......... .

Hương Vị Giải Thoát
"A Teste of Freedom"

Tác giả: Ajahan Chah
Việt dịch Phạm Kim Khánh
---o0o---

The Middle Way Within


 

The Middle Way Within

Trung đạo bên trong

 

"...The Buddha laid down Morality, Concentration and Wisdom as the Path to peace, the way to enlightenment. But in truth these things are not the essence of Buddhism. They are merely the Path... The essence of Buddhism is peace, and that peace arises from truly knowing the nature of all things..."

... Đức Phật ban truyền ba pháp tu học: Giới, Định và Tuệ. Đó là Con Đường dẫn đến thanh b́nh an lạc, đường đến giác ngộ. Nhưng trong thực tế, ba pháp ấy không phải là tinh hoa của Phật Giáo. Đó chỉ là Con Đường ... Tinh hoa của Phật Giáo là an lạc, và trạng thái an lạc nầy phát sanh từ sự thấu triệt thực tướng của vạn pháp ...

 

The teaching of Buddhism is about giving up evil and practicing good. Then, when evil is given up and goodness is established, we must let go of both good and evil. We have already heard enough about wholesome and unwholesome conditions to understand something about them, so I would like to talk about the Middle Way, that is, the path to escape from both of those things.

Phật Giáo dạy ta không làm điều ác và làm những việc thiện. Như vậy, khi điều ác đă được lánh xa và điều thiện đă vững chắc ổn định, ta phải buông bỏ cả hai, thiện và ác. Chúng ta đă có nghe và đă có một kiến thức đầy đủ về những nghiệp thiện và nghiệp bất thiện. Giờ đây Sư muốn đề cập đến Trung Đạo, tức con đường lẫn thoát ra cả hai, thiện và bất thiện nghiệp.

 

All the Dhamma talks and teachings of the Buddha have one aim — to show the way out of suffering to those who have not yet escaped. The teachings are for the purpose of giving us the right understanding. If we don't understand rightly, then we can't arrive at peace. When the various Buddhas became enlightened and gave their first teachings, they all declared these two extremes — indulgence in pleasure and indulgence in pain. 7 These two ways are the ways of infatuation, they are the ways between which those who indulge in sense pleasures must fluctuate, never arriving at peace. They are the paths which spin around in samsara.

Tất cả những bài giảng về Giáo Pháp và những lời dạy của Đức Phật chỉ nhằm một mục tiêu là vạch tỏ và rọi sáng con đường dẫn ra khỏi mọi đau khổ, cho những ai c̣n chưa lẫn thoát. Những lời dạy nầy nhằm cho ta một sự hiểu biết chân chánh, chánh kiến. Nếu không hiểu biết chân chánh ắt ta không thể đạt đến an lạc. Khi những vị Phật khác nhau chứng ngộ Chánh Đẳng Chánh Giác và ban truyền những lời dạy đầu tiên th́ tất cả các Ngài đều vạch rơ hai cực đoan -- Lợi Dưỡng Trong Dục Lạc và Lợi Dưỡng Trong Đau Khổ. Đó là hai con đường mê hoặc, là hai lối sống cực đoan làm cho những ai say mê trong đó phải luôn luôn vọng động, không bao giờ được thanh b́nh an lạc. Đó là hai con đường dẫn dắt và cột chặt chúng sanh trong ṿng luân hồi, sanh tử triền miên.

 

The Enlightened One observed that all beings are stuck in these two extremes, never seeing the Middle Way of Dhamma, so he pointed them out in order to show the penalty involved in both. Because we are still stuck, because we are still wanting, we live repeatedly under their way. The Buddha declared that these two ways are the ways of intoxication, they are not the way of a meditator, nor the ways to peace. These ways are indulgence in pleasure and indulgence in pain, or, to put it simply, the way of slackness and the way of tension. If you investigate within, moment by moment, you will see that the tense way is anger, the way of sorrow. Going this way there is only difficulty and distress. Indulgence in Pleasure — if you've escaped from this, it means you've escaped from happiness. These ways, both happiness and unhappiness, are not peaceful states. The Buddha taught to let go of both of them. This is right practice. This is the Middle Way.

Đấng Toàn Giác nhận thức rằng tất cả chúng sanh đều bị dính kẹt trong hai cực đoan ấy, không bao giờ thấy được Trung Đạo của Giáo Pháp. Do đó Ngài giáo truyền lối sống ở khoảng giữa, nhằm vạch rơ tầm mức nguy hại của cả hai cực đoan. V́ chúng ta c̣n dính kẹt, c̣n ham muốn, nên chúng ta vẫn phải c̣n măi măi sống dưới sự chi phối của nó. Đức Phật tuyên ngôn rằng cả hai đều là con đường đầu độc, không phải con đường của người hành thiền, không đưa đến an lạc. Hai con đường ấy là lợi dưỡng, đắm ch́m trong những thú vui của trần thế và say mê trong cuộc sống ép xác khổ hạnh hay một cách đơn giản, là con đường dể duôi buông lung và con đường căng thẳng. Nếu hướng cái nh́n vào và quán chiếu bên trong ḿnh từng giờ, từng phút, từng khoảnh khắc, quư vị sẽ thấy rằng con đường căng thẳng là sân hận, là ưu phiền, sầu muộn. Noi theo con đường ấy chỉ đến khó khăn và thất vọng. C̣n Lợi Dưỡng Trong Dục Lạc -- nếu quư vị lẫn thoát ra được khỏi nó tức là quư vị đă thoát ra khỏi thỏa thích. Cả hai con đường, hạnh phúc và đau khổ, đều không phải là đường lối dẫn đến trạng thái an lạc. Đức Phật dạy ta nên buông bỏ cả hai, không bám níu vào đau khổ mà cũng không dính kẹt trong hạnh phúc. Đó là Pháp Hành Chân Chánh. Đó là Trung Đạo.

 

These words, "the Middle Way," do not refer to our body and speech, they refer to the mind. When a mental impression which we don't like arises, it affects the mind and there is confusion. When the mind is confused, when it's "shaken up," this is not the right way. When a mental impression arises which we like, the mind goes to indulgence in pleasure — that's not the way either.

Những danh từ "Trung Đạo" không nhắm vào thân và khẩu mà nhắm vào ư. Khi những cảm xúc mà ta không ưa thích phát sanh, nó ảnh hưởng tâm, đưa đến t́nh trạng xáo trộn. Khi tâm bị xáo trộn ắt có "vọng động", đó không phải là con đường chân chánh. Khi những cảm xúc mà ta ưa thích phát sanh, tâm sẽ đeo níu vào và lợi dưỡng trong sự thỏa thích -- đó cũng không phải là con đường chân chánh.

 

We people don't want suffering, we want happiness. But in fact happiness is just a refined form of suffering. Suffering itself is the coarse form. You can compare them to a snake. The head of the snake is unhappiness, the tail of the snake is happiness. The head of the snake is really dangerous, it has the poisonous fangs. If you touch it, the snake will bite straight away. But never mind the head, even if you go and hold onto the tail, it will turn around and bite you just the same, because both the head and the tail belong to the one snake.

Người đời chúng ta không thích đau khổ, chúng ta muốn hạnh phúc. Tuy nhiên trong thực tế, hạnh phúc chỉ là một h́nh thức vi tế của đau khổ. Đau khổ tự nó là h́nh thức thô kịch. Quư vị có thể ví hạnh phúc và đau khổ như đầu và đuôi của một con rắn. Đầu rắn là đau khổ, đuôi là hạnh phúc. Cái đầu của con rắn thật sự là nguy hiểm, nó có nọc độc. Nếu quư vị sờ đụng ắt nó cắn ngay tức khắc. Nhưng, không nói chi cái đầu, nếu quư vị chỉ nắm đuôi rắn thôi, nó cũng quay đầu lại cắn quư vị y hệt như vậy, bởi v́ đầu và đuôi, cả hai đều thuộc về một con rắn.

 

In the same way, both happiness and unhappiness, or pleasure and sadness, arise from the same parent — wanting. So when you're happy the mind isn't peaceful. It really isn't! For instance, when we get the things we like, such as wealth, prestige, praise or happiness, we become pleased as a result. But the mind still harbors some uneasiness because we're afraid of losing it. That very fear isn't a peaceful state. Later on we may actually lose that thing and then we really suffer. Thus, if you aren't aware, even if you're happy, suffering is imminent. It's just the same as grabbing the snake's tail — if you don't let go it will bite. So whether it's the snake's tail or its head, that is, wholesome or unwholesome conditions, they're all just characteristics of the Wheel of Existence, of endless change.

Cùng thế ấy cả hai, hạnh phúc và đau khổ, hay vui thích và sầu muộn, đều cùng cha cùng mẹ, phát xuất từ một nguồn gốc -- ḷng ham muốn. Chỉ có mê hoặc, say đắm trong ái dục! Do đó trong lúc thọ hưởng hạnh phúc, tâm của quư vị không an lạc. Tâm thật sự là không an lạc! Thí dụ khi đạt được điều ǵ mà ta ưa thích, như tài sản sự nghiệp, danh vọng quyền thế, những lời khen tặng hay hạnh phúc th́ ta vui vẽ thỏa thích. Nhưng cùng lúc ấy, tâm vẫn lo ngại, không hoàn toàn thoải mái dễ chịu v́ sợ nó mất đi. Chính t́nh trạng lo sợ ấy không phải là an lạc. Về sau nữa, có thể ta mất luôn điều ấy và thật sự đau khổ. Như vậy, nếu quư vị không nhận thức rơ ràng để kịp thời buông bỏ, không bám níu vào, th́ chính trong hạnh phúc đă có mầm mống đau khổ rồi. Nó cũng giống hệt như khi ta nắm đuôi con rắn -- nếu không buông bỏ ắt sẽ bị rắn quay đầu lại cắn. Như vậy dầu là đầu hay đuôi con rắn, tức thiện hay bất thiện nghiệp, tất cả đều có đặc tánh cột chặt ta vào những kiếp sống triền miên vô cùng tận của ṿng luân hồi.

 

The Buddha established morality, concentration and wisdom as the path to peace, the way to enlightenment. But in truth these things are not the essence of Buddhism. They are merely the path. The Buddha called them "Magga," which means "path." The essence of Buddhism is peace, and that peace arises from truly knowing the nature of all things. If we investigate closely, we can see that peace is neither happiness nor unhappiness. Neither of these is the truth.

Đức Phật ban truyền ba pháp tu học: Giới, Định, Tuệ. Đó là con đường dẫn đến an lạc, là con đường Giác Ngộ. Nhưng thật sự ba pháp ấy không phải là tinh hoa của Phật Giáo. Nó chỉ là Con Đường. Đức Phật gọi là "Magga", có nghĩa là "Con Đường", hay Đạo. Tinh hoa của Phật Giáo là an lạc, và trạng thái an lạc nầy phát sanh từ sự thấu triệt thực tướng của vạn pháp. Nếu quán chiếu tường tận và phân tách rành mạch, ta có thể thấy rằng an lạc không phải là hạnh phúc, cũng không phải là đau khổ. Đau khổ và hạnh phúc, cả hai đều không phải là chân lư.

 

The human mind, the mind which the Buddha exhorted us to know and investigate, is something we can only know by its activity. The true "original mind" has nothing to measure it by, there's nothing you can know it by. In its natural state it is unshaken, unmoving. When happiness arises all that happens is that this mind is getting lost in a mental impression, there is movement. When the mind moves like this, clinging and attachment to those things come into being.

Tâm của con người -- cái tâm mà Đức Phật kêu gọi chúng ta nên quán chiếu và thấu hiểu -- là cái ǵ mà ta chỉ có thể hiểu biết qua sinh hoạt của nó. Không có ǵ mà ta có thể dùng để đo lường cái Tâm Nguyên Thủy thật sự, quả thật không có ǵ mà ta có thể dùng để hiểu biết nó. Trong trạng thái thiên nhiên tâm không chao động, không di chuyển. Khi hạnh phúc phát sanh, tâm bị lạc lối trong cảm xúc. Có sự di chuyển, tâm chao động. Khi tâm xúc động như vậy, t́nh trạng bám níu vào niềm vui thích ấy phát sanh.

 

The Buddha has already laid down the path of practice fully, but we have not yet practiced, or if we have, we've practiced only in speech. Our minds and our speech are not yet in harmony, we just indulge in empty talk. But the basis of Buddhism is not something that can be talked about or guessed at. The real basis of Buddhism is full knowledge of the truth of reality. If one knows this truth then no teaching is necessary. If one doesn't know, even if he listens to the teaching, he doesn't really hear. This is why the Buddha said, "The Enlightened One only points the way." He can't do the practice for you, because the truth is something you cannot put into words or give away.

Đức Phật đă vạch ra Con Đường và giáo truyền đầy đủ pháp hành để chúng ta tiến bước trên đó, nhưng chúng ta không thực hành hoặc chỉ thực hành bằng lời nói. Tâm và lời nói của chúng ta không điều hợp với nhau. Chúng ta chỉ lợi dưỡng trong cuộc đàm thoại rỗng không. Nhưng nền tảng của Phật Giáo không phải là cái ǵ có thể luận bàn suông, hay ức đoán. Nền tảng thật sự của Phật Giáo là thấu triệt trọn vẹn chân lư của thực tại. Nếu đă thấu đạt chân lư ấy rồi th́ không cần ǵ đến giáo huấn. C̣n nếu không thấu hiểu chân lư th́ dầu có lắng nghe bao nhiêu lời dạy, vẫn không thật sự là nghe. Đó là lư do tại sao Đức Phật dạy: "Bậc Toàn Giác chỉ rọi sáng Con Đường." Ngài không thể thực hành cho quư vị, bởi v́ chân lư là cái ǵ không thể diễn đạt bằng lời nói, mà cũng không thể biếu tặng cho ai.

 

All the teachings are merely similes and comparisons, means to help the mind see the truth. If we haven't seen the truth we must suffer. For example, we commonly say "sankharas" 8 when referring to the body. Anybody can say it, but in fact we have problems simply because we don't know the truth of these sankharas, and thus cling to them. Because we don't know the truth of the body, we suffer.

Tất cả những lời dạy chỉ là những câu chuyện ngụ ngôn và những thí dụ nhằm giúp cho tâm thấu hiểu chân lư. Nếu không thấy chân lư ắt chúng ta phải đau khổ. Thí dụ như chúng ta thường nói "sankhàra", pháp hữu vi, khi đề cập đến cơ thể vật chất. Bất luận ai cũng có thể nói như vậy. Nhưng trong thực tế chúng ta vẫn bị khó khăn, v́ chúng ta không thấu hiểu chân lư của "các pháp hữu vi" và do đó, bám níu chặt chẽ vào. V́ không thấu đạt trọn vẹn chân lư của thân nên chúng ta đau khổ.

 

Here is an example. Suppose one morning you're walking to work and a man yells abuse and insults at you from across the street. As soon as you hear this abuse your mind changes from its usual state. You don't feel so good, you feel angry and hurt. That man walks around abusing you night and day. When you hear the abuse, you get angry, and even when you return home you're still angry because you feel vindictive, you want to get even.

Sau đây là một thí dụ. Buổi sáng nọ, khi quư vị đang rảo bước trên đường đến sở làm th́ từ lề bên kia đường có người la to, chưởi mắng quư vị thậm tệ. Vừa khi nghe tiếng chưởi ḿnh th́ tâm quư vị liền biến đổi, không c̣n ở t́nh trạng b́nh thường. Quư vị cảm nghe không thoải mái, tự thấy ḿnh bị xúc phạm, và nổi giận. Người kia cứ đi quanh quẩn, đêm ngày chưởi mắng quư vị. Khi nghe tiếng la chưởi th́ quư vị tức giận. Chí đến khi về nhà rồi, quư vị vẫn c̣n cảm nghe sân hận, có ư muốn trả đủa, làm một điều ǵ để trả thù.

 

A few days later another man comes to your house and calls out, "Hey! That man who abused you the other day, he's mad, he's crazy! Has been for years! He abuses everybody like that. Nobody takes any notice of anything he says." As soon as you hear this you are suddenly relieved. That anger and hurt that you've pent up within you all these days melts away completely. Why? Because you know the truth of the matter now. Before, you didn't know, you thought that man was normal, so you were angry at him. Understanding like that caused you to suffer. As soon as you find out the truth, everything changes: "Oh, he's mad! That explains everything!" When you understand this you feel fine, because you know for yourself. Having known, then you can let go. If you don't know the truth you cling right there. When you thought that man who abused you was normal you could have killed him. But when you find out the truth, that he's mad, you feel much better. This is knowledge of the truth.

Vài ngày sau đó, một người khác đến gặp quư vị và nói, "Ông ơi! Người mà hôm nọ chưởi mắng ông ngoài đường là một người mất trí, anh ta điên! Đă nhiều năm rồi anh ấy điên như vậy. Cứ đi ngoài đường chưởi mắng mọi người. Không ai màng để ư đến những ǵ anh ta nói." Được nghe giải thích như vậy th́ quư vị cảm thấy nhẹ nhàng. Bao nhiêu phiền giận và khó chịu mà quư vị mang trong ḷng từ mấy ngày qua hoàn toàn tan biến. Tại sao? Bởi v́ giờ đây quư vị đă thấu hiểu chân lư của vấn đề. Trước kia quư vị không hiểu, nghĩ rằng người kia b́nh thường nên giận anh ta. V́ không thấu hiểu nên quư vị nổi giận. Vừa khi t́m ra chân lư th́ mọi việc đều thay đổi, "ờ, người ấy điên! Điều nầy giải thích mọi việc!" Khi đă thấu hiểu vấn đề, quư vị cảm nghe thoải mái dễ chịu trở lại. Quư vị đă tự ḿnh thấu hiểu. Đă thấu hiểu, quư vị liền buông bỏ, không chấp vào đó nữa. Nếu không hiểu biết ắt quư vị sẽ bám níu, dính mắc ngay vào đó. Nghĩ rằng anh chàng chưởi mắng kia là b́nh thường th́ quư vị phát sân lên và có thể sát hại anh ta. Nhưng khi đă hiểu được chân lư, biết rằng anh ta chỉ là người điên th́ quư vị cảm nghe thoải mái dễ chịu hơn nhiều. Thấu hiển chân lư là như vậy.

 

Someone who sees the Dhamma has a similar experience. When attachment, aversion and delusion disappear, they disappear in the same way. As long as we don't know these things we think, "What can I do? I have so much greed and aversion." This is not clear knowledge. It's just the same as when we thought the madman was sane. When we finally see that he was mad all along we're relieved of worry. No-one could show you this. Only when the mind sees for itself can it uproot and relinquish attachment.

Người đă chứng ngộ Giáo Pháp cũng có những kinh nghiệm tương tợ. Khi tham, sân và si tan biến, nó cũng tan biến cùng thế ấy. Ngày nào c̣n chưa hiểu biết tường tận chúng ta nghĩ, "Ta có thể làm ǵ được bây giờ? Tham và sân của ta đă quá nhiều." Đó là không thấu hiểu rơ ràng. Cũng như khi ta nghĩ rằng anh chàng kia là người tỉnh trí. Khi cuối cùng, đă thấy rơ anh ta là người điên th́ bao nhiêu âu lo đều tan biến. Không ai có thể chỉ cho quư vị. Chỉ khi nào tự tâm của quư vị nhận thức rơ ràng, nó mới có thể bứng tận gốc rễ tham, sân và không c̣n bám níu.

 

It's the same with this body which we call sankharas. Although the Buddha has already explained that it's not substantial or a real being as such, we still don't agree, we stubbornly cling to it. If the body could talk, it would be telling us all day long, "You're not my owner, you know." Actually it's telling us all the time, but it's Dhamma language, so we're unable to understand it. For instance, the sense organs of eye, ear, nose, tongue and body are continually changing, but I've never seen them ask permission from us even once! Like when we have a headache or a stomachache — the body never asks permission first, it just goes right ahead, following its natural course. This shows that the body doesn't allow anyone to be its owner, it doesn't have an owner. The Buddha described it as an empty thing.

Đối với thân nầy mà chúng ta gọi là pháp hữu vi (sankhàra) cũng vậy. Mặc dầu Đức Bổn Sư đă giải thích rành mạch rằng không có một thực thể hay một chúng sanh thật sự có thực chất, chúng ta vẫn c̣n chưa chấp nhận và vẫn c̣n ngoan cố bám chắc vào nó. Nếu thân có thể nói, hằng ngày nó sẽ th́ thầm với ta rằng, "Ông không phải là chủ của tôi, ông biết không? Tôi không thuộc quyền sở hữu của ông đâu." Trong thực tế, nó vẫn luôn luôn nói với ta như vậy, nhưng đó là ngôn ngữ của Giáo Pháp nên ta không thể lănh hội. Thí dụ như mắt, tai, mũi, lưỡi và thân nầy luôn luôn biến đổi nhưng nào có xin phép ta bao giờ! Đôi khi chúng ta đau bụng hay nhức đầu. Có lần nào cơ thể nầy xin phép ta trước không? Nó chỉ diễn tiến theo con đường thiên nhiên của nó. Điều nầy nói lên rằng thân nầy không để cho ai làm chủ nó. Nó không có chủ. Đức Phật mô tả nó như một vật rỗng không.

