aroun

31. Fifty-first and Fifty-second Rains Retreat 1973-74 Establishing Wang Nam Mork as a Monks' Dwelling Place  

I had helped to relocate the old school of Koke Soo-ak and Phra Bart villages so that it could be connected up to the rear of the new building. This new structure had concrete posts and four class rooms. It cost eighty thousand baht but hadn't been fully completed through lack of funds. In 1974 I was able to continue the work by joining up the old and new buildings and partitioning off an office for the head teacher. Underneath I made a reinforced concrete rain water tank of seven by six by two metres.

At the time we were moving the school I also went to set up another dwelling place for monks in the Wang Nam Mork Forest. This was about six kilometres to the west of Wat Hin Mark Peng and still had jungle with mountains, caves and streams. It was therefore ideal for anyone intent on developing their meditation in solitude, and its natural environment was also well worth preserving.

31. An Cư Thứ 51 và 52 1973-74 Establishing Wang Nam Mork as a Monks' Dwelling Place  

Tôi đã giúp dời ngôi trường cũ của làng Koke Soo-ak và Phra Bart để nó có thể được kết nối với phía sau của tòa nhà mới. Công trình kiến trúc mới này có trụ bê tông và bốn phòng học. Nó có giá 80 nghìn baht nhưng vẫn chưa được hoàn thành đầy đủ do ngân qũy. Năm 1974, tôi có thể tiếp tục công việc bằng cách hợp lại các tòa nhà cũ và mới và chia nhỏ một văn phòng cho giáo viên hiệu trưởng. Bên dưới tôi làm một cái bể chứa nước mưa bằng bê tông cốt thép có kích thước 7 mét x 6 mét x 2 mét.

Vào thời điểm chúng tôi chuyển trường, tôi cũng đã đến để thiết lập một nơi ở khác cho các nhà sư trong rừng Wang Nam Mork. Đây là khoảng sáu km về phía tây của chùa Wat Hin Mark Peng và vẫn còn rừng với núi, hang động và suối. Do đó, nó rất lý tưởng cho bất kỳ ai có ý định phát triển thiền định của họ trong tĩnh lặng, và môi trường tự nhiên của nó cũng rất đáng được bảo tồn.

32. Fifty-third Rains Retreat, 1975 Building Wat Lumpini  

A lay person gave about three rai of land in Lumpini District. When other donations increased the area to eleven or twelve rai, another place for solitude and practice could be set up. Wat Lumpini was the equal of Wang Nam Mork — that I had just established — because streams skirted it on all four sides. It was aimed at those who wished for more solitude, as Wat Hin Mark Peng was becoming less peaceful.

32. Khoá An Cư Kiết Hạ thứ 53, 1975 Building Wat Lumpini  

Một cư sĩ đã cho khoảng ba rai đất ở Quận Lumpini. Khi các khoản quyên góp khác tăng diện tích lên mười một hoặc mười hai rai, một nơi khác để tĩnh lặng và tu tập có thể được thiết lập. Chùa Wat Lumpini ngang bằng với chùa Wang Nam Mork - mà tôi mới thành lập - bởi vì các dòng suối bao quanh nó ở cả bốn phía. Nó nhắm đến những người mong muốn có thêm sự tĩnh lặng, vì Wat Hin Mark Peng đang trở nên kém yên bình hơn.

From about 1974 there seems to have been a steadily growing interest among the people of Bangkok and Central Thailand in making contact with the various monasteries in the Northeast. Wat Hin Mark Peng also became more involved in receiving visitors from Bangkok.

Từ khoảng năm 1974, người dân Bangkok và miền Trung Thái Lan ngày càng quan tâm đến việc đến các tu viện khác nhau ở vùng Đông Bắc. Chùa Wat Hin Mark Peng cũng đòn nhiều khách đến từ Bangkok hơn.

In 1975, Somdet Phra Ñaa.nasangworn, the present Supreme Patriarch of Thailand, was supporting the scheme of sending the foreign monks who had been ordained at Wat Bovoranives to study Dhamma in many different parts of Thailand, and many came here to stay for the Rains Retreat. They were all well committed to the practice.

Năm 1975, Somdet Phra Ñaa.nasangworn, vị Giáo chủ Tối cao hiện nay của Thái Lan, đã ủng hộ kế hoạch gửi các nhà sư nước ngoài đến xuất gia tại chùa Wat Bovoranives để học Giáo pháp ở nhiều vùng khác nhau của Thái Lan, và nhiều người đã đến đây để tham dự khóa An Cư Kiết Hạ. Tất cả họ đều cam kết tốt trong việc tu tập.

33. Fifty-fourth Rains Retreat, 1976-77 Spreading the Dhamma Abroad  

My trip to foreign lands this time received support and assistance from many parties who were concerned with teaching Dhamma abroad. Besides, I wanted to go and visit both the Thai and foreign monks living over there. They had gone to spread the Dhamma, and I wanted to hearten and encourage them.

33. An Cư Kiết Hạ lần thứ 54, 1976-77 Truyền bá Giáo pháp ra nước ngoài  

Chuyến đi ra nước ngoài lần này của tôi đã nhận được sự hỗ trợ và giúp đỡ của nhiều bên liên quan đến việc giảng dạy Giáo pháp ở nước ngoài. Ngoài ra, tôi muốn đi thăm cả các nhà sư Thái Lan và nhà sư nước ngoài sống ở đó. Họ đã đi truyền bá Giáo pháp, và tôi muốn khuyến khích và truyền cảm hứng cho họ .

It struck me as amusing that, although I was old and had recently been readying myself for death, I found myself preparing to go abroad. Moreover, I didn't even know their language. In fact this trip wasn't completely satisfactory for me as I always bear three things in mind:

If one wants to go to any particular place or region —

1. One should know their language.

2. One should know their customs and traditions.

3. One should know about their livelihood.

Tôi thấy thú vị vì mặc dù tôi đã già và đã có lúc tôi sẵn sàng cho cái chết, giờ lại thấy mình đang chuẩn bị ra nước ngoài. Hơn nữa, tôi không biết ngôn ngữ của họ. Trên thực tế, chuyến đi này không hoàn toàn thỏa mãn đối với tôi vì tôi luôn ghi nhớ ba điều:

Nếu người ta muốn đến bất kỳ địa điểm hoặc khu vực cụ thể nào -

1. Người đó nên biết ngôn ngữ của họ.

2. Người đó nên biết phong tục và truyền thống của họ.

3. Người đó nên biết về sinh kế của họ.

This is all concerned with proper social discourse and communication with people. However, the lack of language alone makes the other two points almost moot. Notwithstanding this, I still received ample help with interpretation and liaison from those who were knowledgeable about such things. This gave me such good understanding that the language barriers fell away and almost ceased to be a problem.

Tất cả những điều này đều liên quan đến xã hội và giao tiếp phù hợp với mọi người. Tuy nhiên, chỉ riêng việc thiếu ngôn ngữ đã khiến hai điểm còn lại khó khăn. Tuy nhiên tôi nhận được sự trợ giúp dồi dào với người thông dịch và sự phối hợp từ những người hiểu biết về những điều đó. Điều này đã cho tôi hiểu rõ vấn đề ngôn ngữ đã được giải quyết và gần như không còn là vấn đề nữa.

I well knew that I was already very old, already advanced in years. Going here and there no longer held any appeal for me — I had already traveled around quite widely — and finding a place to die like Wat Hin Mark Peng seemed ideal indeed. Then Maer Chee Chuang — (from Singapore, who through her faith in Buddhism became a nun, coming to spend the Rains Retreat at Wat Hin Mark Peng) — invited me to visit Singapore, Australia and Indonesia.

Tôi biết rõ là tôi đã rất già rồi, đã nhìn thấy nhiều trong những năm qua. Đi đây đi đó không còn hấp dẫn với tôi nữa - tôi đã đi qua nhiều nơi - và tìm một nơi để chết như Wat Hin Mark Peng thực sự có vẻ lý tưởng. Sau đó Maer Chee Chuang - (đến từ Singapore, người nhờ đức tin vào Phật giáo, đã trở thành một nữ tu sĩ, đến tham gia Khóa tu An Cư Kiết Hạ tại chùa Wat Hin Mark Peng) - mời tôi đến thăm Singapore, Úc và Indonesia.

She felt with my old age, and the constant stream of visitors coming to see me in the monastery, that I didn't have enough time to rest. Furthermore, most of my visitors only seemed interested in asking for lottery numbers.[197] If I were to go away, it might give me some time to rest. I gave this some consideration and came to the conclusion that, besides the problems with my language deficiency, my 'strange face' might provoke the curiosity of the crowds over there. What sort of rest would that be!

Cô ấy thấy với tuổi già của tôi, và dòng người liên tục đến thăm tôi trong tu viện, tôi sẽ không có đủ thời gian để nghỉ ngơi. Hơn nữa, hầu hết khách đến thăm tôi dường như chỉ quan tâm đến việc yêu cầu cho biết các con số trúng của cuộc xổ số. [197] Nếu tôi phải đi xa, có thể tôi một chút thời gian để nghỉ ngơi. Tôi đã cân nhắc kỹ điều này và đi đến kết luận rằng, ngoài những vấn đề về ngôn ngữ của tôi, 'khuôn mặt kỳ lạ' của tôi có thể kích thích sự tò mò của đám đông ở đó. Đó sẽ là loại phần còn lại!

Of more important was that I should clearly consider all possible contingencies. I was elderly and had come to be considered quite a popular figure so that any mishap, or my illness or death, might cause difficulties for other people. This would especially bring criticism down on the one who had made the original invitation, that, "they had taken me away but not looked after me". Even so, she kept up with her efforts aimed at inviting me. These were bolstered when her elder brother — who helped lead the Buddhist Society in Perth, Western Australia — sent a letter inviting me to go and visit the Buddhists there.

Điều quan trọng hơn là tôi nên xem xét rõ ràng tất cả các trường hợp có thể xảy ra. Tôi đã lớn tuổi và được coi là một nhân vật khá nổi tiếng nên bất kỳ sai sót nào, hoặc bệnh tật hay cái chết của tôi, đều có thể gây khó khăn cho người khác. Điều này đặc biệt sẽ mang lại sự chỉ trích đối với người đã đưa ra lời mời ban đầu, rằng "họ đã bắt tôi đi nhưng không chăm sóc tôi". Mặc dù vậy, cô ấy vẫn tiếp tục nỗ lực mời tôi. Những điều này càng được củng cố khi anh trai của cô ấy - người đã giúp lãnh đạo Hội Phật giáo ở Perth, Tây Úc - gửi một lá thư mời tôi đi thăm các Phật tử ở đó.

