......... .

Hương Vị Giải Thoát
"A Teste of Freedom"

Tác giả: Ajahan Chah
Việt dịch Phạm Kim Khánh
---o0o---

Convention and Liberation


 

Convention and Liberation

Quy ước và Giải thoát

 

"...Regardless of time and place, the whole practice of Dhamma comes to completion at the place where there is nothing. It's the place of surrender, of emptiness, of laying down the burden..."

... Bất luận thời gian và địa điểm nào, toàn thể công phu thực hành Giáo Pháp sẽ hoàn thành viên măn ngay tại nơi mà không c̣n ǵ. Đây là địa điểm quy hàng, rỗng không, đặt xuống gánh nặng ...

 

The things of this world are merely conventions of our own making. Having established them we get lost in them, and refuse to let go, giving rise to clinging to our personal views and opinions. This clinging never ends, it is samsara, flowing endlessly on. It has no completion. Now, if we know conventional reality then we'll know Liberation. If we clearly know Liberation, then we'll know convention. This is to know the Dhamma. Here there is completion.

Sự vật trên thế gian chỉ là những quy ước mà chúng ta đă tạo nên. Chúng ta thiết lập những quy ước rồi lạc lối trong đó và từ chối không chịu buông bỏ, để cho tâm luyến ái phát sanh, bám níu chặt chẽ vào những quan kiến riêng tư cá nhân và những công luận. T́nh trạng khăng khăng nắm giữ nầy không bao giờ chấm dứt, nó là samsàra, ṿng luân hồi, triền miên trôi chảy vô cùng tận. Nó không bao giờ hoàn tất. Bây giờ, nếu chúng ta thông hiểu quy ước thật sự ắt chúng ta sẽ hiểu biết Giải Thoát. Nếu thấu đạt rơ ràng Giải Thoát là thế nào ắt chúng ta hiểu biết quy ước. Đó là thông hiểu Giáo Pháp. Nơi đây có hoàn tất.

 

Take people, for instance. In reality people don't have any names, we are simply born naked into the world. If we have names, they arise only through convention. I've contemplated this and seen that is you don't know the truth of this convention it can be really harmful. It's simply something we use for convenience. Without it we couldn't communicate, there would be nothing to say, no language.

Lấy thí dụ con người. Trong thực tế, con người sanh ra không có danh tánh. Khi bước vào đời chúng ta chỉ đến ḿnh không. Nếu có tên th́ cũng do quy ước. Sư đă suy gẫm về điểm nầy và thấy rằng nếu quư vị không thông hiểu chân lư của quy ước nầy ắt có thể thật sự là nguy hại. Nó chỉ là cái ǵ để ta thuận tiện xử dụng. Nếu không có nó chúng ta sẽ không thể thông cảm nhau, không có ǵ để nói, không có ngôn ngữ.

 

I've seen the Westerners when they sit in meditation together in the West. When they get up after sitting, men and women together, sometimes they go and touch each other on the head! 19 When I saw this I thought, "Ehh, if we cling to convention it gives rise to defilements right there." If we can let go of convention, give up our opinions, we are at peace.

Sư đă thấy người Tây Phương ngồi thiền chung với nhau. Khi xả thiền đứng dậy, đàn ông đàn bà lẫn lộn, đôi khi người nầy vỗ đầu người kia. [12] Thấy vậy Sư nghĩ, "Ô ḱa, nếu ta chấp vào quy ước ắt ô nhiễm phát sanh tại đây." Nếu có thể buông bỏ quy ước, không cố chấp vào công luận ắt chúng ta được an lạc.

 

Like the generals and colonels, men of rank and position, who come to see me. When they come they say, "Oh, please touch my head." 20 If they ask like this there's nothing wrong with it, they're glad to have their heads touched. But if you tapped their heads in the middle of the street it'd be a different story! This is because of clinging. So I feel that letting go is really the way of peace. Touching a head is against our customs, but in reality it is nothing. When they agree to having it touched there's nothing wrong with it, just like touching a cabbage or a potato.

Cũng như các vị tướng lănh, các đại tá và những công chức cao cấp, những người có địa vị xă hội, đến đây viếng Sư. Họ nói với Sư, "Bạch Sư, kính xin Sư vui ḷng sờ vào đầu con". Họ đă nói như thế th́ không có ǵ sai lầm. Họ vui vẻ để cho Sư sờ đầu. Nhưng nếu đi ngoài đường, giữa thành phố mà vỗ vào đầu họ th́ đó là câu chuyện khác! Đó là v́ ta bám níu vào quy ước. Do đó Sư nghĩ rằng buông bỏ, không cố chấp, th́ thật sự là đường lối an lạc. Sờ vào đầu người khác là trái với phong tục của ta. Nhưng thật sự có ǵ đâu. Khi mà họ đồng ư cho ta sờ đầu th́ đâu có ǵ sai quấy. Nó cũng chỉ như ḿnh sờ một bắp cải hay một củ khoai vậy thôi.

 

Accepting, giving up, letting go — this is the way of lightness. Wherever you're clinging there's becoming and birth right there. There's danger right there. The Buddha taught about convention and he taught to undo convention in the right way, and so reach Liberation. This is freedom, not to cling to conventions. All things in this world have a conventional reality. Having established them we should not be fooled by them, because getting lost in them really leads to suffering. This point concerning rules and conventions is of utmost importance. One who can get beyond them is beyond suffering.

Chấp nhận, buông bỏ, không cố chấp, đó là đường lối nhẹ nhàng. Bất luận nơi nào mà quư vị bám chắc vào, tức "thủ", ắt có "hữu" và "sanh" ngay tại đó. Đức Phật dạy về quy ước, và Ngài dạy "tháo gỡ"quy ước một cách chân chánh, rồi theo đó, tiến đạt đến Giải Thoát. Đó là tự do, không cố bám vào quy ước. Tất cả mọi sự vật trên thế gian đều có một thực tại quy ước. Đă thiết lập, tạo nó ra, ta không nên để nó chi phối, bởi v́ để bị lạc lối trong đó thật sự là đưa ḿnh vào đau khổ. Điểm nầy, liên quan đến những điều luật và quy ước, quả thật là tối quan trọng. Người đă vươn ḿnh vượt qua khỏi nó là đă vượt qua khỏi khổ đau.

 

However, they are a characteristic of our world. Take Mr. Boonmah, for instance; he used to be just one of the crowd but now he's been appointed the District Commissioner. It's just a convention but it's a convention we should respect. It's part of the world of people. If you think, "Oh, before we were friends, we used to work at the tailor's together," and then you go and pat him on the head in public, he'll get angry. It's not right, he'll resent it. So we should follow the conventions in order to avoid giving rise to resentment. It's useful to understand convention, living in the world is just about this. Know the right time and place, know the person.

Tuy nhiên nó là một đặc tánh của thế gian. Hăy lấy thí dụ Ông Boonmah. Trước kia chỉ là một người tầm thường trong quảng đại quần chúng nhưng nay th́ ông giữ chức Quận Trưởng. Chúc vụ chỉ là một quy ước, nhưng là một quy ước mà ta phải tôn trọng. Nó là một phần của thế gian loài người. Nếu quư vị nghĩ, "ờ, trước kia chúng ḿnh là bạn bè cùng làm việc chung với nhau trong tiệm may", rồi vỗ vào đầu ông ấy trước công chúng, ông ta sẽ tức giận, ông ta phật ḷng v́ thấy quư vị làm như vậy là sai. Như vậy, chúng ta phải sống thuận chiều theo quy ước để tránh làm cho người khác phật ḷng. Thông hiểu quy ước quả thật là hữu ích, sống trong thế gian chỉ có bấy nhiêu. Phải hiểu thế nào là đúng lúc, đúng nơi, và phải biết người.

 

Why is it wrong to go against conventions? It's wrong because of people! You should be clever, knowing both convention and Liberations. Know the right time for each. If we know how to use rules and conventions comfortably then we are skilled. But if we try to behave according to the higher level of reality in the wrong situation, this is wrong. Where is it wrong? It's wrong with people's defilements, nothing else! People all have defilements. In one situation we behave one way, in another situation we must behave in another way. We should know the ins and outs because we live within conventions. Problems occur because people cling to them. If we suppose something to be, then it is. It's there because we suppose it to be there. But if you look closely, in the absolute sense these things don't really exist.

Tại sao đi ngược quy ước là sai quấy? Sai quấy v́ người ta! Quư vị phải sáng suốt hiểu rơ cả hai, quy ước và Giải Thoát [13]. Nếu biết xử dụng những điều luật và những quy ước một cách nhẹ nhàng thoải mái là ta đă thuần thục tinh thông. Nhưng nếu chúng ta cố gắng giữ thái độ cao cả trong hoàn cảnh sai lầm th́ đó là sai. Sai chỗ nào? Nó là sai đối với những ô nhiễm của con người, không có chỗ nào khác. Tất cả mọi người đều có ô nhiễm. Trong một hoàn cảnh nào ta phải cư xử như thế nầy, và trong hoàn cảnh khác ta phải hành động theo lối khác. Ta phải biết những lối vào và những lối ra, bởi v́ chúng ta sống trong thế gian quy ước. Có nhiều vấn đề khó khăn xảy ra bởi v́ con người dính mắc, bám chặt vào quy ước. Ta giả định nó là thế nầy th́ nó là thế nầy. Nó là vậy bởi v́ chúng ta giả định nó là vậy. Nhưng nếu chúng ta nh́n cặn kẻ tận tường, trong ư nghĩa tuyệt đối, những việc ấy không thật sự hiện hữu , không bao giờ có.

 

As I have often said, before we were laymen and now we are monks. We lived within the convention of "layman" and now we live within the convention of "monk." We are monks by convention, not monks through Liberation. In the beginning we establish conventions like this, but if a person merely ordains, this doesn't mean he overcomes defilements. If we take a handful of sand and agree to call it salt, does this make it salt? It is salt, but only in name, not in reality. You couldn't use it to cook with. It's only use is within the realm of that agreement, because there's really no salt there, only sand. It becomes salt only through our supposing it to be so.

Như Sư thường hay nói, trước kia chúng ta là cư sĩ tại gia và nay là sư. Vào thuở ấy chúng ta sống trong quy ước người "cư sĩ", và hiện giờ chúng ta sống trong quy ước của "nhà sư". Chúng ta là nhà sư do quy ước, không phải do Giải Thoát. Lúc ban sơ chúng ta thiết lập quy ước như vậy, nhưng một người chỉ thọ giới tỳ khưu suông th́ không có nghĩa là người ấy đă tiêu trừ ô nhiễm. Nếu ta hốt trong tay một nắm cát và đồng ư với nhau gọi đó là muối, điều nầy có làm cho cát trở thành muối không? Nó là muối, nhưng chỉ trong danh nghĩa, không phải trong thực tại. Ta không thể đem ra nấu ăn. Danh nghĩa "muối" chỉ dùng trong phạm vi của sự đồng ư nào đó, bởi v́ thật sự nó không phải là muối, chỉ là cát. Nó chỉ trở thành muối do chúng ta giả định là vậy.

 

This word "Liberation" is itself just a convention, but it refers to that beyond conventions. Having achieved freedom, having reached liberation, we still have to use convention in order to refer to it as liberation. If we didn't have convention we couldn't communicate, so it does have its use.

Danh từ "Giải Thoát" chính tự nó cũng chỉ là một quy ước, một danh từ, nhưng danh từ quy ước ấy hàm xúc một trạng thái vượt ra ngoài các quy ước. Đă thành tựu tự do, đă đạt đến Giải Thoát, chúng ta vẫn c̣n phải dùng quy ước để đề cập đến nó như Giải Thoát. Nếu không có quy ước chúng ta không thể thông cảm với nhau, như vậy nó vẫn có lợi ích của nó.

 

For example, people have different names but they are all people just the same. If we didn't have names to differentiate between them, and we wanted to call out to somebody standing in a crowd, saying, "Hey, Person! Person!", that would be useless. You couldn't say who would answer you because they're all "person." But if you called, "Hey, John!", then John would come, the others wouldn't answer. Names fulfill just this need. Through them we can communicate, they provide the basis for social behavior.