 

We don't understand the Dhamma and so we don't understand these sankharas; we take them to be ourselves, as belonging to us or belonging to others. This gives rise to clinging. When clinging arises, "becoming" follows on. Once becoming arises, then there is birth. Once there is birth, then old age, sickness, death... the whole mass of suffering arises. This is the Paticcasamuppada. 9 We say ignorance gives rise to volitional activities, they give rise to consciousness and so on. All these things are simply events in mind. When we come into contact with something we don't like, if we don't have mindfulness, ignorance is there. Suffering arises straight away. But the mind passes through these changes so rapidly that we can't keep up with them. It's the same as when you fall from a tree. Before you know it — "Thud!" — you've hit the ground. Actually you've passed many branches and twigs on the way but you couldn't count them, you couldn't remember them as you passed them. You just fall, and then "Thud!"

Chúng ta không thông hiểu Giáo Pháp và do đó, không thông hiểu các pháp hữu vi. Ta nhận nó là chúng ta, là sở hữu của ta, hay của ai khác. Đó là nguyên nhân tạo nên luyến ái. Ta tŕu mến, bám sát, níu chắc vào nó (Thủ). Khi Thủ phát sanh th́ Hữu, sự trở thành, đi liền theo. Một khi Hữu phát sanh ắt có Sanh. Có Sanh tức có Lăo, có Bệnh, có Tử ... và toàn thể khối đau khổ phát sanh. Đó là Paticcasamuppàda, chuỗi dài những ṿng khoen của Thập Nhị Nhân Duyên. Chúng ta nói Vô Minh tạo duyên cho Hành phát sanh, rồi cả hai tạo duyên cho Thức v.v... Tất cả những điều ấy chỉ đơn giản là những diễn biến trong tâm. Khi xúc chạm với điều ǵ mà ta không ưa thích, nếu không có chánh niệm th́ Vô Minh ở ngay tại đó. Đau khổ tức khắc phát sanh. Tuy nhiên, tâm vượt xuyên qua những biến đổi ấy nhanh chóng đến độ ta không theo dơi kịp. Cũng giống như khi ta rơi từ ngọn cây xuống đất. Sự thật là từ ngọn cây xuống đất ta va chạm bao nhiêu cành to và bao nhiêu nhánh nhỏ, nhưng ta không thể đếm, không thể nhớ hết những cành nhánh ấy. Chỉ hụt tay, rồi từ trên cao rơi xuống, "phịt!".

 

The Paticcasamuppada is the same as this. If we divide it up as it is in the scriptures, we say ignorance gives rise to volitional activities, volitional activities give rise to consciousness, consciousness gives rise to mind and matter, mind and matter give rise to the six sense bases, the sense bases give rise to sense contact, contact gives rise to feeling, feeling gives rise to wanting, wanting gives rise to clinging, clinging gives rise to becoming, becoming gives rise to birth, birth gives rise to old age, sickness, death, and all forms of sorrow. But in truth, when you come into contact with something you don't like, there's immediate suffering! That feeling of suffering is actually the result of the whole chain of the Paticcasamuppada. This is why the Buddha exhorted his disciples to investigate and know fully their own minds.

Pháp Thập Nhị Nhân Duyên cũng cùng thế ấy. Nếu phân chia như trong kinh điển th́ ta nói rằng Vô Minh tạo duyên cho Hành phát sanh, Hành tạo duyên cho Thức phát sanh, Thức tạo duyên cho Danh-Sắc phát sanh, Danh-Sắc tạo duyên cho Lục Căn phát sanh, Lục Căn tạo duyên cho Xúc phát sanh, Xúc tạo duyên cho Thọ phát sanh, Thọ tạo duyên cho Ái phát sanh, Ái tạo duyên cho Thủ phát sanh, Thủ tạo duyên cho Hữu phát sanh, Hữu tạo duyên cho Sanh phát sanh, Sanh tạo duyên cho Lăo, Bệnh, Tử và tất cả những h́nh thức sầu muộn. Nhưng trong thực tế, khi quư vị xúc chạm với điều ǵ ḿnh không ưa thích tức khắc có đau khổ! Cảm giác đau khổ ấy thật sự là hậu quả của toàn thể những ṿng khoen của Thập Nhị Nhân Duyên. Đó là lư do tại sao Đức Bổn Sư kêu gọi hàng môn đệ nên quán chiếu và thấu đạt trọn vẹn tâm ḿnh.

 

When people are born into the world they are without names - once born, we name them. This is convention. We give people names for the sake of convenience, to call each other by. The scriptures are the same. We separate everything up with labels to make studying the reality convenient. In the same way, all things are simply sankharas. Their original nature is merely that of things born of conditions. The Buddha said that they are impermanent, unsatisfactory and not-self. They are unstable. We don't understand this firmly, our understanding is not straight, and so we have wrong view. This wrong view is that the sankharas are ourselves, we are the sankharas, or that happiness and unhappiness are ourselves, we are happiness and unhappiness. Seeing like this is not full, clear knowledge of the true nature of things. The truth is that we can't force all these things to follow our desires, they follow the way of nature.

Khi bước chân vào đời, con người không có danh tánh -- sanh ra rồi mới được đặt tên. Đó là quy ước. Chúng ta đặt tên, cho mỗi người một danh tánh, để tiện việc kêu gọi nhau. Kinh điển cũng vậy. Chúng ta phân chia sự vật và dán nhăn hiệu lên để tiện việc nghiên cứu sự vật. Tất cả mọi sự vật chỉ giản dị là những pháp hữu vi, sankhàra. [6] Bản chất cơ bản của vạn pháp chỉ là những sự vật phát sanh và hiện hữu do nhân duyên. Đức Phật dạy rằng nó là Vô Thường, Khổ, và Vô Ngă. Nó không ổn định, không thường c̣n. Chúng ta không hiểu biết như vậy một cách chắc chắn. Kiến thức của ta không vững vàng. Do đó chúng ta mang nặng Tà Kiến. Tà Kiến đây là chấp rằng pháp hữu vi là chính ta, ta là pháp hữu vi, hoặc chấp hạnh phúc và đau khổ là chính ta, ta hạnh phúc, ta đau khổ. Nhận thức như vậy là không hiểu biết trọn vẹn và rơ ràng bản chất thật sự của vạn pháp. Chân lư là chúng ta không thể cưỡng bách các sự vật ấy theo đúng ư muốn của ḿnh. Nó chỉ theo con đường của Thiên Nhiên.

 

A simple comparison is this: suppose you go and sit in the middle of a freeway with the cars and trucks charging down at you. You can't get angry at the cars, shouting, "Don't drive over here! Don't drive over here!" It's a freeway, you can't tell them that! So what can you do? You get off the road! The road is the place where cars run, if you don't want the cars to be there, you suffer.

Sau đây là một thí dụ đơn giản. Như quư vị ra giữa một xa lộ nhộn nhịp xe cộ và ngồi ngay tại đó trong khi những chiếc xe lớn, xe nhỏ chạy trờ tới đâm thẳng vào quư vị. Quư vị không thể tức giận xe cộ và quát to, "Chớ có chạy đến đây! Đừng chạy lại đây!" Đó là một xa lộ. Quư vị không thể nói vậy với họ! Vậy th́ quư vị phải làm ǵ? -- Phải vào lề đường để tránh xe. Xa lộ là nơi để cho xe cộ chạy, nếu muốn không có xe trên đường ắt quư vị phải đau khổ.

 

It's the same with sankharas. We say they disturb us, like when we sit in meditation and hear a sound. We think, "Oh, that sound's bothering me." If we understand that the sound bothers us then we suffer accordingly. If we investigate a little deeper, we will see that it's we who go out and disturb the sound! The sound is simply sound. If we understand like this then there's nothing more to it, we leave it be. We see that the sound is one thing, we are another. One who understands that the sound comes to disturb him is one who doesn't see himself. He really doesn't! Once you see yourself, then you're at ease. The sound is just sound, why should you go and grab it? You see that actually it was you who went out and disturbed the sound. This is real knowledge of the truth. You see both sides, so you have peace. If you see only one side, there is suffering. Once you see both sides, then you follow the Middle Way. This is the right practice of the mind. This is what we call "straightening out our understanding."

Với các pháp hữu vi cũng cùng thế ấy. Chúng ta nói rằng nó quấy rầy. Như lúc ḿnh ngồi thiền mà có tiếng động, ta nghĩ rằng, "ồ, tiếng động nầy quấy rầy ta quá!" Nếu hiểu rằng tiếng động quấy rầy ta, th́ ta sẽ đau khổ v́ nó. Quán chiếu vào sâu hơn nữa, ta sẽ thấy rằng chính ta đi ra ngoài và quấy rầy tiếng động! Tiếng động chỉ giản dị là tiếng động. Thông hiểu như vậy th́ không có ǵ hơn nữa. Hăy để nó là vậy. Hăy nhận thức rằng âm thanh là một việc, ta là một việc khác. Người mà thấy rằng âm thanh đến để khuấy nhiễu ḿnh là người không tự thấy ḿnh. Người ấy thật sự không tự thấy ḿnh! Một khi tự thấy ḿnh ắt quư vị sẽ thoải mái dễ chịu. Âm thanh chỉ là âm thanh, tại sao quư vị phải chạy đi đâu để nắm bắt nó lại? Quư vị thấy rằng trong thực tế chính quư vị đi ra ngoài để khuấy rầy âm thanh. Đó là thật sự hiểu biết chân lư. Quư vị thấy được cả hai phía, và nhờ thấy hai bề, quư vị an lạc. Nếu chỉ thấy một bên ắt có đau khổ. Khi thấy hai phía, quư vị theo con đường ở khoảng giữa, Trung Đạo. Đó là pháp hành chân chánh, là chánh pháp. Điều đó được gọi là "làm cho sự hiểu biết của ḿnh được ngay thẳng".

 

In the same way, the nature of all sankharas is impermanence and death, but we want to grab them, we carry them about and covet them. We want them to be true. We want to find truth within the things that aren't true! Whenever someone sees like this and clings to the sankharas as being himself, he suffers. The Buddha wanted us to consider this.

Cùng một thế ấy, bản chất của tất cả các pháp hữu vi là vô thường và phải biến đổi. Nhưng chúng ta khát khao bám níu, cố nắm cho được. Chúng ta mang nó đi đầu nầy đầu nọ và luôn luôn thèm muốn. Chúng ta muốn nó là thật. Chúng ta muốn t́m sự thật trong những sự vật không thật! Bất luận khi nào có ai nhận thức như vậy và bám níu vào các pháp hữu vi, tự đồng hóa ḿnh với nó, chắc rằng nó là ḿnh, ḿnh là nó, người ấy đương nhiên phải đau khổ. Đức Phật dạy ta hăy quán tưởng sự việc nầy.

 

The practice of Dhamma is not dependent on being a monk, a novice, or a layman; it depends on straightening out your understanding. If our understanding is correct, we arrive at peace. Whether you are ordained or not it's the same, every person has the chance to practice Dhamma, to contemplate it. We all contemplate the same thing. If you attain peace, it's all the same peace; it's the same Path, with the same methods.

Muốn thực hành Giáo Pháp, không cần phải là tỳ khưu, sa di, hoặc một cư sĩ tại gia mà cần phải làm cho sự hiểu biết của ḿnh được chân chánh, ngay thẳng, đúng đắn. Hiểu biết chân chánh, chúng ta sẽ thành đạt an lạc thanh b́nh. Dầu xuất gia cùng không, mọi người đều có cơ may để thực hành Giáo Pháp, để quán niệm Giáo Pháp. Tất cả chúng ta đều quán niệm như nhau. Nếu chúng ta thành đạt an lạc, tất cả đều là một thứ an lạc. Tất cả cùng đi trên một Con Đường, cùng theo một pháp hành.

 

Therefore the Buddha didn't discriminate between laymen and monks, he taught all people to practice to know the truth of the sankharas. When we know this truth, we let them go. If we know the truth there will be no more becoming or birth. How is there no more birth? There is no way for birth to take place because we fully know the truth of sankharas. If we fully know the truth, then there is peace. Having or not having, it's all the same. Gain and loss are one. The Buddha taught us to know this. This is peace; peace from happiness, unhappiness, gladness and sorrow.

Đức Phật không có sự phân chia nào giữa hàng cư sĩ và các bậc xuất gia. Ngài dạy tất cả mọi người pháp hành để thấu triệt chân lư của các pháp hữu vi, sankhàra. Đă thông hiểu chân lư ấy ta sẽ buông bỏ, để cho tất cả trôi qua như nước lăn trôi trên lá sen. Đă thông hiểu chân lư ấy ắt không c̣n "Hữu" và "Sanh". V́ sao không c̣n Sanh nữa? Hiện tượng sanh không c̣n cách nào để xảy diễn v́ ta đă thấu triệt đầy đủ chân lư của các pháp hữu vi. Đă thông hiểu chân lư ấy một cách toàn vẹn ắt có an lạc. Có hay không có cũng vậy. Lợi lạc và mất mát là một. Đức Phật dạy ta nên hiểu như vậy. Đó là an lạc. An lạc vượt ra khỏi hạnh phúc, đau khổ, vui thích và sầu muộn.

 

We must see that there is no reason to be born. Born in what way? Born into gladness: When we get something we like we are glad over it. If there is no clinging to that gladness there is no birth; if there is clinging, this is called "birth." So if we get something, we aren't born (into gladness). If we lose, then we aren't born (into sorrow). This is the birthless and the deathless. Birth and death are both founded in clinging to and cherishing the sankharas.

Chúng ta phải thấy rằng không có lư do ǵ để được sanh. Sanh ra cách nào? Sanh ra trong niềm vui! Khi thành đạt điều ưa thích th́ ta vui mừng. Nếu không luyến ái, không bám níu vào niềm vui ấy ắt không c̣n tái sanh. Chính sự bám níu được gọi là sanh. Không có "Thủ" ắt không có "Sanh". Như vậy, nếu đạt được ǵ ta không sanh (vào trạng thái thỏa thích vui mừng). Nếu mất ǵ, ta không sanh (vào phiền muộn). Đó là vô sanh và bất diệt. Cả hai, sanh và tử đều bắt nguồn và đặt nền tảng trên "Ái" và "Thủ", ḷng khát khao ham muốn và luyến ái, cố bám vào các pháp hữu vi.

 

So the Buddha said. "There is no more becoming for me, finished is the holy life, this is my last birth." There! He knew the birthless and the deathless! This is what the Buddha constantly exhorted his disciples to know. This is the right practice. If you don't reach it, if you don't reach the Middle Way, then you won't transcend suffering.

Do đó Đức Phật dạy, "Như Lai không c̣n trở thành (Hữu) nữa, đời sống thánh thiện đă chấm dứt, đây là kiếp sống cuối cùng của Như Lai." Đó! Ngài đă thông hiểu trạng thái vô sanh và bất diệt! Đó là điều mà Đức Bổn Sư không ngớt kêu gọi hàng môn đệ nên thấu hiểu. Đó là Pháp Hành Chân Chánh. Nếu quư vị không đạt đến đó, nếu quư vị không đạt đến Trung Đạo, ắt quư vị chưa vượt qua khỏi đau khổ.

 

The Peace Beyond

An lạc vượt ngoài thế gian

 

"...Meditation means to make the mind peaceful in order to let wisdom arise... To put it shortly, it's just a matter of happiness and unhappiness. Happiness is pleasant feeling in the mind, unhappiness is just unpleasant feeling. The Buddha taught to separate this happiness and unhappiness from the mind..."

... Hành thiền là làm cho tâm an lạc nhằm tạo duyên cho trí tuệ phát sanh ... Thâu gọn lại, đó là vấn đề hạnh phúc và đau khổ. Hạnh phúc là cảm thọ hoan hỷ trong tâm, đau khổ chỉ là cảm giác không thoải mái. Đức Phật dạy nên tách rời hạnh phúc và đau khổ ra khỏi tâm ...

 

It's of great importance that we practice the Dhamma. If we don't practice, then all our knowledge is only superficial knowledge, just the outer shell of it. It's as if we have some sort of fruit but we haven't eaten it yet. Even though we have that fruit in our hand we get no benefit from it. Only through the actual eating of the fruit we really know its taste

Thực hành Giáo Pháp là công tŕnh vô cùng quan trọng. Nếu không có pháp hành tất cả hiểu biết của chúng ta chỉ là hiểu biết trên bề mặt, chỉ hiểu biết cái vỏ bề ngoài. Cũng giống như ta có một loại trái cây nhưng chưa bao giờ ăn đến. Mặc dầu trái cây sẵn có trong tay, nhưng ta không hưởng lợi ích của nó. Chỉ bằng cách thật sự có ăn ta mới cảm nhận được mùi vị của trái.

 

The Buddha didn't praise those who merely believe others, he praised the person who knows within himself. Just as with that fruit, if we have tasted it already, we don't have to ask anyone else if it's sweet or sour. Our problems are over. Why are they over? Because we see according to the truth. One who has realized the Dhamma is like one who has realized the sweetness or sourness of the fruit. All doubts are ended right here.

Đức Phật không ca ngợi những ai chỉ tin tưởng suông nơi người khác. Ngài tán dương người hiểu biết bên trong chính ḿnh. Cũng như trái cây kia, nếu ta đă có nếm qua rồi th́ không cần phải hỏi ai khác cũng đủ biết nó chua hay ngọt thế nào. Vấn đề của ta đă chấm dứt. Tại sao đă chấm dứt? Bởi v́ ta đă thấy đúng theo chân lư. Người đă chứng ngộ chân lư cũng như người kinh nghiệm vị chua hay ngọt của trái cây. Tất cả mọi hoài nghi đều chấm dứt, ngay tại đây.

 

When we talk about Dhamma, although we may say a lot, it can usually be brought down to four things. They are simply to know suffering, to know the cause of suffering, to know the end of suffering and to know the path of practice leading to the end of suffering. This is all there is. All that we have experienced on the path of practice so far comes down to these four things. When we know these things, our problems are over.

Mặc dầu khi đề cập đến Giáo Pháp ta có thể thuyết tŕnh dài ḍng nhưng thông thường tất cả chỉ giản dị bao gồm bốn điều là: hiểu biết Đau Khổ, hiểu biết Nguyên Nhân sanh Đau Khổ, hiểu biết sự Chấm Dứt Đau Khổ, và hiểu biết Con Đường dẫn đến Chấm Dứt Đau Khổ. Tất cả chỉ có thế. Tất cả những ǵ mà ta chứng nghiệm trên con đường thực hành, đến đây chỉ keo gọn lại thành bốn điểm ấy. Khi đă trọn vẹn hiểu biết cả bốn, vấn đề của chúng ta đă chấm dứt.

 

Where are these four things born? They are born just within the body and the mind, nowhere else. So why is the Dhamma of the Buddha so broad and expansive? This is so in order to explain these things in a more refined way, to help us to see them.

Bốn điều ấy phát sanh từ đâu? Nó chỉ phát sanh từ bên trong thân và tâm nầy, không đâu khác. Vậy tại sao Giáo Pháp do Đức Phật ban truyền lại mênh mông rộng răi như thế ấy? Đó là v́ Ngài muốn giải thích một cách vi tế với nhiều chi tiết, nhằm giúp chúng ta lănh hội đầy đủ bốn điểm ấy.

 

When Siddhattha Gotama was born into the world, before he saw the Dhamma, he was an ordinary person just like us. When he knew what he had to know, that is the truth of suffering, the cause, the end and the way leading to the end of suffering, he realized the Dhamma and became a perfectly Enlightened Buddha.

Khi Thái tử Siddhartha Gotama được sanh vào đời và trước khi chứng ngộ Giáo Pháp, Ngài chỉ là một người thường như chúng ta. Đến khi thông hiểu những ǵ cần phải hiểu, tức chân lư về Đau Khổ (Khổ Đế), về Nguyên Nhân sanh Khổ (Tập Đế), về sự Chấm Dứt Đau Khổ (Diệt Đế), và về Con Đường dẫn đến Chấm Dứt Đau Khổ (Đạo Đế) th́ Ngài chứng ngộ Giáo Pháp và trở thành Đức Phật Toàn Giác.

 

When we realize the Dhamma, wherever we sit we know Dhamma, wherever we are we hear the Buddha's teaching. When we understand Dhamma, the Buddha is within our mind, the Dhamma is within our mind, and the practice leading to wisdom is within our own mind. Having the Buddha, the Dhamma and the Sangha within our mind means that whether our actions are good or bad, we know clearly for ourselves their true nature. It was thus that the Buddha discarded worldly opinions, he discarded praise and criticism. When people praised or criticized him he just accepted it for what it was. These two things are simply worldly conditions so he wasn't shaken by them. Why not? Because he knew suffering. He knew that if he believed in that praise or criticism they would cause him to suffer.