After due consideration, I came to the conclusion that this time there were three good reasons to accept the invitation:

Sau khi suy xét kỹ lưỡng, tôi đi đến kết luận rằng lần này có ba lý do chính đáng để nhận lời mời:

The first reason concerned the lack of senior monks in Indonesia, which, with a population of more than a hundred and thirty million, had ten million Buddhists living among Muslims and Hindus. When someone mentioned this to me, it made me feel really compassionate towards them all. I was also delighted to learn that they liked to meditate. (Every religion in which there is worship of a deity, requires the devotee to sit in peace of heart and focus on the divine being.)

Lý do thứ nhất liên quan đến sự thiếu các nhà sư cao cấp ở Indonesia, với dân số hơn một trăm ba mươi triệu người, có mười triệu Phật tử sống giữa những người theo đạo Hồi và đạo Hindu. Khi có ai đề cập đến điều này với tôi, nó khiến tôi cảm thấy thực sự thương xót đối với tất cả họ. Tôi cũng rất vui khi biết rằng họ thích thiền định. (Mỗi tôn giáo thờ cúng một vị thần, đòi hỏi người sùng đạo phải ngồi với tâm yên tịnh và tập trung vào vị thần.)

The second reason arose because of the many monks from Indonesia and Australia who had come to ordain with Somdet Phra Ñaa.nasangworn — the present Supreme Patriarch of Thailand — in Wat Bovoranives. Before the beginning of that year's Rains Retreat, the English-born Ven. Dorn (Donald Riches) had taken tapes of my Dhamma talks and photographs to show in Australia. Once he knew that I was going with a party to Australia, his preparations to receive us caused some people to become quite excited at the prospect. There was also a senior Thai monk, Ven. Phra Bunyarit' Pa.n.dito, already living and teaching there. This monk had done much to propagate Buddhism in Australia and had inspired many to come and ordain in Thailand.

Lý do thứ hai là do có nhiều nhà sư từ Indonesia và Úc đã đến xuất gia với Ngài Somdet Phra Ñaa.nasangworn - vị Sư Trưởng tối cao hiện nay của Thái Lan - ở chùa Wat Bovoranives. Trước khi bắt đầu Khóa tu An Cư Kiết Hạ năm đó, Ven. Dorn (Donald Riches) người Anh đã thu băng các bài pháp thoại và ảnh chụp của tôi để trình chiếu tại Úc. Khi anh ấy biết rằng tôi sẽ thăm viếng Úc, sự chuẩn bị của anh ấy để tiếp chúng tôi khiến một số người trở nên khá hào hứng với việc đó. Ngoài ra còn có một nhà sư cao cấp người Thái Lan, Ven. Phra Bunyarit 'Pa.n.dito, đã sống và giảng dạy ở đó. Nhà sư này đã làm nhiều việc để hoằng dương Phật giáo ở Úc và đã truyền cảm hứng cho nhiều người đến và xuất gia ở Thái Lan.

The third reason came from my reflection that, in the future, Buddhism would be spreading to many other countries. It might come to be disseminated following the Christian missionizing[198] model, where Thai monks might go out and only spread the superficialities of Buddhism. Whereas if individuals from the country concerned came to be ordained, they could be trained truly to penetrate to the inner core of Buddhism. They could then spread the genuine Teaching themselves for that's the only way to penetrate to the essential.

Lý do thứ ba đến từ suy nghĩ của tôi rằng, trong tương lai, Phật giáo sẽ được truyền bá đến nhiều quốc gia khác. Nó có thể được phổ biến theo mô hình truyền giáo hóa Cơ đốc giáo [198], nơi các nhà sư Thái Lan có thể ra nước ngoài và chỉ truyền bá những điều bên ngoài của Phật giáo. Trong khi nếu các cá nhân từ quốc gia chú trọng đến việc xuất gia, họ có thể được đào tạo thực sự để thâm nhập vào cốt lõi bên trong của Phật giáo. Sau đó, họ có thể tự mình truyền bá Giáo lý chân chính vì đó là cách duy nhất để thâm nhập vào điều cốt yếu.

One Indonesian monk, Ven. Sudhammo, who had been ordained at Wat Bovoranives under Somdet Phra Ñaa.nasangworn, had then come to spend the preceding Rains Retreat (of 1976) at Wat Hin Mark Peng. He was exactly the sort of monk who would be able to spread Buddhism — and he was in Indonesia, awaiting my visit there.

Một nhà sư người Indonesia, Ven. Sudhammo, người đã được xuất gia tại chùa Wat Bovoranives dưới thời Ngài Somdet Phra Ñaa.nasangworn, sau đó đã đến trải qua Kỳ nhập thất trước (năm 1976) tại chùa Wat Hin Mark Peng. Người này chính xác là loại nhà sư có thể truyền bá đạo Phật - và Ngài đang ở Indonesia, đang chờ tôi đến thăm.

After considering all three reasons for going, I made up my mind: 'In whatever way I can, may the remainder of this life be dedicated to the advancement of Buddhism'. This decision allowed me increasingly to see the possible value of my life, and caused me to give up personal comfort for Buddhism.

Sau khi suy xét cả ba lý do để đi, tôi quyết định: 'Bằng bất cứ cách nào tôi có thể, phần còn lại của cuộc đời này có thể được cống hiến cho sự hoằng dương Phật giáo'. Quyết định này cho phép tôi ngày càng thấy giá trị có thể có của cuộc đời mình, và khiến tôi từ bỏ sự thoải mái cá nhân đối với Phật giáo.

I had, in fact, previously received invitations from various individuals and groups in Bangkok to make a pilgrimage to the Buddhist holy places in India. They offered to look after me and take care of my needs in every way, but I had never accepted. To find the inspiration to go, I had often tried to imagine what such a trip would be like, but my heart always remained indifferent to the idea.

Trên thực tế, trước đây tôi đã nhận được lời mời từ nhiều cá nhân và các đoàn thể khác nhau ở Bangkok để hành hương đến các thánh địa Phật giáo ở Ấn Độ. Họ đề nghị được chăm sóc tôi và đáp ứng mọi nhu cầu của tôi bằng mọi cách, nhưng tôi chưa bao giờ chấp nhận. Để tìm được cảm hứng để đi, tôi đã thường cố tưởng tượng một chuyến đi như vậy sẽ như thế nào, nhưng lòng tôi luôn thờ ơ với ý tưởng đó.

I reflected that India had been the birth place of Buddhism, and that although I may have missed the chance to be born in time to meet the Lord Buddha, and the age when Buddhism was flourishing, the Holy Places were still there. I should therefore go and pay my respects so that I could gain inspiration, understanding and empathy — yet my heart remained indifferent to the idea. Perhaps this apathy arose from a previous birth as I might have been born as a Buddhist monk in India when the Hindus were suppressing the monks and the holy places.[199] Perhaps this had been so traumatic an experience that it was deterring me from going to India in this life.

Tôi suy nghĩ rằng Ấn Độ là nơi khai sinh ra Phật giáo, và mặc dù tôi có thể đã bỏ lỡ cơ hội được sinh ra đúng lúc để gặp Đức Phật, và vào thời đại Phật giáo hưng thịnh, các Thánh địa vẫn còn đó. Do đó, tôi nên đi và tỏ lòng thành kính để có thể có được nguồn cảm hứng, sự hiểu biết và cảm thông - nhưng trái tim tôi vẫn thờ ơ với ý tưởng đó. Có lẽ sự thờ ơ này đã nảy sinh từ những lần sinh trước vì tôi có thể sinh ra là một tu sĩ Phật giáo ở Ấn Độ khi những người theo đạo Hindu đang đàn áp các nhà sư và tàn phá các thánh địa. [199] Có lẽ đây là một trải nghiệm quá đau thương khiến tôi không thể đến Ấn Độ trong cuộc đời này.

Whoever has the faith and opportunity to go on pilgrimage to the Four Holy Places[200] will gain great merit. The Lord Buddha spoke about this to Venerable Ananda: "These four holy places will be a great source of merit for people after I have finally passed away".

Ai có lòng tin và có cơ hội hành hương về Tứ Thánh Địa [200] sẽ được công đức rất lớn. Đức Phật đã nói về điều này với Đại đức Ananda rằng: "Bốn thánh địa này sẽ là nguồn công đức to lớn cho con người sau khi ta Niết-bàn".

I lack the merit to go there, so I can only esteem and commend them. Anyhow, I would like to take this opportunity to remark how indebted I feel towards the people of India because their soil was the birth place of Buddhism.

Tôi đã thiếu phước báu để đến đó, vì vậy tôi chỉ có thể quý trọng và khen ngợi họ. Nhưng dù sao, tôi muốn nhân cơ hội này để nhận xét rằng tôi cảm thấy mắc nợ như thế nào đối với người dân Ấn Độ bởi vì mảnh đất của họ là nơi khai sinh ra Phật giáo.

Before setting out for foreign lands I went to stay at Air Force Lt. General Payom Yensootjai's garden abode for monks in Dorn Muang. Every night, more and more people were attracted to come and listen to Dhamma and sit in meditation. I feel that the present day citizens of Bangkok,[201] City of Angels, are more aware of their situation: 'Though born in a heavenly city, as the worldly description has it, we remain very much human beings struggling and stuck in the 'rat race' — the common lot of human beings everywhere'. So perhaps we will want to transform ourselves into true spiritual beings knowing that angels born in heaven don't have the same opportunity for skillful and generous actions as we do in this human realm. When such angels have exhausted their store of merit made in their previous human life times, they return to birth in the human realm. Sometimes even this is not certain and they may be born in the lower realms (Apaaya). It is different for the Noble Disciple — for instance, the stream-enterer[202] — who after death is assured of not being born into any woeful existence.

