃn của Ta giống như rui cột một nhà sàn hư nát; v́ Ta ăn quá ít, nên con ngươi long lanh của Ta nằm sâu thẳm trong lỗ con mắt, giống như ánh nước long lanh nằm sâu thẳm trong một giếng nước thâm sâu; v́ Ta ăn quá ít, da đầu Ta trở thành nhăn nhiu khô cằn như trái bí trắng và đắng bị cắt trước khi chín, bị cơn gió nóng làm cho nhăn nhíu khô cằn. Này Aggivessana, nếu Ta nghĩ: "Ta hăy rờ da bụng", th́ chính xương sống bị Ta nắm lấy. Nếu Ta nghĩ: "Ta hăy rờ xương sống", th́ chính da bụng bị Ta nắm lấy. V́ Ta ăn quá ít, nên này Aggivessana, da bụng của Ta đến bám chặt xương sống. Này Aggivessana, nếu Ta nghĩ: "Ta đi đại tiện, hay đi tiểu tiện" th́ Ta ngă qu? úp mặt xuống đất, v́ Ta ăn quá ít. Này Aggivessana, nếu Ta muốn xoa dịu thân Ta, lấy tay xoa bóp chân tay, th́ này Aggivessana, trong khi Ta xoa bóp chân tay, các lông tóc hư mục rụng khỏi thân Ta, v́ Ta ăn quá ít.

 

"People on seeing me would say, 'Gotama the contemplative is black. Other people would say, 'Gotama the contemplative isn't black, he's brown.' Others would say, 'Gotama the contemplative is neither black nor brown, he's golden-skinned. So much had the clear, bright color of my skin deteriorated, simply from eating so little.

Lại nữa, này Aggivessana, có người thấy vậy nói như sau: "Sa-môn Gotama có da đen". Một số người nói như sau: "Sa-môn Gotama, da không đen, Sa-môn Gotama có da màu xám". Một số người nói như sau: "Sa-môn Gotama da không đen, da không xám." Một số người nói như sau: "Sa-môn Gotama da không đen, da không xám, Sa-môn Gotama có da màu vàng sẫm". Cho đến mức độ như vậy, này Aggivessana, da của Ta vốn thanh tịnh, trong sáng bị hư hoại v́ Ta ăn quá ít.

 

"I thought: 'Whatever priests or contemplatives in the past have felt painful, racking, piercing feelings due to their striving, this is the utmost. None have been greater than this. Whatever priests or contemplatives in the future will feel painful, racking, piercing feelings due to their striving, this is the utmost. None will be greater than this. Whatever priests or contemplatives in the present are feeling painful, racking, piercing feelings due to their striving, this is the utmost. None is greater than this. But with this racking practice of austerities I haven't attained any superior human state, any distinction in knowledge or vision worthy of the noble ones. Could there be another path to Awakening?'"

MN 36

Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Thuở xưa có những Sa-môn hay Bà-la-môn th́nh ĺnh cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt. Những sự đau khổ này là tối thượng, không thể có ǵ hơn nữa. Về tương lai, có những Sa-môn hay Bà-la-môn th́nh ĺnh cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt. Những sự đau khổ này là tối thượng không thể có ǵ hơn nữa. Trong hiện tại, có những Sa-môn hay Bà-la-môn th́nh ĺnh cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt. Những sự đau khổ này là tối thượng, không thể có ǵ hơn nữa. Nhưng Ta, với sự khổ hạnh khốc liệt như thế này, vẫn không chứng được pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh. Hay là có đạo lộ nào khác đưa đến giác ngộ?"