Khi đă chứng ngộ Giáo Pháp th́ bất luận nơi nào mà ta ngồi, ta luôn luôn thông hiểu Giáo Pháp, bất luận nơi chốn nào mà ta ở, ta luôn luôn nghe lời dạy của Đức Phật. Khi ta thông hiểu Giáo Pháp, Đức Phật luôn luôn ngự bên trong tâm ta, Giáo Pháp luôn luôn ở bên trong tâm ta, và pháp hành dẫn đến trí tuệ nằm bên trong tâm ta. Được Đức Phật, Đức Pháp và Đức Tăng ngự trong tâm có nghĩa là dầu hành động của chúng ta thiện hay bất thiện, chúng ta vẫn luôn luôn tự ḿnh hiểu biết bản chất thật sự của nó. Cũng do vậy mà Đức Phật đă gạt bỏ dư luận của thế gian. Ngài gạt bỏ ngoài tai những lời tán dương hay chỉ trích, và chỉ chấp nhận nó là vậy. Dầu chỉ trích hay tán dương cũng chỉ là thế gian pháp, không thể làm cho Ngài chao động. Tại sao? Bởi v́ Ngài thấu triệt bản chất của Đau Khổ. Ngài thấu hiểu rằng nếu tin theo những lời tán dương hay chỉ trích th́ nó sẽ là nguyên nhân sanh đau khổ.

 

When suffering arises it agitates us, we feel ill at ease. What is the cause of that suffering? It's because we don't know the Truth, this is the cause. When the cause is present, then suffering arises. Once arisen we don't know how to stop it. The more we try to stop it, the more it comes on. We say, "Don't criticize me," or "Don't blame me". Trying to stop it like this, suffering really comes on, it won't stop.

Khi đau khổ khởi sanh th́ nó làm cho ta chao động, cảm nghe không thoải mái. Nguyên nhân của đau khổ ấy là ǵ? Là bởi v́ chúng ta không thấu hiểu Chân Lư, đó là nguyên nhân. Khi nguyên nhân hiện hữu th́ đau khổ phát sanh. Một khi đau khổ phát sanh th́ ta không biết phải làm thế nào để ngưng nó lại. Ta càng cố gắng chận đứng th́ nó càng lấn lướt xông đến. Ta nói, "Chớ có chỉ trích tôi!" hoặc "Đừng chỉ trích tôi". Cố gắng chận đứng như vậy ắt đau khổ sẽ thật sự sự xông đến, không ngừng.

 

So the Buddha taught that the way leading to the end of suffering is to make the Dhamma arise as a reality within our own minds. We become one who witnesses the Dhamma for himself. If someone says we are good we don't get lost in it; they say we are no good we don't get lost in it; they say we are no good and we don't forget ourselves. This way we can be free. "Good" and "evil" are just worldly dhammas, they are just states of mind. If we follow them our mind becomes the world, we just grope in the darkness and don't know the way out. If it's like this then we have not yet mastered ourselves. We try to defeat others, but in doing so we only defeat ourselves; but if we have mastery over ourselves then we have mastery over all — over all mental formations, sights, sounds, smells, tastes and bodily feelings.

Do đó Đức Phật dạy rằng con đường dẫn đến chấm dứt đau khổ là làm cho Giáo Pháp thật sự phát sanh trong tâm của chúng ta. Ta trở thành người chứng ngộ Giáo Pháp. Nếu có ai khen ta tốt, ta không để bị lạc lối trong lời khen. Người ta chê ḿnh không tốt, ḿnh không tự quên ḿnh. Làm như vậy ta hoàn toàn tự do, không dính mắc. "Tốt" và "xấu" chỉ là thế gian pháp -- những sự vật trong thế gian trần tục. Nó chỉ là những trạng thái tâm. Nếu ta chạy theo nó th́ tâm ta trở thành thế gian. Ta chỉ mù mờ ṃ mẫm trong đêm tối mà không biết lối thoát. Làm như thế ắt chúng ta không tự chủ, không làm chủ lấy ḿnh. Ta cố gắng chiến thắng kẻ khác, nhưng hành động như vậy ta chỉ chiến thắng chính ta. Trái lại, nếu tự ḿnh làm chủ lấy ḿnh ta sẽ chủ động trong tất cả, sẽ làm chủ tất cả -- tất cả những tâm sở, tất cả sắc, thinh, hương, vị, và xúc.

 

Now I'm talking about externals, they're like that, but the outside is reflected inside also. Some people only know the outside, they don't know the inside. Like when we say to "see the body in the body." Having seen the outer body is not enough, we must know the body within the body. Then, having investigated the mind, we should know the mind within the mind.

Hiện giờ Sư đang đề cập đến bên ngoài, nó là vậy. Nhưng bề ngoài cũng ảnh hưởng đến bên trong. Vài người chỉ biết bề ngoài, họ không biết bên trong. Như khi ta nói, "Nh́n thân trong thân". Nh́n thấy phía bên ngoài th́ không đủ, ta phải hiểu biết thân bên trong cái thân. Và khi quán chiếu tâm, ta phải hiểu biết tâm bên trong cái tâm.

 

Why should we investigate the body? What is this "body in the body"? When we say to know the mind, what is this "mind"? If we don't know the mind then we don't know the things within the mind. This is to be someone who doesn't know suffering, doesn't know the cause, doesn't know the end and doesn't know the way. The things which should help to extinguish suffering don't help, because we get distracted by the things which aggravate it. It's just as if we have an itch on our head and we scratch our leg! If it's our head that's itchy then we're obviously not going to get much relief. In the same way, when suffering arises we don't know how to handle it, we don't know the practice leading to the end of suffering.

Tại sao phải quán chiếu thân? "Thân bên trong thân" là ǵ? Khi nói, phải hiểu biết tâm, cái "tâm" ấy là ǵ? Nếu không hiểu biết tâm ắt không hiểu biết những ǵ bên trong tâm. Đó là làm người không hiểu biết Đau Khổ, không hiểu biết Nguyên Nhân sanh Đau Khổ, không hiểu biết sự Chấm Dứt Đau Khổ và Con Đường dẫn đến sự Chấm Dứt Đau Khổ. Những ǵ có khả năng giúp ta dập tắt đau khổ sẽ không thể giúp, bởi v́ ta xao lăng, bị lạc lối trong những ǵ chỉ làm cho đau khổ càng thêm trầm trọng. Cũng như người bị ngứa trên đầu mà găi dưới chân! Nếu ta bị ngứa trên đầu mà chỉ găi dưới chân th́ tác động găi ấy rơ ràng không thể làm cho ta bớt ngứa. Cùng thế ấy, khi đau khổ phát sanh chúng ta không biết phải đối phó thế nào, không biết pháp hành dẫn đến chấm dứt đau khổ.

 

For instance, take this body, this body that each of us has brought along to this meeting. If we just see the form of the body there's no way we can escape suffering. Why not? Because we still don't see the inside of the body, we only see the outside. We only see it as something beautiful, something substantial. The Buddha said that only this is not enough. We see the outside with our eyes; a child can see it, animals can see it, it's not difficult. The outside of the body is easily seen, but having seen it we stick to it, we don't know the truth of it. Having seen it we grab onto it and it bites us!

Thí dụ như thân nầy, cái thân nầy mà mỗi người chúng ta mang theo đến buổi hợp mặt hôm nay. Nếu chúng ta chỉ thấy h́nh thể bên ngoài của thân th́ không có cách nào lẫn thoát ra khỏi đau khổ. Tại sao? Bởi v́ chúng ta vẫn chưa thấy được bên trong của thân, chỉ thấy bề ngoài. Ta chỉ thấy nó là cái ǵ xinh đẹp, cái ǵ có thực chất. Đức Phật dạy rằng bấy nhiêu đó không đủ. Bằng mắt, chúng ta thấy bề ngoài của cái thân. Một em bé cũng có thể thấy như vậy, không có ǵ khó. Thấy bề ngoài của thân th́ quả thật là dễ, nhưng khi thấy rồi ta bị dính mắc, kẹt luôn trong đó. Ta không thông hiểu chân lư của nó, không hiểu biết thật sự nó là thế nào. Thấy, rồi ta liền chụp lấy và nắm chặt, rồi bị nó cắn!

 

So we should investigate the body within the body. Whatever's in the body, go ahead and look at it. If we just see the outside it's not clear. We see hair, nails and so on and they are just pretty things which entice us, so the Buddha taught to see the inside of the body, to see the body within the body. What is in the body? Look closely within! We will see many things inside to surprise us, because even though they are within us, we've never seen them. Wherever we walk we carry them with us, sitting in a car we carry them with us, but we still don't know them at all!

Như vậy, phải quán chiếu thân bên trong thân. Bất luận ǵ ở bên trong thân, ta hăy nh́n vào. Nếu chỉ nh́n bề ngoài ta không thấy rơ. Ta thấy tóc, lông, móng tay, móng chân v.v... và cho đó là những ǵ đẹp đẽ, có sức quyến rũ. Do đó Đức Phật dạy nên nh́n sâu vào bên trong thân, nh́n thân trong thân. Bên trong thân có ǵ? Hăy nh́n tận tường, nh́n thật kỷ vào bên trong! Có nhiều cái sẽ làm cho ta ngạc nhiên bởi v́ mặc dầu nó ở ngay bên trong ta, chúng ta không bao giờ thấy. Mỗi khi đi đâu là ta mang nó theo, ngồi trên xe ta cũng mang theo, vậy mà ta vẫn không biết nó chút nào!

 

It's as if we visit some relatives at their house and they give us a present. We take it and put it in our bag and then leave without opening it to see what is inside. When at last we open it — full of poisonous snakes! Our body is like this. If we just see the shell of it we say it's fine and beautiful. We forget ourselves. We forget impermanence, unsatisfactoriness and not-self. If we look within this body it's really repulsive. If we look according to reality, without trying to sugar things over, we'll see that it's really pitiful and wearisome. Dispassion will arise. This feeling of "disinterest" is not that we feel aversion for the world or anything; it's simply our mind clearing up, our mind letting go. We see things are naturally established just as they are. However we want them to be, they just go their own way regardless. Whether we laugh or cry, they simply are the way they are. Things which are unstable are unstable; things which are not beautiful are not beautiful.

Cũng như ta đến nhà viếng một người bà con, và họ cho ta một món quà. Ta nhận lấy quà, cất giữ trong bị, rồi ra về mà không dở ra xem trong đó có ǵ. Khi cuối cùng về đến nhà, dở ra ... th́ đấy là con rắn độc! Thân của ta cũng dường thế ấy. Nếu chỉ nh́n cái vỏ bề ngoài, ta nói rằng nó xinh tươi đẹp đẽ. Chúng ta tự quên ḿnh. Chúng ta quên lư Vô Thường, Khổ và Vô ngă. Nếu thận trọng nh́n vào bên trong thân nầy th́ quả thật là đáng nhờm chán. Nếu chúng ta nh́n thấy đúng thực tại, không có dậm muối hay thêm đường, không tô điểm cho nó, th́ ta sẽ thấy rằng thật sự nó đáng thương hại và đáng chán. Ta sẽ không c̣n luyến ái, bám níu vào thân nầy. Cảm giác "không tŕu mến" ấy không có nghĩa là ta cảm nghe hờn giận thế gian hoặc phiền trách bất cứ ai, hay bất luận ǵ. Chỉ giản dị là cái tâm của ta sáng tỏ ra và buông bỏ. Chúng ta nhận thấy rằng sự vật không có chi là thực chất, không có chi mà ta có thể ỷ lại vào. Nhưng tất cả mọi sự vật đă là vậy, bản chất của thiên nhiên chỉ là vậy. Dầu ta có muốn nó như thế nào, nó chỉ đi theo con đường của nó. Dầu ta cười, dầu ta khóc, nó vẫn giản dị như thế nào đúng như nó là vậy. Sự vật nào không bền vững và ổn định th́ nó không ổn định vững bền. Sự vật nào không đẹp đẽ xinh tươi th́ nó không xinh tươi đẹp đẽ.

 

So the Buddha said that when we experience sights, sounds, tastes, smells, bodily feelings or mental states, we should release them. When the ear hears sounds, let them go. When the nose smells an odor, let it go... just leave it at the nose! When the bodily feelings arise, let go of the like or dislike that follow, let them go back to their birth-place. The same for mental states. All these things, just let them go their way. This is knowing. Whether it's happiness or unhappiness, it's all the same. This is called meditation.

Do đó Đức Phật dạy rằng khi chứng nghiệm sắc, thinh, hương, vị, xúc, hay pháp, ta hăy buông thả nó ra. Khi tai nghe âm thanh, hăy để cho nó qua. Khi mũi hửi mùi, hăy để cho nó qua ... chỉ bỏ nó ở lại mũi. Khi cảm giác xúc chạm của thân phát sanh, hăy buông bỏ cảm xúc ưa thích hay ghét bỏ theo liền đó, hăy để cho nó trở về nguyên quán. Tư tưởng phát sanh cũng vậy. Tất cả những hiện tượng ấy, hăy để cho nó đi theo con đường của nó. Đó là hiểu biết. Dầu hạnh phúc hay đau khổ, tất cả đều như nhau. Đó là hành thiền.

 

Meditation means to make the mind peaceful in order to let wisdom arise. This requires that we practice with body and mind in order to see and know the sense impressions of form, sound, taste, smell, touch and mental formations. To put it shortly, it's just a matter of happiness and unhappiness. Happiness is pleasant feeling in the mind, unhappiness is just unpleasant feeling. The Buddha taught to separate this happiness and unhappiness from the mind. The mind is that which knows. Feeling 10 is the characteristic of happiness or unhappiness, like or dislike. When the mind indulges in these things we say that it clings to or takes that happiness and unhappiness to be worthy of holding. That clinging is an action of mind, that happiness or unhappiness is feeling.

Hành thiền có nghĩa là làm cho tâm an lạc nhằm tạo duyên cho trí tuệ phát sanh. Công tŕnh nầy đ̣i hỏi phải thực hành với thân và tâm để trông thấy và hiểu biết những cảm xúc phát sanh do sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Thâu gọn lại, nó chỉ là vấn đề hạnh phúc và đau khổ. Hạnh phúc là hoan hỷ thỏa thích trong tâm. Đau khổ là cảm giác khó chịu, không thoải mái. Đức Phật dạy nên tách rời hạnh phúc và đau khổ ấy ra khỏi tâm. Tâm là cái ǵ hiểu biết. Thọ (vedanà) là đặc tánh của hạnh phúc và đau khổ, thương và ghét. (Danh từ "thọ" ở đây được phiên dịch từ Phạn ngữ vedanà, và nên được hiểu trong ư nghĩa mà Ngài Ajahn Chah mô tả nơi đây; như những tâm sở ưa thích, ghét bỏ, vui buồn v.v ...) Khi tâm dể duôi, tự buông trôi theo những cảm xúc ấy ta nói rằng nó bám níu vào, hoặc chấp rằng hạnh phúc và đau khổ đáng được nắm giữ. Bám níu, hay "thủ" ấy là một sinh hoạt của tâm, c̣n hạnh phúc và đau khổ là thọ.

 

When we say the Buddha told us to separate the mind from the feeling, he didn't literally mean to throw them to different places. He meant that the mind must know happiness and know unhappiness. When sitting in samadhi, for example, and peace fills the mind, then happiness comes but it doesn't reach us, unhappiness comes but doesn't reach us. This is to separate the feeling from the mind. We can compare it to oil and water in a bottle. They don't combine. Even if you try to mix them, the oil remains oil and the water remains water. Why is this so? Because they are of different density.

Khi nói rằng Đức Phật dạy nên tách rời tâm ra khỏi thọ, không có nghĩa là vứt bỏ nó ở một nơi nào. Ngài muốn dạy rằng tâm phải hiểu biết hạnh phúc và hiểu biết đau khổ. Thí dụ như khi tọa thiền, trong trạng thái định, tâm thấm nhuần an lạc th́ hạnh phúc đến, nhưng không để vào tâm, đau khổ đến, nhưng không để vào tâm. Đó là tách rời thọ và tâm. Ta có thể ví như nước và dầu trong một cái lọ. Nó không ḥa tan. Mặc dầu có muốn trộn lộn hai thứ, dầu vẫn ra dầu và nước vẫn ra nước. Tại sao vậy? V́ trọng lượng khác nhau.

 

The natural state of the mind is neither happiness nor unhappiness. When feeling enters the mind then happiness or unhappiness is born. If we have mindfulness then we know pleasant feeling as pleasant feeling. The mind which knows will not pick it up. Happiness is there but it's "outside" the mind, not buried within the mind. The mind simply knows it clearly.

Trạng thái thiên nhiên của tâm là không hạnh phúc, không đau khổ. Khi thọ nhập vào th́ hoặc hạnh phúc, hoặc đau khổ phát sanh. Nếu có niệm, ta nhận biết thọ lạc là thọ lạc. Cái tâm hiểu biết không "bốc" nó lên. Hạnh phúc có đó, nhưng nó "ở ngoài", không đắm ch́m trong tâm. Tâm chỉ hiểu biết rơ ràng.

 

If we separate unhappiness from the mind, does that mean there is no suffering, that we don't experience it? Yes, we experience it, but we know mind as mind, feeling as feeling. We don't cling to that feeling or carry it around. The Buddha separated these things through knowledge. Did he have suffering? He knew the state of suffering but he didn't cling to it, so we say that he cut suffering off. And there was happiness too, but he knew that happiness, if it's not known, is like a poison. He didn't hold it to be himself. Happiness was there through knowledge, but it didn't exist in his mind. Thus we say that he separated happiness and unhappiness from his mind.

Tách rời đau khổ ra khỏi tâm. Phải chăng điều nầy có nghĩa là không c̣n đau khổ, rằng ta không c̣n kinh nghiệm đau khổ nữa? Không phải vậy, ta vẫn c̣n kinh nghiệm đau khổ, nhưng lúc bấy giờ ta hiểu biết tâm là tâm, thọ là thọ. Ta không bám chặt vào thọ cảm đau khổ ấy và mang nó đi theo ḿnh. Đức Phật tách rời những trạng thái ấy bằng tuệ giác. Ngài có đau khổ không? Ngài biết có trạng thái đau khổ, nhưng không bám giữ. Do vậy ta nói rằng Ngài cắt đứt đau khổ. Và khi có hạnh phúc, Ngài hiểu biết đó chỉ là hạnh phúc. Ngài không nắm giữ nó lại và cho rằng nó là ḿnh. Xuyên qua trí tuệ, hiểu biết rằng có hạnh phúc hiện hữu, nhưng hạnh phúc không ở trong tâm. Vậy ta nói rằng Ngài tách rời hạnh phúc và đau khổ ra khỏi tâm.

 

When we say that the Buddha and the Enlightened Ones killed defilements, 11 it's not that they really killed them. If they had killed all defilements then we probably wouldn't have any! They didn't kill defilements; when they knew them for what they are, they let them go. Someone who's stupid will grab them, but the Enlightened Ones knew the defilements in their own minds as a poison, so they swept them out. They swept out the things which caused them to suffer, they didn't kill them. One who doesn't know this will see some things, such as happiness, as good, and then grab them, but the Buddha just knew them and simply brushed them away.

Nói rằng Đức Phật và chư vị A La Hán diệt trừ ô nhiễm không có nghĩa là các Ngài thật sự giết chết ô nhiễm. [7] Nếu các Ngài đă giết chết tất cả những ô nhiễm th́ có lẽ chúng ta không c̣n ô nhiễm nào! Các Ngài không giết chết. Khi hiểu biết thực tướng của nó, hiểu đúng như nó là vậy, các Ngài buông bỏ, để cho nó đi qua. Người điên rồ sẽ nắm giữ nó lại, nhưng các bậc Giác Ngộ đă thấu hiểu rằng ô nhiễm trong tâm là thuốc độc nên liền quét sạch nó đi. Các Ngài quét sạch những ǵ là nguyên nhân tạo đau khổ chớ không giết chết. Người không thấu hiểu như vậy sẽ thấy những ǵ như hạnh phúc là tốt đẹp và nắm chắc, giữ chặt nó lại (thủ), nhưng Đức Phật chỉ hiểu biết nó và giản dị tẩy sạch nó đi.

 

But when feeling arises for us we indulge in it, that is, the mind carries that happiness and unhappiness around. In fact they are two different things. The activities of mind, pleasant feeling, unpleasant feeling and so on, are mental impressions, they are the world. If the mind knows this it can equally do work involving happiness or unhappiness. Why? Because it knows the truth of these things. Someone who doesn't know them sees them as equal. If you cling to happiness it will be the birth-place of unhappiness later on, because happiness is unstable, it changes all the time. When happiness disappears, unhappiness arises.

Nhưng đối với chúng ta, khi thọ phát sanh th́ ta lợi dưỡng trong đó, có nghĩa là tâm của ta mang hạnh phúc và đau khổ theo cùng với nó. Trong thực tế, tâm và hạnh phúc hay đau khổ là hai sự việc khác nhau. Những sinh hoạt của tâm: thọ lạc, thọ khổ v.v... là những cảm xúc. Nó là thế gian pháp. Nếu tâm hiểu biết như vậy th́ dầu hạnh phúc hay đau khổ, tâm vẫn xem như nhau và phản ứng cùng một cách. Tại sao? Bởi v́ tâm hiểu biết chân lư của sự vật. Người không thông hiểu sẽ thấy hạnh phúc và đau khổ có hai giá trị khác biệt, nhưng người đă thấu hiểu sẽ thấy nó như nhau. Nếu quư vị bám chặt vào hạnh phúc th́ nó sẽ là nơi phát sanh đau khổ về sau, bởi v́ nó không ổn định vững bền mà luôn luôn biến chuyển. Khi hạnh phúc tan biến ắt đau khổ khởi sanh.