Trước khi lên đường sang nước ngoài, tôi đến nghỉ tại khu vườn của Trung tướng Không quân Payom Yensootjai dành cho các nhà sư ở Dorn Muang. Hàng đêm, ngày càng có nhiều người đến nghe Pháp và ngồi thiền. Tôi cảm thấy rằng những công dân ngày nay của Bangkok, [201] "Thành phố của những thiên thần", nhận thức rõ hơn về hoàn cảnh của họ: 'Mặc dù được sinh ra trong một thành phố thiên đường, như mô tả của thế giới, chúng ta vẫn còn rất nhiều con người phải vật lộn và mắc kẹt trong 'bẫy chuột' - rất nhiều loài người phổ biến ở khắp mọi nơi '. Vì vậy, có lẽ chúng ta sẽ muốn biến mình thành những sinh linh thực sự khi biết rằng các thiên thần sinh ra trên thiên đường không có cơ hội thực hiện những hành động thiện và vị tha như chúng ta ở cõi người này. Khi những thiên thần như vậy đã cạn kiệt kho công đức đã tạo ra trong kiếp người trước đây của họ, họ trở lại sinh trong cõi người. Đôi khi ngay cả điều này cũng không chắc chắn và họ có thể được sinh ra trong các cõi thấp (Apaaya). Đối với các vị Thánh Đệ tử thì khác - ví dụ, vị Thánh Nhập Lưu [202]- người sau khi chết được đảm bảo không bị sinh ra trong bất kỳ cuộc sống khốn khổ nào.

I am just an old monk and I was born in a place with inadequate educational opportunities. On occasion, they have invited me to give Dhamma instruction to highly educated people, and at first I felt quite reticent and embarrassed about it. This does however fit in with the Buddhist principles of not discriminating because of caste or class.

Tôi chỉ là một nhà sư già và tôi sinh ra ở một nơi không đầy đủ cơ sở giáo dục. Là dịp may họ đã mời tôi giảng Pháp cho những người có trình độ học vấn cao, và lúc đầu tôi cảm thấy thận trọng và bối rối về điều đó. Điều này tuy nhiên phù hợp với các nguyên tắc của Phật giáo là không phân biệt đối xử vì đẳng cấp hay giai cấp.

Assessment should be based on right knowledge and good conduct. When a knowledgeable person turns to evil ways, he or she is liable to cause more strife and trouble to the country than the uninformed person who does the same thing. An ignoramus who doesn't do evil is better than a learned man who uses his knowledge for evil means. People may have only limited knowledge, but if they employ it in trying to develop goodness, it will bring advancement to all — from the immediate group right through to the national level.

Sự đánh giá phải dựa trên sự hiểu biết đúng và hạnh kiểm tốt. Khi một người thông minh đi vào con đường xấu xa, người đó chịu trách nhiệm tạo nên nhiều xung đột và rắc rối cho đất nước hơn là người không hiểu biết làm điều tương tự. Một kẻ ngu dốt không làm điều ác hơn một người có học, người sử dụng kiến thức của mình cho những việc xấu xa. Mọi người có thể chỉ có kiến thức hạn chế, nhưng nếu họ sử dụng nó để cố gắng phát triển lòng tốt, nó sẽ mang lại sự tiến bộ cho tất cả mọi người - từ nhóm trực tiếp cho đến cấp quốc gia.

Such considerations gave me more self-confidence about teaching, knowing that the more educated my listeners the easier they should be able to understand. The Lord Buddha's Dhamma Teaching points towards knowing the nature of things, and this can fit in with the latest ideas of science.

Những suy tư như vậy giúp tôi tự tin hơn trong việc giảng dạy, biết rằng người nghe của tôi càng được giáo dục nhiều thì họ càng dễ hiểu hơn. Giáo Pháp của Đức Phật hướng đến việc hiểu biết bản chất của sự vật, và điều này có thể phù hợp với những ý tưởng mới nhất của khoa học.

Good scholars should only explore and enquire for knowledge that is concerned with weighty, significant issues that may lead to the enrichment of peoples' lives. They shouldn't be aiming for knowledge to increase their social position or status. For instance, teachers nowadays can educate their pupils to high levels so that they in turn may take that knowledge and teach other teachers. On the other hand, there are bad pupils who, spotting the teacher's trifling mistake or having a difference of opinions with them, work to have their teacher dismissed. They use their teacher's services, and then plot together to force him or her out, and even think it an honorable and admirable thing to have done. This then becomes an era for the development of corruption and wickedness and that can only lead to decline.

Các học giả giỏi chỉ nên khám phá và tìm hiểu những kiến thức liên quan đến những vấn đề quan trọng, có thể dẫn đến sự phong phú hóa cuộc sống của mọi người. Họ không nên nhắm vào kiến thức để nâng cao vị thế xã hội hoặc địa vị của họ. Ví dụ, giáo viên ngày nay có thể đào tạo học sinh của họ đến trình độ cao để họ có thể lấy kiến thức đó và dạy cho các giáo viên khác. Mặt khác, có những học sinh hư, vì phát hiện ra lỗi nhỏ nhặt của giáo viên hoặc có quan điểm khác biệt với họ, nên đã buộc giáo viên của họ bị đuổi việc. Họ sử dụng các dịch vụ của giáo viên của họ, sau đó cùng nhau âm mưu để buộc anh ta hoặc cô ta ra ngoài, và thậm chí cho rằng đó là một điều vinh dự và đáng ngưỡng mộ. Sau đó, điều này trở thành kỷ nguyên cho sự phát triển của tham nhũng và gian ác và điều đó chỉ có thể dẫn đến sự suy tàn.

33.1 Singapore — The First Stop  

Our party included Ven. Steven, Ven. Chai Charn, Dr. Chavadee and Maer Chee Chuang. We set out from Bangkok on the seventh of November 1976, reaching Singapore the same day where a welcoming party of devotees received us and showed us all of the city.

33.1 Singapore — Điểm Dừng Đầu Tiên  

Nhóm của chúng tôi bao gồm Ven. Steven, Ven. Chai Charn, Bác sĩ Chavadee và Maer Chee Chuang. Chúng tôi khởi hành từ Bangkok vào ngày 7 tháng 11 năm 1976, đến Singapore cùng ngày, đến nơi những người sùng đạo có một bữa tiệc chào đón chúng tôi và cho chúng tôi tham quan thành phố.

Singapore is a small island. It is only thirty kilometres long by twenty-five kilometres wide and with slightly more than three million people on the main and smaller surrounding islands it is densely populated. They have therefore built blocks of flats of ten, twenty or more floors to utilize all available space. Seeing all these high-rise apartment buildings we might imagine all Singaporeans to be rich but in truth they are just the same as in any other country of the world. There are quite ordinary houses with tin roofs or even thatch, just as there are in our villages.

Singapore là một hòn đảo nhỏ. Với chiều dài 30 km x rộng 25 km và có hơn ba triệu người trên các đảo chính và nhỏ hơn xung quanh, dân cư đông đúc. Do đó, họ đã xây dựng các chung cư từ mười, hai mươi tầng hoặc nhiều hơn để tận dụng tất cả không gian có sẵn. Nhìn tất cả những khu chung cư cao tầng này, chúng ta có thể tưởng tượng tất cả người dân Singapore đều giàu có nhưng sự thật thì họ cũng giống như bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Có những ngôi nhà khá bình thường với mái thiếc hoặc thậm chí lợp bằng tranh, giống như những ngôi làng của chúng tôi.

As long as all human beings have defilements of greed, aversion and delusion, every sort of contrast and variety will continue to exist. Although each country's government aims and strives to attain equality, achieving it must remain impossible. I don't know of a single country that has been successful. Regimes that employ communist ideology give out propaganda that all their citizens are prosperous, trouble free and equal. Why then should their people try to sneak away and escape from such a so called 'promised land'? Why? Because our human defilements are too deeply entrenched![203]

Chừng nào con người có những ô nhiễm của tham lam, sân và si thì mọi loại tương phản và đa dạng sẽ tiếp tục tồn tại. Mặc dù chính phủ của mỗi quốc gia đều đặt mục tiêu và cố gắng để đạt được sự bình đẳng, nhưng việc đạt được nó vẫn là điều không thể. Tôi không biết một quốc gia nào đã thành công. Các chế độ áp dụng hệ tư tưởng cộng sản đưa ra tuyên truyền rằng mọi công dân của họ đều được thịnh vượng, không gặp khó khăn và bình đẳng. Tại sao sau đó người của họ phải cố gắng bỏ đi và trốn thoát khỏi cái gọi là 'miền đất hứa' như vậy? Tại sao? Bởi vì những ô nhiễm của con người chúng ta đã ăn sâu quá nhiều! [203]

The Lord Buddha continually taught about this, saying that one should have sympathy and pity for one's fellow creatures, always wishing them well through mutual harmony. Everyone wishes this. Yet when one comes to act on the principle, the defilements insidiously veil and cover it up so that one forgets and falls once again for the old delusions...

Đức Phật thường xuyên giảng dạy về điều này, Ngài dạy rằng con người nên cảm thông và thương xót cho đồng loại của mình, luôn luôn cầu chúc cho họ tốt đẹp thông qua sự hòa hợp lẫn nhau. Mọi người đều mong muốn điều này. Tuy nhiên, khi một người hành động theo nguồn gốc căn bản, những phiền não ngấm ngầm làm lu mờ và che đậy nó để người ta quên đi và một lần nữa rơi vào những vọng tưởng cũ ...

Singapore[204] had wide roads sufficient for its traffic needs, and their drivers kept to the highway code — they didn't drive in a selfish way. There were no traffic policemen at the crossroad and intersections, with traffic lights standing in their place. The roads were swept clean, few people were milling about and the shops had plate glass frontages to keep out the dust.

Singapore [204] có những con đường rộng đủ cho nhu cầu giao thông, và những người lái xe của họ tuân theo tốc độ của cao tốc - họ không lái xe một cách ích kỷ. Ở ngã ba, ngã tư không có cảnh sát giao thông, mà có đèn giao thông điều khiển họ tuân thủ dừng lại tại ngã ba hay ngã tư đường. Các con đường được quét dọn sạch sẽ, ít người qua lại và các cửa hàng có mặt tiền bằng kính tấm để tránh bụi.