Thí dụ, tất cả mọi người đều có một cái tên riêng biệt, nhưng tất cả đều là người giống nhau. Nếu không có tên để phân biệt nhau, khi gọi người nào trong đám đông ta kêu, "Ê, người! người!" ắt không ai biết là kêu ai, không ai biết là ai phải trả lời, bởi v́ tất cả đều là "người". Bây giờ nếu ta gọi, "Ê, John!" ắt là John đến và những người khác th́ không trả lời. Danh tánh chỉ để dùng như vậy. Nhờ nó mà ta có thể hiểu biết, thông cảm nhau. Nó làm cho sự giao dịch trong xă hội được dễ dàng.

 

So you should know both convention and liberation. Conventions have a use, but in reality there really isn't anything there. Even people are non-existent! They are merely groups of elements, born of causal conditions, growing dependent on conditions, existing for a while, or control it. But without conventions we would have nothing to say, we'd have no names, no practice, no work. Rules and conventions are established to give us a language, to make things convenient, and that's all.

Vậy, quư vị phải biết cả hai, quy ước và Giải Thoát. Quy ước có lợi ích của nó, nhưng trong thực tế không thật sự có. Chí đến con người, cũng không có! Họ chỉ là những tổ hợp các nguyên tố đất, nước, lửa, gió, sanh ra do nhân duyên, trưởng thành tùy thuộc những điều kiện trợ duyên, hiện hữu trong một thời gian, rồi tan biến theo đường lối thiên nhiên. Không ai có thể phản đối hay kiểm soát nó. Nhưng nếu không có quy ước ắt không có ǵ để nói, không danh tánh, không thực hành, không việc làm. Điều luật và quy ước được thiết lập để cho ta một ngôn ngữ, để làm cho sự việc được thuận tiện, và chỉ có thế.

 

Take money, for example. In olden times there weren't any coins or notes, they had no value. People used to barter goods, but those things were difficult to keep, so they created money using coins and notes. Perhaps in the future we'll have a new king decree that we don't have to use paper money, we should use wax, melting it down and pressing it into lumps. We say this is money and use it throughout the country. Let alone wax, it may even happen that they decide to make chicken dung the local currency — all the other things can't be money, just chicken dung! Then people would fight and kill each other over chicken dung! This is the way it is. You could use many examples to illustrate convention. What we use for money is simply a convention that we have set up, it has its use within that convention. Having decreed it to be money, it becomes money. But in reality, what is money? Nobody can say. When there is a popular agreement about something, then a convention comes about to fulfill the need. The world is just this.

Như tiền bạc chẳng hạn. Thuở xưa nào có tiền đồng hay tiền giấy, đồng và giấy không có giá trị ǵ. Người ta dùng vật liệu hay hàng hóa để đổi chác nhau, những vật liệu và hàng hóa th́ kềnh càng, khó giữ. Do vậy ta mới nảy sanh ra ư kiến đổi vật liệu làm ra tiền giấy và tiền đồng. Có thể là trong tương lai sẽ có sắc lệnh của nhà vua ban truyền phải bỏ hết tiền giấy và tiền đồng mà lấy sáp nấu chảy ra rồi ép lại thành khối nhỏ. Ta gọi đó là tiền, và xử dụng khắp toàn quốc. Không cần chi đến sáp, có thể một ngày kia người ta quyết định dùng phân gà làm ra ra đồng tiền và dùng trong xứ -- không ǵ khác có thể làm ra tiền, chỉ phân gà! Rồi người ta đánh đấm, chém giết nhau để giành giựt phẩn gà! Nó là vậy. Quư vị có thể dùng nhiều thí dụ khác nhau để hiểu rơ quy ước là như vậy. Vật liệu nào mà ta có thể xử dụng để làm ra tiền chỉ là một thí dụ về quy ước mà ta đặt để, và nó sẽ được xử dụng trong phạm vi của quy ước ấy. Sắc lệnh đă được ban hành rằng đó là tiền, th́ nó trở thành tiền. Nhưng trong thực tế, tiền là ǵ? Không ai có thể nói. Khi có một sự đồng ư chung về điều ǵ, chúng ta quy định nó là vậy, và điều quy ước ấy thỏa măn nhu cầu. Thế gian chỉ là vậy.

 

This is convention, but to get ordinary people to understand liberation is really difficult. Our money, our house, our family, our children and relatives are simply conventions that we have invented, but really, seen in the light of Dhamma, they don't belong to us. Maybe if we hear this we don't feel so good, but in reality is like that. These things have value only through the established conventions. If we establish that it doesn't have value, then it doesn't have value. This is the way it is, we bring convention into the world to fulfill a need.

Đó là quy ước, nhưng làm cho một người thường am hiểu được Giải Thoát th́ quả thật là khó. Tiền bạc của ta, nhà cửa của ta, gia đ́nh của ta, con cái và thân bằng quyến thuộc của ta, tất cả chỉ là quy ước mà chúng ta đă sáng tạo, nhưng trong thực tế, dưới ánh sáng của Giáo Pháp, nó không phải là sở hữu của ta. Nghe như vậy có thể ta không vừa ḷng, nhưng thực tế là như vậy. Những sự vật ấy chỉ có giá trị do những quy ước được thiết lập. Nếu ta quy định rằng nó không có giá trị th́ đương nhiên nó không c̣n giá trị ǵ nữa. Nếu ta đặt để rằng nó có giá trị th́ nó có giá trị. Nó là vậy. Chúng ta đưa quy ước vào thế gian để thỏa măn một nhu cầu.

 

Even this body is not really ours, we just suppose it to be so. It's truly just a supposition. If you try to find a real, substantial self within it, you can't. There are merely elements which are born, continue for a while and then die. Everything is like this. There's no real, true substance to it, but it's proper that we use it. It's a tool for your use. If it breaks there is trouble, so even though it must break, you should try your utmost to preserve it. And so we have the four supports 21 which the Buddha taught again and again to contemplate. They are the supports on which a monk depends to continue his practice. As long as you live you must depend on them, but you should understand them. Don't cling to them, giving rise to craving in your mind.

Cho đến cái thân nầy cũng không phải thật sự là của ta, ta chỉ giả định rằng nó là vậy. Trong thực tế, chỉ là giả định. Nếu quư vị cố gắng t́m một bản ngă thật sự có thực chất trong cơ thể nầy, ắt quư vị không thể t́m ra. Nó chỉ là những nguyên tố (đất, nước, lửa, gió) được sanh ra, tồn tại một lúc, rồi diệt. Tất cả mọi sự vật đều như vậy. Không có ǵ thật sự có thực chất trong đó, nhưng ta cần phải dùng nó. Như cái tách. Vào một lúc nào cái tách phải bể, nhưng trong khi nó c̣n nguyên vẹn đây, quư vị phải dùng và trông nom giữ ǵn nó. Nó là vật để quư vị xử dụng. Nếu nó bể th́ phiền. Vậy, dầu biết rằng nó phải bể một lúc nào, khi mà nó c̣n đây quư vị phải hết ḷng ǵn giữ. Và cũng vậy, chúng ta có bốn món vật dụng mà Đức Phật dạy tới dạy lui rằng chúng ta phải suy niệm khi dùng. Đó là bốn món vật dụng cần thiết mà một nhà sư phải nương vào đó để tiếp tục hành đạo. Ngày giờ nào c̣n sống quư vị phải tùy thuộc nơi nó, nhưng phải hiểu biết, không nên bám níu vào, làm khơi dậy ái dục trong tâm.

 

Convention and liberation are related like this continually. Even though we use convention, don't place your trust in it as being the truth. If you cling to it, suffering will arise. The case of right and wrong is a good example. Some people see wrong as being right and right as being wrong, but in the end who really knows what is right and what is wrong? We don't know. Different people establish different conventions about what's right and what's wrong, but the Buddha took suffering as his guide-line. If you want to argue about it there's no end to it. One says, "right," another says, "wrong." One says "wrong," another says "right." In truth we don't really know right and wrong at all! But at a useful, practical level, we can say that right is not to harm oneself and not to harm others. This way fulfills a use.

Quy ước và Giải Thoát liên tục tương quan với nhau như thế ấy. Mặc dầu chúng ta dùng quy ước, chớ nên đặt hết tin tưởng vào và xem đó là chân lư. Bám vào nó ắt có đau khổ, Trường hợp Chánh và Tà là một thí dụ rơ rệt. Vài người thấy Tà là Chánh và Chánh là Tà, nhưng thật sự cuối cùng ai thật sự biết điều nào là Chánh điều nào là Tà? Chúng ta không biết. Những người khác nhau thiết lập những quy ước khác nhau về vấn đề Chánh và Tà, nhưng Đức Phật dạy lấy đau khổ làm tiêu chuẩn. Nếu quư vị muốn tranh luận về điểm nầy, ắt không bao giờ chấm dứt. Người nầy nói "Chánh", nguời kia nói "Tà". Người kia nói "Tà", người nọ nói "Chánh". Trong thực tế ta không thật sự hiểu biết Chánh hay Tà ǵ hết. Tuy nhiên, trên b́nh diện thực dụng, chúng ta có thể gọi là Chánh điều ǵ không làm tổn hại đến ta và không gây tổn hại cho người khác. Bằng cách ấy ta thỏa măn một nhu cầu.

 

So, after all, both rules and conventions and liberation are simply dhammas. One is higher than the other, but they go hand in hand. There is no way that we can guarantee that anything is definitely like this or like that, so the Buddha said to just leave it be. Leave it be as uncertain. However much you like it or dislike it, you should understand it as uncertain.

Như vậy nói cho cùng, cả hai -- điều luật, quy ước và Giải Thoát -- chỉ giản dị là những pháp (dhamma). Pháp nầy cao siêu hơn pháp kia, nhưng cả hai cùng đi chung với nhau. Không cách nào ta có thể đảm bảo chắc chắn rằng một điều nào đó nhất định là giống như thế nầy hay giống như thế kia, do đó Đức Phật dạy ta chỉ để nó là vậy. Hăy để cho nó là vô định. Dầu ta có ưa thích hay ghét bỏ thế nào, nên hiểu nó là bất định.

 

Regardless of time and place, the whole practice of Dhamma comes to completion at the place where there is nothing. It's the place of surrender, of emptiness, of laying down the burden. This is the finish. It's not like the person who says, "Why is the flag fluttering in the wind? I say it's because of the wind." Another person say's it's because of the flag. The other retorts that it's because of the wind. There's no end to this! The same as the old riddle, "Which came first, the chicken or the egg?" There's no way to reach a conclusion, this is just Nature.

Bất luận thời gian hoặc địa điểm nào, pháp hành sẽ hoàn tất tại nơi mà không có ǵ hết. Đó là địa điểm của quy hàng, của hư không, của t́nh trạng đặt xuống gánh nặng. Đây là mức cùng tột. Không phải như người kia bảo, "Tại sao lá cờ phất phơ trước gió? Tôi nói là v́ gió." Ngựi khác nói là v́ cờ. Người nọ căi là v́ gió. Không bao giờ chấm dứt! Cũng như thắc mắc được nêu lên từ xưa, "Con gà hay trứng gà đến trước?" Không có cách nào đạt đến một kết luận dứt khoát. Chỉ là Thiên Nhiên.

 

All these things we say are merely conventions, we establish them ourselves. If you know these things with wisdom then you'll know impermanence, unsatisfactoriness and not-self. This is the outlook which leads to enlightenment.

Những ǵ ta nói trên chỉ là quy ước tự chính ta thiết lập. Nếu quư vị hiểu biết những điều ấy với trí tuệ ắt quư vị sẽ hiểu biết Vô Thường, Khổ, Vô Ngă. Đó là cái nh́n dẫn đến Giác Ngộ.