MN 36

 

He confronts fear & terror head-on

"I stayed in the sort of places that are awe-inspiring and make your hair stand on end, such as park-shrines, forest-shrines, & tree-shrines. And while I was staying there a wild animal would come, or a bird would make a twig fall, or wind would rustle the fallen leaves. The thought would occur to me: 'Is this that fear & terror coming?' Then the thought occurred to me: 'Why do I just keep waiting for fear? What if I were to subdue fear & terror in whatever state they come?' So when fear & terror came while I was walking back & forth, I would not stand or sit or lie down. I would keep walking back & forth until I had subdued that fear & terror. When fear & terror came while I was standing, I would not walk or sit or lie down. I would keep standing until I had subdued that fear & terror. When fear & terror came while I was sitting, I would not lie down or stand up or walk. I would keep sitting until I had subdued that fear & terror. When fear & terror came while I was lying down, I would not sit up or stand or walk. I would keep lying down until I had subdued that fear & terror."

MN 4

Ta hăy đến ở tại các trú xứ hăi hùng, lông tóc dựng ngược, như tự miếu tại các thảo viên, tự miếu tại các rừng núi, tự miếu tại các cây cối, để Ta có thể thấy sự sợ hăi khiếp đảm ấy". Này Bà-la-môn, sau một thời gian, trong những đêm được biết đến, được xác định, đêm mười bốn, đêm mười lăm, đêm mồng tám mỗi nữa tháng, trong những đêm như vậy, Ta đến ở tại các trú xứ hăi hùng, lông tóc dựng ngược như vậy, như tự miếu tại các thảo viên, tự miếu tại các rừng núi, tự miếu tại các cây cối. Này Bà-la-môn, trong khi ta ở tại các chỗ ấy, một con thú có thể đến, hay một con công làm rơi một cành cây, hay gió làm rung động các lá rơi; Ta khởi lên ư nghĩ: "Nay sự sợ hăi khiếp đảm ấy đă đến!". Này Bà-la-môn, rồi Ta suy nghĩ: "Sao Ta ở đây, chỉ để mong đợi sự sợ hăi khiếp đảm chớ không ǵ khác? Trong bất cứ hành vi cử chỉ nào của Ta mà sợ hăi khiếp đảm ấy đến, trong hành vi cử chỉ ấy, Ta hăy trừ diệt sợ hăi khiếp đảm ấy". Này Bà-la-môn trong khi Ta đi kinh hành qua lại mà sợ hăi khiếp đảm ấy đến, th́ này Bà-la-môn, Ta không đứng, Ta không ngồi, Ta không nằm, nhưng Ta trừ diệt sợ hăi khiếp đảm ấy trong khi Ta đi kinh hành qua lại. Này Bà-la-môn, trong khi Ta đang đứng mà sự sợ hăi khiếp đảm ấy đến, th́ này Bà-la-môn, Ta không kinh hành qua lại, Ta không ngồi, Ta không nằm, nhưng Ta trừ diệt sợ hăi khiếp đảm ấy trong khi Ta đang đứng. Này Bà-la-môn, trong khi Ta đang ngồi mà sợ hăi khiếp đảm ấy đến, th́ này Bà-la-môn, Ta không nằm, Ta không đứng, Ta không kinh hành qua lại, nhưng Ta trừ diệt sợ hăi khiếp đảm ấy trong khi Ta đang ngồi. Này Bà-la-môn, trong khi Ta đang nằm mà sợ hăi khiếp đảm ấy đến, th́ này Bà-la-môn, Ta không ngồi, Ta không đứng, Ta không kinh hành qua lại, nhưng Ta trừ diệt sợ hăi khiếp đảm ấy trong khi Ta đang nằm.

MN 4

 

Mara, the personification of evil, pays a visit

"Monks, Mara is continually, ceaselessly, hovering around you, [thinking,] 'Perhaps I'll get an opportunity by means of the eye... the ear... the nose... the tongue... the body. Perhaps I'll get an opportunity by means of the intellect.' Thus, monks, you should dwell with the doors to your senses well-guarded."