Besides the tall blocks of flats, the ordinary houses were also all set out in a very orderly, pleasing fashion. Between the houses and along the roadsides were shady trees — all very pleasant and worth seeing. When there was sufficient space between houses — whether it was in the central or outer suburbs — they planted it as a public park, sometimes big and sometimes small, where people could go to sit and relax. The beaches were planted with trees and provided with proper car parking. They liked to plant beautiful varieties of flowers all over the place. Their soil was good, and their climate was blessed with frequent rain that kept their flowers and bushes always green and flourishing.

Bên cạnh những nhà cao tầng, có những ngôi nhà bình thường cũng được trang hoàng ngăn nắp, hợp thời trang. Giữa các ngôi nhà và dọc hai bên đường là những hàng cây rợp bóng - tất cả đều rất dễ chịu và đẹp mắt. Nếu có khoảng cách giữa các ngôi nhà - mặc dù là ở trung tâm hay ngoại ô - họ đã trồng những loại cây giống như công viên công cộng, đôi khi lớn và đôi khi nhỏ, mọi người có thể ngồi thư giãn. Các bãi biển được trồng nhiều cây xanh và có các bãi đậu xe hơi thích hợp. Họ thích trồng nhiều loại hoa đẹp ở khắp nơi. Đất đai tốt, khí hậu được thiên nhiên ban tặng với những trận mưa thường xuyên giúp cho hoa và cây luôn xanh tốt và nảy mầm.

Although Singapore might be a small, heavily populated island, don't imagine that it lacks jungle. There were conservation areas even in the midst of the city, for an awareness of their scarce resources made them take especially good care of such things. Singapore seemed higher above sea level than Bangkok, and therefore didn't flood so easily and could be more easily kept clean. The inhabitants also conscientiously upheld the laws and regulations.

Mặc dù Singapore có thể nhỏ, đông dân cư, nhưng đừng nghĩ rằng nó thiếu rừng rậm. Thậm chí họ còn có những khu bảo tồn nằm ngay giữa thành phố, vì nhận thức được nguồn tài nguyên khan hiếm nên họ đặc biệt quan tâm đến những thứ đó. Singapore có vẻ cao hơn mực nước biển so với Bangkok, và do đó không dễ bị ngập lụt và có thể dễ dàng giữ sạch hơn. Các cư dân cũng tận tâm tuân thủ luật pháp và các quy định.

Whatever the outer circumstances, we shouldn't lose sight of our condition. Our birth was messy and then we continually associate with both external and internal impurities. We bathe and shower and in no time are dirty again. This only concludes with the corruption and putrefaction of death. If these are the underlying conditions, where can we find a place that is clean? It is only possible when all the individuals of a group come together in mutual understanding about the truth. They can then help each other — according to their various responsibilities — to uphold the cleanliness. How can we each safeguard this inner cleanliness? Well, we can start by watching over and securing the cleanliness in what is around us.

For any society to prosper and flourish it requires these four conditions:

1. The land and terrain are favorable to the people living there.

2. The leaders and government who lay down the laws are just, being neither too slack nor too oppressive towards the populace.

3. All the populace helps in keeping and respecting the laws of the land.

4. The bureaucrats and officials are just and honest.

Dù hoàn cảnh bên ngoài như thế nào, chúng ta cũng không nên đánh mất mục tiêu của thân phận mình. Sự ra đời của chúng ta là một mớ lộn xộn và sau đó chúng ta liên tục kết hợp với các tạp chất bên ngoài và bên trong. Chúng ta tắm và tắm và không bao lâu nữa lại bị bẩn. Điều này chỉ kết thúc với sự thối rữa và chết chóc. Nếu đây là những điều kiện cơ bản, chúng ta có thể tìm một nơi sạch sẽ ở đâu? Điều đó chỉ có thể thực hiện được khi tất cả các cá nhân của một nhóm cùng hiểu nhau về chân đế (sự thật). Sau đó, họ có thể giúp đỡ lẫn nhau - tùy theo các trách nhiệm khác nhau - để duy trì sự sạch sẽ. Làm thế nào mỗi chúng ta có thể bảo vệ sự sạch sẽ ở bên trong này? Chà, chúng ta có thể bắt đầu bằng cách trông chừng và đảm bảo sự sạch sẽ cho những gì xung quanh mình.

Đối với bất kỳ xã hội nào để có được sự thịnh vượng và phát triển, nó đòi hỏi bốn điều kiện sau:

1. Đất đai, địa thế thuận lợi cho người dân sinh sống.

2. Các nhà lãnh đạo và chính phủ đặt ra luật công bằng, không quá lỏng lẻo cũng không quá áp bức đối với dân chúng.

3. Tất cả dân chúng giúp giữ và tôn trọng luật pháp của đất đai.

4. Các quan chức và nhân viên chính phủ phải có sự liêm khiết.

A society enjoying all four conditions will have full prosperity. A deficiency in one of them means that any prosperity will remain incomplete.

It's out of the question that Bangkok can be made as clean as Singapore because its location is not favorable. It is sinking below sea level — so don't let anyone pretend they can fix Bangkok's problems, as is vacuously claimed in the newspapers. The best way is that we uphold purity in our own lives and responsibilities. Please don't be so negligent and selfish about your affairs. Hurling abuse at each other over trivial mistakes tarnishes one's behavior and manners, forfeiting all culture and refinement as if one were a completely ignorant person.

Một xã hội được hưởng đủ bốn điều kiện sẽ có được sự thịnh vượng đầy đủ. Nếu thiếu một trong số chúng có nghĩa là bất kỳ sự thịnh vượng nào sẽ không hoàn thành.

Nó ra ngoài câu chất vấn về việc Bangkok có thể trở nên sạch sẽ như Singapore vì vị trí của nó không thuận lợi. Nó đang chìm xuống dưới mực nước biển - vì vậy đừng để bất kỳ ai giả vờ rằng họ có thể khắc phục các vấn đề của Bangkok, như đã được tuyên bố trống rỗng trên các tờ báo. Cách tốt nhất là chúng ta đề cao sự trong sạch trong cuộc sống và trách nhiệm của chính mình. Xin đừng quá cẩu thả và ích kỷ trong chuyện của mình. Vội vã lạm dụng nhau vì những sai lầm nhỏ nhặt làm hoen ố hành vi và cách cư xử của một người, làm mất đi tất cả văn hóa và sự trau chuốt như thể một người hoàn toàn không biết gì.

I taught Dhamma and meditation every night of the ten nights that our party remained in Singapore. The meetings would not last more than three hours, with each night between twenty and thirty Singaporeans coming for training.

Tôi đã dạy Phật Pháp và thiền mỗi đêm trong mười đêm khi nhóm của chúng tôi ở Singapore. Các cuộc hội thảo sẽ không kéo dài quá ba giờ, với mỗi đêm có từ hai mươi đến ba mươi người Singapore đến tu tập.

This teaching of Dhamma was really nothing more than a pointing out of the afflictions and flaws of the worldly life. Anyone capable of seeing the harmful nature of the world can also see Dhamma, because the world and Dhamma are interrelated and interconnected. Whenever I explained Dhamma, the problems of the world always became highlighted on every side. These problems are the same the world over and can be summarized into three issues:

1. Problems concerning family and livelihood.

2. Problems about looking for inspiration.

3. Problems about overcoming and transcending suffering.

Sự giảng dạy về Phật Pháp này thực sự không gì hơn là chỉ ra những phiền não và khiếm khuyết của cuộc sống thế gian. Bất cứ ai có khả năng nhìn thấy bản chất tai hại của thế giới cũng có thể nhìn thấy Pháp, bởi vì thế giới và Giáo Pháp liên quan và liên kết với nhau. Bất cứ khi nào tôi giải thích về Giáo pháp, các vấn đề của thế giới luôn trở nên nổi bật trên mọi phương diện. Những vấn đề này giống nhau trên toàn thế giới và có thể được tóm tắt thành ba vấn đề:

1. Các vấn đề liên quan đến gia đình và sinh kế.

2. Các vấn đề về tìm kiếm cảm hứng.

3. Các vấn đề về vượt qua và vượt lên trên sự đau khổ.

It's not surprising that problems of this first category should arise. When there is a world there must also be world-shattering problems. If we fasten something ourselves, we must also be able to untie it! Who else can do it? Unless that is, someone could help by explaining the means of disentanglement.

Không có gì đáng ngạc nhiên khi các vấn đề của loại đầu tiên này phát sinh. Khi có một thế giới thì cũng phải có những vấn đề suy nhược của thế giới. Nếu chúng ta tự buộc một thứ gì đó, chúng ta cũng phải có thể cởi nó ra! Ai khác có thể làm điều đó? Trừ khi đó là, một người nào đó có thể giúp đỡ bằng cách giải thích ý nghĩa để làm sáng tỏ.

The fish hooks itself because it mis-takes the angler's camouflaged bait. It hungrily snaps it up but when the hook catches there is no more eating, only pain and suffering. This is how desire leads to suffering. I offer you this consideration: Make do without. Once the hook catches, the more we struggle, the more we intensify the pain. We then become full of remorse and feel sorry for ourselves because of what we are suffering. Yet it all originated in our own fatal error. All we can do is wait for the lucky fisherman to take us away for his evening meal.

Con cá mắc câu vì cắn miếng mồi ngụy trang của người câu cá. Nó thèm thuồng miếng mồi nhưng khi mắc câu thì không ăn được nữa, chỉ thấy đau đớn và khổ sở. Đây là cách mà ham muốn dẫn đến đau khổ. Tôi đề nghị bạn cân nhắc điều này: Hãy làm sự việc một cách bình thường mà lòng không có sự ham muốn. Một khi mắc phải lưỡi câu, chúng ta càng vùng vẫy, cơn đau càng gia tăng. Sau đó chúng ta trở nên hối hận và cảm thấy có lỗi với bản thân vì những gì chúng ta đang phải chịu đựng. Tuy nhiên, tất cả đều bắt nguồn từ sự sai lầm gây ra trầm trọng của chính chúng ta. Tất cả những gì chúng ta có thể làm là đợi người đánh cá may mắn mang chúng ta đi nấu thức ăn cho bữa tối của ông ta.

With the second issue, as long as we still have hopes and dreams we will have to struggle all the way, until every exit has been tried and failed. The manner of the untrained heart is like that of a newly caught wild animal. However much it might stamp and paw the ground, provided that its bindings remain firm and unbroken, it will eventually tire and become still, knowing when it is beaten. We human beings are much the same. When our wishes don't find fulfillment in the object of affection, our heart's contentment is stilled. That is how one knows where one's heart is going for refuge. It is going out to find pleasure in external objects that are only able to provide a superficial, false sort of happiness.