 

You know, training and teaching people with varying levels of understanding is really difficult. Some people have certain ideas, you tell them something and they don't believe you. You tell them the truth and they say it's not true. "I'm right, you're wrong..." There's no end to this. If you don't let go there will be suffering. I've told you before about the four men who go into the forest. They hear a chicken crowing, "Kak-ka-dehhh!" One of them wonders, "Is that a rooster or a hen?" Three of them say together, "It's a hen," but the other doesn't agree, he insists it's a rooster. "How could a hen crow like that?" he asks. They retort, "Well, it has a mouth, hasn't it?" They argue till the tears fall, really getting upset over it, but in the end they're all wrong. Whether you say a hen or a rooster, they're only names. We establish these conventions, saying a rooster is like this, a hen is like that; a rooster cries like this, a hen cries like that... and this is how we get stuck in the world! Remember this! Actually, if you just say that really there's no hen and no rooster then that's the end of it. In the field of conventional reality one side is right and the other side it wrong, but there will never be complete agreement. Arguing till the tears fall has no use!

Quư vị biết không, rèn luyện và dạy những người có tŕnh độ hiểu biết khác biệt quả thật là rất khó. Vài người có ư kiến riêng, ḿnh nói với họ, họ không tin ḿnh. Quư vị nói với họ sự thật, họ bảo là không đúng sự thật. "Tôi nói đúng, quư vị sai ..." Không đi đến đâu. Không bao giờ chấm dứt. Nếu quư vị không buông bỏ ắt có đau khổ. Trước đây Sư có thuật cho quư vị nghe câu chuyện bốn người vào rừng. Họ nghe tiếng gà gáy, "Kak-ka ... cheh". Một người trong đám hỏi, "Đó là gà trống hay gà mái? " Ba người kia đồng ư là gà mái, nhưng người nọ không chịu, nhất định là gà trống. Người ấy hỏi, "Gà mái làm sao gáy được như vậy." Ba người căi lại, "Th́ nó cũng có mỏ vậy." Họ căi qua căi lại cho đến chảy nước mắt, nước mũi, thật là phiền muộn, thật là bực ḿnh v́ câu chuyện gà gáy, nhưng rồi tất cả đều sai. Dầu quư vị gọi là gà trống hay gà mái, đó chỉ là danh từ, một tiếng gọi. Chúng ta đặt ra những quy ước cho rằng gà trống là như thế nầy, và gà mái là như thế kia. Gà trống gáy như thế nầy, gà mái gáy như thế kia ... và v́ đó mà ta dính kẹt trong thế gian! Hăy ghi nhớ điều ấy! Đúng ra, nếu quư vị chỉ nói rằng thật sự không có gà mái và không có gà trống th́ đâu đó chấm dứt, hết chuyện. Trong phạm vi thực tại quy ước có một đàng là phải, đàng khác là sai, nhưng sẽ không bao giờ có sự đồng ư hoàn toàn. Tranh luận cho đến chảy nước mắt cũng vô ích.

 

The Buddha taught not to cling. How do we practice non-clinging? We practice simply to give up clinging, but this non-clinging is very difficult to understand. It takes keen wisdom to investigate and penetrate this, to really achieve non-clinging. When you think about it, whether people are happy or sad, content or discontent, doesn't depend on their having little or having much — it depends on wisdom. All distress can be transcended only through wisdom, through seeing the truth of things.

Đức Phật dạy không nên cố chấp. Tự rèn luyện thế nào để không cố chấp? Chỉ giản dị luyện tập từ bỏ, không bám níu, nhưng cái "không bám níu" ấy quả thật là rất khó hiểu. Phải có trí tuệ sắc bén để quán chiếu thâm sâu và thấu hiểu tận tường mới thật sự hoàn thành đức hạnh "không bám níu". Hăy suy tư về điểm nầy. Người ta thỏa thích hay sầu muộn, hoan hỷ hay bực dọc, không phải v́ có ít hay có nhiều -- mà do có trí tuệ hay không. Ta chỉ có thể vượt qua tất cả mọi ưu sầu phiền muộn bằng trí tuệ, bằng cách nhận thức thực tướng của sự vật.

 

So the Buddha exhorted us to investigate, to contemplate. This "contemplation" means simply to try to solve these problems correctly. This is our practice. Like birth, old age, sickness and death — they are the most natural and common of occurrences. The Buddha taught to contemplate birth, old age, sickness and death, but some people don't understand this. "What is there to contemplate?" they say. They're born but they don't know birth, they will die but they don't know death.

Do đó Đức Phật kêu gọi chúng ta nên quán chiếu và suy niệm. Suy niệm nầy chỉ là cố gắng giải quyết các vấn đề ấy một cách thích nghi. Đó là pháp hành của chúng ta. Như sanh, lăo, bệnh, tử -- là những diễn biến tự nhiên, xảy đến mọi người. Đức Phật dạy nên suy niệm về sanh, lăo, bệnh, tử nhưng vài người không hiểu, "Có ǵ đâu mà suy niệm?" Họ bảo vậy. Họ được sanh ra, mà không hiểu sanh là ǵ. Họ sẽ chết nhưng không hiểu chết là như thế nào.

 

A person who investigates these things repeatedly will see. Having seen he will gradually solve his problems. Even if he still has clinging, if he has wisdom and sees that old age, sickness and death are the way of Nature, then he will be able to relieve suffering. We study the Dhamma simply for this — to cure suffering. There isn't really much as the basis of Buddhism, there's just the birth and death of suffering, and this the Buddha called the truth. Birth is suffering, old age is suffering, sickness is suffering and death is suffering. People don't see this suffering as the truth. If we know truth, then we know suffering.

Người thường xuyên quán chiếu những hiện tượng ấy sẽ thấy. Đă nhận thấy, họ từ từ giải quyết những vấn đề khó khăn của họ. Cho dù người ấy vẫn c̣n luyến ái, nếu có trí tuệ và trông thấy rằng già, bệnh, chết là con đường của Thiên Nhiên th́ đau khổ cũng suy giảm. Chúng ta học Giáo Pháp chỉ để có bấy nhiêu -- chữa bệnh đau khổ. Căn bản của Phật Giáo thật ra chỉ có chừng ấy -- chỉ có sanh và diệt của đau khổ, và đó là điều mà Đức Phật gọi là Chân Lư. Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ. Người ta không thấy đau khổ là Chân Lư. Nếu ta thông hiểu Chân Lư ắt hiểu biết đau khổ.

 

This pride in personal opinions, these arguments, they have no end. In order to put our minds at rest, to find peace, we should contemplate our past, the present, and the things which are in store for us. Like birth, old age, sickness and death. What can we do to avoid being plagued by these? Even though we may still have a little worry, if we investigate till we know according to the truth, all suffering will abate, we will no longer cling to it.

Hănh diện bênh vực những ư kiến riêng tư của ḿnh, những cuộc tranh luận ấy không bao giờ chấm dứt. Để giữ cho tâm được an nghĩ, để t́m an lạc thanh b́nh, chúng ta phải suy niệm về quá khứ, hiện tại và những ǵ c̣n tích trữ, dành để cho ta. Như sanh, lăo, bệnh, tử. Ta có thể làm sao để tránh khỏi phải bị những điều ấy làm phiền lụy? Dầu c̣n chút ít lo âu, nếu chúng ta quán chiếu cho đến khi thấu hiểu đúng chân lư, tất cả mọi đau khổ ắt suy giảm, và chúng ta sẽ không c̣n ôm ấp vấn vương nó nữa.

 

No Abiding

Không nơi ẩn náu

 

"...The worldly way is to do things for a reason, to get some return, but in Buddhism we do things without any gaining idea.. If we don't want anything at all, what will we get? We don't get anything! Whatever you get is just a cause for suffering, so we practice not getting anything... Just make the mind peaceful and have done with it!..."

... Đường lối của thế gian là làm việc ǵ phải có lư do, phải có ǵ đền đáp trở lại mới làm, nhưng trong Phật Giáo chúng ta làm mà không có ư cầu mong lợi lộc. Nếu không cầu mong ǵ th́ chúng ta sẽ được ǵ? Không được ǵ hết! Bất luận ǵ trở lại với ta chỉ là nguyên nhân sanh đau khổ, do đó chúng ta thực hành để không được ǵ ... Chỉ làm cho tâm thanh b́nh an lạc, và như thế là đủ ...

 

We hear some parts of the teachings and can't really understand them. We think they shouldn't be the way they are, so we don't follow them, but really there is a reason to all the teachings. Maybe it seems that things shouldn't be that way, but they are. At first I didn't even believe in sitting meditation. I couldn't see what use it would be to just sit with your eyes closed. And walking meditation... walk from this tree, turn around and walk back again... "Why bother?" I thought, "What's the use of all that walking?" I thought like that, but actually walking and sitting meditation are of great use.

Chúng ta nghe vài đoạn trong Giáo Huấn của Đức Phật mà không thể lănh hội thật sự. Rồi ta nghĩ rằng nó phải thế nào khác chớ không phải vậy, và không hành theo. Tuy nhiên, trong toàn thể Giáo Huấn, điểm nào cũng có lư do của nó. H́nh như sự vật phải là thế nào khác chớ không phải vậy, nhưng sự vật là vậy. Lúc ban sơ chính Sư cũng không tin tưởng nơi pháp tọa thiền. Sư không thấy lợi ích ǵ mà chỉ ngồi đó rồi nhắm mắt lại. Thiền hành cũng vậy ... đi từ gốc cây nầy đến gốc cây kia, rồi quay trở lại và đi tới đi lui hai gốc cây ... "Tại sao phải làm vậy cho phiền phức?" Sư nghĩ, "Đi như thế lợi ích ǵ mà cứ đi măi?" Sư ngỡ là vậy, nhưng trong thực tế, thiền tọa và thiền hành quả thật vô cùng hữu ích.

 

Some people's tendencies make them prefer walking meditation, others prefer sitting, but you can't do without either of them. In the scriptures they talk about the four postures: standing, walking, sitting and lying. We live with these four postures. We may prefer one to the other, but we must use all four.

Vài người có khuynh hướng thích đi kinh hành hơn ngồi thiền, người khác thích ngồi thiền hơn đi kinh hành, nhưng ta không thể hành pháp nầy mà không hành pháp kia. Kinh điển đề cập đến bốn oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi. Chúng ta sống với bốn oai nghi ấy. Ta có thể thích oai nghi nầy hơn oai nghi khác, nhưng phải xử dụng đủ tất cả bốn.

 

They say to make these four postures even, to make the practice even in all postures. At first I couldn't figure out what this meant, to make them even. Maybe it means we sleep for two hours, then stand for two hours, then walk for two hours... maybe that's it? I tried it — couldn't do it, it was impossible! That's not what it meant to make the postures even. "Making the postures even" refers to the mind, to our awareness. That is, to make the mind give rise to wisdom, to illumine the mind. This wisdom of ours must be present in all postures; we must know, or understand, constantly. Standing, walking, sitting or lying, we know all mental states as impermanent, unsatisfactory and not-self. Making the postures even in this way can be done, it is possible. Whether like or dislike are present in the mind we don't forget our practice, we are aware.

Chúng ta được dạy phải làm cho bốn oai nghi đồng đều, phải hành động đều đặn trong bốn oai nghi. Lúc đầu Sư không thể hiểu biết ư nghĩa của lời dạy làm cho bốn oai nghi đồng đều. Có thể là ngồi trong hai tiếng, rồi đứng trong hai tiếng, đi trong hai tiếng ... Có thể vậy chăng? Sư cố gắng thực hành như vậy -- không được! Vậy th́ hiểu như thế là sai, làm cho oai nghi đồng đều không có nghĩa là như vậy. Đoạn văn "làm cho oai nghi đồng đều" đề cập đến tâm, đến sự hay biết của ta. Đó là làm cho tâm khai triển trí tuệ, làm cho tâm trở nên sáng tỏ. Trí tuệ của ta phải hiện hữu trong tất cả oai nghi, Ta phải luôn luôn hiểu biết, liên tục thông hiểu, không ngừng, không gián đoạn. Đi, đứng, nằm, ngồi, chúng ta luôn luôn hiểu rằng tất cả những trạng thái tâm đều Vô Thường, Khổ, Vô Ngă. Làm cho các oai nghi đồng đều bằng cách đó th́ có thể được. Dầu có trạng thái ưa thích hay ghét bỏ hiện hữu trong tâm ta không quên pháp hành là luôn luôn hay biết, luôn luôn giác tỉnh.