 

The Buddha knew that because both happiness and unhappiness are unsatisfactory, they have the same value. When happiness arose he let it go. He had right practice, seeing that both these things have equal values and drawbacks. They come under the Law of Dhamma, that is, they are unstable and unsatisfactory. Once born, they die. When he saw this, right view arose, the right way of practice became clear. No matter what sort of feeling or thinking arose in his mind, he knew it as simply the continuous play of happiness and unhappiness. He didn't cling to them

Đức Phật thấu triệt rằng bởi v́ cả hai, hạnh phúc và đau khổ, đều là bất toại nguyện, tức đau khổ, nên cả hai đều có giá trị bằng nhau. Khi hạnh phúc phát sanh, Ngài để nó trôi qua. Ngài có pháp Hành Chân Chánh và thấy rằng cả hai đều có giá trị và sức trở ngại bằng nhau. Cả hai đều nằm dưới sự chi phối của Định Luật Thiên Nhiên, tức bất ổn định và bất toại nguyện. Sanh rồi diệt. Khi thấy rơ như vậy Chánh Kiến phát sanh và pháp hành chân chánh trở nên sáng tỏ. Bất luận cảm thọ hoặc tư tưởng nào phát sanh, Ngài biết rơ rằng đó chỉ giản dị là tṛ đùa của hạnh phúc và đau khổ luôn luôn tiếp diễn. Ngài không bám níu vào.

 

When the Buddha was newly enlightened he gave a sermon about indulgence in Pleasure and Indulgence in Pain. "Monks! Indulgence in Pleasure is the loose way, Indulgence in Pain is the tense way." These were the two things that disturbed his practice until the day he was enlightened, because at first he didn't let go of them. When he knew them, he let them go, and so was able to give his first sermon

Khi Đức Phật mới Thành Đạo, Ngài thuyết giảng một thời Pháp về Lợi Dưỡng trong Dục Lạc và Lợi Dưỡng trong Đau Khổ, "Nầy chư Tỳ Khưu! Lợi Dưỡng trong Dục Lạc là con đường dể duôi buông lung. Lợi Dưỡng trong Đau Khổ là con đường căng thẳng." Đó là hai con đường đă làm trở ngại pháp hành của Ngài chí đến ngày chứng ngộ Đạo Quả, bởi v́ trước đó Ngài không buông bỏ cho nó trôi qua. Khi đă thấu hiểu, Ngài để cho nó trôi qua và do đó mới có thể ban truyền Bài Pháp Đầu Tiên.

 

So we say that a meditator should not walk the way of happiness or unhappiness, rather he should know them. Knowing the truth of suffering, he will know the cause of suffering, the end of suffering and the way leading to the end of suffering. And the way out of suffering is meditation itself. To put it simply, we must be mindful.

Như vậy chúng ta nói rằng người hành thiền không nên đi trên con đường của hạnh phúc và đau khổ, mà phải thấu hiểu bản chất của nó. Thấu hiểu chân lư của Đau Khổ hành giả sẽ thấu hiểu Nguyên Nhân sanh Đau Khổ, sự Chấm Dứt Đau Khổ và Con Đường dẫn đến Chấm Dứt Đau Khổ. Và con đường dẫn thoát ra khỏi Đau Khổ chính là pháp môn hành thiền. Nói một cách khác, ta phải luôn luôn giữ chánh niệm.

 

Mindfulness is knowing, or presence of mind. Right now what are we thinking, what are we doing? What do we have with us right now? We observe like this, we are aware of how we are living. When we practice like this wisdom can arise. We consider and investigate at all times, in all postures. When a mental impression arises that we like to know it as such, we don't hold it to be anything substantial. It's just happiness. When unhappiness arises we know that it's Indulgence in Pain, it's not the path of a meditator.

Niệm là hay biết, hay có tâm hiện hữu. Ngay trong giờ phút nầy chúng ta đang nghĩ ǵ, chúng ta đang làm ǵ? Điều ǵ xảy đến ta trong hiện tại? Chúng ta quán chiếu như vậy, luôn luôn hay biết ta đang sống như thế nào. Trong khi thực hành như vậy trí tuệ có thể phát sanh. Lúc nào chúng ta cũng đang suy niệm và quán chiếu, trong mọi oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi. Khi một cảm giác phát sanh mà ta ưa thích, hăy hay biết đúng như vậy, nhưng chúng ta không giữ nó lại như một cái ǵ có thực chất. Chỉ là hạnh phúc. Khi đau khổ phát sanh chúng ta hiểu biết ngay rằng đó là Lợi Dưỡng trong Đau Khổ, không phải là Con Đường của người hành thiền.

 

This is what we call separating the mind from the feeling. If we are clever we don't attach, we leave things be. We become the 'one who knows'. The mind and feeling are just like oil and water; they are in the same bottle but they don't mix. Even if we are sick or in pain, we still know the feeling as feeling, the mind as mind. We know the painful or comfortable states but we don't identify with them. We stay only with peace: the peace beyond both comfort and pain.

Đó là điều gọi là tách rời tâm ra khỏi thọ. Nếu là sáng suốt, ta không bám níu vào mà để cho sự vật tự nhiên trôi chảy. Chúng ta trở thành "người hiểu biết". Tâm và thọ cũng chỉ như nước và dầu: cùng ở chung trong một cái lọ nhưng không ḥa tan. Chí đến khi lâm bệnh hay đau nhức ta vẫn hiểu biết thọ là thọ, tâm là tâm. Chúng ta hiểu biết những trạng thái đau đớn hay thoải mái dễ chịu nhưng không tự ḿnh đồng hóa với chúng. Chúng ta chỉ ở với thanh b́nh an lạc, sự an lạc thanh b́nh vượt lên trên cả hai, thoải mái và đau khổ.

 

You should understand it like this, because if there is no permanent self then there is no refuge. You must live like this, that is, without happiness and without unhappiness. You stay only with the knowing, you don't carry things around.

Quư vị phải thấu hiểu như vậy, bởi v́ đă không có một tự ngă trường tồn ắt không có chỗ nương tựa. Quư vị phải sống như vậy, tức sống không có hạnh phúc và không có đau khổ. Quư vị chỉ sống với sự hiểu biết, không bận bịu mang kè kè sự vật theo ḿnh.

 

As long as we are still unenlightened all this may sound strange but it doesn't matter, we just set our goal in this direction. The mind is the mind. It meets happiness and unhappiness and we see them as merely that, there's nothing more to it. They are divided, not mixed. If they are all mixed up then we don't know them. It's like living in a house; the house and its occupant are related, but separate. If there is danger in our house we are distressed because we must protect it, but if the house catches fire we get out of it. If painful feeling arises we get out of it, just like that house. When it's full of fire and we know it, we come running out of it. They are separate things; the house is one thing, the occupant is the other.

Ngày nào mà chúng ta chưa giác ngộ th́ tất cả những điều trên đây nghe h́nh như quái lạ, nhưng không hề ǵ. Chúng ta chỉ nhắm hướng đi. Tâm là tâm. Tâm sẽ hội kiến với hạnh phúc và đau khổ, và chúng ta chỉ nhận thấy suông như vậy, ngoài ra không có ǵ khác. Tách rời riêng biệt, không trộn lộn. Nếu tâm ta cùng với hạnh phúc và đau khổ pha lẫn nhau, ắt chúng ta không hiểu biết chúng. Cũng giống như ta đang ở trong một ngôi nhà; cái nhà và người ở trong nhà liên quan với nhau, nhưng riêng biệt, không phải là một. Nếu nhà hư hỏng th́ ta buồn phiền, v́ có bổn phận phải bảo vệ nhà cửa. Nhưng nếu nhà bị hỏa hoạn, ta phải nhanh chân chạy thoát ra khỏi đó. Nếu cảm giác đau khổ phát sanh ta phải thoát ra khỏi đó cũng như ta chạy thoát ra khỏi căn nhà đang cháy. Nó là hai sự việc riêng biệt; nhà là một việc, người ở trong nhà là việc khác.

 

We say that we separate mind and feeling in this way but in fact they are by nature already separate. Our realization is simply to know this natural separateness according to reality. When we say they are not separated it's because we're clinging to them through ignorance of the truth.

Chúng ta nói rằng tách rời tâm và thọ ra khỏi nhau, nhưng trong thực tế bản chất của chúng là đă rời nhau. Sự nhận thức của chúng ta chỉ giản dị là hiểu biết trạng thái tách rời khỏi nhau thiên nhiên ấy, đúng như thực tại là vậy. Nói tâm và thọ không riêng biệt tách rời nhau là bởi v́ do vô minh, chúng ta bám níu vào nó và v́ vậy, không thông hiểu Chân Lư.

 

So the Buddha told us to meditate. This practice of meditation is very important. Merely to know with the intellect is not enough. The knowledge which arises from practice with a peaceful mind and the knowledge which comes from study are really far apart. The knowledge which comes from study is not real knowledge of our mind. The mind tries to hold onto and keep this knowledge. Why do we try to keep it? Just lose it! And then when it's lost we cry!

Do vậy Đức Phật dạy ta hăy hành thiền. Pháp hành thiền vô cùng quan trọng. Chỉ hiểu biết suông với kiến thức không đủ. Trí tuệ phát sanh do pháp hành với tâm an lạc và kiến thức đến với ta bằng cách học hỏi, nghiên cứu thật sự cách nhau xa biệt. Sự hiểu biết thâu thập bằng cách học hỏi không phải là hiểu biết thật sự của tâm. Cái tâm chỉ cố gắng bám chặt và giữ lại điều học hỏi hiểu biết ấy. Tại sao ta cố gắng giữ lại? Chỉ để nó mất đi! Và khi nó mất ta than khóc.

 

If we really know, then there's letting go, leaving things be. We know how things are and don't forget ourselves. If it happens that we are sick we don't get lost in that. Some people think, "This year I was sick the whole time, I couldn't meditate at all." These are the words of a really foolish person. Someone who's sick and dying should really be diligent in his practice. One may say he doesn't trust his body, and so he feels that he can't meditate. If we think like this then things are difficult. The Buddha didn't teach like that. He said that right here is the place to meditate. When we're sick or almost dying that's when we can really know and see reality.

Nếu thật sự hiểu biết ắt sẽ không có t́nh trạng cố gắng giữ lại, mà cứ để nó tự nhiên trôi qua, để cho sự vật tự nhiên, đúng như sự vật là vậy. Chúng ta thấu hiểu sự vật là thế nào và không tự quên ḿnh. Nếu không may lâm bệnh, chúng ta không để lạc lối trong đó. Vài người nghĩ rằng, "Năm nay tôi bệnh suốt năm, không hành thiền được chút nào." Đó là lời nói của người thật sự cuồng si. Người đang bệnh hoặc sắp lâm chung càng phải chuyên cần tinh tấn hành thiền. Có thể ta nói rằng người ấy không có th́ giờ để hành thiền. Người ấy bệnh, người ấy đang bị đau nhức, người ấy không c̣n tin tưởng nơi cơ thể ḿnh, và do đó cảm nghe rằng ḿnh không thể hành thiền. Suy tư như vậy sự việc ắt trở nên khó khăn. Đức Phật không dạy như vậy. Ngài dạy rằng ngay tại đây chính là nơi hành thiền. Khi lâm trọng bệnh hoặc lâm chung là lúc mà ta có thể thật sự hiểu biết và nhận thức thực tại

 

Other people say they don't have the chance to meditate because they're too busy. Sometimes school teachers come to see me. They say they have many responsibilities so there's no time to meditate. I ask them, "When you're teaching do you have time to breathe?" They answer, "Yes." "So how can you have time to breathe if the work is so hectic and confusing? Here you are far from Dhamma."

Vài người khác nói rằng họ không may mắn được hành thiền v́ luôn luôn có việc làm bận rộn. Có vài vị giáo viên đến đây viếng Sư và nói rằng v́ đa đoan với nhiệm vụ, họ không có th́ giờ để hành thiền. Sư hỏi họ, "Trong khi dạy học Ông có th́ giờ để thở không? Họ trả lời, "Bạch Sư, Có". "Nếu công việc bề bộn và đa đoan, làm thế nào Ông có th́ giờ để thở. Nơi đây Ông đă rời xa Giáo Pháp."

 

Actually this practice is just about the mind and its feelings. It's not something that you have to run after or struggle for. Breathing continues while working. Nature takes care of the natural processes — all we have to do is try to be aware. Just to keep trying, going inwards to see clearly. Meditation is like this.

Thật ra pháp hành chỉ liên quan đến tâm và những cảm giác. Nó không phải là điều ǵ mà quư vị phải chạy theo hoặc phải tranh đấu để được. Trong khi làm việc ta vẫn thở. Chính thiên nhiên đă chăm lo để cho tiến tŕnh thở-vào-và- thở-ra được tự nhiên -- tất cả những ǵ ta cần phải làm chỉ là hay biết. Quư vị chỉ chuyên cần cố gắng, nh́n trở lại vào bên trong và thấy rơ ràng. Hành thiền là vậy.

 

If we have that presence of mind then whatever work we do will be the very tool which enables us to know right and wrong continually. There's plenty of time to meditate, we just don't fully understand the practice, that's all. While sleeping we breathe, eating we breathe, don't we? Why don't we have time to meditate? Wherever we are we breathe. If we think like this then our life has as much value as our breath, wherever we are we have time.

Nếu chúng ta giữ tâm hiện hữu như vậy th́ bất luận trong công việc nào mà ta làm, nó sẽ là dụng cụ hữu hiệu giúp ta luôn luôn hiểu biết điều nào là phải và điều nào sai. Có rất nhiều th́ giờ để hành thiền, chỉ v́ ta không thông hiểu đầy đủ pháp hành. Chỉ có thế. Trong khi ngủ ta thở, ăn ta thở, có phải vậy không? Tại sao không có th́ giờ để hành thiền? Bất cứ ở đâu ta cũng thở. Nếu nghĩ như vậy th́ kiếp sống của chúng ta có giá trị nhiều như hơi thở, bất luận ở đâu ta cũng có th́ giờ.

 

All kinds of thinking are mental conditions, not conditions of body, so we need simply have presence of mind, then we will know right and wrong at all times. Standing, walking, sitting and lying, there's plenty of time. We just don't know how to use it properly. Please consider this.

Tất cả các loại tư tưởng đều là những điều kiện tinh thần không thuộc về cơ thể, như vậy ta chỉ cần giữ tâm hiện hữu và chừng ấy lúc nào chúng ta cũng sẽ hiểu biết điều nào là phải, điều nào sai. Đi, đứng, nằm, ngồi, có rất nhiều th́ giờ. Chỉ v́ ta không biết xử dụng một cách thích nghi. Xin quư vị hăy suy xét lại.

 

We cannot run away from feeling, we must know it. Feeling is just feeling, happiness is just happiness, unhappiness is just unhappiness. They are simply that. So why should we cling to them? If the mind is clever, simply to hear this is enough to enable us to separate feeling from the mind.

Chúng ta không thể bỏ chạy lẫn trốn những cảm giác, phải hiểu biết nó. Cảm giác hay thọ, chỉ là cảm giác, hạnh phúc chỉ là hạnh phúc, đau khổ chỉ là đau khổ. Nó chỉ giản dị là vậy. Tại sao ta phải bám níu vào nó? Nếu tâm sáng suốt th́ chỉ nghe bấy nhiêu cũng đủ để tách rời thọ ra khỏi tâm.

 

If we investigate like this continuously the mind will find release, but it's not escaping through ignorance. The mind lets go, but it knows. It doesn't let go through stupidity, not because it doesn't want things to be the way they are. It lets go because it knows according to the truth. This is seeing nature, the reality that's all around us.

Nếu chúng ta thường xuyên quán chiếu như vậy, tâm sẽ nhẹ nhàng, nhưng đó không phải là tẩu thoát qua đường lối của vô minh. Tâm buông bỏ, nhưng nó hiểu biết. Không phải buông bỏ v́ si mê, hay buông bỏ v́ không muốn sự vật giống như thế đó. Tâm buông bỏ, không bám níu vào thọ v́ ta hiểu biết đúng theo Chân Lư. Đó là nhận thức Thiên Nhiên, thấy đúng thực tại ở quanh ḿnh.

 

When we know this we are someone who's skilled with the mind, we are skilled with mental impressions. When we are skilled with mental impressions we are skilled with the world. This is to be a "Knower of the World." The Buddha was someone who clearly knew the world with all its difficulty. He knew the troublesome, and that which was not troublesome was right there. This world is so confusing, how is it that the Buddha was able to know it? Here we should understand that the Dhamma taught by the Buddha is not beyond our ability. In all postures we should have presence of mind and self-awareness — and when it's time to sit meditation we do that.

Khi hiểu biết được như vậy ta đă là người thuần thục đối với tâm và đối với thọ. Khi đă thuần thục làm chủ ḿnh trước những thọ cảm, ta cũng thuần thục đối với thế gian. Đó là người "Hiểu Biết Thế Gian". Đức Phật là bậc hiểu biết rơ ràng thế gian và những vấn đề khó khăn ở thế gian. Ngài hiểu biết rằng những ǵ khuấy động và những ǵ không khuấy động đều ở ngay tại đây! Thế gian nầy quả thật phức tạp, làm sao Đức Phật có thể thấu hiểu được? Nơi đây ta phải nhận thức rằng Giáo Pháp do Đức Phật ban truyền không vượt ra ngoài khả năng của chúng ta. Trong tất cả mọi oai nghi -- đi, đứng, nằm, ngồi -- chúng ta phải giữ tâm hiện hữu và tự hay biết ḿnh, và khi tọa thiền cũng vậy, luôn luôn chú niệm và tự hay biết ḿnh.

 

We sit in meditation to establish peacefulness and cultivate mental energy. We don't do it in order to play around at anything special. Insight meditation is sitting in samadhi itself. At some places they say, "Now we are going to sit in samadhi, after that we'll do insight meditation." Don't divide them like this! Tranquillity is the base which gives rise to wisdom; wisdom is the fruit of tranquillity. To say that now we are going to do calm meditation, later we'll do insight — you can't do that! You can only divide them in speech. Just like a knife, the blade is on one side, the back of the blade on the other. You can't divide them. If you pick up one side you get both sides. Tranquillity gives rise to wisdom like this.

Ta ngồi thiền để củng cố trạng thái tâm an lạc và trau giồi tâm lực. Không phải ngồi đó để làm chuyện ǵ khác. Thiền Minh Sát là tọa thiền và an trụ tâm trong trạng thái định (samàdhi). Ở vài nơi người ta bảo, "Bây giờ ta hăy ngồi thiền Định (Samàdhi), rồi sau đó hăy thiền Tuệ." Không nên phân chia như vậy. Trạng thái vắng lặng là nền tảng để trí tuệ phát sanh; trí tuệ sẽ được khai triển trên nền tảng vắng lặng. Nói rằng giờ đây hăy hành thiền Vắng Lặng, sau đó sẽ hành Minh Sát -- ta không thể làm như vậy! Ta chỉ có thể phân chia như vậy qua lời nói. Cũng như lưỡi dao, bề mặt ở một bên, bề trái ở bên kia. Quư vị không thể phân chia. Nếu lấy bề mặt lên th́ cũng lấy lên cả hai bề. Trạng thái vắng lặng làm nền tảng cho trí tuệ phát sanh cũng cùng thế ấy.

 

Morality is the father and mother of Dhamma. In the beginning we must have morality. Morality is peace. This means that there are no wrong doings in body or speech. When we don't do wrong then we don't get agitated; when we don't become agitated then peace and collectedness arise within the mind. So we say that morality, concentration and wisdom are the path on which all the Noble Ones have walked to enlightenment. They are all one. Morality is concentration, concentration is morality. Concentration is wisdom, wisdom is concentration. It's like a mango. When it's a flower we call it a flower. When it becomes a fruit we call it a mango. When it ripens we call it a ripe mango. It's all one mango but it continually changes. The big mango grows from the small mango, the small mango becomes a big one. You can call them different fruits or all one. Morality, concentration and wisdom are related like this. In the end it's all the path that leads to enlightenment.