Với vấn đề thứ hai, chừng nào chúng ta vẫn còn hy vọng và ước mơ thì chúng ta sẽ phải phấn đấu suốt chặng đường, cho đến khi mọi lối thoát đều đã thử và thất bại. Tiếng trình của tâm khi chưa tu tập giống như của một con thú hoang mới bị bắt. Tuy nhiên, nó có thể giậm chân và cào mặt đất đến mức nào, với điều kiện là các dây buộc của nó vẫn chắc chắn và không bị đứt gãy, cuối cùng nó sẽ mệt mỏi và trở nên yên lặng, biểu cảm khi nó bị đánh nhừ tử. Con người chúng ta đều giống nhau. Khi mong muốn của chúng ta không tìm thấy sự thỏa mãn trong đối tượng của tình cảm, sự thỏa mãn của tâm chúng ta vẫn còn. Điều đó là cách người ta biết tâm mình đang đi về đâu để nương tựa. Đó là đi ra ngoài để tìm kiếm niềm vui trong những đối tượng bên ngoài chỉ có thể cung cấp một loại hạnh phúc hời hợt, giả tạo.

True happiness is that of the quiet and serene mind, without struggle. This will be the experience of anyone who discovers the point of true happiness. Their heart will continue to abide in happiness irrespective of their posture or activity. Although anyone lacking such realization won't be able to appreciate such a possibility — it will be totally beyond their comprehension.[205]

Hạnh phúc thực sự là tâm được tĩnh lặng và thanh thản, không đấu tranh. Đây sẽ là trải nghiệm của bất kỳ ai khám phá ra điểm hạnh phúc đích thực. Tâm của họ sẽ tiếp tục hạnh phúc bất kể tư thế hoặc hoạt động của họ. Bất kỳ ai thiếu sự nhận thức như vậy sẽ không thể biết rõ tình trạng đó- nó hoàn toàn nằm ngoài khả năng hiểu của họ. [205]

Concerning the third issue, I taught them to review and go over the first two points until they perceived, that apart from the stilled heart, every other kind of happiness was temporary and false. I then instructed them to be diligent in cultivating and developing that happiness, and to continue their analysis until they became skilled. When adept, they would be able to abide as their heart wished, whatever conditions they were subjected to, for with this accomplishment one may abide in freedom either in happiness or pain.

Về chủ đề thứ ba, tôi dạy họ xem xét lại hai điểm đầu tiên cho đến khi họ nhận ra rằng ngoài tâm tĩnh lặng, mọi loại hạnh phúc khác đều là tạm thời và giả dối. Sau đó tôi hướng dẫn họ tinh tấn trong việc trau dồi và phát triển hạnh phúc đó, và tiếp tục phân tích cho đến khi họ thành thạo. Khi thành thạo, họ có thể chịu đựng thậm chí như tâm của họ có mục tiêu, bất kể điều kiện nào họ phải chịu, vì với thành tựu này, người ta có thể sống trong tự do, dù là hạnh phúc hay đau khổ.

From what I heard from the Singaporeans, it seems that they are blessed with virtuous views and opinions. They realized the peril of birth in this world, seeing that this existence is unauthentic and full of deception. I had no idea that the people of Singapore would be so knowledgeable about the basic principles of the Lord Buddha's Teaching... When they received the genuine Buddhist Teaching, all their previous beliefs seemed to disappear, so that only the essential Dhamma Truth prevailed.

Từ những gì tôi nghe được từ những người Singapore, có vẻ như họ được trời phú cho những quan điểm và ý kiến có đạo đức. Họ nhận ra sự nguy hiểm của việc sinh ra trong thế giới này, thấy rằng sự tồn tại này là không chân thực và đầy lừa dối. Tôi không ngờ rằng người dân Singapore lại am hiểu những nguyên tắc cơ bản trong Lời dạy của Đức Phật ... Khi họ nhận được Giáo lý Phật giáo chân chính, tất cả niềm tin trước đây của họ dường như biến mất, chỉ còn lại Chân lý Giáo pháp cốt yếu.

It was admirable how they showed their joy and firm conviction in their understanding of Dhamma. Amazingly, some people seemed instinctively to be keeping the Five Precepts, and practicing samadhi meditation so that insight-knowledge could arise about themselves and others.

Thật đáng khâm phục cách họ thể hiện niềm vui và niềm tin chắc vào sự hiểu biết của họ về Giáo pháp. Thật ngạc nhiên, một số người dường như theo bản năng giữ Năm giới, và thực hành thiền định do vậy sự hiểu biết sâu sắc có thể phát sinh về bản thân và những người khác.

33.2 To Australia  

We flew out of Singapore for Australia on the seventeenth of November. Our point of entry was Perth and after stopping over there, we carried on to Melbourne, Sydney and Canberra. These were all big cities where there was much interest in Buddhism. If there was a local Buddhist society, they would invite me to teach Dhamma. Whether they were Thai, Lao, Burmese, Sri Lankan or Caucasian, they all gave me an outstanding welcome. All in our party wish to express our great appreciation for this help.

33.2 Tới Úc  

Chúng tôi rời Singapore đến Úc vào ngày mười bảy tháng mười một. Điểm đến của chúng tôi là thành phố Perth và sau khi dừng lại ở đó, chúng tôi tiếp tục đến thành phố Melbourne, Sydney và Canberra. Đây đều là những thành phố lớn, nơi có nhiều người quan tâm đến Phật giáo. Nếu có một hội Phật giáo địa phương, họ sẽ mời tôi đến giảng Pháp. Dù là người Thái, người Lào, người Miến Điện, người Sri Lanka hay người da trắng, họ đều dành cho tôi sự chào đón đặc biệt. Tất cả trong nhóm của chúng tôi muốn bày tỏ sự cảm kích to lớn của chúng tôi đối với sự giúp đỡ này.

Conversation with a Hindu Leader  

While I was in Perth, a swami came to visit. By a swami I mean one ordained in Hinduism who wears robes in color and shape similar to a 'Tibetan monk'. He described himself as a Hindu Lama. Hinduism has many sects, with many deities — it allows one to worship any of them, provided it's remembered that they all originate from one deity. (That is the deity that was supposed to have created the world and who has no material body.)

Cuộc nói chuyện với một nhà lãnh đạo Hindu  

Trong thời gian tôi ở thành phố Perth, một vị thầy giảng đạo của Hindu đến thăm. Chữ swami, tôi có ý nói là một người xuất gia trong Ấn Độ giáo, người mặc áo choàng có màu sắc và hình dạng tương tự như một 'nhà sư Tây Tạng'. Ông tự mô tả mình là một Lạt ma Ấn Độ giáo. Ấn Độ giáo có nhiều giáo phái, với nhiều vị thần - đạo này cho phép người ta thờ cúng bất kỳ vị thần nào trong số các vị thần, miễn là người ta nhớ rằng tất cả đều bắt nguồn từ một vị thần. (Đó là vị thần được cho là đã tạo ra thế giới và người không có cơ thể vật chất.)

This swami had already been ordained for forty-five years and was seventy-six years old. He was already waiting for me in the reception room and when he saw me he immediately raised his palms together in añjali and gave a friendly welcome. I reciprocated, with words of greeting, and we established a friendly rapport, so that I could ask about his religion and its particular way of practice. He said that he was a head swami-lama who taught Hinduism and that his family was Hindu. He was a devout and dedicated Hindu who had ordained while still a youngster, and had once gone to find the Mahayana monks in Tibet.

Vị thầy giảng đạo Hindu này đã xuất gia được bốn mươi lăm năm với tuổi đờ bảy mươi sáu tuổi. Ngài đã đợi tôi trong phòng tiếp tân và khi nhìn thấy tôi, Ngài ngay lập tức chắp tay vào nhau chào nói "añjali" thân thiện. Tôi đáp lại, bằng những lời chào, và chúng tôi thiết lập một mối quan hệ thân thiện, tôi có thể hỏi về tôn giáo của ông và cách thực hành cụ thể của nó. Ông nói rằng ông là một vị lãnh đạo Lama Hindu, người đã giảng dạy đạo Hindu và gia đình ông theo đạo Hindu. Ông là một người sùng đạo và tận tụy theo đạo Hindu, đã xuất gia khi còn trẻ, và đã từng đi tìm các nhà sư Đại thừa ở Tây Tạng.

Another swami came but he was an ordinary lay person, and unlike the first one wasn't ordained. He was eighty-one years old but his whole appearance was delightful — his complexion and constant smile made him look more like a sixty-one-year-old. He was already waiting for me, and when I came in, he lifted his hands in añjali as the first swami had done. He told me that as soon as he saw me he felt great loving-kindness for me. (Our way of putting it would be that he had a 'feeling of great respect'.)

Một vị giảng đạo Hindu khác đến nhưng anh ta là một người cư sĩ bình thường không được xuất gia giống như người đầu tiên. Ông ấy đã tám mươi mốt tuổi nhưng diện mạo của ông ấy rất vui tươi - vẻ bề ngoài và nụ cười thường trực khiến ông trông giống như một người đàn ông sáu mươi mốt tuổi. Ông đã đợi tôi, và khi tôi bước vào, ông chắp tay chào và nói "añjali" như vị thầy giảng đạo (swami) đầu tiên đã làm. Ông nói với tôi rằng ngay khi nhìn thấy tôi, ông đã cảm thấy có sự nhân hậu rất lớn đối với tôi. (Cách nói của chúng tôi là anh ấy có 'cảm giác rất được tôn trọng'.)

After words of welcome I first asked about his religion, just as I had done with the first swami. I begged his pardon[206] before making my enquiries, but he said there was no need because our dhammas were equivalent. (What he meant by this will now be explained.)

Sau những lời chào đóntrước hết tôi hỏi về tôn giáo của ông, giống như tôi đã làm với vị thầy giảng swami đầu tiên. Tôi xin ông ấy thứ lỗi [206] trước khi tôi hỏi, nhưng ông ấy nói rằng không cần vì các pháp của chúng ta tương đương nhau. (Ý của ông về điều này sẽ được giải thích bây giờ.)