 

If we just focus our attention on the mind constantly then we have the gist of the practice. Whether we experience mental states which the world knows as good or bad we don't forget ourselves, we don't get lost in good or bad. We just go straight. Making the postures constant in this way is possible. If we have constancy in our practice and we are praised, then it's simply praise; if we are blamed, then it's just blame. We don't get high or low over it, we stay right here. Why? Because we see the danger in all those things, we see their results. We are constantly aware of the danger in both praise and blame. Normally, if we have a good mood the mind is good also, we see them, as the same thing; if we have a bad mood the mind goes bad as well, we don't like it. This is the way it is, this is uneven practice

Chỉ tập trung sự chú ư nơi tâm, luôn luôn như vậy không ngừng nghỉ, ắt ta sẽ nắm được điểm chánh yếu của pháp hành. Dầu có chứng nghiệm những trạng thái tâm mà người đời cho là tốt hay xấu, ta không tự quên ḿnh, không để ḿnh lạc lối trong cái tốt hay cái xấu. Ta chỉ thẳng tiến. Làm cho các oai nghi đồng đều như thế ấy là có thể được. Nếu ta giữ được pháp hành đồng đều như vậy và được khen, th́ đó chỉ là lời khen tặng. Nếu có bị khiển trách, đó chỉ là lời khiển trách. Ta không hứng khởi, cũng không mất tinh thần, mà chỉ ở ngay tại chỗ. Tại sao? Bởi v́ ta đă thấy hiểm họa trong tất cả những điều ấy, ta thấy hậu quả của nó. Chúng ta luôn luôn nhận thức sự nguy hại của cả hai, những lời tán dương và những lời khiển trách. Thế thường, lúc vui vẻ th́ tâm cũng khoan khoái dễ chịu, khi buồn phiền th́ tâm cũng âu sầu, ta không thích. Thường là vậy, đó là pháp hành không đồng đều.

 

If we have constancy just to the extent of knowing our moods, and knowing we're clinging to them, this is better already. That is, we have awareness, we know what's going on, but we still can't let go. We see ourselves clinging to good and bad, and we know it. We cling to good and know it's still not right practice, but we still can't let go. This is 50% or 70% of the practice already. There still isn't release but we know that if we could let go that would be the way to peace. We keep going like that, seeing the equally harmful consequences of all our likes and dislikes, of praise and blame, continuously. Whatever there is, the mind is constant in this way.

Nếu ta giữ được đồng đều, chỉ trong mức độ hiểu biết những xúc cảm vui buồn thôi, và hiểu biết rằng ḿnh đang bám níu vào nó, bấy nhiêu đă tốt hơn rồi. Đó là ta có sự hay biết, giác tỉnh. Ta hiểu biết chuyện ǵ đang xảy diễn, nhưng chưa có thể buông bỏ. Chúng ta tự thấy ḿnh đang bám níu vào những ǵ tốt đẹp và những ǵ xấu xa, và nhận thức như vậy. Ta bám vào điều tốt và hiểu biết rằng đó không phải là hành đúng, nhưng vẫn chưa có thể buông bỏ. Như vậy là cũng được 50% hoặc 70% pháp hành rồi. Chưa hẳn là hoàn toàn, nhưng ta biết rằng nếu có thể buông bỏ th́ đó là đường lối để tiến đạt đến thanh b́nh an lạc. Ta tiếp tục gia công tinh tấn như vậy và nhận thức rằng hậu quả của cả hai -- những ǵ ta ưa thích và những ǵ ta ghét bỏ, những lời tán dương và những lời khiển trách -- đều tai hại như nhau. Bất luận ǵ xảy đến tâm, vẫn một mực b́nh thản.

 

But for worldly people, if they get blamed or criticized they get really upset. If they get praised it cheers them up, they say it's good and get really happy over it. If we know the truth of our various moods, if we know the consequences of clinging to praise and blame, the danger of clinging to anything at all, we will become sensitive to our moods. We will know that clinging to them really causes suffering. We see this suffering, and we see our very clinging as the cause of that suffering. We begin to see the consequences of grabbing and clinging to good and bad, because we've grasped them and seen the result before — no real happiness. So now we look for the way to let go.

Tuy nhiên, đối với người thế gian, khi bị chỉ trích hay khiển trách th́ họ thật sự buồn phiền. Lúc được tán dương th́ phấn khởi lên và nói đó là điều tốt đẹp và họ thật sự hoan hỷ. Nếu chúng ta thấu hiểu chân lư của những xúc cảm vui buồn, nếu chúng ta nhận thức những hậu quả của t́nh trạng bám níu chặt chẽ vào những lời khen và tiếng chê, hậu quả tai hại của sự bám níu vào bất luận ǵ, chúng ta sẽ nhạy cảm hơn trong những cơn buồn vui, thỏa thích hay sầu muộn. Ta sẽ nhận thức rằng trạng thái bám níu thật sự là nguồn gốc làm phát khởi đau khổ. Chúng ta thấy đau khổ ấy và chúng ta thấy chính bám níu là nguyên nhân sanh đau khổ. Chúng ta bắt đầu nhận thức hậu quả tai hại của hành động chụp lấy và bám chắc vào những ǵ tốt và những ǵ xấu, bởi v́ trước đó ta đă nắm chặt và đă thấy hậu quả như thế nào -- không phải là hạnh phúc thật sự. Giờ đây ta t́m con đường buông bỏ.

 

Where is this "way to let go"? In Buddhism we say "Don't cling to anything." We never stop hearing about this "don't cling to anything!" This means to hold, but not to cling. Like this flashlight. We think, "What is this?" So we pick it up, "Oh, it's a flashlight," then we put it down again. We hold things in this way. If we didn't hold anything at all, what could we do? We couldn't walk meditation or do anything, so we must hold things first. It's wanting, yes, that's true, but later on it leads to parami (virtue or perfection). Like wanting to come here, for instance... Venerable Jagaro 22 came to Wat Pah Pong. He had to want to come first. If he hadn't felt that he wanted to come he wouldn't have come. For anybody it's the same, they come here because of wanting. But when wanting arises don't cling to it! So you come, and then you go back... What is this? We pick it up, look at it and see, "Oh, it's a flashlight," then we put it down. This is called holding but not clinging, we let go. We know and then we let go. To put it simply we say just this, "Know, then let go." Keep looking and letting go. "This, they say is good; this, they say is not good"... know, and then let go. Good and bad, we know it all, but we let it go. We don't foolishly cling to things, but we "hold" them with wisdom. Practicing in this "posture" can be constant. You must be constant like this. Make the mind know in this way, let wisdom arise. When the mind has wisdom, what else is there to look for?

Con đường dẫn đến buông bỏ" ấy ở đâu? Trong Phật Giáo, chúng ta nói, "Không nên bám níu vào bất luận ǵ." Luôn luôn chúng ta nghe nhắc tới, nhắc lui, "Không nên bám níu vào bất cứ ǵ!" Lời dạy nầy có nghĩa là hăy nắm lấy mà không nên giữ chắc lại. Như cây đèn bin (flashlight) đây. Ta tự hỏi, "cái ǵ đây?" Rồi ta cầm lên, "ờ, đây là cây đèn bin", và ta đặt xuống trở lại. Nắm lấy sự vật là như vậy. Nếu không nắm lấy ǵ hết th́ có thể làm ǵ? Chúng ta không thể đi kinh hành hoặc làm bất luận ǵ khác. Như vậy, trước tiên ta phải nắm lấy. Đó là có ư muốn, đúng thật vậy, nhưng về sau nó sẽ dẫn đến "parami", ba la mật [14]. Thí dụ như có ư muốn đi đến đây ... nên Jàgaro [15] mới đi đến Wat Pah Pong ... , trước tiên ông ấy phải có ư muốn. Nếu ông ấy không cảm nghe có ư muốn đi, ắt ông không có đi. Đối với tất cả mọi người đều như vậy, họ đến đây v́ muốn đến. Nhưng khi ư muốn phát sanh, chớ nên cố bám vào nó. Vậy, quư vị đến rồi trở về ... Cái ǵ đây? Ta nhặt lên cầm trên tay, nh́n và thấy, "ờ, đây là cây đèn bin", rồi đặt xuống. Đó là nắm lấy mà không giữ chắc, chúng ta buông bỏ. Biết, rồi buông bỏ. Một cách đơn giản, ta nói, "hiểu biết và buông bỏ". Cầm lên nh́n rồi bỏ xuống. "Điều nầy người ta nói là tốt, điều nầy người ta nói là xấu" ... biết, rồi buông bỏ. Tốt và xấu, ta hiểu biết, nhưng để cho tất cả đi qua. Ta không điên rồ cố bám vào sự vật, nhưng ta "nắm lấy" với trí tuệ. Pháp hành "trong oai nghi" nầy có thể hành đồng đều. Quư vị phải hành đồng đều như vậy. Làm cho tâm hiểu biết như thế ấy sẽ khơi động cho trí tuệ khai triển. Khi tâm có trí tuệ th́ c̣n ǵ nữa mà t́m?

 

We should reflect on what we are doing here. For what reason are we living here, what are we working for? In the world they work for this or that reward, but the monks teach something a little deeper than that. Whatever we do, we ask for no return. We work for no rewards. Worldly people work because they want this or that, because they want some gain or other, but the Buddha taught to work just in order to work, we don't ask for anything beyond that. If you do something just to get some return it'll cause suffering. Try it out for yourself! You want to make your mind peaceful so you sit down and try to make it peaceful — you'll suffer! Try it. Our way is more refined. We do, and then let go; do, and then let go.

Phải suy tư về những ǵ mà ta đang làm ở đây. V́ lư do nào mà ta sống ở đây, làm việc để làm ǵ? Trong thế gian, người ta làm việc để thọ hưởng điều nầy hay điều nọ, nhưng các nhà sư dạy thâm sâu hơn một chút. Bất luận điều ǵ ta làm, ta không đ̣i hỏi được đền đáp. Chúng ta làm việc để không thọ hưởng ǵ. Người đời làm việc bởi v́ họ muốn cái nầy cái nọ, họ muốn được hưởng một món lợi nào. Nhưng Đức Phật dạy ta làm việc chỉ để làm việc, không đ̣i hỏi bất luận ǵ hơn nữa. Nếu quư vị làm việc ǵ chỉ v́ muốn được đền đáp lại th́ đó là nguyên nhân sanh đau khổ. Quư vị hăy tự ḿnh làm thử xem! Quư vị muốn tâm được an lạc nên ngồi thiền và cố gắng làm cho tâm an lạc -- quư vị sẽ đau khổ. Hăy cố gắng thử xem. Đường lối của chúng ta có phần tế nhị hơn. Chúng ta làm, rồi buông bỏ; làm, rồi buông bỏ.

 

Look at the brahman who makes a sacrifice: he has some desire in mind, so he makes a sacrifice. Those actions of his won't help him transcend suffering because he's acting on desire. In the beginning we practice with some desire in mind; we practice on and on, but we don't attain our desire. So we practice until we reach a point where we're practicing for no return, we're practicing in order to let go. This is something we must see for ourselves, it's very deep. Maybe we practice because we want to go to Nirvana — right there, you won't get to Nirvana! It's natural to want peace, but it's not really correct. We must practice without wanting anything at all. If we don't want anything at all, what will we get? We don't get anything! Whatever you get is just a cause for suffering, so we practice not getting anything.