Giới đức là cha và mẹ của Giáo Pháp. Từ lúc sơ khởi chúng ta phải nghiêm chỉnh tŕ giới. Giới là an lạc. Tŕ giới có nghĩa là giữ thân và khẩu trong sạch, không nói và không hành động sai lầm. Không làm ǵ sai quấy th́ không bị khuấy động, không chao động tâm sẽ được an lạc thanh b́nh và dễ dàng an trụ. Do đó ta nói rằng Giới, Định, và Tuệ là Con Đường mà tất cả chư bậc Hiền Thánh đều đă trải qua để thành tựu Đạo Quả. Tất cả ba pháp là một. Giới là Định, Định là Giới. Định là Tuệ, Tuệ là Định. Cũng giống như một trái xoài. Khi c̣n là bông th́ ta gọi là bông xoài. Lúc trở thành trái, ta gọi là trái xoài, và đến lúc chín th́ ta gọi là trái xoài chin. Tất cả chỉ là một trái xoài luôn luôn thay đổi trạng thái. Trái xoài già lớn lên từ xoài non. Xoài non trở thành trái xoài già. Ta có thể gọi bằng những danh từ khác nhau nhưng tựu trung chỉ là một trái xoài. Giới, Định, Tuệ cũng liên hệ với nhau cùng một thế áy. Sau cùng tất cả ba pháp đều nhập chung lại thành Con Đường dẫn đến Giác Ngộ.

 

The mango, from the moment it first appears as a flower, simply grows to ripeness. This is enough, we should see it like this. Whatever others call it, it doesn't matter. Once it's born it grows to old age, and then where? We should contemplate this.

Trái xoài, từ lúc sơ khởi là bông xoài, chỉ giản dị trưởng thành để trở nên xoài chín. Bấy nhiêu đă đủ, ta phải thấy như vậy. Dầu ai khác có gọi nó như thế nào, điều ấy không thành vấn đề. Một khi được sanh ra nó lớn dần đến già, và rồi đến đâu? Ta phải suy niệm như vậy.

 

Some people don't want to be old. When they get old they become regretful. These people shouldn't eat ripe mangoes! Why do we want the mangoes to be ripe? If they're not ripe in time, we ripen them artificially, don't we? But when we become old we are filled with regret. Some people cry, they're afraid to get old or die. If it's like this then they shouldn't eat ripe mangoes, better eat just the flowers! If we can see this then we can see the Dhamma. Everything clears up, we are at peace. Just determine to practice like that.

Vài người không muốn già. Khi thấy tuổi già đến th́ họ buồn phiền, luyến tiếc thời son trẻ. Những người ấy không nên ăn xoài chín! Tại sao họ muốn xoài non trở thành chín? Dầu xoài không chín đúng lúc họ cũng giú ép, có phải vậy không? Nhưng khi chính ta trở thành già, ta lại tiếc. Vài người than khóc, sợ già, hay sợ chết. Nếu như vậy th́ họ chớ nên ăn xoài chín mà chỉ ăn bông xoài! Nếu thấy được như vậy ắt ta có thể trông thấy Giáo Pháp. Mọi việc đều sáng tỏ, chúng ta an lạc. Hăy quyết tâm thực hành như vậy.

 

So today the Chief Privy Councillor and his party have come together to hear the Dhamma. You should take what I've said and contemplate it. If anything is not right, please excuse me. But for you to know whether it's right or wrong depends on your practicing and seeing for yourselves. Whatever's wrong, throw it out. If it's right then take it and use it. But actually we practice in order to let go both right and wrong. In the end we just throw everything out. If it's right, throw it out; wrong, throw it out! Usually if it's right we cling to rightness, if it's wrong we hold it to be wrong, and then arguments follow. But he Dhamma is the place where there's nothing — nothing at all.

Hôm nay có Ông Cố Vấn Trưởng cùng nhiều quan khách đến nghe Pháp. Quư vị hăy nhận lănh những ǵ Sư giảng để về nhà suy gẫm. Nếu có điều sai lầm xin quư vị thông cảm cho Sư. Tuy nhiên có hiểu được là đúng hay sai cũng tùy theo pháp hành và quan kiến của quư vị. Bất cứ ǵ là sai, hăy vứt bỏ. Điều nào đúng, hăy giữ lấy để xử dụng. Nhưng trong thực tế, chúng ta thực hành để buông bỏ cả hai, đúng và sai. Điều đúng, hăy vứt bỏ; điều sai, vứt bỏ. Thông thường, nếu là đúng th́ ta bám níu vào tánh cách đúng của nó, c̣n sai th́ ta giữ lại cái sai, rồi sau đó tranh luận, bàn thảo v.v... Nhưng Giáo Pháp là nơi chốn mà không có ǵ -- không có ǵ cả!

 

^^^^^

Chú thích: [1] Lời người dịch: Nhằm giúp quư vị chưa quen thuộc với các từ ngữ trong pháp môn hành thiền dễ dàng lănh hội thời Pháp của Ngài Thiền Sư, chúng tôi xin bổ túc thêm phần chú giải dưới đây, dựa theo Vi Diệu Pháp. Năm chi thiền, tức năm yếu tố của thiền: Tầm, Sát, Phỉ, Lạc, Trụ, nằm trong tâm Định (samàdhi), bao gồm cái được gọi là Sơ "Thiền" (Jhàna). Trong tầng Nhị Thiền hai chi đầu (Tầm, Sát) được loại. Đến Tam Thiền, ba chi đầu (Tầm, Sát, Phỉ) đều được loại. Và cuối cùng đến Tứ Thiền, chí đến chi thiền thứ tư (Phỉ), cũng được loại và chi thiền Xả (Upekkhà) được thay vào.

 

^^^^^

Vitakka - Tầm, là chi thiền đưa các tâm sở đồng phát sanh hướng về đối tượng của tâm. Vicàra, Sát hay Tứ, là quan sát, hay ḍ xét. Nơi đây Sát là liên tục đặt tâm trên đối tượng. Vitakka hướng tâm về đối tượng và Vicàra, Sát, đặt tâm lên đối tượng. Vitakka, Tầm, giống như con ong bay hướng về hoa. Vicàra, Sát, như ong bay quanh quẩn trên hoa.

 

^^^^^

Ṕti - Phỉ, là thỏa thích. Nhưng Ṕti, Phỉ, không phải là một loại thọ (vedanà) như Lạc (Sukha). Một cách chính xác, Phỉ là tâm sở đến trước, và trong khi xuất hiện, báo hiệu rằng sắp có thọ Lạc phát sanh. Có năm loại Phỉ là: 1) Thỏa thích làm rùng ḿnh, rởn óc hay nổi da gà, 2) Thỏa thích thoáng qua mau lẹ như trời chớp, 3) Thỏa thích tràn ngập như sóng biển trườn lên băi, 4) Thỏa thích thanh thoát, đem lại cho hành giả cảm giác nhẹ nhàng như bông g̣n, lững lờ bay theo chiều gió, và 5) Thỏa thích thấm nhuần toàn thể châu thân như bong bóng được thổi phồng, hay trận lụt tràn lan làm ngập cả ao vũng.

 

^^^^^

Sukha - Lạc, là thọ lạc, an vui hạnh phúc. Ṕti, Phỉ, làm cho hành giả phấn khởi vui thích trong đề mục, c̣n Sukha, Lạc, th́ giúp hành giả thỏa thích hưởng thọ đề mục. Khách lữ hành mệt mỏi đi trong sa mạc thấy xa xa có cụm cây và ao nước th́ lấy làm thỏa thích. Vui mừng trước khi thật sự hưởng thọ là Ṕti. Khi đến tận ao nước, trạng thái thỏa thích tắm rửa và uống nước là Sukha.

 

^^^^^

Upekkhà - Xả, là một h́nh thức vi tế của tâm b́nh thản, quân b́nh. Tâm sở nầy cũng đă tiềm ẩn trong các tầng Sơ thiền, Nhị Thiền và Tam Thiền, nhưng đến Tứ Thiền th́ nổi bật lên và trở thành vi tế đến mức cao độ.

 

^^^^^

[2] Điều nầy có nghĩa là luôn luôn, bất cứ lúc nào, trong mọi sinh hoạt. [3] Đây là trạng thái "hổ thẹn" căn cứ trên sự hiểu biết nhân và quả, không phải là cảm giác tội lỗi. [4] Lời của dịch giả: Bát Chánh Đạo mà nơi đây Ngài Achahn phân làm Giới, Định, và Tuệ, là con đường có tám chi. Giống như một sợi dây thừng có tám tao nhợ hợp lại. Người leo dây mỗi lần tay chỉ nắm vào một số, hai, ba, hoặc bốn tao nhợ cùng một lúc. Đến khi bỏ tay khác lên, th́ nắm một số tao nhợ khác chớ không phải nắm một lúc tất cả tám tao nhợ. Cùng thế ấy, vị hành giả mà c̣n đang thời kỳ tu luyện chỉ hành một số chi cùng một lúc. Nhưng đến khi đạt đến mức độ mà Ngài mô tả trên th́ hành giả dần dần hành cùng lúc một số chi nhiều hơn, và cuối cùng khi thành đạt Thánh Đạo và Thánh Quả th́ tám chi cùng hợp chung lại thành một, và hành giả hành luôn cả tám chi cùng một lúc. [5] "Sinh hoạt bên ngoài" ở đây là những cảm giác mà ta cảm nhận từ lục trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp) xuyên qua lục căn (nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ư) -- đối chiều với "sinh hoạt bên trong" là các tầng Thiền jhàna, nơi đây tâm "không đi ra ngoài" theo các cảm xúc. [6] Lời người dịch: Danh từ sankhàra, pháp hữu vi, là những ǵ được sanh ra do điều kiện và tồn tại do điều kiện. Phải có ǵ trước đó tạo duyên mới hiện hữu, rồi có ǵ tạo duyên mới tồn tại. Khi hết nhân duyên th́ hoại diệt. Trong thực tế, tất cả mọi sự vật trên thế gian, dầu tinh thần hay vật chất, đều là pháp hữu vi -- cũng được gọi là các vật được cấu tạo, hay pháp tùy thế.. [7] Danh từ "Ô Nhiễm" ở đây được phiên dịch từ Phạn ngữ kilesa, là những thói hư tật xấu phát sanh từ Vô Minh, hay những bợn nhơ tinh thần luôn luôn ngủ ngầm bên trong tất cả những chúng sanh trong tam giới.

 

Opening the Dhamma Eye

Khai thông pháp nhăn

 

"...The Buddha was enlightened in the world, he contemplated the world. If he hadn't contemplated the world, if he hadn't seen the world, he couldn't have risen above it. The Buddha's enlightenment was simply enlightenment of this very world. The world was still there: gain and loss, praise and criticism, fame and disrepute, happiness and unhappiness were all still there. If there weren't these things there would be nothing to become enlightened to..." Opening the Dhamma Eye

... Đức Phật thành tựu sự giác ngộ của Ngài trong thế gian. Nếu không quán chiếu thế gian, nếu không trông thấy thế gian, ắt Ngài không thể vượt khỏi lên trên thế gian. Sự giác ngộ của Đức Phật chỉ giản dị là giác ngộ chính thế gian nầy. Thế gian vẫn c̣n đó: lợi lộc và lổ lă, tán dương và khiển trách, danh thơm và tiếng xấu, hạnh phúc và đau khổ, tất cả đều vẫn c̣n đó. Nếu không có những hiện tượng ấy ắt không có ǵ để giác ngộ ...

 

Some of us start to practice, and even after a year or two, still don't know what's what. We are still unsure of the practice. When we're still unsure, we don't see that everything around us is purely Dhamma, and so we turn to teachings from the Ajahns. But actually, when we know our own mind, when there is sati to look closely at the mind, there is wisdom. All times and all places become occasions for us to hear the Dhamma.

Vài người trong chúng ta mới bắt đầu hành thiền. Có người đă hành được một hoặc hai năm, nhưng chưa thông hiểu ǵ. Chúng ta không nắm vững và không tin chắc nơi pháp hành. Khi chưa tin chắc ắt không thấy rằng tất cả mọi sự vật quanh ta chỉ thuần túy là Giáo Pháp và do vậy, chúng ta quay trở về những lời dạy của quư Thầy (Ajahn). Nhưng trong thực tế, khi chúng ta thấu hiểu cái tâm của chính ḿnh, khi đủ chánh niệm (sati) để nh́n sâu vào tâm, ắt trí tuệ phát sanh. Giờ phút nào và nơi chốn nào cũng trở thành cơ hội tốt đẹp để chúng ta lắng nghe Giáo Pháp.

 

We can learn Dhamma from nature, from trees for example. A tree is born due to causes and it grows following the course of nature. Right here the tree is teaching us Dhamma, but we don't understand this. In due course, it grows until it buds, flowers and fruit appear. All we see is the appearance of the flowers and fruit; we're unable to bring this within and contemplate it. Thus we don't know that the tree is teaching us Dhamma. The fruit appears and we merely eat it without investigating: sweet, sour or salty, it's the nature of the fruit. And this Dhamma, the teaching of the fruit. Following on, the leaves grow old. They wither, die and then fall from the tree. All we see is that the leaves have fallen down. We step on them, we sweep them up, that's all. We don't investigate thoroughly, so we don't know that nature is teaching us. Later on the new leaves sprout, and we merely see that, without taking it further. We don't bring these things into our minds to contemplate.

Chúng ta có thể học Giáo Pháp trong thiên nhiên, trong cây cối chẳng hạn. Cội cây được sanh ra do nguyên nhân, rồi trưởng thành theo ḍng trôi chảy của thiên nhiên. Ngay tại đây, cội cây đang thuyết giảng Giáo Pháp cho chúng ta. Nhưng chúng ta không lănh hội lời giảng. Rồi theo thời gian cây trưởng thành, lớn lên và lớn lên đến lúc nở mộng, trổ hoa, sanh trái. Tất cả những ǵ ta trông thấy chỉ là sự phát hiện của hoa và quả. Chúng ta không thể đem nó vào bên trong ḿnh để quán chiếu. Do đó chúng ta không hiểu biết rằng cội cây đang dạy ta bài học về Giáo Pháp. Trái trổ sanh, và ta chỉ hái ăn mà không quán xét và t́m hiểu: ngọt, chua, hay mặn là bản chất tự nhiên của trái. Và đó là Giáo Pháp, là bài giảng của trái. Tiếp tục lớn thêm, lá trở nên già, úa vàng, khô héo, chết, và rơi rụng. Tất cả những ǵ ta thấy chỉ là những chiếc lá vàng khô rơi rụng đầy sân. Chúng ta đạp đi trên lá, và chúng ta quét sạch. Chỉ thế thôi. Chúng ta không khảo sát tận tường và như vậy, không lănh hội được bài học mà thiên nhiên đang thuyết giảng. Về sau, lá non nở mầm, mọc lên, và ta chỉ thấy bấy nhiêu, không có ǵ hơn nữa. Đó không phải là chân lư được thấu hiểu bằng cách suy gẫm.

 

If we can bring all this inwards and investigate it, we will see that the birth of a tree and our own birth are no different. This body of ours is born and exists dependent on conditions, on the elements of earth, water, wind and fire. It has its food, it grows and grows. Every part of the body changes and flows according to its nature. It's no different from the tree; hair, nails, teeth and skin — all change. If we know the things of nature, then we will know ourselves.

Nếu có thể đem tất cả những dữ kiện ấy vào bên trong và quán chiếu, ta sẽ nhận thấy rằng sự sanh của cội cây và sự sanh của chúng ta không có ǵ khác biệt. Cơ thể nầy của chúng ta được sanh ra và tồn tại tùy thuộc nơi những điều kiện như những nguyên tố đất, nước, lửa, gió. Kế đó nhờ chất dinh dưỡng trong vật thực, nó trưởng thành, và ngày càng lớn lên. Mỗi phần trong cơ thể đều biến đổi và trôi chảy thích ứng với bản chất thiên nhiên của nó. Không có ǵ khác với cội cây, tóc, móng, răng, da v.v... tất cả đều biến đổi. Nếu chúng ta thông hiểu sự vật trong thiên nhiên ta sẽ tự hiểu biết chính ḿnh.

 

People are born. In the end they die. Having died they are born again. Nails, teeth and skin are constantly dying and re-growing. If we understand the practice then we can see that a tree is no different from ourselves. If we understand the teaching of the Ajahns, then we realize that the outside and the inside are comparable. Things which have consciousness and those without consciousness do not differ. They are the same. And if we understand this sameness, then when we see the nature of a tree, for example, we will know that it's no different from our own five khandhas 12 — body, feeling, memory, thinking and consciousness. If we have this understanding then we understand Dhamma. If we understand Dhamma we understand the five khandhas, how they constantly shift and change, never stopping.

Con người được sanh ra rồi cuối cùng, chết. Chết rồi sanh trở lại. Móng, răng, da, cũng vậy, luôn luôn hoại diệt và mọc lên trở lại. Nếu thấu hiểu pháp hành, chúng ta cũng có thể nhận thức rằng cây cối không có ǵ khác chúng ta. Nếu lănh hội được giáo huấn của chư vị thiền sư, chúng ta sẽ nhận thức rằng cảnh vật bên ngoài và bên trong chúng ta cũng tương tợ nhau. Những sự vật hữu giác hữu tri và vô tri vô giác không có ǵ khác nhau. Nó cũng giống như nhau. Và nếu thấu đạt được tánh cách giống nhau ấy, khi thấy bản chất thiên nhiên của một cội cây chẳng hạn, chúng ta sẽ hiểu nó không có ǵ khác biệt với ngũ uẩn của chính ta -- sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Hiểu biết như vậy tức hiểu biết Giáo Pháp. Hiểu biết Giáo Pháp, chúng ta cũng hiểu biết ngũ uẩn luôn luôn di động và không ngừng biến chuyển như thế nào.

 

So whether standing, walking, sitting or lying we should have sati to watch over and look after the mind. When we see external things it's like seeing internals. When we see internals it's the same as seeing externals. If we understand this then we can hear the teaching of the Buddha. If we understand this, then we can say that Buddha-nature, the 'One who knows', has been established. It knows the external. It knows the internal. It understands all things which arise. Understanding like this, then sitting at the foot of a tree we hear the Buddha's teaching. Standing, walking, sitting or lying, we hear the Buddha's teaching. Seeing, hearing, smelling, tasting, touching and thinking, we hear the Buddha's teaching. The Buddha is just this 'One who knows' within this very mind. It knows the Dhamma, it investigates the Dhamma. It's not that the Buddha-nature, the 'one who knows', arises. The mind becomes illumined.

Như vậy, bất luận đi, đứng, nằm, ngồi, chúng ta phải giác tỉnh chú niệm, theo dơi canh chừng tâm ḿnh. Nh́n thấy cảnh vật bên ngoài cũng như thấy sự vật bên trong. Thấy bên trong th́ cũng giống như thấy bên ngoài. Nếu lănh hội đầy đủ điều nầy ắt chúng ta có thể nghe lời dạy của Đức Phật. Nếu thấu hiểu như vậy ta có thể nói rằng Phật tánh hay bản chất Phật, "Người hiểu biết", đă vững vàng an trụ trong tâm ḿnh. "Người hiểu biết" ấy hiểu biết bên ngoài và hiểu biết bên trong. "Người hiểu biết" ấy thấu triệt tất cả sự vật nào phát sanh. Thấu hiểu như vậy, khi ngồi dưới gốc cây ta nghe lời dạy của Đức Phật. Đi, đứng, nằm, ngồi ta nghe Đức Phật giảng dạy. Thấy, nghe, hửi, nếm, sờ đụng và suy tư, ta nghe Đức Phật ban huấn từ. Đức Phật chính là "Người hiểu biết" ấy, bên trong cái tâm nầy! Người ấy hiểu biết Giáo Pháp, quán chiếu Giáo Pháp. Không phải Đức Phật mà xưa kia đă thị hiện trên thế gian nay đến giảng cho chúng ta, nhưng bản chất Phật, hay Phật tánh, "Người hiểu biết" phát sanh. Tâm trở thành sáng tỏ.

 

If we establish the Buddha within our mind then we see everything, we contemplate everything, as no different from ourselves. We see various animals, trees, mountains and vines as no different from ourselves. We see poor people and rich people — they're no different! They all have the same characteristics. One who understands like this is content wherever he is. He listens to the Buddha's teaching at all times. If we don't understand this, then even if we spend all our time listening to teachings from the various Ajahns, we still won't understand their meaning.

Nếu chúng ta tôn trí vững chắc Đức Phật bên trong tâm ḿnh ắt ta thấy tất cả mọi sự vật, quán chiếu tất cả, và nhận thức rằng tất cả đều không có ǵ khác biệt với chúng ta. Chúng ta thấy rằng loài thú, cây cối, núi non, và các loại dây leo đều giống như ta. Chúng ta thấy người nghèo, người giàu -- không có ǵ khác ta. Người da đen, người da trắng -- không khác! Tất cả đều có những đặc tánh như nhau. Người mà thấy được như vậy th́ bất cứ ở đâu cũng cảm nghe thoải mái, hài ḷng. Người ấy lúc nào cũng lắng tai nghe lời dạy của Đức Phật. C̣n nếu không hiểu được như vậy th́ dầu có trải qua suốt cuộc đời của ḿnh để nghe các bài giảng của chư Tăng, người ấy vẫn không thể lănh hội ư nghĩa của lời giảng.

 

The Buddha said that enlightenment of the Dhamma is just knowing Nature, 13 the reality which is all around us, the Nature which is right here! If we don't understand this Nature we experience disappointment and joy, we get lost in moods, giving rise to sorrow and regret. Getting lost in mental objects is getting lost in Nature. When we get lost in Nature then we don't know Dhamma. The Enlightened One merely pointed out this Nature.