He said that he didn't adhere to any religion because: "This world only has one deity". The Teachings of every religion derive from the one deity — (namely Brahma) — and when one's action was right and good, then one touched the original deity. He told me that he had studied yoga in India with six different teachers, and that they had taught him many techniques. Some examples he gave were the yoga postures, fasting and controlling the breathing. (This shows that these techniques, which had been in existence before the Lord Buddha's time, are still extant today.) He possessed great knowledge and ability concerning Hinduism, and had given up everything — he had no family). This was why the Hindu devotees referred to him as swami.

Ông cho biết mình không theo một tôn giáo nào vì: "Thế gian này chỉ có một vị thần duy nhất". Giáo lý của mọi tôn giáo bắt nguồn từ một vị thần duy nhất - (tênlà Brahma) - và khi hành động của một người là đúng và tốt, thì người đó đã chạm vào vị thần đầu tiên. Ông nói với tôi rằng ông đã học yoga ở Ấn Độ với sáu giáo viên khác nhau, và họ đã dạy ông nhiều kỹ thuật. Một số ví dụ mà ông đưa ra là các tư thế yoga, nhịn ăn và kiểm soát hơi thở. (Điều này cho thấy rằng những kỹ thuật này, đã có từ trước thời Đức Phật, vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.) Ông sở hữu kiến thức và khả năng tuyệt vời về Ấn Độ giáo, và đã từ bỏ mọi thứ - ông không có gia đình). Đây là lý do tại sao những người sùng đạo Hindu gọi ông là thầy giảng đạo (swami).

Our discussions together were harmonious and well-received by all — Ven. Steven acted as interpreter — and as they were about to depart, they asked permission to bow at my feet for their blessing and good fortune. (It seemed like they had elevated me like some deity!) This caused me some embarrassment because they themselves were so aged, worthy and virtuous. I therefore told them there was no need to bow for our dhammas 'being equal' was already blessing enough. As they left, they kept turning around to face me and making añjali repeatedly, clearly showing their respect.

Các cuộc thảo luận của chúng tôi cùng nhau diễn ra điều hòa và được tất cả mọi người đón nhận - Ven. Steven đóng vai trò thông dịch viên - và khi họ chuẩn bị khởi hành, họ đã xin phép cúi đầu dưới chân tôi để cầu chúc may mắn và may mắn. (Có vẻ như họ đã nâng tôi lên như một vị thần nào đó!) Điều này khiến tôi hơi bối rối vì bản thân họ đã quá lớn tuổi, xứng đáng và có phẩm hạnh. Do đó, tôi nói với họ rằng không cần phải cúi đầu vì các pháp của chúng ta 'bình đẳng' là đã đủ phước lành rồi. Khi họ rời đi, họ tiếp tục quay lại đối mặt với tôi và liên tục nói añjali, thể hiện rõ sự tôn trọng của họ.

Although one swami was ordained and the other wasn't, they explained their path to the deity in the same way for they were both Hindus. I had asked them about their techniques for reaching the deity and their response had been the same.

Mặc dù một vị swami đã được phong chức và một người thì không được, họ giải thích con đường đến với vị thần theo cách giống nhau vì cả hai đều là những người theo đạo Hindu. Tôi đã hỏi họ về các kỹ thuật của họ để đạt được vị thần và câu trả lời của họ đều giống nhau.

The first swami told me about slowly repeating the mantra word 'Om' two or three times and evoking the deity in the heart. He said: "By the heart recollecting the deity, it would manifest as different images in the heart. The deity would then teach knowledge about right and wrong[207]... doing good and spurning evil... sometimes there would be only a voice rather than an image".

Vị thầy giảng đạo (swami ) đầu tiên nói với tôi về việc niệm thần chú 'Om' chậm chậm hai hoặc ba lần và gợi lên vị thần tâm. Ông nói: "Bằng tâm tưởng nhớ vị thần, vị thần sẽ hiển hiện thành những hình ảnh khác nhau trong tâm. Vị thần sau đó sẽ dạy kiến thức về điều đúng và điều sai [207]... làm điều thiện và xua đuổi điều ác ... đôi khi sẽ chỉ có tiếng nói hơn là một hình ảnh ".

(According to Buddhist principles this would be ruupa-jhaana.[208] "One who sees Dhamma, sees me"[209]... Dhamma is the Great Teacher continually pointing out the right way to proceed, and how to avoid going wrong.)

"The deity would then disappear leaving a state of emptiness, and this is reaching the Lord Nirandorn."[210]

Theo nguyên tắc Phật giáo, đây là Thiền Sắc Giới (ruupa-jhaana). [208] “Ai thấy Pháp, thấy ta” [209] ... Dhamma là vị Thầy vĩ đại liên tục chỉ ra cách thức đúng đắn để tiến hành, và cách tránh đi sai lầm.)

"Vị thần sau đó sẽ biến mất để lại trạng thái trống rỗng, và điều này đang đến với Chúa Nirandorn." [210]

(This is the aruupa-jhaana[211] that was the state cultivated by the hermits A.laara and Uddaka, when Prince Siddhattha left the palace to study with them. He eventually saw that because they were still attached to those meditation states their way could not lead to the ending of suffering.[212] "Puññapaapaani pahiyati"... Only after abandoning both good and evil can one go beyond suffering, he then left them to try the way of harsh asceticism [before finding the Middle Way].)

(Đây là thiền Vô Sắc Giới [211] là trạng thái thiền được tu tập bởi các ẩn sĩ Alarama và Uddaka, khi Thái tử Siddhattha rời cung điện để theo học với họ. [212] "Puññapaani pahiyati" ... Chỉ sau khi từ bỏ cả thiện và ác, con người mới có thể vượt ra khỏi đau khổ, sau đó ngài rời bỏ họ để thử con đường khổ hạnh khắc nghiệt [trước khi tìm thấy Con đường Trung đạo] .)

The second, unordained swami explained in much the same way, but he didn't refer to a mantra. Perhaps this was a secret of his sect that he didn't want to reveal. However, I do think he used a mantra in the same way as the first because they were of the same sect. He simply said that when one reached the deity, it might manifest as various images, or as a voice that would teach one. He did not speak about the emptiness that remained after such visions and voices had disappeared, about having reached the Lord Nirandorn.

Vị swami thứ hai, không theo thứ tự cũng giải thích theo cách tương tự, nhưng ông không nói đến một câu thần chú. Có lẽ đây là một bí mật của môn phái ông không muốn tiết lộ. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng ông đã sử dụng một câu thần chú giống như cách đầu tiên bởi vì họ thuộc cùng một giáo phái. Ông ấy chỉ đơn giản nói rằng khi một người đến được vị thần, vị thần có thể hiển hiện dưới nhiều hình ảnh khác nhau hoặc như một giọng nói để dạy cho một người. Ông không nói về sự trống rỗng còn lại sau khi những tầm nhìn và giọng nói như vậy đã biến mất, về việc đã đến được với Chúa Nirandorn.

The Essentials  

Those of you who are engaged with all the religions, are you finding this absorbing and enjoyable? What do I mean? Well, I will try to explain and ask your indulgence for my ideas because I have never had opportunity to research the scriptures of any religion other than Buddhism.

Các Yếu Tố Cần Thiết  

Trong số các bạn ai đã gắn bó với các tôn giáo, bạn có thấy điều này hấp dẫn và thú vị không? Ý tôi là gì? để tôi cố gắng giải thích và xin các bạn cho ý kiến của tôi vì tôi chưa bao giờ có cơ hội nghiên cứu kinh điển của bất kỳ tôn giáo nào ngoài Phật giáo.

They say that one needs a firm faith that the deity exists, although they cannot see the deity's body. After putting faith in the deity, one opens up to, or one inclines the heart to rest in the deity, at which point the deity manifests for one to see. It is similar to this in Mahayana Buddhism.

Họ nói rằng một người cần có niềm tin vững chắc rằng vị thần tồn tại, mặc dù họ không thể nhìn thấy cơ thể của vị thần. Sau khi đặt niềm tin vào vị thần, người ta mở lòng hoặc để tâm an trú nơi vị thần, lúc đó vị thần hiển lộ cho người ta nhìn thấy. Điều này cũng tương tự như trong Phật giáo Đại thừa.

In Theravaada or Hinayaana Buddhism, the Lord Buddha does have a body, which is that of Prince Siddhattha of the Sakyans. He went forth into the homeless life and with great exertion comprehensively cleansed all impurities and defilements from the heart. He realized Buddhahood through perfecting all the Dhamma virtues.

Trong Phật giáo Nguyên Thủy hay còn gọi là Tiểu thừa, Đức Phật có một thân thể, đó là thân thể của Thái tử Siddhattha của gia tộc Sakya. Ngài bỏ cuộc sống gia đình để xuất gia sống vô gia cư và với nỗ lực cao độ đã tẩy rửa toàn diện mọi tạp chất và ô uế khỏi tâm. Ngài đã chứng ngộ Phật quả thông qua việc hoàn thiện tất cả các đức tính của Giáo pháp.

However it was not merely the body of Phra Siddhattha that became the Lord Buddha. When one has faith and trust in the virtuous qualities of the Lord Buddha, one can receive them into the heart, or incline one's heart out to rest in those wholesome qualities until it becomes fully and firmly established in one-pointedness (ekaggataarama.na). Various images or sounds can arise in such a state and according to the creed of the formless deity, this state would be 'one with the deity', and it would manifest to teach one.

Tuy nhiên nó không đơn thuần là thân thể của Bồ Tát Siddhattha trở thành một vị Phật. Khi một người có đức tin và sự tin cậy vào những phẩm chất đức hạnh của Đức Phật, người ta có thể tiếp nhận niềm tin vào những phẩm chất đức hạnh đó vào tâm, hoặc hướng tâm của mình an trú trong những phẩm chất lành mạnh đó cho đến khi nó trở nên hoàn toàn và vững chắc trong nhất tâm (ekaggataarama.na) . Nhiều hình ảnh hoặc âm thanh khác nhau có thể phát sinh trong trạng thái như vậy và theo tín ngưỡng của vị thần vô tướng, trạng thái này sẽ là 'một với vị thần', và sẽ hiển hiện để dạy cho mình.