Thử nh́n vị Bà-la-môn tế lễ thần linh; ông ta có một ư muốn trong tâm rồi mới tế lễ để van vái cầu xin cho ư muốn ấy được thành tựu. Hành động như vậy không thể giúp ông vượt khỏi đau khổ, bởi v́ ông làm với ḷng mong muốn sẽ được một điều ǵ, làm v́ cầu mong được ban bố một quyền lợi nào. Lúc ban sơ chúng ta thực hành với một vài ước muốn trong tâm, chúng ta thực hành, tiếp tục thực hành, nhưng không đạt được điều mong muốn. Do đó chúng ta hành cho đến khi đạt đến điểm mà ta chỉ hành, không cầu mong được ǵ. Ta thực hành để buông bỏ. Đây là điều mà ta phải tự ḿnh nhận thấy, điểm nầy rất thâm sâu. Có thể ta thực hành v́ muốn chứng đắc Niết Bàn -- ngay tại đây ta kẹt cứng, không thể đắc Niết Bàn! Lẽ dĩ nhiên là ta muốn an lạc, nhưng muốn như vậy không thật sự là đúng. Ta phải thực hành mà không muốn ǵ cả. Nếu không muốn ǵ cả th́ hành rồi được ǵ? Không được ǵ hết! Bất luận ǵ mà ta được chỉ là nguyên nhân tạo đau khổ. Do vậy, chúng ta thực hành để không được bất cứ ǵ.

 

Just this is called "making the mind empty." It's empty but there is still doing. This emptiness is something people don't usually understand, but those who reach it see the value of knowing it. It's not the emptiness of not having anything, it's emptiness within the things that are here. Like this flashlight: we should see this flashlight as empty, because of the flashlight there is emptiness. It's not the emptiness where we can't see anything, it's not like that. People who understand like that have got it all wrong. You must understand emptiness within the things are here.

Chỉ có như vậy được gọi là "làm cho tâm trống không". Trống không nhưng vẫn sinh hoạt. Chính trạng thái rỗng không nầy là điều mà thông thường người ta không hiểu, nhưng những ai đă đạt đến đó ắt nhận thấy rằng hiểu biết nó là lợi ích. Đây không phải là trạng thái rỗng không, không chứa đựng ǵ hết mà là sự rỗng không bên trong những sự vật hiện hữu ngay tại đây. Như cây đèn bin nầy chẳng hạn, ta phải thấy cây đèn bin nầy là trống không bởi v́ có trạng thái rỗng không của cây đèn. Không phải là trống không nơi mà ta không thấy ǵ, không phải vậy, hiểu như vậy là sai. Quư vị phải thấu hiểu trạng thái rỗng không bên trong những sự vật hiện hữu ngay tại đây.

 

Those who are still practicing because of some gaining idea are like the brahman who makes a sacrifice just to fulfill some wish. Like the people who come to see me to be sprinkled with "holy water." When I ask them, "Why do you want this 'holy water'?" they say, "We want to live happily and comfortably and not get sick." There! They'll never transcend suffering that way. The worldly way is to do things for a reason, to get some return, but in Buddhism we do things without any gaining idea. The world has to understand things in terms of cause and effect, but the Buddha teaches us to go above cause, beyond effect; to go above birth and beyond death; to go above happiness and beyond suffering. Think about it... there's nowhere to stay. We people live in a "home." To leave home and go where there is no home... we don't know how to do it, because we've always lived with becoming, with clinging. If we can't cling we don't know what to do.

Những ai c̣n hành thiền để được hưởng ǵ là cũng giống như vị bà la môn tế lễ thần linh, chỉ để được cung ứng một vài nhu cầu. Cũng giống như có người đến đây viếng Sư để được Sư rảy "nước thánh". Khi Sư hỏi họ, "Tại sao muốn được rảy nước?" Họ trả lời, "Bạch Sư, bởi v́ con muốn sống lâu, sống thoải mái, hạnh phúc và không bệnh hoạn." Đó! Họ không bao giờ vượt qua khỏi đau khổ bằng cách ấy. Đường lối của thế gian là làm việc ǵ phải có lư do, phải có ǵ đền bù trở lại mới làm, nhưng trong Phật Giáo chúng ta làm mà không có ư mong cầu bất luận ǵ. Người thế gian phải hiểu biết sự vật theo chiều hướng của định luật nhân quả, nhưng Đức Phật dạy ta vượt lên trên, vượt qua khỏi nhân và quả. Trí tuệ của Ngài đă vượt lên trên sanh và qua khỏi tử, vượt lên trên hạnh phúc và qua khỏi đau khổ. Hăy suy gẫm về điểm nầy ... không có nơi nào để ẩn náu. Người thường chúng ta sống trong một "ngôi nhà". Giờ đây rời khỏi nhà và đi đến nơi không có nhà cửa ... chúng ta không biết phải làm thế nào, bởi v́ chúng ta luôn luôn sống với "hữu" (hành động tạo nghiệp), với "thủ" (bám níu chặt chẽ) . Nếu không c̣n "thủ" nữa th́ ta không biết làm ǵ.

 

So most people don't want to go to Nirvana, there's nothing there; nothing at all. Look at the roof and the floor here. The upper extreme is the roof, that's an "abiding." The lower extreme is the floor, and that's another "abiding." But in the empty space between the floor and the roof there's nowhere stand. One could stand on the roof, or stand on the floor, but not on that empty space. Where there is no abiding, that's where there's emptiness, and, to put it bluntly, we say that Nirvana is this emptiness. People hear this and they back up a bit, they don't want to go. They're afraid they won't see their children or relatives

Do đó, phần lớn chúng ta không muốn đi Niết Bàn, ở đó không có ǵ, không có ǵ hết. Hăy nh́n trên mái nhà và dưới sàn nhà đây. Phía trên tận cùng là mái nhà, đó là "hữu". Phía dưới tận cùng là sàn nhà, đó là một "hữu" khác. Nhưng khoảng không gian rỗng không ở giữa mái nhà và sàn nhà th́ không có chỗ nào để đứng. Người ta có thể đứng trên mái nhà hoặc trên sàn nhà, nhưng không thể đứng trong không gian rỗng không. Nơi nào không có "hữu", đó là nơi rỗng không và hăy nói trắng ra, chúng ta nói Niết Bàn là khoảng không gian rỗng không ấy. Người ta nghe vậy và chùn bước, thối lui, không muốn đi. Họ lo sợ sẽ không gặp lại con cái và họ hàng thân thuộc.

 

This is why, when we bless the laypeople, we say "May you have long life, beauty, happiness and strength." This makes them really happy, "Sadhu!" 23 they all say. They like these things. If you start talking about emptiness they don't want it, they're attached to abiding. But have you ever seen a very old person with a beautiful complexion? Have you ever seen an old person with a lot of strength, or a lot of happiness?... No... But we say, "Long life, beauty, happiness and strength" and they're all really pleased, every single one says "Sadhu!" This is like the brahman who makes oblations to achieve some wish. In our practice we don't "make oblations," we don't practice in order to get some return. We don't want anything. If we still want something then there is still something there. Just make the mind peaceful and have done with it! But if I talk like this you may not be very comfortable, because you want to be "born" again.

Đó là lư do tại sao khi đọc kinh phúc chúc cho người cư sĩ tại gia chúng ta nói, "Phúc chúc cho ông (hay bà) được sống lâu, có sắc đẹp, hạnh phúc, và khoẻ mạnh." Nói như vậy th́ họ thật sự hoan hỷ, "Sàdhu! Sàdhu!" (Lành thay! Lành thay!). Họ thích những chuyện như vậy. Nếu quư vị bắt đầu nói đến "trạng thái rỗng không" th́ họ không muốn, họ c̣n dính mắc nhiều với "hữu". Nhưng có bao giờ quư vị thấy một người già với thân h́nh tráng kiện, đẹp đẽ, không? -- Không. Tuy nhiên ta nói, "sống lâu, sắc đẹp, hạnh phúc, và khoẻ mạnh" th́ tất cả đồng thanh nói, "Sàdhu! Sàdhu!". Cũng giống như vị bà la môn tế lễ thần linh để cầu mong thành tựu một vài ước nguyện của ḿnh. Trong pháp hành của chúng ta không có "nghi thức tế lễ". Chúng ta hành, không phải để được đáp lại một lợi ích nào. Chúng ta không muốn ǵ hết. Nếu chúng ta c̣n muốn điều ǵ ắt vẫn c̣n điều ǵ đó. Chúng ta chỉ làm cho tâm an lạc, đủ rồi! Nhưng nếu Sư nói như vậy có thể quư vị cảm nghe không được thoải mái, bởi v́ quư vị c̣n muốn "tái sanh", sanh trở lại để sống nữa.

 

So all you lay practitioners should get close to the monks and see their practice. To be close to the monks means to be close to the Buddha, to be close to his Dhamma. The Buddha said, "Ananda, practice a lot, develop your practice! Whoever sees the Dhamma sees me, and whoever sees me sees the Dhamma." Where is the Buddha? We may think the Buddha has been and gone, but the Buddha is the Dhamma, the Truth. Some people like to say, "Oh, if I was born in the time the Buddha I would go to Nirvana." Here, stupid people talk like this. The Buddha is still here. The Buddha is truth. Regardless of whoever is born or dies, the truth is still here. The truth never departs from the world, it's there all the time. Whether a Buddha is born or not, whether someone knows it or not, the truth is still there. So we should get close to the Buddha, we should come within and find the Dhamma. When we reach the Dhamma we will reach the Buddha; seeing the Dhamma we will see the Buddha and all doubts will dissolve.

Như vậy, quư vị hành giả cư sĩ nên đến gần chư sư để xem chư Tăng hành thế nào. Gần với chư sư có nghĩa là gần với Đức Phật, gần với Giáo Pháp. Đức Phật dạy, "Nầy Ànanda, hăy thực hành cho thật nhiều, hăy phát triển pháp hành của con! Người nào thấy Giáo Pháp tức thấy Như Lai, và người nào thấy Như Lai ắt thấy Giáo Pháp." Đức Phật ở đâu? Chúng ta có thể nghĩ rằng Đức Phật thị hiện trên thế gian và đă tịch diệt, nhưng Đức Phật là Giáo Pháp, là Chân Lư. Vài người thích nói, "ồ, phải chi tôi được sống vào thời Đức Phật chắc là tôi đă chứng đắc Niết Bàn." Đấy, người điên rồ nói như vậy. Đức Phật vẫn c̣n ở đây. Đức Phật là Chân Lư. Dầu có ai được sanh ra, hay có ai từ trần, Chân Lư vẫn c̣n đây. Chân Lư không bao giờ rời thế gian mà luôn luôn ở đây. Dầu Đức Phật có giáng trần hay không, dầu có ai biết đến cùng không, Chân Lư vẫn c̣n đó. Như vậy ta phải đến gần, phải bước vào bên trong và t́m ra Giáo Pháp. Khi tiến đạt đến Giáo Pháp sẽ đạt đến Đức Phật; thấy Giáo Pháp ta sẽ thấy Đức Phật và tất cả mọi hoài nghi sẽ tan biến.

 

To put it simply, it's like Teacher Choo. 24 At first he wasn't a teacher, he was just Mr. Choo. When he studied and passed the necessary grades he became a teacher, and became known as Teacher Choo. How did he become a teacher? Through studying the required things, thus allowing Mr. Choo to become Teacher Choo. When Teacher Choo dies, the study to become a teacher still remains, and whoever studies it will become a teacher. That course of study to become a teacher doesn't disappear anywhere, just like the Truth, the knowing of which enabled the Buddha to become the Buddha. So the Buddha is still here. Whoever practices and sees the Dhamma sees the Buddha. These days people have got it all wrong, they don't know where the Buddha is. They say, "If I was born in the time of the Buddha I would have become a disciple of his and become enlightened." That's just foolishness. You should understand this

Một thí dụ đơn giản, như trường hợp Giáo Sư Choo. Trước kia ông không phải là giáo sư mà chỉ là Ông Choo. Khi ông học xong các lớp và đă đỗ các chứng chỉ cần thiết ông mới trở thành giáo sư và được gọi là Giáo Sư Choo. Ông làm thế nào để trở thành giáo sư? Phải trải qua các lớp học và học những môn cần thiết. Những ǵ cần phải học ấy làm cho ông trở thành Giáo Sư Choo. Đến khi Giáo Sư Choo từ trần, các lớp và các môn học ấy vẫn c̣n đó, và ai khác theo học đúng như vậy cũng trở thành giáo sư như ông. Các lớp, các môn học ấy không biến mất đi đâu. Chỉ giống như Chân Lư mà nhờ thông suốt nó Đức Phật trở thành Phật. Như vậy Đức Phật vẫn c̣n đây. Bất luận ai thực hành và thấy được Giáo Pháp ắt thấy Đức Phật. Hiện nay người ta hiểu biết sai lạc hết, người ta không biết Đức Phật ở đâu. Họ nói, "Phải chi tôi sanh vào thời Đức Phật tôi đă theo làm đệ tử Ngài và đă chứng đắc Đạo Quả." Đó chỉ là điên rồ, quư vị phải biết, đó là điên rồ.