Đức Phật dạy rằng chứng ngộ Giáo Pháp chỉ là hiểu biết Thiên Nhiên, hiểu biết thực tại ở quanh ta, hiểu biết bản chất của Thiên Nhiên [8] ở ngay tại đây! Nếu không hiểu biết cái Thiên Nhiên ấy ta sẽ gặp thất vọng và vui mừng, ta sẽ lạc lối trong những cảm xúc buồn vui, làm phát sanh sầu muộn và hối tiếc. Lạc lối trong những đối tượng của tâm (pháp), tức lạc lối trong Thiên Nhiên. Khi đă lạc lối trong Thiên Nhiên ta sẽ không hiểu biết Giáo Pháp. Đấng Giác Ngộ chỉ giản dị vạch cho ta thấy Thiên Nhiên ấy.

 

Having arisen, all things change and die. Things we make, such as plates, bowls and dishes, all have the same characteristic. A bowl is molded into being due to a cause, man's impulse to create, and as we use it, it gets old, breaks up and disappears. Trees, mountains and vines are the same, right up to animals and people.

Tất cả mọi sự vật, khi đă phát sanh ắt biến chuyển và hoại diệt. Những vật mà chúng ta nhồi nắn như chén dĩa, tô, tộ v.v... tất cả đều cùng một đặc tánh. Do nguyên nhân nào đó, như ư muốn thúc đẩy con người sáng tác, một cái chén được nhồi nắn thành h́nh, rồi ta xử dụng cái chén, chén trở nên xưa cũ, bể, và ta không c̣n thấy nó nữa. Cây cối, núi non và các loại dây leo cũng cùng một thế ấy, chí đến thú vật và người ta cũng vậy.

 

When Añña Kondañña, the first disciple, heard the Buddha's teaching for the first time, the realization he had was nothing very complicated. He simply saw that whatever thing is born, that thing must change and grow old as a natural condition and eventually it must die. Añña Kondañña had never thought of this before, or if he had it wasn't thoroughly clear, so he hadn't yet let go, he still clung to the khandhas. As he sat mindfully listening to the Buddha's discourse, Buddha-nature arose in him. He received a sort of Dhamma "transmission," which was the knowledge that all conditioned things are impermanent. Any thing which is born must have aging and death as a natural result

Khi Ngài Anna Kondanna (A Nhă Kiều Trần Như), nghe Đức Phật thuyết giảng lần đầu tiên liền chứng ngộ. Sự chứng ngộ ấy không có ǵ là phức tạp lắm. Ngài chỉ giản dị nhận thức rằng bất luận ǵ được sanh ra đều phải biến đổi, tự nhiên trưởng thành và đến thời kỳ, phải hoại diệt. Trước kia Ngài Anna Kondanna không bao giờ nghĩ đến điều ấy, hoặc có nghĩ chăng nữa, cũng mù mờ, không tận tường, không sáng tỏ, nên Ngài c̣n chấp vào ngũ uẩn mà không buông bỏ. Đến khi ngồi lại giữ chánh niệm, lắng nghe Đức Phật giảng th́ Phật tánh phát sanh đến Ngài. Ngài liền thọ nhận một loại "truyền thống" Giáo Pháp, vốn là sự hiểu biết rằng tất cả các pháp hữu vi đều vô thường. Bất luận ǵ được sanh ra tự nhiên trưởng thành và hoại diệt.

 

This feeling was different from anything he'd ever known before. He truly realized his mind, and so "Buddha" arose within him. At that time the Buddha declared that Añña Kondañña had received the Eye of Dhamma.

Sự chứng nghiệm ấy quả thật khác biệt với bất luận ǵ Ngài được biết từ bao giờ. Ngài thật sự ư thức rơ ràng tâm ḿnh là như vậy, Đức Phật thị hiện bên trong Ngài. Vào lúc bấy giờ Đức Phật tuyên bố rằng Anna Kondanna đă thọ nhận Pháp Nhăn (nhăn quan của Giáo Pháp).

 

What is it that this Eye of Dhamma sees? This Eye sees that whatever is born has aging and death as a natural result. "Whatever is born" means everything! Whether material or immaterial, it all comes under this "whatever is born." It refers to all of Nature. Like this body for instance — it's born and then proceeds to extinction. When it's small it "dies" from smallness to youth. After a while it "dies" from youth and becomes middle-aged. Then it goes on to "die" from middle-age and reach old-age, finally reaching the end. Trees, mountains and vines all have this characteristic.

Pháp nhăn ấy trông thấy ǵ? Mắt ấy thấy rằng hậu quả dĩ nhiên của bất luận ǵ được sanh ra là trưởng thành và hoại diệt. "Bất luận ǵ được sanh ra" có nghĩa là tất cả mọi sự vật! Dầu vật chất hay tinh thần, tất cả đều nằm trong phạm vi của "bất luận ǵ được sanh ra". Đoạn nầy hàm xúc tất cả Thiên Nhiên. Như thân nầy chẳng hạn -- nó được sanh ra và tiến dần đến hoại diệt. Khi c̣n thơ ấu, nó "diệt" từ trong trạng thái thơ ấu ấy để trở nên "thiếu nhi". Một thời gian sau nó "diệt" từ trạng thái thiếu nhi để trở nên thanh niên, và nó tiếp tục "diệt" từ thanh niên để bước vào trung niên, rồi "diệt" từ trung niên để đến lăo niên và cuối cùng, chấm dứt kiếp sống. Cây cối, núi non, và các loài dây leo đều mang cùng một đặc tánh, giống như nhau.

 

So the vision or understanding of the 'One who knows' clearly entered the mind of Añña Kondañña as he sat there. This knowledge of "whatever is born" became deeply embedded in his mind, enabling him to uproot attachment to the body. This attachment was sakkayaditthi. This means that he didn't take the body to be a self or a being, or in terms of "he" or "me." He didn't cling to it. He saw it clearly, thus uprooting sakkayaditthi

Như vậy, tri kiến hay tuệ giác của "Người hiểu biết" rơ ràng phát hiện vào tâm của Ngài Kondanna ngay lúc Ngài ngồi đó. Sự hiểu biết tận tường về "bất luận ǵ được sanh ra" đă được vững chắc tôn trí một cách thâm sâu vào tâm năo làm cho Ngài có đủ khả năng nhổ tận gốc rễ mọi luyến ái bám níu vào cơ thể ḿnh. Luyến ái ấy là thân kiến "sakkàya ditthi". Điều nầy có nghĩa là Ngài không xem thân nầy là một tự ngă, một chúng sanh. Ngài không nh́n nó trong ư nghĩa "tôi" hay "nó" và không bám níu vào nó. Ngài ư thức rơ ràng và do đó, tận diệt thân kiến, sakkàya ditthi.

 

And the vicikiccha (doubt) was destroyed. Having uprooted attachment to the body he didn't doubt his realization. Silabbata paramasa 14 was also uprooted. His practice became firm and straight. Even if his body was in pain or fever he didn't grasp it, he didn't doubt. He didn't doubt, because he had uprooted clinging. This grasping of the body is called silabbata paramasa. When one uproots the view of the body being the self, grasping and doubt are finished with. If just this view of the body as the self arises within the mind then grasping and doubt begin right there.

Rồi hoài nghi (vicikicchà) cũng tận diệt. Khi đă nhổ tận gốc rễ mọi luyến ái bàm níu vào thân (thân kiến) Ngài không c̣n chút ǵ hoài nghi về sự chứng ngộ của ḿnh. Rồi giới cấm thủ (ślabbata paràmàsa) cũng tận diệt. [9] Lúc bấy giờ pháp hành của Ngài Kondanna trở nên vững vàng và trực tiến. Cho dù thân có đau đớn hay sốt nóng Ngài cũng không bám vào đó, không hoài nghi. Ngài không hoài nghi v́ đă tận diệt luyến ái. Khi ta nhổ tận gốc rễ quan kiến chấp rằng thân nầy là tự ngă th́ sự luyến ái dính mắc vào thân và hoài nghi cũng chấm dứt cùng với nó. Nếu có ư niệm chấp rằng thân nầy là tự ngă phát sanh trong tâm th́ hoài nghi và giới cấm thủ cũng bắt đầu ngay tại đó.

 

So as the Buddha expounded the Dhamma, Añña Kondañña opened the Eye of Dhamma. This Eye is just the "One who knows clearly." It sees things differently. It sees this very nature. Seeing Nature clearly, clinging is uprooted and the 'One who knows' is born. Previously he knew but he still had clinging. You could say that he knew the Dhamma but he still hadn't seen it, or he had seen the Dhamma but still wasn't one with it.

Như vậy, ngay vào lúc Đức Phật thuyết giảng xong Giáo Pháp th́ Ngài Anna Kondanna khai thông Pháp Nhăn. "Mắt của Giáo Pháp" ấy chỉ là "Người hiểu biết rơ ràng". Lối nh́n mới mẻ. Nó thấy chính cái Thiên Nhiên nầy. Nhận thấy Thiên Nhiên một cách rơ ràng, tường tận, nhổ tận gốc rễ mọi bám níu (thủ), và "Người hiểu biết" được sanh ra đời. Trước đó Ngài hiểu biết, nhưng vẫn c̣n "thủ". Quư vị có thể nói rằng trước kia Ngài hiểu biết Giáo Pháp nhưng vẫn c̣n chưa thấy Giáo Pháp, hoặc nữa, quư vị có thể nói là Ngài đă thấy Giáo Pháp nhưng chưa tự ḿnh đồng hóa, đồng nhất thể, chưa là một với Giáo Pháp.

 

At this time the Buddha said, "Kondañña knows." What did he know? He just knew Nature! Usually we get lost in Nature, as with this body of ours. Earth, water, fire and wind come together to make this body. It's an aspect of Nature, a material object we can see with the eye. It exists depending on food, growing and changing until finally it reaches extinction.

Vào lúc ấy Đức Phật tuyên bố, "Kondanna đă hiểu biết". Hiểu biết ǵ? Ngài chỉ hiểu biết Thiên Nhiên! Thông thường chúng ta lạc lối trong Thiên Nhiên, cũng như ta lạc lối trong thân nầy. Đất, nước, lửa và gió hợp lại cấu thành cơ thể nầy của chúng ta. Đó là một sắc thái của Thiên Nhiên, một h́nh thể vật chất mà mắt ta có thể thấy. Nó tồn tại nhờ vật thực, rồi trưởng thành và biến đổi đến sau cùng, hoại diệt.

 

Coming inwards, that which watches over the body is consciousness — just this 'One who knows', this single awareness. If it receives through the ear it's called hearing; through the nose it's called smelling; through the tongue, tasting; through the body, touching; and through the mind, thinking. This consciousness is just one but when it functions at different places we call it different things. Through the eye we call it one thing, through the ear we call it another. But whether it functions at the eye, ear, nose, tongue, body or mind it's just one awareness. Following the scriptures we call it the six consciousness, but in reality there is only one consciousness arising at these six different bases. There are six "doors" but a single awareness, which is this very mind.

Bây giờ đi trở vào bên trong, cái mà theo dơi trông chừng thân là thức -- chỉ là "người hiểu biết", chỉ giản dị là sự hay biết. Nếu sự hay biết ấy được thâu nhận xuyên qua mắt th́ được gọi là nhăn thức, xuyên qua tai th́ được gọi là nhĩ thức, qua mũi là tỷ thức, qua lưỡi là thiệt thức, qua thân là thân thức và qua ư là ư thức. Thức th́ chỉ có một, nhưng nó tác động ở nhiều nơi khác nhau nên ta gọi bằng nhiều danh từ khác nhau. Xuyên qua mắt th́ được gọi bằng tên nầy, qua tai ta lại gọi bằng một tên khác. Tuy nhiên, dầu tác động xuyên qua mắt tai, mũi, lưỡi, thân hay ư, chỉ có một sự hay biết. Theo ngôn ngữ của kinh điển ta gọi là lục thức, nhưng trong thực tế chỉ có cái thức duy nhất phát sanh ở sáu căn khác nhau. Có sáu cửa vào, "lục nhập", nhưng chỉ có một sự hay biết duy nhất, vốn là cái tâm nầy.

 

This mind is capable of knowing the truth of Nature. If the mind still has obstructions, then we say it knows through ignorance. It knows wrongly and it sees wrongly. Knowing wrongly and seeing wrongly, or knowing and seeing rightly, it's just a single awareness. We say wrong view and right view but it's just one thing. Right and wrong both arise from this one place. When there is wrong knowledge we say that Ignorance conceals the truth. When there is wrong knowledge then there is wrong view, wrong intention, wrong action, wrong livelihood — everything is wrong! And on the other hand the path of right practice is born in this same place. When there is right then the wrong disappears.

Tâm nầy có khả năng hiểu biết chân lư của Thiên Nhiên. Nếu tâm vẫn c̣n bị che lấp, ta nói rằng nó hiểu biết xuyên qua Vô Minh. Nó hiểu sai lầm và nó thấy sai lầm. Hiểu sai lầm, thấy sai lầm hoặc hiểu và thấy sai lầm hoặc hiểu và thấy đúng chỉ là sự hay biết duy nhất. Chúng ta nói Tà Kiến và Chánh Kiến nhưng kỳ thật chỉ là một. Cả hai, tà và chánh, đều phát sanh từ một nơi. Khi là một kiến thức sai lầm, ta nói Vô Minh che lấp chân lư. Khi mà kiến thức sai lầm, nó kéo theo cả dây: Tà Kiến, Tà Tư Duy, Tà Ngữ, Tà Nghiệp, Tà Mạng ... tất cả đều tà! Đàng khác, con đường của pháp hành chân chánh cũng phát xuất từ một nơi đó. Khi có Chánh th́ Tà biến dạng.

 

The Buddha practiced enduring many hardships and torturing himself with fasting and so on, but he investigated deeply into his mind until finally he uprooted ignorance. All the Buddhas were enlightened in mind, because the body knows nothing. You can let it eat or not, it doesn't matter, it can die at any time. The Buddhas all practiced with the mind. They were enlightened in mind.

Đức Phật thực hành khổ hạnh, chịu đựng nhiều gian truân khổ nhọc, đau đớn và tự ép xác khổ hạnh, nhịn ăn v.v... nhưng Ngài quán chiếu thâm sâu vào bên trong tâm cho đến khi cuối cùng nhổ tận gốc rễ mầm mống Vô Minh. Tất cả chư Phật đều giác ngộ từ trong tâm, bởi v́ thân nào có biết ǵ. Quư vị có thể cho nó ăn hoặc bắt nó nhịn đói cũng không sao. Nó có thể chết bất cứ lúc nào. Tất cả chư Phật đều thực hành với tâm. Các Ngài giác ngộ trong tâm.

 

The Buddha, having contemplated his mind, gave up the two extremes of practice — indulgence in pleasure and indulgence in pain — and in his first discourse expounded the Middle Way between these two. But we hear his teaching and it grates against our desires. We're infatuated with pleasure and comfort, infatuated with happiness, thinking we are good, we are fine — this is indulgence in pleasure. It's not the right path. Dissatisfaction, displeasure, dislike and anger — this is indulgence in pain. These are the extreme ways which one on the path of practice should avoid.

Đức Phật quán chiếu tự tại và từ bỏ hai pháp hành cực đoan -- Lợi dưỡng, buông lung ch́m đắm trong Dục Lạc, và Lợi Dưỡng trong Đau khổ -- và trong Bài Pháp Đầu Tiên (Kinh Chuyển Pháp Luân) Ngài thuyết giảng Trung Đạo, Con Đường khoảng giữa hai cực đoan ấy. Nhưng khi nghe những lời dạy ấy th́ nó chạm ḷng ham muốn của ta. Ta đắm ch́m trong dục lạc và tiện nghi, ta mê say trong hạnh phúc, nghĩ rằng những điều ấy là tốt đẹp -- đó là Lợi Dưỡng, buông lung trong Dục Lạc. Đó không phải là con đường chân chánh. Bất măn, không vui, không thích, và sân hận -- đó là Lợi Dưỡng, buông lung trong Đau Khổ. Trên đây là hai cực đoan mà người đi trên con đường thực hành nên tránh.

 

These "ways" are simply the happiness and unhappiness which arise. The "one on the path" is this very mind, the 'One who knows'. If a good mood arises we cling to it as good, this is indulgence in pleasure. If an unpleasant mood arises we cling to it through dislike- this is indulgence in pain. These are the wrong paths, they aren't the ways of a meditator. They're the ways of the worldly, those who look for fun and happiness and shun unpleasantness and suffering.

Những "con đường" cực đoan ấy chỉ giản dị là hạnh phúc và đau khổ phát sanh đến ta. "Người đi trên Con Đường" chính là cái tâm nầy, chính là "người hiểu biết". Nếu một cảm xúc dễ chịu đến, chúng ta bám níu vào điều tốt đẹp ấy, đó là Lợi Dưỡng trong Dục Lạc. Khi một xúc cảm khó chịu phát sanh, chúng ta bám vào đó bằng cách không ưa thích, đó là Lợi Dưỡng trong Đau Khổ. Cả hai đều là con đường lầm lạc, không phải là con đường của người hành thiền. Đó là con đường của người thế gian, những người đi t́m vui sướng và hạnh phúc, cố tránh sầu muộn và đau khổ.

 

The wise know the wrong paths but they relinquish them, they give them up. They are unmoved by pleasure and displeasure, happiness and unhappiness. These things arise but those who know don't cling to them, they let them go according to their nature. This is right view. When one knows this fully there is liberation. Happiness and unhappiness have no meaning for an Enlightened One. The Buddha said that the Enlightened Ones were far from defilements. This doesn't mean that they ran away from defilements, they didn't run away anywhere. Defilements were there. He compared it to a lotus leaf in a pond of water. The leaf and the water exist together, they are in contact, but the leaf doesn't become damp. The water is like defilements and the lotus leaf is the Enlightened Mind.

Người có trí tuệ biết những con đường lầm lạc nhưng không tự buông trôi đắm ch́m trong đó mà dứt bỏ, tách ĺa ra khỏi nó. Người ấy không để bị dục lạc và bất toại nguyện, hạnh phúc và đau khổ, gây xúc động. Nó phát sanh đến, nhưng người sáng suốt hiểu biết không bám vào mà buông bỏ, để nó đi theo bản chất thiên nhiên của nó. Đó là Chánh Kiến. Khi đă thấu triệt tận tường như thế ắt có giải thoát. Hạnh phúc và đau khổ không có nghĩa lư ǵ đối với người đă giác ngộ. Đức Phật dạy rằng bậc Giác Ngộ xa ĺa ô nhiễm. Điều nầy không có nghĩa là các Ngài bỏ chạy, tránh xa ô nhiễm. Các Ngài không chạy đi đâu cả. Ô nhiễm vẫn ở đó. Ngài lấy thí dụ lá sen trong đầm. Lá sen trầm ḿnh trong nước, nhưng nước không thấm vào. Nước như ô nhiễm và lá sen như tâm của bậc Giác Ngộ

 

The mind of one who practices is the same; it doesn't run away anywhere, it stays right there. Good, evil, happiness, and unhappiness, right and wrong arise, and he knows them all. The meditator simply knows them, they don't enter his mind. That is, he has no clinging. He is simply the experiencer. To say he simply experiences is our common language. In the language of Dhamma we say he lets his mind follow the Middle Way.

Tâm của người hành thiền cũng như thế ấy, không bỏ chạy đi đâu, mà vẫn ở ngay tại đó. Thiện và ác, hạnh phúc và đau khổ, chánh và tà, phát sanh -- hành giả hiểu biết tất cả. Chỉ giản dị hiểu biết mà không để cho nó xâm nhập vào tâm ḿnh. Hành giả chỉ là người chứng nghiệm mà không bám níu. Nói rằng hành giả chỉ là người chứng nghiệm suông là nói theo ngôn ngữ thông thường của người đời. Trong ngôn ngữ của Giáo Pháp chúng ta nói rằng người hành thiền để cho tâm ḿnh đi theo Trung Đạo.

 

These activities of happiness, unhappiness and so on are constantly arising because they are characteristics of the world. The Buddha was enlightened in the world, he contemplated the world. If he hadn't contemplated the world, if he hadn't seen the world, he couldn't have risen above it. The Buddha's Enlightenment was simply enlightenment of this very world. The world was still there: gain and loss, praise and criticism, fame and disrepute, happiness and unhappiness were still there. If there weren't these things there would be nothing to become enlightened to! What he knew was just the world, that which surrounds the hearts of people. If people follow these things, seeking praise and fame, gain and happiness, and trying to avoid their opposites, they sink under the weight of the world.