— SN XXXV.199

Ác ma, hiện thân của xấu ác, đến thăm

Ác ma thường xuyên không gián đoạn, đứng trong tư thế ŕnh ṃ các Ông với ư nghĩ: "Rất có thể ta nắm được cơ hội để bắt gặp từ con mắt... từ cái lưỡi... hay từ ư". Rất có thể ta nắm được cơ hội để bắt gặp từ y' thức. Thật vậy, này các Tỳ kheo, khi nào các Ông sống hộ tŕ các căn, thời Ác ma nhàm chán các Ông và sẽ bỏ đi

 

To me —
resolute in exertion
near the river Nerañjara,
making a great effort,
doing jhana
to attain security from bondage —

Bên sông Ni-liên-thuyền,
Ta tinh cần tinh tấn,
Cố gắng, Ta thiền định,
Đạt an ổn khổ ách.

 

Namuci1 1 came,
speaking words of compassion:
"You are ashen, thin.
Death is in
your presence.
Death

Ác ma đến gần Ta,
Nói lên lời từ mẫn,
Ông ốm không dung sắc,
Ông đă gần chết rồi.

 

has 1,000 parts of you.
Only one part
is your life.
Live, good sir!
Life is better.

Cả ngàn phần, Ông chết,
Chỉ một phần c̣n sống,
Hăy sống, sống tốt hơn,
Sẽ làm các công đức.

 

Alive,
you can do
acts of merit.
Your living the holy life,
performing the fire sacrifice,
will heap up much merit.
What use is exertion to you?

Như Ông sống Phạm hạnh,
Hăy đốt lửa tế tự,
Hăy chất chứa công đức,
Ông tinh tấn làm ǵ?

 

Hard to follow
— the path of exertion —
hard to do, hard
to sustain."

Saying these verses,
Mara stood in the Awakened One's presence.
And to that Mara, speaking thus,
the Blessed One said this:

"Kinsman of the heedless,
Evil One,
come here for whatever purpose:

Khó thay, đường tinh tấn,
Khó làm, khó đạt được.
Ác ma đứng gần Phật,
Nói lên những kệ này.

430. Thế Tôn đă đáp lại
Lời Ác ma như sau:
Bà con ác phóng dật,
Ngươi đến đây làm ǵ?

 

I haven't, for merit,
even the least bit of need.
Those who have need of merit:
those are the ones
Mara's fit to address.

Với công đức nhỏ bé,
Ta đâu có cần đến?
Với ai cần công đức,
Ác ma đáng nói chúng.

 

In me are conviction,
austerity,
persistence,
discernment.
Why, when I'm so resolute
do you petition me
to live?

Đây có tín, tinh tấn,
Và Ta có trí tuệ,
Như vậy, Ta tinh tấn,
Sao Ngươi hỏi Ta sống?

 

This wind could burn up
even river currents.
Why, when I'm resolute
shouldn't my blood dry away?
As my blood dries up
gall & phlegm dry up.
As muscles waste away,
the mind grows clearer;
mindfulness, discernment,
concentration stand
more firm.

Dầu máu có khô cạn,
Mật, đàm Ta khô cạn,
Dầu thịt có hủy hoại,
Tâm Ta càng tịnh tín,
Ta lại càng vững trú,
Niệm, tuệ và thiền định.

 

Staying in this way,
attaining the ultimate feeling,2
the mind has no interest
in sensual passions.
See:
a being's
purity!

Do Ta sống như vậy,
Đạt được thọ tối thượng,
Tâm không cầu các dục,
Nh́n chúng sanh thanh tịnh.

 

Sensual passions are your first army.
Your second is called Discontent.
Your third is Hunger & Thirst.
Your fourth is called Craving.
Fifth is Sloth & Drowsiness.
Sixth is called Terror.
Your seventh is Uncertainty.
Hypocrisy & Stubbornness, your eighth.
Gains, Offerings, Fame, & Status
wrongly gained,
and whoever would praise self
& disparage others.

Dục, đội quân thứ nhất.
Thứ hai, gọi bất lạc,
Thứ ba, đói và khát,
Thứ tư, gọi tham ái.