 

Don't go thinking that at the end of the rains retreat you'll disrobe. Don't think like that! In an instant an evil thought can arise in the mind, you could kill somebody. In the same way, it only takes a split-second for good to flash into the mind, and you're there already. Don't think that you have to ordain for a long time to be able to meditate. Where the right practice lies is in the instant we make kamma. In a flash an evil thought arises... before you know it you've committed some really heavy kamma. And in the same way, all the disciples of the Buddha practiced for a long time, but the time they attained enlightenment was merely one thought moment. So don't be heedless, even in minor things. Try hard, try to get close to the monks, contemplate things and then you'll know about monks. Well, that's enough, huh? It must be getting late now, some people are getting sleepy. The Buddha said not to teach Dhamma to sleepy people.

Không nên nghĩ rằng vào cuối mùa An Cư Kiết Hạ nầy quư vị sẽ hoàn tục. Chớ nghĩ vậy! Trong khoảnh khắc, một ư nghĩ bất thiện có thể đột nhiên khởi phát trong tâm và quư vị có thể giết người. Cùng thế ấy, chỉ trong nháy mắt tư tưởng thiện có thể phực nhoáng trong tâm và quư vị đă đến nơi. Không nên nghĩ rằng phải xuất gia lâu năm mới có thể hành thiền. Nơi nào có pháp hành chân chánh, trong chớp nhoáng ta tạo nghiệp. Trong chớp nhoáng một tư tưởng bất thiện phát sanh ... và, trước khi hay biết nó, ta đă tạo nghiệp vô cùng quan trọng. Cùng thế ấy, tất cả các vị đệ tử của Đức Phật trải qua thời gian lâu dài để thực hành, nhưng chứng ngộ th́ chỉ trong một chập tư tưởng (tức một sát na tâm). Vậy, không nên dể duôi buông lung, dầu trong những việc nhỏ nhặt. Hăy nỗ lực tinh tấn, gia công chuyên cần để đến gần chư Tăng, hăy quán chiếu sự vật và chừng ấy quư vị sẽ hiểu biết chư sư. Đă đủ rồi phải không? Đêm đă khuya, vài người đă buồn ngủ. Đức Phật nói không nên dạy những người buồn ngủ.

 

Right View — The Place of Coolness

Chánh kiến -- nơi an trú mát mẻ

 

"...Our discontent is due to wrong view. Because we don't exercise sense restraint we blame our suffering on externals... The right abiding place for monks, the place of coolness, is just Right View itself. We shouldn't look for anything else..."

... Chúng ta bất măn, không bằng ḷng, v́ mang nặng Tà Kiến. V́ không tập luyện thu thúc lục căn chúng ta phiền trách ngoại cảnh làm cho ḿnh đau khổ ... ẩn náu chân chánh của chư sư, nơi an trú mát mẻ, chính là Chánh Kiến. Chúng ta không nên t́m ở đâu khác ...

 

The practice of Dhamma goes against our habits, the truth goes against our desires, so there is difficulty in the practice. Some things which we understand as wrong may be right, while the things we take to be right may be wrong. Why is this? Because our minds are in darkness, we don't clearly see the Truth. We don't really know anything and so are fooled by people's lies. They point out what is right as being wrong and we believe it; that which is wrong, they say is right, and we believe that. This is because we are not yet our own masters. Our moods lie to us constantly. We shouldn't take this mind and its opinions as our guide, because it doesn't know the truth.

Thực hành Giáo Pháp là đi ngược ḍng những thói quen của ta, chân lư đi ngược chiều những tham vọng của chúng ta, do đó thực hành Giáo Pháp quả thật là khó. Một vài sự việc mà ta hiểu là sai có thể là đúng, trong khi những điều mà ta nghĩ là đúng lại có thể sai. Tại sao vậy? Bởi v́ tâm của ta ở trong đêm tối, chúng ta không thấy rơ Chân Lư. Chúng ta thật sự không hiểu ǵ và bị tánh gian dối của người đời phỉnh gạt. Họ chỉ điều chân chánh, bảo là sai lầm, và chúng ta tin thật. Điều sai lầm, họ nói là đúng, và ta tin. Đó là bởi v́ ta chưa làm chủ được chính ta. Những cảm xúc vui buồn luôn luôn phỉnh lừa ta. Chúng ta không nên lấy cái tâm nầy và những ư kiến của nó làm kim chỉ nam để nó hướng dẫn ta trên đường đời, bởi v́ nó không thấu hiểu chân lư.

 

Some people don't want to listen to others at all, but this is not the way of a man of wisdom. A wise man listens to everything. One who listens to Dhamma must listen just the same, whether he likes it or not, and not blindly believe or disbelieve. He must stay at the half-way mark, the middle point, and not be heedless. He just listens and then contemplates, giving rise to the right results accordingly.

Vài người không muốn nghe lời ai cả, nhưng đó không phải là đường lối sáng suốt. Người có trí tuệ lắng nghe tất cả. Người nghe Giáo Pháp phải một mực chăm chú lắng nghe dầu có ưa thích cùng không, và không vội nhắm mắt tin càng, cũng không vội bác bỏ một cách mù quáng. Phải ở nửa đường, vào điểm giữa, và không hờ hững buông lung. Người ấy chỉ lắng nghe rồi suy gẫm, để cho thành quả thích nghi của suy tư khởi phát

 

A wise man should contemplate and see the cause and effect for himself before he believes what he hears. Even if the teacher speaks the truth, don't just believe it, because you don't yet know the truth of it for yourself. It's the same for all of us, including myself. I've practiced before you, I've seen many lies before. For instance, "This practice is really difficult, really hard." Why is the practice difficult? It's just because we think wrongly, we have wrong view.

Người có trí tuệ phải suy gẫm về những ǵ ḿnh nghe và trước khi tin cùng không, phải tự ḿnh nhận thấy nguyên nhân và hậu quả. Dầu vị thầy nói đúng mà tự chính ḿnh chưa rơ được chân lư th́ cũng không nên vội tin chỉ v́ ḿnh nghe vậy. Phải tự ḿnh thấu hiểu rơ ràng rồi mới tin. Điều nầy phải được áp dụng cho tất cả, cho đến Sư cũng vậy. Sư đă có thực hành trước quư vị, trước đây Sư đă có thấy nhiều điều gian dối. Thí dụ, "Pháp hành nầy quả thật là khó, thật sự là cam go." Tại sao pháp hành nầy khó? Chỉ v́ chúng ta suy tư sai lầm, chúng ta có Tà Kiến.

 

Previously I lived together with other monks, but I didn't feel right. I ran away to the forests and mountains, fleeing the crowd, the monks and novices. I thought that they weren't like me, they didn't practice as hard as I did. They were sloppy. That person was like this, this person was like that. This was something that really put me in turmoil, it was the cause for my continually running away. But whether I lived alone or with others I still had no peace. On my own I wasn't content, in a large group I wasn't content. I thought this discontent was due to my companions, due to my moods, due to my living place, the food, the weather, due to this and that. I was constantly searching for something to suit my mind.

Trước đây Sư sống với nhiều vị sư khác, nhưng không cảm nghe rằng sống như vậy là đúng. Sư bỏ đi vào rừng và lên núi, lẫn trốn đám đông các nhà sư và các chú sa di. Sư nghĩ rằng họ không giống Sư, không chịu khó chuyên cần như Sư. Họ chểnh mảng, không dốc ḷng hành đạo. Người nầy th́ như thế nầy, người kia như thế kia. Đó là điều thật sự làm cho Sư bận rộn tâm trí và đó là nguyên nhân làm cho Sư luôn luôn bỏ chạy. Tuy nhiên, dầu ở một ḿnh hay ở chung với những người khác Sư vẫn không an lạc. Sống đơn độc, Sư không bằng ḷng. Sống với đông đảo chư sư, Sư cũng không bằng ḷng. Sư nghĩ rằng t́nh trạng bất măn ấy là do những người đồng tu với ḿnh, do những cảm xúc buồn vui của ḿnh, v́ chỗ ở, v́ vật thực, v́ khí hậu, v́ cái nầy, v́ cái kia ... Sư luôn luôn chạy t́m điều ǵ thích nghi với tâm tánh ḿnh.

 

As a dhutanga 25 monk, I went traveling, but things still weren't right. So I contemplated, "What can I do to make things right? What can I do?" Living with a lot of people I was dissatisfied, with few people I was dissatisfied. For what reason? I just couldn't see it. Why was I dissatisfied? Because I had wrong view, just that; because I still clung to the wrong Dhamma. Wherever I went I was discontent, thinking, "Here is no good, there is no good..." on and on like that. I blamed others. I blamed the weather, heat and cold, I blamed everything! Just like a mad dog. It bites whatever it meets, because it's mad. When the mind is like this our practice is never settled. Today we feel good, tomorrow no good. It's like that all the time. We don't attain contentment or peace.

Lúc bấy giờ Sư là nhà sư thực hành hạnh đầu đà dhùtanga [16], Sư đi hành đạo nơi nầy nơi khác, nhưng sự vật vẫn chưa phải là đúng theo ư. Rồi Sư mới suy gẫm, " Giờ đây ta phải làm ǵ để tạo hoàn cảnh thích nghi? Ta có thể làm ǵ? Sống chung với đông người ta không thỏa măn, với ít người ta không bằng ḷng. Tại sao vậy? Sư không thể t́m ra lư do. Tại sao Sư không thỏa măn? Bởi v́ lúc bấy giờ Sư c̣n Tà Kiến, nhận thức sai lầm, chỉ có thế; bởi v́ Sư c̣n cố bám vào Tà Pháp. Bất cứ đi đâu Sư cũng không bằng ḷng, nghĩ rằng, "Nơi nầy không tốt, chỗ kia không tốt ..." măi măi như vậy. Sư trách móc người khác, đổ lỗi cho thời tiết nóng quá hay lạnh quá, Sư đổ lỗi cùng hết! Cũng giống như con chó dại. Gặp đâu cắn đó, bởi v́ nó điên. Khi mà tâm là như vậy th́ pháp hành của ta không bao giờ được kiên cố vững vàng. Hôm nay cảm nghe thoải mái dễ chịu, ngày mai bực bội ưu phiền. Luôn luôn như vậy. Không bao giờ thấy bằng ḷng hay an lạc.

 

The Buddha once saw a jackal, a wild dog, run out of the forest where he was staying. It stood still for a while, then it ran into the underbrush, and them out again. Then it ran into a tree hollow, then out again. Then it went into a cave, only to run out again. One minute it stood, the next it ran, then it lay down, then it jumped up... That jackal had mange. When it stood the mange would eat into its skin, so it would run. Running it was still uncomfortable, so it would lie down. Then it would jump up again, running into the underbrush, the tree hollow, never staying still.

Ngày kia Đức Phật thấy con chó rừng từ chỗ nó ở trong rừng chạy ra. Nó đứng yên một lúc. Bỏ chạy vào bụi rậm, rồi chạy trở lại. Rồi chạy vào một bọng cây, và chạy ra. Chạy vào hang đá, cũng để rồi chạy ra. Đứng yên một chút là bỏ chạy, chạy rồi nằm xuống, rồi nhảy dựng lên ... chó bị con vét đeo. Khi chó ở yên th́ vét cắn hút máu, v́ thế nó phải chạy hoài. Chạy, nhưng nghe không thoải mái nên nằm, và rồi nhảy lên trở lại, chạy vào bụi rậm, vào bọng cây, vào hang đá, không bao giờ ở yên.