The Buddhist Teaching would maintain that such manifestations were images or visions — nimitta — arising out of meditation, and the sounds would be the clarifying voice of Dhamma. Dhamma — being itself without form — would need to manifest in this way to accommodate to people with bodies.

Giáo lý Phật giáo sẽ duy trì rằng những biểu hiện như vậy là hình ảnh hoặc linh ảnh - nimitta (ấn tướng)- phát sinh từ thiền định, và âm thanh sẽ là tiếng nói sáng tỏ của Giáo pháp. Giáo pháp - bản thân nó không có hình thức - sẽ cần phải biểu hiện theo cách này để phù hợp với những người có cơ thể.

In summary, every religion or sect teaches its adherents to abandon evil and do good, to receive the virtuous qualities of its deity into their heart, or to give their heart to the deity. The way to reach the deity is the same for each religion. However, when a particular religion's devotees don't understand the truth, mistaken assumptions can arise. They may think that because another religion practices in a different way it is wrong and that only their way is correct. They propagandize and criticize and stir things up so that they can become pre-eminent with an increasing number of adherents. This is not what a Good Teacher with Dhamma would have taught, and sages would view such ideas with a dubious eye. Those who practice should find this relationship — between meditative visions and coming in touch with the deity — as something worth investigating.

Tóm lại, mọi tôn giáo hay giáo phái đều dạy các tín đồ của mình từ bỏ điều ác và làm điều thiện, thu nhận những phẩm chất đạo đức của vị thần vào tâm của họ, hoặc tâm của họ an trú trong vị thần. Cách để đạt được vị thần là giống nhau đối với mỗi tôn giáo. Tuy nhiên, khi những người sùng đạo của một tôn giáo cụ thể không hiểu sự thật, những giả định sai lầm có thể nảy sinh. Họ có thể nghĩ rằng bởi vì một tôn giáo khác thực hành theo một cách khác, điều đó là sai và chỉ có cách của họ là đúng. Họ tuyên truyền, chỉ trích và khuấy động mọi thứ để họ trở nên nổi tiếng với số lượng người theo dõi ngày càng tăng. Đây không phải là điều mà một Giáo viên Tốt với Giáo pháp giảng dạy, và các nhà hiền triết sẽ nhìn những ý tưởng như vậy với con mắt không rõ ràng. Những người thực hành nên thấy mối quan hệ này - giữa những tầm nhìn thiền định và tiếp xúc với các vị thần - là một điều đáng để nghiên cứu.

Some Suggestions for Ven. Mahaa Samai  

During my trip to Australia I was not only able to teach Dhamma to anyone interested but could also exchange views with other monks. This was especially so with Ven. Mahaa Samai who had been sent out by Mahamakut Monastic College to take up residence at Wat Buddharangsee in Sydney.

Một số gợi ý cho Ven. Mahaa Samai  

Trong chuyến du hành đến Úc, tôi không chỉ có thể giảng Pháp cho bất cứ ai quan tâm mà còn có thể trao đổi quan điểm với các nhà sư khác. Điều này đặc biệt như vậy với Ven. Mahaa Samai, người đã được Trường Cao đẳng Tu viện Mahamakut gửi đến cư trú tại tu viện Wat Buddharangsee ở Sydney.

Although Ven. Mahaa Samai was originally from Champahsak in Laos, he had gone to stay at Wat Sapatoom in Bangkok while still a boy. He had received novice and bhikkhu ordination and passed his grade five Pali examinations from Mahamakut Monastic College, Wat Bovoranives. In 1959 he went to teach general studies for a year in Wat Bodhisomphorn, Udorn-thani and then volunteered to go and spread Dhamma in Australia. He had been there for two years — being part of the second party that followed after Ven. Chao Khun Pariyat' — and was the first monk to stay at the new Wat Buddharangsee. At the time of writing [1976] he has been a monk for thirteen years and is a courteous, model monk worthy of respect.

Mặc dù Ven. Mahaa Samai nguyên thủy là ở Champahsak, Lào, Ngài đã đến ở tại chùa Wat Sapatoom ở Bangkok khi còn là một cậu bé. Ngài đã thọ giới Sa di và Tỳ khưu, đồng thời vượt qua kỳ thi Pali lớp năm của Trường Cao đẳng Tu viện Mahamakut, Wat Bovoranives. Năm 1959, Ngài đi dạy tổng quát trong một năm ở chùa Wat Bodhisomphorn, Udorn-thani và sau đó tình nguyện đi hoằng dương Giáo pháp ở Úc. Ngài đã ở đó được hai năm - là một phần của nhóm thứ hai theo Ven. Chao Khun Pariyat '- và là nhà sư đầu tiên ở lại chùa mới Wat Buddharangsee . Vào thời điểm viết bài [1976] Ngài đã đi tu được mười ba năm và là một nhà sư lịch sự, kiểu mẫu đáng được kính trọng.

Ven. Mahaa Samai could be considered a representative of the Thai Sangha who wished to spread Buddhism to Australasia, for no Theravada monks had ever been resident there before. The local people were basically Christian and this was to be the first Theravada monastery with monks.

Ven. Mahaa Samai có thể được coi là một đại diện của Tăng đoàn Thái Lan những người mong muốn truyền bá Phật giáo đến Australasia, vì chưa có nhà sư Nguyên thủy nào cư trú ở đó trước đây. Người dân địa phương căn bản là theo đạo Thiên chúa và đây là tu viện Theravada đầu tiên với các nhà sư.

People today all over the world are better educated, especially about a science that is based on investigating the actual truth of things. Christianity teaches reliance on faith and disallows critical analysis of the teachings of one's faith. This conflicts with modern scientific principles, and a pope once even punished someone whose calculations pointed to a spherical world system. Finally however, everyone — including the later popes — has accepted and used that theory right up to today.

Trên khắp thế giới ngày nay mọi người được giáo dục tốt hơn, đặc biệt là về một ngành khoa học dựa trên việc điều tra nghiên cứu sự thực tế của sự vật. Cơ đốc giáo dạy dựa vào đức tin và không cho phép phân tích chỉ trích những lời dạy về đức tin của con người. Điều này mâu thuẫn với các nguyên tắc khoa học hiện đại, và một vị giáo hoàng thậm chí đã từng trừng phạt kẻ đã chỉ ra một hệ thống thế giới hình cầu. Tuy nhiên, cuối cùng, tất cả mọi người - kể cả các giáo hoàng sau này - đã chấp nhận và sử dụng lý thuyết đó cho đến tận ngày nay.

Buddhist Teaching gives complete freedom to investigate anything — even the Buddhist Teachings themselves. This is because the principles on which Buddhism is based are far higher than those of science. It doesn't just examine and analyze material things, but is able to detect the underlying truth of mental phenomena. After penetrating through with insight, the realized truth is used solely for the peace and benefit of oneself and others, without causing harm to anyone. Some people can apply it so that they are able to go beyond the world — for example the Lord Buddha and the arahants.

Giáo lý Phật giáo cho phép hoàn toàn tự do điều tra bất cứ điều gì - ngay cả những Giáo lý Phật giáo. Bởi vì đó là các nguyên tắc mà Phật giáo dựa trên đó cao hơn nhiều so với các nguyên tắc của khoa học. Không chỉ kiểm tra và phân tích những thứ vật chất, mà còn có thể phát hiện ra sự thật tiềm ẩn của các hiện tượng tinh thần. Sau khi thấu suốt bằng cái nhìn sâu sắc, chân lý đã nhận ra chỉ được sử dụng vì hòa bình và lợi ích của bản thân và người khác, mà không gây tổn hại cho bất kỳ ai. Một số người có thể áp dụng nó để có thể vượt ra ngoài thế giới - ví dụ như Đức Phật và các vị A la hán.

It's such a pity that although modern people receive a superior education, most of them consider just finishing their course work and securing a degree to be enough. It may not have even crossed the minds of some people that the text books that formed the basis of their course had originated in someone else's understanding — which contained more than they were able to read in their books. Their learning is not something original to their own understanding because true knowledge can only come through individual experience.

Thật đáng tiếc khi những người thời nay nhận được một nền giáo dục vượt trội, hầu hết trong số họ chỉ cần hoàn thành khóa học của họ và đảm bảo một tấm bằng là đủ. Sự thật là các sách văn bản hình thành nền tảng cho khóa học của họ lại bắt nguồn từ sự hiểu biết của người khác - chứa đựng nhiều thứ hơn những gì họ có thể đọc trong sách của mình. Việc học của họ không phải là thứ nguyên bản đối với sự hiểu biết của họ bởi vì kiến thức thực sự chỉ có thể đến từ kinh nghiệm cá nhân.

The Buddhist Teaching calls this 'paccatta.m'clearly seeing or knowing for oneself — and it arises from the strength of the cultivated mind that has attained to stillness and calm, bringing insight and self-transformation. This is a genuine change from one's old nature to the true condition that is in line with the Buddhist Noble Truths.

Giáo lý Phật giáo gọi đây là 'paccatta.m' - tự mình thấy rõ hay biết rõ - và nó phát sinh từ sức mạnh của tâm được trau dồi đã đạt đến sự tĩnh lặng và bình tĩnh, mang lại sự sáng suốt và tự chuyển hóa. Đây là một sự thay đổi thực sự từ tính chất của một người sang tình trạng thực sự phù hợp với các Chân lý Cao thượng của Phật giáo.

Anyone aiming for clear insight into the truth of Buddhism needs to combine learning with practice. One or another alone is not enough. In this time of advanced education, it becomes necessary for anyone propagating Buddhism to have trained themselves in both ways. Any deficiency in this, and the results will not be as good as might have been expected.

Bất cứ ai hướng đến sự thấu hiểu rõ ràng về chân lý của Đạo Phật cần kết hợp pháp học với pháp hành. Chỉ có pháp học hay chỉ pháp hành là không đủ. Trong thời buổi giáo dục tiên tiến như hiện nay, bất cứ ai hoằng dương Phật pháp đều cần phải rèn luyện bản thân trên cả hai phương diện. Bất kỳ sự thiếu hụt nào trong điều này, thì kết quả sẽ không tốt như mong đợi.

My further advice to Ven. Mahaa Samai was that he should propagate the whole package. By this, I mean that besides fully keeping the Patimokkha Rule — the small size of the group precluded study classes — the other duties and practices should be maintained. For instance, the dhutanga practices — these include the going out on alms round which should also help reduce kitchen expenditures.