437. Năm, hôn trầm thụy miên,
Thứ sáu, gọi sợ hăi,
Thứ bảy, gọi nghi ngờ,
Tám, dèm pha ngoan cố.

438. Lợi, danh và cung kính,
Danh vọng được tà vạy,
Ai tự đề cao ḿnh,
Hủy báng các người khác.

 

That, Namuci, is your army,
the Dark One's commando force.
A coward can't defeat it,
but one having defeated it
gains bliss.
Do I carry muñja grass?3
I spit on my life.
Death in battle woud be better for me
than that I, defeated,
survive.

Ôi, này Na-mu-ci,
Đây là quân đội Ngươi,
Đây quân đội chiến trận,
Của ḍng họ Kanhà,
Kẻ nhát, không thắng Ngươi,
Ai thắng Ngươi, được lạc.

440. Ta mang cỏ munja,
Vững thay, đây đời sống,
Thà Ta chết chiến trận,
Tốt hơn, sống thất bại.

 

Sinking here, they don't appear,
some priests & contemplatives.
They don't know the path
by which those with good practices go.

Bị thấy đắm ở đây,
Số Sa-môn, Phạm chí,
Không biết được con đường,
Bậc giới đức thường đi.

 

Seeing the bannered force
on all sides —
the troops, Mara
along with his mount —
I go into battle.
May they not budge me
from
my spot.

Thấy khắp quân đội dàn,
Ác ma trên lưng voi,
Ta bước vào chiến trận,
Không để ai chiếm đoạt.

 

That army of yours,
that the world with its devas
can't overcome,
I will smash with discernment —
as an unfired pot with a stone.

Đội ngũ quân nhà Ngươi,
Đời này và chư Thiên,
Không một ai thắng nổi,
Ta đến Ngươi với tuệ,
Như ḥn đá dập nát,
Chiếc bát chưa nung chín.

 

Making my resolve mastered,
mindfulness well-established,
I will go about, from kingdom to kingdom,
training many disciples.
They — heedful, resolute
doing my bidding —
despite your wishes, will go
where, having gone,
there's no grief."

Nhiếp phục được tâm tư,
Khéo an trú chánh niệm,
Ta sẽ đi bộ hành,
Nước này qua nước khác,
Để huấn luyện rộng răi,
Cho những người đệ tử.

445. Không phóng dật, tinh cần,
Họ hành lời Ta dạy,
Dầu Ngươi không muốn vậy,
Họ vẫn sẽ đi tới,
Chỗ nào họ đi tới,
Chỗ ấy không sầu muộn.

 

Mara:

"For seven years, I've dogged
the Blessed One's steps,
but haven't gained an opening
in the One Self-awakened
& glorious.

Ác-ma:

446. Bảy năm, ta bước theo,
Chân theo chân Thế Tôn,
Không t́m được lỗi lầm,
Nơi Thế Tôn chánh niệm.

 

A crow circled a stone
the color of fat
— 'Maybe I've found
something tender here.
Maybe there's something delicious' —

Như quạ bay xung quanh,
Ḥn đá như đống mỡ,
Có thể có ǵ mềm?
Có thể có ǵ ngọt?

 

but not getting anything delicious there,
the crow went away.
Like the crow attacking the rock,
I weary myself with Gotama."

Không t́m được ǵ ngọt,
Quạ từ đó bay đi,
Như quạ mổ ḥn đá,
Ta bỏ Gotama.

 

As he was overcome with sorrow,
his lute fell from under his arm.
Then he, the despondent spirit,
right there
disappeared.

Snp III.2

Bị sầu muộn chi phối,
Cây đàn rơi khỏi nách,
Kẻ Dạ-xoa ác ư,
Tại đấy liền biến mất.

Bản dịch của HT Thích Minh Châu: Snp III.2

 

Notes:

1. Mara
2. The highest equanimity that can be attained through jhana.
3. Muñja grass was the ancient Indian equivalent of a white flag. A warrior expecting that he might have to surrender would take muñja grass into battle with him. If he did surrender, he would lie down with the muñja grass in his mouth. The Buddha, in asking this rhetorical question, is indicating that he is not the type of warrior who would carry muñja grass. If defeated, he would rather die than surrender.