 

The Buddha said, "Monks, did you see that jackal this afternoon? Standing it suffered, running it suffered, sitting it suffered, lying down it suffered. In the underbrush, a tree hollow or a cave, it suffered. It blamed standing for its discomfort, it blamed sitting, it blamed running and lying down; it blamed the tree, the underbrush and the cave. In fact the problem was with none of those things. That jackal had mange. The problem was with the mange."

Đức Phật dạy, "Nầy chư tỳ khưu, hồi trưa nầy các con có thấy con chó rừng đó không? Đứng yên, nó đau khổ. Chạy, nó đau khổ. Nằm, nó đau khổ. Ở trong bụi rậm, trong bọng cây, trong hang đá, nó vẫn đau khổ. Nó phiền trách v́ tại đứng nên không thoải mái. Nó than van v́ tại ngồi, tại chạy, tại nằm, nên khó chịu. Nó đổ lỗi cho bụi rậm, cho bọng cây và hang đá. Trên thực tế, vấn đề không phải do những vật ấy. Con chó bị vét đeo, hút máu. Vấn đề là vét.

 

We monks are just the same as that jackal. Our discontent is due to wrong view. Because we don't exercise sense restraint we blame our suffering on externals. Whether we live at Wat Pah Pong, in America or in London we aren't satisfied. Going to live at Bung Wai or any of the other branch monasteries we're still not satisfied. Why not? Because we still have wrong view within us, just that! Wherever we go we aren't content.

Chúng ta, các nhà sư, cũng giống như con chó rừng ấy. Chúng ta bất măn, không bằng ḷng v́ mang nặng Tà Kiến. V́ không tu luyện pháp thu thúc lục căn, chúng ta phiền trách ngoại cảnh làm cho ḿnh đau khổ. Dầu chúng ta sống ở Wat Pah Pong, ở Mỹ hay ở Anh quốc ta vẫn bất toại nguyện. Giờ đây đi sống ở Bung Wai (Thiền Viện Quốc Tế) hay ở một tu viện nào khác, ta vẫn không toại nguyện. Tại sao? Bởi v́ từ bên trong ta vẫn c̣n ôm ấp Tà Kiến. Chỉ có thế! Đi bất cứ đâu ta vẫn không bằng ḷng.

 

But just as that dog, if the mange is cured, is content wherever it goes, so it is for us. I reflect on this often, and I teach you this often, because it's very important. If we know the truth of our various moods we arrive at contentment. Whether it's hot or cold we are satisfied, with many people or with few people we are satisfied. Contentment doesn't depend on how many people we are with, it comes only from right view. If we have right view then wherever we stay we are content.

Tuy nhiên, cũng giống như con chó rừng, nếu trị được con vét th́ dầu ở đâu chó cũng bằng ḷng. Ta cũng vậy, Sư rất thường suy tư và thường dạy quư vị về điểm nầy bởi v́ nó vô cùng thiết yếu. Nếu chúng ta thấu rơ chân lư của những cơn buồn vui của ta ắt ta sẽ đạt đến trạng thái tự tại, bằng ḷng. Dầu trời nóng nực hay lạnh lẽo ta cũng bằng ḷng, ở chung chỗ đông hay ít người ta cũng bằng ḷng. T́nh trạng bằng ḷng hay không, không phải tùy thuộc nơi số người nhiều hay ít cùng ở chung, mà do Chánh Kiến. Đă có Chánh Kiến th́ ở đâu ta cũng bằng ḷng.

 

But most of us have wrong view. It's just like a maggot! A maggot's living place is filthy, its food is filthy... but they suit the maggot. If you take a stick and brush it away from its lump of dung, it'll struggle to crawl back into it. It's the same when the Ajahn teaches us to see rightly. We resist, it makes us feel uneasy. We run back to our "lump of dung" because that's where we feel at home. We're all like this. If we don't see the harmful consequences of all our wrong views then we can't leave them, the practice is difficult. So we should listen. There's nothing else to the practice.

Nhưng phần đông chúng ta có Tà Kiến. Cũng giống như con gịi! Chỗ ở của con gịi rất là bẩn thỉu. Thức ăn của gịi thật là dơ dáy ... nhưng đó là thức ăn và chỗ ở thích hợp với gịi. Nếu quư vị lấy cái que hay cọng chổi phủi nó ra khỏi đống phẩn, nó sẽ sống chết cố gắng ḅ trở lại vào đó. Cùng thế ấy, thầy dạy chúng ta phải nhận thức đúng. Chúng ta phản đối v́ điều ấy làm cho ta cảm nghe không thoải mái. Chúng ta quày trở lại "đống phẩn", bởi v́ nơi đó chúng ta cảm nghe thoải mái dễ chịu. Tất cả chúng ta đều là vậy! Nếu không thấy được hậu quả tai hại của tất cả những quan kiến sai lầm của chúng ta, ta không thể rời bỏ nó, pháp hành quả thật là khó. Như vậy ta nên lắng nghe. Pháp hành không có ǵ khác.

 

If we have right view wherever we go we are content. I have practiced and seen this already. These days there are many monks, novices and laypeople coming to see me. If I still didn't know, if I still had wrong view, I'd be dead by now! The right abiding place for monks, the place of coolness, is just right view itself. We shouldn't look for anything else

Nếu có Chánh Kiến th́ bất luận đi đâu ta vẫn bằng ḷng. Sư đă có hành, có kinh nghiệm và thấy rơ như vậy. Giờ đây có rất nhiều vị sư, sa di và nhiều người cư sĩ đến viếng Sư. Nếu Sư vẫn c̣n chưa thấu rơ, nếu c̣n giữ Tà Kiến ắt Sư chết ngay bây giờ. Nơi ẩn náu chân chánh của chư sư, nơi an trú mát mẻ chính là Chánh Kiến. Không nên t́m ở đâu khác.

 

So even though you may be unhappy it doesn't matter, that unhappiness is uncertain. Is that unhappiness your "self"? Is there any substance to it? Is it real? I don't see it as being real at all. Unhappiness is merely a flash of feeling which appears and then is gone. Happiness is the same. Is there a consistency to happiness? Is it truly an entity? It's simply a feeling that flashes suddenly and is gone. There! It's born and then it dies. Love just flashes up for a moment and then disappears. Where is the consistency in love, or hate, or resentment? In truth there is no substantial entity there, they are merely impressions which flare up in the mind and then die. They deceive us constantly, we find no certainty anywhere. Just as the Buddha said, when unhappiness arises it stays for a while, then disappears. When unhappiness disappears, happiness arises and lingers for a while and then dies. When happiness disappears, unhappiness arises again... on and on like this.

Vậy, mặc dầu quư vị có thể cảm nghe không hài ḷng, điều đó không thành vấn đề. Trạng thái không vừa ḷng vốn không ổn định vững bền. Có phải trạng thái bất toại nguyện ấy là "chính quư vị", là cái "bản ngă" của quư vị không? Trong trạng thái ấy có chi thực chất không? Có thực sự hiện hữu không? Sư không thấy nó thật sự hiện hữu chút nào. Trạng thái bất toại nguyện chỉ là một nhoáng cảm giác phát hiện thoáng qua rồi tan biến. Hạnh phúc cũng vậy. Có cái chi là thực chất trong hạnh phúc không? Nó có thật sự là một thực thể không? Nó chỉ là một cảm giác bỗng nhiên thoáng qua rồi tan biến. Đó! Sanh rồi diệt, T́nh thương chỉ một chớp nhoáng trong khoảnh khắc, rồi biến mất. Thực chất của t́nh thương, sân hận, buồn phiền ở đâu? Trong thực tế không có thực thể thuần chất trong đó. Nó chỉ là những cảm giác nhoáng chớp lên trong tâm và tan biến. Lúc nào nó cũng phỉnh lừa gạt gẫm ta, không có nơi nào t́m thấy cái ǵ bền vững, chắc chắn, ổn định. Như Đức Phật dạy, khi điều bất hạnh, trạng thái không toại nguyện, phát sanh, nó tồn tại nhất thời rồi tan biến. Khi bất hạnh tan biến, hạnh phúc phát sanh, tồn tại một lúc, rồi hoại diệt. Khi hạnh phúc hoại diệt, bất hạnh phát sanh trở lại -- măi măi triền miên như vậy.

 

In the end we can say only this — apart from the birth, the life and the death of suffering, there is nothing. There is just this. But we who are ignorant run and grab it constantly. We never see the truth of it, that there's simply this continual change. If we understand this then we don't need to think very much, but we have much wisdom. If we don't know it, then we will have more thinking than wisdom — and maybe no wisdom at all! It's not until we truly see the harmful results of our actions that we can give them up. Likewise, it's not until we see the real benefits of practice that we can follow it, and begin working to make the mind "good."

Cuối cùng chúng ta có thể nói -- ngoài sự sanh, sự sống và sự chết của Đau Khổ, không có ǵ hết. Chỉ có bấy nhiêu. Nhưng chúng ta si mê, chạy theo và măi măi bám níu. Chúng ta không bao giờ thấy sự thật, không bao giờ nhận thức rằng chỉ có trạng thái biến đổi liên tục nối tiếp. Nếu thấu rơ như vậy, ta không cần phải suy tư nhiều, nhưng có nhiều trí tuệ. Nếu không thấu hiểu, ta phải suy tư nhiều hơn là có trí tuệ -- và chưa chừng không có trí tuệ ǵ hết. Chỉ đến chừng nào thật sự nhận thức hậu quả tai hại của hành động ḿnh, chúng ta mới có thể buông bỏ. Cùng thế ấy, chỉ đến chừng nào nhận thức lợi ích thiết thực của pháp hành, chúng ta mới có thể thực hành, và bắt đầu gia công làm cho tâm trở nên "tốt".

 

If we cut a log of wood and throw it into the river, and that log doesn't sink or rot, or run aground on either of the banks of the river, that log will definitely reach the sea. Our practice is comparable to this. If you practice according to the path laid down by the Buddha, following it straightly, you will transcend two things. What two things? Just those two extremes that the Buddha said were not the path of a true meditator — indulgence in pleasure and indulgence in pain. These are the two banks of the river. One of the banks of that river is hate, the other is love. Or you can say that one bank is happiness, the other unhappiness. The "log" is this mind. As it "flows down the river" it will experience happiness and unhappiness. If the mind doesn't cling to that happiness or unhappiness it will reach the "ocean" of Nirvana. You should see that there is nothing other than happiness and unhappiness arising and disappearing. If you don't "run aground" on these things then you are on the path of a true meditator.

Nếu ta cưa một khúc gỗ và bỏ xuống sông, và nếu khúc gỗ không ch́m xuống đáy, hoặc không hư thúi, hoặc bị trôi tấp vào bờ, th́ chắc chắn nó sẽ trôi luôn ra biển cả. Pháp hành của chúng ta cũng giống vậy. Nếu quư vị hành đúng theo con đường mà Đức Phật chỉ vạch, theo đúng con đường quư vị sẽ vuợt khỏi hai điều. Hai điều ǵ? Đó là hai cực đoan mà Đức Phật dạy là không phải con đường của người hành thiền chân chánh -- Dể duôi, buông lung trong Dục Lạc và buông lung trong Đau Khổ. Đó là hai bờ của con sông. Bờ bên nầy là sân hận, bờ bên kia là t́nh thương. Hoặc nữa, quư vị có thể nói một bờ là hạnh phúc và bờ bên kia là đau khổ. Khúc gỗ là cái tâm nầy. Trong khi "chảy trôi theo ḍng nước của con sông", nó sẽ chứng nghiệm hạnh phúc và đau khổ. Nếu tâm không vướng mắc hay bám níu vào hạnh phúc và đau khổ, nó sẽ trôi chảy đến tận "biển cả". Quư vị phải thấy rằng không có ǵ khác hơn là hạnh phúc và đau khổ phát sanh và tan biến. Nếu không "trôi tấp" vào trong đó ắt quư vị đă ở trên con đường của người hành thiền chân chánh.