Những sinh hoạt của hạnh phúc và đau khổ v.v... luôn luôn phát sanh, bởi v́ nó là đặc tánh của thế gian. Đức Phật thành đạt sự giác ngộ của Ngài trong thế gian, Ngài quán chiếu thế gian. Nếu không quán chiếu thế gian ắt Ngài không trông thấy thế gian và như vậy, không thể vượt lên trên, khỏi thế gian. Sự giác ngộ của Đức Phật chỉ giản dị là giác ngộ chính thế gian nầy. Thế gian vẫn c̣n đó: lợi lộc và lỗ lă, tán dương và khiển trách, danh thơm và tiếng xấu, hạnh phúc và đau khổ, tất cả đều vẫn c̣n đó. Nếu không có những hiện tượng ấy ắt không có ǵ để giác ngộ. Điều mà Ngài hiểu biết chỉ là thế gian, những ǵ bao quanh tâm năo của con người. Nếu con người chạy theo những cái ấy, mong t́m được tán dương, danh vọng, lợi lộc, và hạnh phúc, và cố gắng tránh những t́nh trạng đối nghịch, con người sẽ bị ch́m sâu dưới trọng lượng của thế gian.

 

Gain and loss, praise and criticism, fame and disrepute, happiness and unhappiness — this is the world. The person who is lost in the world has no path of escape, the world overwhelms him. This world follows the Law of Dhamma so we call it worldly dhamma. He who lives within the worldly dhamma is called a worldly being. He lives surrounded by confusion.

Lợi lộc và lỗ lă, tán dương và khiển trách, danh thơm và tiếng xấu, hạnh phúc và đau khổ -- đó là thế gian. Người lạc lối trong thế gian không có đường để lẩn thoát. Người ấy đă bị thế gian tràn ngập. Thế gian theo Định Luật của Giáo Pháp, v́ lẽ ấy chúng ta gọi là Thế Gian Pháp, Giáo Pháp của Thế Gian. Người sống trong Thế Gian Pháp được gọi là chúng sanh trong thế gian. Người ấy sống trong t́nh trạng rối loạn.

 

Therefore the Buddha taught us to develop the path. We can divide it up into morality, concentration and wisdom — develop them to completion! This is the path of practice which destroys the world. Where is this world? It is just in the minds of beings infatuated with it! The action of clinging to praise, gain, fame, happiness and unhappiness is called "world." when it is there in the mind, then the world arises, the worldly being is born. The world is born because of desire. Desire is the birthplace of all worlds. To put an end to desire is to put an end to the world.

V́ lẽ ấy Đức Phật dạy chúng ta phát triển Con Đường. Chúng ta có thể phân chia Con Đường ấy thành Giới, Định, Tuệ -- và trau giồi, phát triển trọn vẹn, đầy đủ, đến tận cùng. Đây là Con Đường thực hành nhằm tiêu diệt thế gian. Thế gian ở đâu? Nó ở ngay trong tâm, và chúng sanh say đắm trong ấy! Hành động nào bám níu vào lời khen tặng, lợi lộc, danh vọng và hạnh phúc được gọi là "thế gian". Khi nó ở tại đó, trong tâm, th́ thế gian được sanh ra. Thế gian được sanh ra chỉ v́ tại ham muốn. Ḷng ham muốn là nơi chôn nhau cắt rún của tất cả thế gian. Chấm dứt ham muốn tức chấm dứt thế gian.

 

Our practice of morality, concentration and wisdom is otherwise called the Eightfold Path. This Eightfold Path and the eight worldly dhammas are a pair. How is it that they are a pair? If we speak according to the scriptures, we say that gain and loss, praise and criticism, fame and disrepute, happiness and unhappiness are the eight worldly dhammas. Right view, Right Intention, Right Speech, Right Action, Right Livelihood, Right Effort, Right Mindfulness and Right Concentration, this is the Eightfold Path. These two eightfold ways exist in the same place. The eight worldly dhammas are right here in this very mind, with the 'One who knows' but this 'One who knows' has obstructions, so it knows wrongly and thus becomes the world. It's just this one 'One who knows', no other! The Buddha-nature has not yet arisen in this mind, it has not yet extracted itself from the world. The mind like this is the world.

Pháp hành Giới, Định, Tuệ của chúng ta cũng được gọi là Bát Chánh Đạo. Bát Chánh Đạo cùng với Tám Thế Gian Pháp là một cặp. Thế nào Bát Chánh Đạo và Tám Thế Gian Pháp là một cặp? Nếu nói theo kinh điển th́ lợi lộc và lỗ lă, tán dương và khiển trách, danh thơm và tiếng xấu, hạnh phúc và đau khổ là Tám Thế Gian Pháp. Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định là Bát Chánh Đạo. Hai con đường bao gồm tám chi nầy -- Tám Thế Gian Pháp và Bát Chánh Đạo -- cùng tồn tại chung một nơi. Tám Thế Gian Pháp ở ngay tại đây, trong chính cái tâm nầy, cùng với "người hiểu biết". Nhưng v́ "người hiểu biết" nầy bị che lấp nên hiểu biết sai lầm và do đó trở thành thế gian. Chỉ có một người ấy, "người hiểu biết", không ai khác! Bản chất Phật, hay Phật tánh chưa phát sanh trong tâm nầy, nó chưa tự rút được ra khỏi thế gian. Một cái tâm như thế ấy là thế gian.

 

When we practice the path, when we train our body and speech, it's all done in that very same mind. It's the same place so they see each other; the path sees the world. If we practice with this mind of ours we encounter this clinging to praise, fame, pleasure and happiness, we see the attachment to the world.

Khi chúng ta thực hành trên Con Đường, khi chúng ta rèn luyện thân và khẩu, tất cả đều xảy diễn trong chính cái tâm nầy. V́ cùng ở chung một nơi nên Con Đường và thế gian trông thấy nhau. Con Đường trông thấy thế gian. Nếu thực hành với cái tâm ấy chúng ta sẽ gặp sự bám níu vào những lời khen tặng, danh vọng, dục lạc và hạnh phúc. Chúng ta thấy luyến ái thế gian.

 

The Buddha said, "You should know the world. It dazzles like a king's royal carriage. Fools are entranced, but the wise are not deceived." It's not that he wanted us to go all over the world looking at everything, studying everything about it. He simply wanted us to watch this mind which is attached to it. When the Buddha told us to look at the world he didn't want us to get stuck in it, he wanted us to investigate it, because the world is born just in this mind. sitting in the shade of a tree you can look at the world. When there is desire the world comes into being right there. Wanting is the birth place of the world. To extinguish wanting is to extinguish the world.

Đức Phật dạy, "Hăy hiểu biết thế gian. Nó rực rỡ sáng ngời như chiếc long xa của nhà vua. Kẻ cuồng si say mê, nhưng người trí th́ không bị phỉnh gạt". Không phải Ngài muốn cho chúng ta đi cùng khắp thế gian để nh́n xem, khảo sát và học hỏi mọi sự vật trong thế gian. Ngài chỉ muốn chúng ta theo dơi và quan sát cái tâm nầy, vốn tùy thuộc nơi thế gian. Khi Đức Phật dạy ta hăy nh́n xem thế gian, không phải Ngài muốn chúng ta bị dính kẹt trong đó. Ngài muốn chúng ta khảo sát, bởi v́ thế gian được sanh ra trong chính cái tâm nầy. Ngồi dưới bóng mát của một cội cây, quư vị cũng có thể nh́n thế gian. Khi có ḷng ham muốn, thế gian phát hiện ngay tại đó. Khát vọng là sinh quán của thế gian. Dập tắt khát vọng tức dập tắt thế gian.

 

When we sit in meditation we want the mind to become peaceful, but it's not peaceful. Why is this? We don't want to think but we think. It's like a person who goes to sit on an ant's nest: the ants just keep on biting him. When the mind is the world then even sitting still with our eyes closed, all we see is the world. Pleasure, sorrow, anxiety, confusion — it all arises. Why is this? It's because we still haven't realized Dhamma. If the mind is like this the meditator can't endure the worldly dhammas, he doesn't investigate. It's just the same as if he were sitting on an ants' nest. The ants are going to bite because he's right on their home! So what should he do? He should look for some poison or use fire to drive them out.

Khi ngồi thiền chúng ta muốn tâm an lạc, nhưng nó không an lạc. Tại sao? Chúng ta không muốn suy tư, nhưng chúng ta suy tư. Chao ôi! Cũng giống như người kia ngồi nhằm trên ổ kiến. Kiến bu lại, cắn tứ tung. Khi tâm là thế gian th́ dầu có ngồi nhắm hai mắt lại, ta chỉ thấy thế gian, lạc thú, ưu phiền, lo âu, rối trí -- tất cả đều khởi dậy. Tại sao? Là bởi v́ chúng ta chưa chứng ngộ Giáo Pháp. Nếu tâm mà như thế ấy hành giả không quán chiếu. Cũng chỉ giống như ngồi trên ổ kiến. Kiến bu lại cắn bởi v́ ta ngồi ngay trên nhà của nó. Như vậy th́ phải làm sao? Phải t́m một chất độc, hoặc dùng lửa để đuổi kiến đi.

 

But most Dhamma practitioners don't see it like that. If they feel content they just follow contentment, feeling discontent they just follow that. Following the worldly dhammas the mind becomes the world. Sometimes we may think, "Oh, I can't do it, it's beyond me...", so we don't even try! This is because the mind is full of defilements, the worldly dhammas prevent the path from arising. We can't endure in the development of morality, concentration and wisdom. It's just like that man sitting on the ants' nest. He can't do anything, the ants are biting and crawling all over him, he's immersed in confusion and agitation. He can't rid his sitting place of the danger, so he just sits there, suffering.

Tuy nhiên, phần lớn những người thực hành Giáo Pháp không thấy như vậy. Nếu cảm nghe vừa ḷng, họ chỉ đeo dính theo trạng thái vừa ḷng ấy, cảm nghe phật ư, họ chỉ dính kẹt trong t́nh trạng phật ư. Đeo níu, bám chặt (thủ) thế gian pháp, tâm họ trở thành thế gian. Đôi khi chúng ta nghĩ, "ồ, ta không thể làm được điều ấy, điều ấy vượt khỏi phạm vi khả năng của ta ..." và rồi ta không cố gắng. Đó là bởi v́ tâm đầy ô nhiễm. Các thế gian pháp không để cho Con Đường phát sanh. Chúng ta không thể nhẫn nại chịu đựng công tŕnh phát triển Giới, Định, và Tuệ Minh Sát. Cũng chỉ giống như người ngồi trên ổ kiến! Người ấy không thể làm ǵ. Kiến bu ráp lại cắn và ḅ khắp châu thân. Người ấy bị ch́m đắm trong t́nh trạng rối loạn và khuấy động. Anh ta không thể rời bỏ được chỗ ngồi nguy hiểm, và do đó cứ ngồi lỳ chịu đau khổ.

 

So it is with our practice. The worldly dhammas exist in the minds of worldly beings. When those beings wish to find peace the worldly dhammas arise right there. When the mind is ignorant there is only darkness. When knowledge arises the mind is illumined, because ignorance and knowledge are born in the same place. When ignorance has arisen, knowledge can't enter, because the mind has accepted ignorance. When knowledge has arisen, ignorance cannot stay.

Với pháp hành của chúng ta cũng vậy. Thế gian pháp đă tồn tại, nằm sẵn trong tâm chúng sanh. Khi các chúng sanh ấy muốn t́m an lạc, thế gian liền phát sanh ngay tại đó. Tâm c̣n vô minh th́ chỉ có đêm tối. Khi tuệ giác phát sanh, tâm trở nên sáng tỏ, bởi v́ vô minh và tuệ giác đều sanh ra cùng trong một chỗ. Khi vô minh phát sanh, tuệ giác không thể vào, bởi v́ tâm đă chấp nhận vô minh. Khi tuệ giác phát sanh, vô minh không thể hiện hữu tại đó.

 

So the Buddha exhorted his disciples to practice with the mind, because the world is born in this mind, the eight worldly dhammas are there. The Eightfold Path, that is, investigation through calm and insight meditation, our diligent effort and the wisdom we develop, all these things loosen the grip of the world. Attachment, aversion and delusion become lighter, and being lighter, we know them as such. If we experience fame, material gain, praise, happiness or suffering we're aware of it. We must know these things before we can transcend the world, because the world is within us.

V́ lẽ ấy Đức Phật kêu gọi các đệ tử nên thực hành với tâm (tức hành thiền), bởi v́ thế gian được sanh ra từ trong tâm. Tám thế gian pháp nằm ngay tại đó. Bát Chánh Đạo, tức sự quán chiếu bằng thiền Vắng Lặng và thiền Minh Sát, đức hạnh tinh tấn chuyên cần của chúng ta và trí tuệ mà chúng ta khai triển, tất cả những công tŕnh ấy tháo gỡ nanh vuốt của thế gian. Tham ái, bám níu, sân hận, và si mê dần dần suy giảm, và chúng sanh nhẹ nhàng hơn, chúng ta hiểu biết đúng như vậy. Nếu có danh vọng, lợi lộc, hoặc có lời tán dương, có hạnh phúc hay đau khổ, chúng ta hay biết điều ấy. Chúng ta cần phải hiểu biết những điều ấy trước khi có thể vượt lên, thoát ra khỏi thế gian, bởi v́ thế gian ở bên trong chúng ta.

 

When we're free of these things it's just like leaving a house. When we enter a house what sort of feeling do we have? We feel that we've come through the door and entered the house. When we leave the house we feel that we've left it, we come into the bright sunlight, it's not dark like it was inside. The action of the mind entering the worldly dhammas is like entering the house. The mind which has destroyed the worldly dhammas is like one who has left the house.

Ta thoát ra khỏi các thế gian pháp cũng giống như khi ta rời khỏi một ngôi nhà. Khi vào nhà ta có cảm giác như thế nào? Chúng ta cảm giác là ḿnh đi ngang qua cửa và bước vào nhà. Khi ĺa nhà ta cảm giác là đă ĺa khỏi ngôi nhà và bước vào ánh sáng mặt trời, không c̣n tối tăm như lúc c̣n ở bên trong. Khi tâm vào thế gian pháp cũng giống như ta vào nhà. Khi tâm đă diệt trừ các thế gian pháp cũng giống như ta rời khỏi nhà.

 

So the Dhamma practitioner must become one who witnesses the Dhamma for himself. He knows for himself whether the worldly dhammas have left or not, whether or not the path has been developed. When the path has been well developed it purges the worldly dhammas. It becomes stronger and stronger. Right view grows as wrong view decreases, until finally the path destroys defilements — either that or defilements will destroy the path!

Như vậy hành giả phải tự ḿnh chứng nghiệm Giáo Pháp. Tự ḿnh, hành giả phải hiểu biết đă tách rời ra khỏi thế gian pháp hay chưa, Con Đường đă được phát triển hay chưa. Khi Con Đường đă phát triển tốt đẹp th́ nó đánh đuổi thế gian pháp, trở thành ngày càng vững chắc, ngày càng lớn mạnh. Chánh Kiến tăng trưởng, Tà kiến giảm suy, cho đến sau cùng Con Đường tiêu diệt ô nhiễm -- nếu không vậy th́ ô nhiễm sẽ tiêu diệt Con Đường.

 

Right view and wrong view, there are only these two ways. Wrong view has its tricks as well, you know, it has its wisdom — but it's wisdom that's misguided. The meditator who begins to develop the path experiences a separation. Eventually it's as if he is two people — one in the world and the other on the path. They divide, they pull apart. Whenever he's investigating there's this separation, and it continues on and on until the mind reaches insight, vipassana.

Chánh Kiến và Tà Kiến, chỉ có hai con đường ấy. Tà Kiến cũng có mánh khoé của nó, quư vị biết không, nó có trí tuệ -- nhưng đó là trí tuệ được trá h́nh. Vị hành giả bắt đầu phát triển Con Đường ắt có chứng nghiệm một sự phân chia. Giống như là có hai người -- một trong thế gian và một trên Con Đường. Nó phân chia tách rời ra. Bất luận lúc nào hành giả quán chiếu ắt cảm giác sự phân chia ấy và nó tiếp tục diễn tiến như vậy cho đến khi tâm thành đạt tuệ Minh Sát (Vipassana).

 

Or maybe it's vipassanu! 15 Having tried to establish wholesome results in our practice, seeing them, we attach to them. This type of clinging comes from our wanting to get something from the practice. This is vipassanu, the wisdom of defilements (i.e., "defiled wisdom"). Some people develop goodness and cling to it, they develop purity and cling to that, or they develop knowledge and cling to that. The action of clinging to that goodness or knowledge is vipassanu, infiltrating our practice.

Hoặc nữa, có thể đó là Vipassanù! [10]. Đang cố gắng tạo những thành quả trong sạch trong pháp hành, khi nh́n thấy nó chúng ta liền chụp lấy, bám chặt vào nó. Loại bám níu nầy phát sanh từ ḷng ham muốn thành đạt một cái ǵ trong pháp hành. Đó là vipassanù, trí tuệ của ô nhiễm (hay tùy phiền năo). Vài người phát triển trạng thái tốt đẹp rồi bám vào đó, họ phát triển trạng thái trong sạch và bám vào đó, hoặc họ phát triển tuệ giác và bám vào đó. Hành động bám níu vào trạng thái tốt đẹp hay tuệ giác là vipassanù. Nó len lỏi xâm nhập vào pháp hành của chúng ta.

 

So when you develop vipassana, be careful! Watch out for vipassanu, because they're so close that sometimes you can't tell them apart. But with right view we can see them both clearly. If it's vipassanu there will be suffering arising at times as a result. If it's really vipassana there's no suffering. There is peace. Both happiness and unhappiness are silenced. This you can see for yourself. This practice requires endurance. Some people, when they come to practice, don't want to be bothered by anything, they don't want friction. But there's friction the same as before. We must try to find an end to friction through friction itself! So, if there's friction in your practice, then it's right. If there's no friction it's not right, you just eat and sleep as much as you want. When you want to go anywhere or say anything you just follow your desires. The teaching of the Buddha grates. The supermundane goes against the worldly. Right view opposes wrong view, purity opposes impurity. The teaching grates against our desires.

Như vậy, khi quư vị phát triển Tuệ Minh Sát hăy thận trọng coi chừng! Hăy cẩn thận nh́n xem có phải là vipassanù không, bởi v́ hai hiện tượng ấy rất giống nhau, đến độ đôi khi ta không thể phân biệt. Tuy nhiên, với Chánh Kiến chúng ta có thể nhận thức rơ ràng cả hai. Nếu là vipassanù ắt có đau khổ phát sanh. Nếu thật sự là vipassanà, Tuệ Minh Sát, th́ không có đau khổ. Có an lạc, c̣n hạnh phúc và đau khổ, cả hai đều vắng bóng, im ĺm. Vài người khi đến đây hành thiền không muốn có ǵ bận rộn. Họ không muốn bị chao động. Nhưng họ cũng chao động như trước kia. Chúng ta phải t́m cách chấm dứt chao động trong chính trạng thái chao động ấy! Như vậy, nếu có chao động trong khi quư vị thực hành, đó là đúng. Nếu không có chao động là không đúng, quư vị chỉ ăn và ngủ nhiều chừng nào cũng được. Khi muốn đi đâu hay nói ǵ quư vị chỉ làm theo ư muốn. Như vậy lời dạy của Đức Phật nghe không xuôi tai. Siêu thế quả thật trái ngược với tại thế. Chánh Kiến đối nghịch với Tà Kiến, trong sạch đối nghịch với ô trược, Giáo Huấn của Đức Phật va chạm tham vọng của chúng ta.

 

There's a story in the scriptures about the Buddha, before he was enlightened. At that time, having received a plate of rice, he floated that plate on a stream of water, determining in his mind, "If I am to be enlightened, may this plate float against the current of the water." The plate floated upstream! That plate was the Buddha's right view, or the Buddha-nature that he became awakened to. It didn't follow the desires of ordinary beings. It floated against the flow of his mind, it was contrary in every way.

Trong kinh điển có một câu chuyện về Đức Phật trước khi Ngài Thành Đạo. Lần nọ, khi có người dâng cúng một b́nh bát, Ngài lấy cái bát thả nổi trên ḍng suối và chú nguyện trong ḷng, "Nếu ta sẽ thành Phật xin cái b́nh bát nầy trôi ngược ḍng trở lên." Cái bát trôi trở lên, ngược ḍng! Cái bát ấy là Chánh Kiến của Đức Phật, hay Phật tánh mà Ngài sẽ thức tỉnh. Nó không theo một chiều với ḷng tham của hạng chúng sanh thường. Nó trôi ngược ḍng trôi chảy của tâm chúng sanh, đối nghịch trên mọi phương diện.

 

These days, in the same way, the Buddha's teaching is contrary to our hearts. People want to indulge in greed and hatred but the Buddha won't let them. They want to be deluded but the Buddha destroys delusion. So the mind of the Buddha is contrary to that of worldly beings. The world calls the body beautiful, he says it's not beautiful. They say the body belongs to us, he says not so. They say it's substantial, he says it's not. Right view is above the world. Worldly beings merely follow the flow of the stream.