^^^^^

 

He abandons his austerities

"I thought: 'I recall once, when my father the Sakyan was working, and I was sitting in the cool shade of a rose-apple tree, then — quite withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful mental qualities — I entered & remained in the first jhana: rapture & pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation. Could that be the path to Awakening?' Then, following on that memory, came the realization: 'That is the path to Awakening.' I thought: 'So why am I afraid of that pleasure that has nothing to do with sensuality, nothing to do with unskillful mental qualities?' I thought: 'I am no longer afraid of that pleasure that has nothing to do with sensuality, nothing to do with unskillful mental qualities, but it is not easy to achieve that pleasure with a body so extremely emaciated. Suppose I were to take some solid food: some rice & porridge.' So I took some solid food: some rice & porridge. Now five monks had been attending on me, thinking, 'If Gotama, our contemplative, achieves some higher state, he will tell us.' But when they saw me taking some solid food — some rice & porridge — they were disgusted and left me, thinking, 'Gotama the contemplative is living luxuriously. He has abandoned his exertion and is backsliding into abundance.'

Rời bỏ sự khổ hạnh Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta biết, trong khi phụ thân Ta, thuộc gịng Sakka (Thích-ca) đang cày và Ta đang ngồi dưới bóng mát cây diêm-phù-đề (jambu), Ta ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ". Khi an trú như vậy, Ta nghĩ: "Đạo lộ này có thể đưa đến giác ngộ chăng?" Và này Aggivessana, tiếp theo ư niệm ấy, ư thức này khởi lên nơi Ta: "Đây là đạo lộ đưa đến giác ngộ". Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: "Ta có sợ chăng lạc thọ này, một lạc thọ ly dục, ly pháp bất thiện?" Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: "Ta không sợ lạc thọ này, một lạc thọ ly dục, ly pháp bất thiện". Rồi này Aggivessana, Ta suy nghĩ: "Nay thật không dễ ǵ chứng đạt lạc thọ ấy, với thân thể ốm yếu kinh khủng như thế này. Ta hăy ăn thô thực, ăn cơm chua". Rồi này Aggivessana, Ta ăn thô thực, ăn cơm chua. Này Aggivessana, lúc bấy giờ, năm Tỷ-kheo đang hầu hạ Ta suy nghĩ: "Khi nào Sa-môn Gotama chứng pháp, vị ấy sẽ nói cho chúng ta biết". Này Aggivessana, khi thấy Ta ăn thô thực, ăn cơm chua, các vị ấy chán ghét Ta, bỏ đi và nói: "Sa-môn Gotama nay sống đầy đủ vật chất, từ bỏ tinh tấn, trở lui đời sống sung túc".

 

"So when I had taken solid food and regained strength, then — quite withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful mental qualities, I entered & remained in the first jhana: rapture & pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation. But the pleasant feeling that arose in this way did not invade my mind or remain. With the stilling of directed thought & evaluation, I entered & remained in the second jhana: rapture & pleasure born of composure, unification of awareness free from directed thought & evaluation — internal assurance. But the pleasant feeling that arose in this way did not invade my mind or remain. With the fading of rapture I remained in equanimity, mindful & alert, and physically sensitive of pleasure. I entered & remained in the third jhana, of which the Noble Ones declare, 'Equanimous & mindful, he has a pleasurable abiding.' But the pleasant feeling that arose in this way did not invade my mind or remain. With the abandoning of pleasure & pain — as with the earlier disappearance of elation & distress — I entered & remained in the fourth jhana: purity of equanimity & mindfulness, neither pleasure nor pain. But the pleasant feeling that arose in this way did not invade my mind or remain."

MN 36

sau khi ăn thô thực và được sức lực trở lại, Ta ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

|Trang kế | trở về đầu trang | Home page |