 

This is the teaching of the Buddha. Happiness, unhappiness, love and hate are simply established in Nature according to the constant law of nature. The wise person doesn't follow or encourage them, he doesn't cling to them. This is the mind which lets go of indulgence in pleasure and indulgence in pain. It is the right practice. Just as that log of wood will eventually flow to the sea, so will the mind which doesn't attach to these two extremes inevitably attain peace.

Đó là Giáo Huấn của Đức Phật. Hạnh phúc và đau khổ, t́nh thương và sân hận, chỉ được thiết lập trong Thiên Nhiên, thuận chiều theo Định Luật của Thiên Nhiên, vốn bất di bất dịch. Người có trí tuệ không đi theo nó, không khuyến khích hay khơi động nó, người ấy không vướng mắc hay bám níu vào nó. Đó là cái tâm buông bỏ cả hai cực đoan, Lợi Dưỡng trong Dục Lạc và Lợi Dưỡng trong Đau Khổ. Đó là pháp hành chân chánh. Cũng chỉ như khúc gỗ suông sẻ chảy trôi thẳng đường ra tận biển cả, cùng thế ấy tâm mà không dính mắc trong hai cực đoan chắn chắn sẽ đạt đến An Lạc.

 

Epilogue

Kết luận

 

...Do you know where it will end? Or will you just keep on learning like this?... Or is there an end to it?... That's okay but it's the external study, not the internal study. For the internal study you have to study these eyes, these ears, this nose, this tongue, this body and this mind. This is the real study. The study of books is just the external study, it's really hard to get it finished.

... Quư vị có biết đến đâu nó sẽ chấm dứt không? Hay là quư vị chỉ tiếp tục măi măi học như vậy? ... Hoặc nữa, nó phải chấm dứt ở một điểm nào chăng? ... Cũng được, nhưng đó là khảo sát bề ngoài. Không phải nghiên cứu bên trong, Muốn khảo sát, học hỏi bên trong quư vị phải t́m hiểu mắt nầy, tai nầy, mũi nầy, lưỡi nầy, thân nầy, và tâm nầy. Đó mới thật sự là môn học. Học trong sách chỉ là học bề ngoài, thật sự khó mà đi đến tận cùng, khó hoàn tất viên măn.

 

When the eye sees form what sort of things happens? When ear, nose, and tongue experience sounds, smells and tastes, what takes place? When the body and mind come into contact with touches and mental states, what reactions take place? Are there still greed, aversion and delusion there? Do we get lost in forms, sounds, smells, tastes, textures and moods? This is the internal study. It has a point of completion.

Khi mắt thấy h́nh thể, hiện tượng ǵ xảy ra? Khi tai nghe âm thanh, mũi hửi mùi, lưỡi nếm vị, điều ǵ phát sanh? Khi thân tiếp chạm với đối tượng của nó và khi tâm giao tiếp với pháp th́ có phản ứng ǵ? Vẫn c̣n tham, sân, si nữa chăng? Ta có bị lạc lối trong h́nh thể, âm thanh, mùi, vị, vật thể và những cảm xúc buồn vui chăng? Đó là học bên trong. Môn học nầy th́ có điểm chấm dứt.

 

If we study but don't practice we won't get any results. It's like a person who raises cows. In the morning he takes the cow out to eat grass, in the evening he brings it back to its pen — but he never drinks the cow's milk. Study is alright, but don't let it be like this. You should raise the cow and drink it's milk too. You must study and practice as well to get the best results.

Nếu học mà không hành ắt sẽ không gặt hái thành quả ǵ. Cũng như người chăn ḅ. Sáng sớm dắt ḅ ra đồng ăn cỏ, rồi chiều lùa trở về chuồng -- nhưng người ấy không bao giờ uống sữa ḅ. Học th́ tốt, nhưng chớ nên để pháp học của ḿnh giống như vậy. Quư vị phải chăn ḅ và cũng uống sữa ḅ nữa. Phải học, và cũng phải hành để gặt hái thành quả tốt đẹp.

 

Here, I'll explain it further. It's like a person who raises chickens, but he doesn't get the eggs. All he gets is the chicken dung! This is what I tell people who raise chickens back home! Watch out you don't become like that! This means we study the scriptures but we don't know how to let go of defilements, we don't know how to "push" greed, aversion and delusion from our mind. Study without practice, without this "giving up," brings no results. This is why I compare it to someone who raises chickens but doesn't collect the eggs, he just collects the dung. It's the same thing.

Đây, để Sư giảng rộng thêm. Cũng như người kia nuôi gà mà không bao giờ lấy trứng, chỉ hốt phẩn gà. Đó là điều mà Sư thường nói với những người nuôi gà ở quê nhà. Hăy thận trọng coi chừng! Chớ nên để ḿnh lọt vào trường hợp tương tợ. Điều nầy có nghĩa là học kinh điển nhưng không biết phải làm thế nào để loại trừ ô nhiễm, không biết làm sao "đẩy lui" tham ái, sân hận, và si mê ra khỏi tâm. Học mà không hành, không có "dứt bỏ", sẽ không đem lại hậu quả tốt đẹp nào. V́ lẽ ấy Sư ví họ như người nuôi gà mà không lấy trứng, chỉ hốt phẩn. Giống như vậy.

 

Because of this, the Buddha wanted us to study the scriptures, and then to give up evil actions through body, speech and mind; to develop goodness in our deeds, speech and thoughts. The real worth of mankind will come to fruition through our deeds, speech and thoughts. But if we only talk well, without acting accordingly, it's not yet complete. Or if we do good deeds but the mind is still not good, this is still not complete. The Buddha taught to develop fine deeds, fine speech and fine thoughts. This is the treasure of mankind. The study and the practice must both be good.

V́ lẽ ấy Đức Phật muốn ta học kinh điển rồi từ bỏ những hành động bất thiện bằng thân, khẩu, ư và phát triển thiện nghiệp qua hành động, lời nói, và tư tưởng. Giá trị thật sự của nhân loại sẽ trở thành tṛn đủ xuyên qua thân, khẩu, ư. Nhưng nếu chúng ta chỉ nói giỏi mà không hành động đúng theo lời nói th́ ắt không viên măn, chưa đủ. Hoặc nữa, nếu ta có những hành động tốt mà tâm vẫn không tốt th́ cũng chưa hoàn tất viên măn. Đức Phật dạy nên phát triển thiện pháp trong cả ba nghiệp: thân, khẩu, ư. Đó là kho tàng quư báu của nhân loại.

 

The Eightfold Path of the Buddha, the path of practice, has eight factors. These eight factors are nothing other than this very body: two eyes, two ears, two nostrils, one tongue and one body. This is the path. And the mind is the one who follows the path. Therefore both the study and the practice exist in our body, speech and mind.

Bát Chánh Đạo của Đức Phật, Con Đường của pháp hành, có tám chi. Tám chi không phải là ǵ khác hơn chính bản thân nầy! Hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi, một lưỡi, và một thân. Đó là Con Đường. Và tâm là người noi theo Con Đường. Do vậy, cả hai, pháp học và pháp hành, nằm trong thân, khẩu, ư của chúng ta.

 

Have you ever seen scriptures which teach about anything other than the body, the speech and the mind? The scriptures only teach about this; nothing else. Defilements are born here. If you know them they die right here. So you should understand that the practice and the study both exist right here. If we study just this much we can know everything. It's like our speech: to speak one word of Truth is better than a lifetime of wrong speech. Do you understand? One who studies and doesn't practice is like a ladle of soup pot. It's in the pot every day but it doesn't know the flavor of the soup. If you don't practice, even if you study till the day you die, you won't know the taste of Freedom!

Quư vị có thấy kinh điển dạy điều ǵ ngoài thân, khẩu, ư chăng? Kinh điển chỉ dạy bấy nhiêu, không có ǵ khác. Ô nhiễm được sanh ra ngay tại đây. Nếu quư vị thấu rơ, nó cũng sẽ chấm dứt ngay tại đây. Vậy, phải thông hiểu rằng cả pháp học lẫn pháp hành đều nằm tại nơi đây. Nếu chỉ học được chừng đó thôi quư vị có thể hiểu biết tất cả. Cũng như lời nói của ta: chỉ nói một lời đúng Chân Lư c̣n hơn suốt cả đời nói sai. Quư vị hiểu chưa? Người có học mà không hành cũng dường như cái muỗng nằm trong nồi canh. Cả ngày trầm ḿnh trong canh, nhưng không biết mùi vị của canh. Nếu không thực hành th́ dầu có học cho đến chết đi nữa quư vị cũng sẽ không thông hiểu Hương vị của Giải thoát.

 

Chú thích:

 

[8] Ở đây, danh từ "Thiên Nhiên" bao hàm các sự vật, vật chất cũng như tinh thần, không phải chỉ có cây cối, thú vật, v.v...

 

[9] Danh từ "giới cấm thủ" được phiên dịch từ Phạn ngữ ślabbata paràmàsa, thông thường được hiểu là sự bám níu chấp vào nghi thức lễ bái, tin rằng những nghi thức lễ bái sẽ đưa đến giải thoát. Ngài Ajahn giảng nó, cùng với hoài nghi, đặc biệt liên quan đến thân kiến. Theo kinh điển, thân kiến, hoài nghi, và giới cấm thủ là ba thằng thúc đầu tiên trong mười thằng thúc mà hành giả tận diệt khi bước vào ḍng suối chảy đến Niết Bàn (Nhập Lưu). Mười thằng thúc (samyojana) là mười dây trói buộc cột chặt chúng sanh vào ṿng luân hồi. Đến khi hoàn toàn giác ngộ, vị A La Hán tận diệt tất cả mười thằng thúc. (Muốn có thêm chi tiết xin xem Đức Phật và Phật Pháp, tác giả Đại Đức Nàrada Mahà Thera, chương 38).

 

[10] Vipassanù -- tức là Vipassanùpakkilesa, Tùy Phiền Năo, một loại ô nhiễm vi tế phát sanh trong khi hành thiền. [11] "Năm Hạ" - Mỗi năm một vị tỳ khưu phải trải qua ba tháng an cư kiết hạ vào mùa mưa, được xem là một hạ. Tuổi đạo của thầy tỳ khưu được tính theo số hạ mà vị ấy trải qua.

 

[12] Đối với người Thái, cũng như phần lớn các dân tộc Á Đông, cái đầu được xem là thiêng liêng và vỗ đầu người khác là một cử chỉ lăng mạ. Cũng theo phong tục, người nam và người nữ không đụng chạm nhau ở chỗ công cộng, nhất là nơi hành thiền th́ càng phải nên đặc biệt nghiêm chỉnh. [13] Quy ước và Giải Thoát :-- nói cách khác, tục đế và chân đế. [14] Parami, là những phẩm hạnh có khả năng đưa ta sang bờ bên kia.

 

[15] Jàgaro -- Đại Đức Jàgaro mà Ngài Ajahn Chah lấy làm thí dụ ở đây, là vị Sư người Úc, Sư Trưởng Wat Pah Nanachat, hôm ấy dẫn một nhóm thiền sinh đến nghe Pháp. [16] Dhùtanga -- Tu sĩ du phương thực hành một số trong mười ba pháp hành khổ hạnh được Đức Phật cho phép, đi đó đây trong rừng (thông thường là đi bộ) t́m nơi thanh vắng để hành thiền.

___________

Ghi chú:

(1) On The Dangers Of Samadhi

(2) Về Những Hiểm Họa Của Tâm Định

Trang trước     

--- o0o ---

Tŕnh bày: Chánh Hạnh

Cập nhật ngày: 04-01-2006

 

--- o0o ---

y' kiến đóng góp xin gửi đến TT Giác Đẳng qua địa chỉ:
Email:giacdang@phapluan.com

Cập nhật ngày: 03-07-2006