Ngày nay cũng vậy, giáo huấn của Đức Phật đối nghịch với tâm chúng ta. Nó chỉ tiêu diệt! Con người muốn buông lung, lăn trôi theo tham ái và sân hận, nhưng Đức Phật không chịu vậy. Họ muốn ch́m đắm trong ảo kiến, mê hoặc, nhưng Đức Phật tiêu trừ si mê. Như vậy tâm Phật đối nghịch với tâm chúng sanh. Người thế gian cho rằng thân nầy đẹp đẽ, Ngài nói nó không đẹp. Họ nói thân nầy là của họ, Ngài nói không phải vậy. Họ nói thân nầy có thực chất, Ngài nói không có. Chánh Kiến vượt lên trên thế gian. Chúng sanh trong thế gian th́ buông trôi theo ḍng.

 

Continuing on, when the Buddha got up from there, he received eight handfuls of grass from a brahman. The real meaning of this is that the eight handfuls of grass were the right worldly dhammas — gain and loss, praise and criticism, fame and disrepute, happiness and unhappiness. The Buddha, having received this grass, determined to sit on it and enter samadhi. The action of sitting on the grass was itself samadhi, that is, his mind was above the worldly dhammas, subduing the world until it realized the transcendent. The worldly dhammas became like refuse for him, they lost all meaning. He sat over them but they didn't obstruct his mind in any way. The various maras came to try to overcome him, but he just sat there in samadhi, subduing the world, until finally he became enlightened to the Dhamma and completely defeated Mara. 16 That is, he defeated the world. So the practice of developing the path is that which kills defilements.

Tiếp theo câu chuyện, khi Đức Phật rời khỏi nơi ấy có một vị bà la môn dâng đến Ngài tám bó cỏ. Ư nghĩa thật sự của tám bó cỏ ấy là tám pháp thế gian -- lợi lộc và lỗ lă, tán dương và khiển trách, danh thơm và tiếng xấu, hạnh phúc và đau khổ. Nhận xong tám bó cỏ Đức Phật quyết định ngồi trên đó và nhập định. Chính hành động ngồi trên cỏ tự nó là nhập định, tức là tâm Ngài đă vượt lên trên tám pháp thế gian, khắc phục thế gian cho đến khi chứng ngộ siêu thế pháp. Thế gian pháp trở thành không c̣n ư nghĩa đối với Ngài. Ngài ngồi trên cỏ nhưng cỏ không gây trở ngại cho tâm Ngài, bất luận bằng cách nào. Những đạo binh của Ma Vương cố gắng cám dỗ Ngài, nhưng Ngài chỉ ngồi đó, trong trạng thái nhập định, chế ngự thế gian cho đến khi cuối cùng, chứng ngộ Giáo Pháp và hoàn toàn chiến thắng Ma Vương. Đó là Ngài chiến thắng thế gian. Như vậy, chính pháp hành nhằm phát triển Con Đường đă tiêu diệt ô nhiễm.

 

People these days have little faith. Having practiced a year or two they want to get there, and they want to go fast. They don't consider that the Buddha, our Teacher, had left home a full six years before he became enlightened. This is why we have "freedom from dependence." 17 According to the scriptures, a monk must have at least five rains 18 before he is considered able to live on his own. By this time he has studied and practiced sufficiently, he has adequate knowledge, he has faith, his conduct is good. Someone who practices for five years, I say he's competent. But he must really practice, not just "hang out" in the robes for five years. He must really look after the practice, really do it!

Con người ngày nay không có nhiều đức tin. Khi đă thực hành trong một hay hai năm họ muốn đến nơi ngay, và họ muốn đi nhanh. Họ không nghĩ rằng Đức Phật, vị Thầy Tổ của chúng ta, xưa kia phải mất sáu năm trường sau khi rời nhà, trước khi trở thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Cũng v́ lư do ấy mà chúng ta có truyền thống "tự do ra khỏi lệ thuộc" (Theo truyền thống nầy một vị mới xuất gia tỳ khưu phải sống "tùy thuộc" nơi vị thầy tế độ ḿnh trong thời gian năm năm đầu tiên. Có nghĩa là người mới thọ Cụ Túc Giới phải sống với thầy tế độ ḿnh ít nhất là năm năm, rồi sau đó mới được "tự do" sống xa thầy.)Đúng theo kinh điển, một vị tỳ khưu mới xuất gia phải có tối thiểu năm hạ [11] mới được xem là có thể sống riêng rẻ một ḿnh. Trong khoảng thời gian năm năm ấy vị tỳ khưu đă học hỏi và thực hành đầy đủ, có đủ kiến thức thích nghi, đủ đức tin và đủ phong độ tốt đẹp của một tỳ khưu. Người nào đă thực hành nghiêm chỉnh tṛn đủ năm năm bên cạnh thầy, Sư cho rằng người ấy đă thuần thục. Tuy nhiên, người ấy phải thật sự thực hành chớ không phải chỉ "sống cho qua ngày tháng" với bộ y trong năm năm. Vị ấy phải thận trọng theo dơi pháp hành, phải thật sự hành!

 

Until you reach five rains you may wonder, "What is this 'freedom from dependence' that the Buddha talked about?" You must really try to practice for five years and then you'll know for yourself the qualities he was referring to. After that time you should be competent, competent in mind, one who is certain. At the very least, after five rains, one should be at the first stage of enlightenment. This is not just five rains in body but five rains in mind as well. That monk has fear of blame, a sense of shame and modesty. He doesn't dare to do wrong either in front of people or behind their backs, in the light or in the dark. Why not? Because he has reached the Buddha, 'The One who knows'. He takes refuge in the Buddha, the Dhamma and the Sangha.

Cho đến khi trải qua đủ năm hạ, quư vị có thể ngạc nhiên, "Cái mà Đức Phật gọi là 'tự do lệ thuộc' là ǵ?" Quư vị phải thật sự cố gắng tṛn đủ năm năm, rồi sẽ tự ḿnh hiểu biết những đức tánh mà Đức Phật đề cập đến. Sau thời gian ấy ắt quư vị sẽ thuần thục, tâm trí thuần thục, và vững chắc không thối chuyển. Tối thiểu, sau năm hạ ta phải đạt đến tầng giác ngộ đầu tiên. Đây không phải chỉ là năm hạ tu cho thân mà cũng là năm hạ tu cho tâm. Vị sư ấy không để bị khiển trách, có tánh hổ thẹn tội lỗi và luôn luôn khiêm tốn. Vị ấy không dám hành động sai quấy, dầu trước mặt hay sau lưng mọi người, dầu thanh thiên bạch nhựt hay trong đêm tối. Tại sao không dám? Bởi v́ vị ấy đă tiến đạt đến Đức Phật, "người hiểu biết". Vị ấy đă nương tựa nơi Đức Phật, Đức Pháp, và Đức Tăng.

 

To depend truly on the Buddha, the Dhamma and the Sangha we must see the Buddha. What use would it be to take refuge without knowing the Buddha? If we don't yet know the Buddha, the Dhamma and the Sangha, our taking refuge in them is just an act of body and speech, the mind still hasn't reached them. Once the mind reaches them we know what the Buddha, the Dhamma, and the Sangha are like. Then we can really take refuge in them, because these things arise in our minds. Wherever we are we will have the Buddha, the Dhamma and the Sangha with us.

Muốn thật sự tùy thuộc nơi Phật, Pháp, Tăng, chúng ta phải thấy Đức Phật. Không biết Đức Phật mà nương tựa nơi Ngài th́ lợi ích ǵ? Nếu ta chưa hiểu biết Phật, Pháp, Tăng th́ quy y Tam Bảo chỉ là việc làm của thân và khẩu, c̣n tâm th́ chưa đạt đến Tam Bảo. Một khi tâm đă đạt đến, ta sẽ biết Phật là như thế nầy, Pháp là như thế nầy, và Tăng là như thế nầy. Chừng đó ta có thể thật sự nương tựa nơi Tam Bảo. Bởi v́ Tam Bảo đă ở trong tâm ta. Bất luận đi nơi nào ta sẽ luôn luôn có Phật, Pháp, Tăng cùng ở với ta.

 

One who is like this doesn't dare to commit evil acts. This is why we say that one who has reached the first stage of enlightenment will no longer be born in the woeful states. His mind is certain, he has entered the Stream, there is no doubt for him. If he doesn't reach full enlightenment today it will certainly be some time in the future. He may do wrong but not enough to send him to Hell, that is, he doesn't regress to evil bodily and verbal actions, he is incapable of it. So we say that person has entered the Noble Birth. He cannot return. This is something you should see and know for yourselves in this very life.

Một người như thế ấy không dám có hành động tội lỗi. V́ lẽ ấy ta nói rằng người đă đạt đến tầng giác ngộ đầu tiên sẽ không c̣n sanh vào khổ cảnh. Tâm của vị ấy đă vững chắc, Ngài đă bước vào Ḍng Suối (Nhập Lưu), không c̣n hoài nghi nữa. Nếu không tiến đạt đến Toàn Giác trong ngày hôm nay vị ấy chắc chắn sẽ đến nơi đến chốn trong một ngày vị lai. Vị ấy có thể hành động lầm lạc, nhưng không lầm lạc quan trọng đến đổi phải vào khổ cảnh, có nghĩa là vị nầy không thể thoái bộ đến độ có thân nghiệp và khẩu nghiệp bất thiện, không thể được. Do đó chúng ta nói rằng vị ấy đă bước vào hàng Thánh, không thể thối chuyển. Đây là điều mà quư vị phải tự ḿnh thấy và hiểu biết trong chính kiếp sống nầy.

 

These days, those of us who still have doubts about the practice hear these things and say, "Oh, how can I do that?" Sometimes we feel happy, sometimes troubled, pleased or displeased. For what reason? Because we don't know Dhamma. What Dhamma? Just the Dhamma of Nature, the reality around us, the body and the mind. The Buddha said, "Don't cling to the five khandhas, let them go, give them up!" Why can't we let them go? Just because we don't see them or know them fully. We see them as ourselves, we see ourselves in the khandhas. Happiness and suffering, we see as ourselves, we see ourselves in happiness and suffering. We can't separate ourselves from them. When we can't separate them it means we can't see Dhamma, we can't see Nature.

Ngày nay, những ai trong chúng ta c̣n hoài nghi về pháp hành, khi nghe vầy sẽ nói, "ồ, làm thế nào tôi có thể được vậy?" Đôi khi chúng ta cảm nghe hạnh phúc, lắm lúc bị giao động, bằng ḷng hay bực bội. V́ lẽ ǵ? Bởi v́ chúng ta không thông hiểu Giáo Pháp. Giáo Pháp nào? Chỉ là cái Giáo Pháp của Thiên Nhiên, cái thực tại bao quanh chúng ta, thân và tâm. Đức Phật dạy, "Không nên bám níu vào ngũ uẩn, hăy buông bỏ, để cho nó đi!" Tại sao chúng ta không thể để cho nó đi? Chính v́ ta không thấy, hoặc không hiểu biết nó đầy đủ. Chúng ta thấy nó là chúng ta, tự thấy chúng ta là ngũ uẩn. Hạnh phúc và đau khổ, chúng ta thấy là chính ta. Ta thấy chúng ta trong hạnh phúc và đau khổ. Chúng ta không thể tự tách rời ra khỏi hạnh phúc và đau khổ. Không thể tách rời ra khỏi nó có nghĩa là chúng ta không thể thấy Giáo Pháp, chúng ta không thể nh́n thấy Thiên Nhiên.

 

Happiness, unhappiness, pleasure and sadness — none of them is us but we take them to be so. These things come into contact with us and we see a lump of 'atta', or self. Wherever there is self there you will find happiness, unhappiness and everything else. So the Buddha said to destroy this "lump" of self, that is to destroy sakkaya ditthi. When atta (self) is destroyed, anatta (non-self) naturally arises.

Hạnh phúc, đau khổ, vui, và buồn -- không có cái nào là ḿnh, nhưng chúng ta lại ngỡ là vậy. Những cảm xúc ấy đến giao tiếp với chúng ta và chúng ta thấy một khối "attà", hay tự ngă. Nơi nào mà có tự ngă quư vị sẽ t́m thấy hạnh phúc, đau khổ và tất cả mọi cái khác. Do đó Đức Phật dạy hăy tiêu diệt "khối" tự ngă, tức là tiêu diệt thân kiến (sakkàya ditthi). Khi tự ngă (attà) đă bị tiêu diệt ắt vô ngă (anattà) tự nhiên phát sanh.

 

We take Nature to be us and ourselves to be Nature, so we don't know Nature truly. If it's good we laugh with it, if it's bad we cry over it. But Nature is simply sankharas. As we say in the chanting, Tesam vupasamo sukho — pacifying the sankharas is real happiness. How do we pacify them? We simply remove clinging and see them as they really are.

Chúng ta chấp Thiên Nhiên là ta và chúng ta là Thiên Nhiên, và như vậy không thật sự hiểu biết Thiên Nhiên đúng theo chân lư. Nếu nó tốt đẹp, ta vui cười với nó, nếu nó xấu, ta khóc v́ nó. Nhưng Thiên Nhiên chỉ giản dị là pháp hữu vi (sankhàra). Và như ta đọc tụng câu kinh "Tesam vipassamo sukho" -- dứt được các pháp hữu vi là hạnh phúc thật sự. Làm thế nào dứt được các pháp hữu vi? Chúng ta chỉ loại trừ ḷng luyến ái, bám níu vào nó và nh́n thấy đúng thực tướng của nó, thấy nó đúng như thật sự nó là vậy.

 

So there is truth in this world. Trees, mountains and vines all live according to their own truth, they are born and die following their nature. It's just we people who aren't true! We see it and make a fuss over it, the Nature is impassive, it just is as it is. We laugh, we cry, we kill, but Nature remains in truth, it is truth. No matter how happy or sad we are, this body just follows its own nature. It's born, it grows up and ages, changing and getting older all the time. It follows Nature in this way. Whoever takes the body to be himself and carries it around with him, will suffer.

Như vậy, có chân lư trong thế gian. Cây cối, núi non, và các loại dây leo, tất cả đều sống theo chân lư của nó, sanh và diệt theo bản chất thiên nhiên của nó. Chỉ riêng có chúng ta là không phải chân lư! Chúng ta thấy nó và bận rộn lo lắng v́ nó, nhưng Thiên Nhiên vẫn b́nh thản, nó chỉ là vậy. Chúng ta cười, chúng ta khóc, chúng ta giết chóc, nhưng Thiên Nhiên vẫn nằm trong Chân lư, nó là Chân Lư. Dầu ta có vui hay buồn thế nào, thân nầy chỉ đi theo con đường thiên nhiên của nó. Nó được sanh ra, trưởng thành và già nua, luôn luôn biến đổi, và mỗi lúc mỗi già thêm. Nó theo Thiên Nhiên như thế ấy. Kẻ nào chấp rằng thân nầy là chính ḿnh và mang nó theo đi cùng khắp với ḿnh, kẻ ấy sẽ đau khổ.

 

So Añña Kondañña recognized this "whatever is born" in everything, be it material or immaterial. His view of the world changed. He saw the truth. Having got up from his sitting place he took that truth with him. The activity of birth and death continued but he simply looked on. Happiness and unhappiness were arising and passing away but he merely noted them. His mind was constant. He no longer fell into the woeful states. He didn't get over-pleased or unduly upset about these things. His mind was firmly established in the activity of contemplation.

Do đó Ngài Anna Kondanna (A Nhă Kiều Trần Như) nhận thức rằng "bất luận ǵ được sanh ra" chỉ là tất cả mọi sự vật, dầu vật thể hữu h́nh hay vô h́nh. Cái nh́n của Ngài đối với thế gian đă thay đổi. Ngài đă thấy Chân Lư. Từ chỗ ngồi đứng dậy, Ngài mang Chân Lư ấy theo với ḿnh. Tiến tŕnh sanh và tử vẫn liên tục tiếp diễn, nhưng Ngài chỉ nh́n nó. Hạnh phúc và đau khổ phát sanh và hoại diệt, nhưng Ngài chỉ ghi nhận. Tâm Ngài không biến đổi. Ngài không bao giờ c̣n rơi vào khổ cảnh. Ngài không quá đổi vui mừng hay phiền muộn v́ những việc ấy. Tâm Ngài vững chắc củng cố trong công tŕnh quán chiếu.

 

There! Añña Kondañña had received the Eye of Dhamma. He saw Nature, which we call sankharas, according to truth. Wisdom is that which knows the truth of sankharas. This is the mind which knows and sees Dhamma, which has surrendered.

Đó! Ngài Kondanna đă thọ nhận Pháp Nhăn. Ngài thấy Thiên Nhiên đúng theo Chân Lư, cái Thiên Nhiên mà ta gọi là sankhàra, pháp hữu vi. Trí tuệ là cái ǵ nhận thức chân lư của các pháp hữu vi. Đó là cái tâm hiểu biết và nhận thấy Giáo Pháp.

 

Until we have seen the Dhamma we must have patience and restraint. We must endure, we must renounce! We must cultivate diligence and endurance. Why must we cultivate diligence? Because we're lazy! Why must we develop endurance? Because we don't endure! That the way it is. But when we are already established in our practice, have finished with laziness, then we don't need to use diligence. If we already know the truth of all mental states, if we don't get happy or unhappy over them, we don't need to exercise endurance, because the mind is already Dhamma. The 'One who knows' has seen the Dhamma, he is the Dhamma.

Cho đến ngày nào thấy được Giáo Pháp chúng ta c̣n phải nhẫn nại và kiên tŕ tự chế. Chúng ta phải chịu đựng, chúng ta phải từ khước! Chúng ta phải trau giồi hạnh chuyên cần và đức tánh bền dẽo chịu đựng. Tại sao phải trau giồi hạnh chuyên cần? Bởi v́ chúng ta lười biếng. Tại sao phải trau giồi đức tánh nhẫn nhục chịu đựng? Bởi v́ chúng ta không nhẫn nhục chịu đựng. Đường lối là vậy. Nhưng khi chúng ta đă kiên cố vững vàng trong pháp hành, đă chấm dứt lười biếng, chừng đó sẽ không cần xử dụng đến hạnh chuyên cần. Nếu chúng ta đă hiểu biết chân lư của tất cả những trạng thái tâm, nếu chúng ta không thỏa thích hay buồn phiền v́ nó, ắt ta không cần đến hạnh nhẫn nhục chịu đựng, bởi v́ tâm đă là Giáo Pháp. "Người hiểu biết" đă trông thấy Giáo Pháp, đă là Giáo Pháp.

 

When the mind is Dhamma, it stops. It has attained peace. There's no longer a need to do anything special, because the mind is Dhamma already. The outside is Dhamma, the inside is Dhamma. The 'One who knows' is Dhamma. The state is Dhamma and that which knows the state is Dhamma. It is one. It is free. This Nature is not born, it does not age nor sicken. This Nature does not die. This Nature is neither happy nor sad, neither big nor small, heavy nor light; neither short nor long, black nor white. There's nothing you can compare it to. No convention can reach it. This is why we say Nirvana has no color. All colors are merely conventions. The state which is beyond the world is beyond the reach of worldly conventions.

Khi tâm là Giáo Pháp, nó dừng lại. Nó đă thành đạt An Lạc. Không cần phải đặc biệt làm ǵ khác, bởi v́ tâm đă là Giáo Pháp. Bên ngoài là Giáo Pháp, bên trong là Giáo Pháp. "Người hiểu biết" là Giáo Pháp. Trạng thái đối tượng là Giáo Pháp, và cái hiểu biết trạng thái ấy là Giáo Pháp. Nó là một. Nó tự do, giải thoát. Thiên Nhiên nầy không phải được sanh ra, nó không già, không bệnh. Thiên Nhiên nầy không hoại diệt. Thiên Nhiên nầy không thỏa thích cũng không buồn phiền, không lớn không nhỏ, không nặng không nhẹ, không dài không ngắn, không trắng không đen, không có cái ǵ mà quư vị có thể so sánh với nó.. V́ lẽ ấy ta nói rằng Niết Bàn không màu sắc. Tất cả màu sắc chỉ là quy ước, chế định. Trạng thái an lạc nầy vượt ra ngoài thế gian, không có quy ước nào của thế gian có thể theo kịp nó.

 

So the Dhamma is that which is beyond the world. It is that which each person should see for himself. It is beyond language. You can't put it into words, you can only talk about ways and means of realizing it. The person who has seen it for himself has finished his work.

Như vậy, Giáo Pháp là cái ǵ đă vượt khỏi thế gian. là cái ǵ mà mọi người phải tự ḿnh trông thấy. Nó vượt qua khỏi mọi ngôn ngữ. Chúng ta không thể nói ra bằng lời hay viết ra thành chữ, quư vị chỉ có thể đề cập đến đường lối và phương tiện để thành tựu. Người đă tự ḿnh thấy nó là đă viên thành hoàn măn tất cả công phu của ḿnh.

___________

Ghi chú:

(1) On The Dangers Of Samadhi

(2) Về Những Hiểm Họa Của Tâm Định

Trang trước    Trang kế 

--- o0o ---

Tŕnh bày: Chánh Hạnh

Cập nhật ngày: 04-01-2006

 

--- o0o ---

y' kiến đóng góp xin gửi đến TT Giác Đẳng qua địa chỉ:
Email:giacdang@phapluan.com

Cập nhật ngày: 03-07-2006