Lời khuyên của tôi thêm nữa là Ven. Mahaa Samai nên truyền bá toàn bộ gói. Điều này, ý tôi là bên cạnh việc tuân thủ đầy đủ Giới Luật Patimokkha - quy mô nhỏ ngăn ngừa của các lớp học theo nhóm - thì các nhiệm vụ và thực hành khác cũng nên được duy trì. Ví dụ, các tu tập hạnh đầu đà (dhutanga ) - những sự tu tập này bao gồm việc đi khất thực cũng sẽ giúp giảm chi phí bếp núc.

The spreading of Buddhism needs study together with practice so that it can put down roots that will endure. Ven. Mahaa Samai and all the monks agreed with all my advice, and decided to carry out such a plan in the future.

Việc truyền bá Phật giáo cần pháp học và pháp hành phải đi đôi với nhau để có thể dập tắt những gốc rễ lâu bền. Ven. Mahaa Samai và tất cả các nhà sư đồng ý với mọi lời khuyên của tôi, và quyết định thực hiện một kế hoạch như vậy trong tương lai.

I suggested to Ven. Mahaa Samai that there are three criticisms that are most common concerning the spreading of Buddhism in other countries:

1. The monks taking advantage of the lay community by not working but only begging for things.

2. Theravada Sect monks, unlike the other religions and sects, being 'selfish' and only concerned about themselves without helping others in need or distress.

3. Theravada monks who, though they forbid the killing of animals, still eat meat.

Tôi nói với Ven. Mahaa Samai hãy quan tâm tới ba sự chỉ trích phổ biến nhất liên quan đến việc truyền bá Phật giáo ở các nước khác:

1. Các nhà sư lợi dụng cộng đồng cư sĩ bằng cách không làm việc mà chỉ đi xin các thứ.

2. Các nhà sư thuộc Hệ phái Nam Tông, không giống như các tôn giáo và giáo phái khác, rất 'ích kỷ' và chỉ quan tâm đến bản thân mà không giúp đỡ người khác khi hoạn nạn. .

3. Các tu sĩ Nguyên thủy tuy cấm sát sinh nhưng vẫn ăn thịt.

Anyone going out to spread Buddhism will be certain to encounter these criticisms so I advised Ven. Mahaa Samai to prepare suitable replies and explanations. He could then answer instantly any of these criticisms.

An even more dangerous hazard is that those who go to spread Buddhism are unfamiliar with the local ways and customs. This may cause offence during interactions with the local residents and can lead to discouragement and disillusionment, or it may cause one to forget oneself and be lured away to join in the fun of 'going native'.

Bất cứ đi hoằng pháp đạo Phật chắc chắn sẽ gặp phải những lời chỉ trích này nên tôi đã khuyên Ven. Mahaa Samai để chuẩn bị câu trả lời và giải thích phù hợp. Để ông có thể trả lời ngay lập tức bất kỳ lời chỉ trích nào trong số này.

Một nguy cơ nguy hiểm hơn nữa là những người đi hoằng pháp đạo Phật không quen với lề lối, phong tục tập quán của địa phương. Điều này có thể gây phản cảm trong quá trình tương tác với cư dân địa phương và có thể dẫn đến chán nản và vỡ mộng, hoặc có thể khiến người ta quên mất bản thân và bị dụ để tham gia vào thú vui 'trở về với thiên bẩm'.

Reflections Arising from Australia  

As we all know, the history of Australia describes how it had been a wild place with its peoples undeveloped... and how Britain had got rid of its convicts and gangsters by transporting them there... eventually the new people organized themselves and energetically developed agriculture and then supplied raw materials to the expanding industries of the world... until its present prosperity was established... Australia is endowed with many natural mineral resources and an enormous land area, although its population is only thirteen million... They don't just sit back enjoying their prosperity but try to develop it even further.

Những phản ánh phát sinh từ Australia  

Như chúng ta đã biết, lịch sử nước Úc được mô tả từng là một nơi hoang dã với các dân tộc chưa phát triển ... và nước Anh đưa những kẻ phạm tội và băng đảng bằng cách vận chuyển những kẻ phạm tội đến đó ... sau cùng những người mới đến đã tự tổ chức cuộc sống và nền nông nghiệp phát triển và sau đó cung cấp nguyên liệu thô cho các ngành công nghiệp đang mở rộng trên thế giới ... cho đến khi sự thịnh vượng hiện nay được hình thành ... Úc được ưu đãi với nhiều tài nguyên khoáng sản tự nhiên và một diện tích đất rộng lớn, mặc dù dân số của nước Úc chỉ có 13 triệu ... Họ không chỉ ngồi một chỗ để tận hưởng sự thịnh vượng của mình mà còn cố gắng phát triển đất nước hơn nữa.

Let's turn to have a close look at this Thai City of Angels of ours. If we go into town, we cannot see a single 'angel' for its streets are crowded with loafers and layabouts. People haven't 'developed', nor do they know what that means. They mistakenly think that when something is finished there will be no need for any more work in the future. Children are delighted when they become teenagers. It's only when they become old that they realize it was just a stage on the way to old age.

Hãy nhìn lại để có một cái nhìn cận cảnh về Thành phố của Thiên thần Thái Lan này của chúng ta. Nếu chúng ta đi vào thị trấn, chúng ta không thể nhìn thấy một 'thiên thần' nào vì đường phố của nó đông đúc với những người đi dạo chơi và những người vô công rồi nghề. Mọi người chưa 'phát triển', và họ cũng không biết điều đó có nghĩa là gì. Họ lầm tưởng rằng khi một việc gì đó đã hoàn thành thì sẽ không cần phải làm gì nữa trong tương lai. Trẻ em thỏa mãn khi trở thành thanh thiếu niên. Chỉ khi họ trở nên già đi, họ mới nhận ra đó chỉ là một giai đoạn trên đường đến tuổi già.

Materials have to be removed and lost from somewhere in order for them to be brought to construct the well-planned and attractive city with its traffic system. It just shows how they take things from here to improve things over there. We come to growth because of food, and yet that involves destroying the lives of other animals and crops. Going along our way, we are only concerned with getting to our destination and have no thought that the base and origin from which we set forth is being left far behind, step following step. Don't just look ahead with your 'front-facing eyes' but also use wisdom to check behind. The truth that will free us from careless delusions and bring us to the Noble Truths of the Lord Buddha's Teachings can then be seen.

Các vật liệu phải được loại bỏ và thất lạc từ một nơi nào đó để chúng được mang đến để xây dựng thành phố được quy hoạch tốt và hấp dẫn với hệ thống giao thông của nó. Nó chỉ cho thấy cách họ tiếp nhận mọi thứ từ đây để cải thiện mọi thứ ở đó. Chúng ta phát triển vì thức ăn, nhưng điều đó lại liên quan đến việc phá hủy cuộc sống của các loài động vật và cây trồng khác. Trên con đường của mình, chúng ta chỉ quan tâm đến việc đến đích mà không hề nghĩ rằng cơ sở và nguồn gốc mà chúng ta đặt ra đang bị bỏ lại phía sau rất xa, hãy bước từng bước. Đừng chỉ nhìn trước bằng 'mắt trước, mắt sau' mà còn phải khôn ngoan để kiểm tra phía sau. Có thể thấy được lẽ thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi những vọng tưởng bất cẩn và đưa chúng ta đến với Chân lý Cao quý của Lời dạy của Đức Phật có thể được nhận thấy.

33.3 Visiting Indonesia  

From Australia we went back to Singapore and on the twenty-fourth of December 1976, continued on to Indonesia. All the people I knew seemed to be there — Ven. Chao Khun Suviirañaa.n', Ven. Phra Khru Dhammadhornsombat', Ven. Sudhammo, Ven. Aggapaalo and Ven. Khemiyo. They all had gathered to await me at Jakarta airport with members of the local Buddhist Society. I had the opportunity to visit other places besides Jakarta, for example Bandung, Jogjakarta, Mendut, Samarang, Surabaya and Bali.

33.3 Thăm viếng Indonesia  

Từ Úc chúng tôi quay trở lại Singapore vào ngày 24 tháng 12 năm 1976, sau đó tiếp tục đến Indonesia. Tất cả những người tôi biết dường như đều ở đó - Ven. Chao Khun Suviirañaa.n ', Ven. Phra Khru Dhammadhornsombat ', Ven. Sudhammo, Ven. Aggapaalo và Ven. Khemiyo. Tất cả họ đã tập trung để chờ tôi tại sân bay Jakarta cùng với các thành viên của Hội Phật giáo địa phương. Tôi đã có cơ hội đến thăm những nơi khác ngoài Jakarta, ví dụ như Bandung, Jogjakarta, Mendut, Samarang, Surabaya và Bali.

I visited Buddhist Societies and the Buddhist monasteries that our Dhammaduuta monks coming from Thailand to spread Buddhism had established. Ven. Chao Khun Vidhoondhammaaporn' was the head of the organization that had built monasteries that included Wat Majjhimasaasanawong' that adjoined the Mendut Chedi, Wat Dhammapadiipaaraam' in Badoo, Malang and Surabaya. I viewed each site with delight and noted that the local Buddhists, women and men, young and old, would without fail come every evening to chant their devotions. Afterwards there would be a sermon from a monk who would then lead them in meditation.

Tôi đã đến thăm các Hiệp hội Phật giáo và các tu viện Phật giáo được thành lập do các nhà sư Dhammaduuta của chúng tôi đến từ Thái Lan để hoằng pháp Phật giáo. Ven. Chao Khun Vidhoondhammaaporn 'là người đứng đầu tổ chức đã xây dựng các tu viện bao gồm Wat Majjhimasaasanawong' liền kề Bảo tháp Mendut, Wat Dhammapadiipaaraam 'ở Badoo, Malang và Surabaya. Tôi đã xem từng địa điểm một cách thích thú và lưu ý rằng các Phật tử địa phương, phụ nữ và nam giới, già trẻ, sẽ không bao giờ quên mỗi buổi tối để tụng kinh của họ. Sau đó sẽ có một bài thuyết pháp từ một nhà sư, người sẽ hướng dẫn họ thiền định.

Some Views of Mine  

Going around Indonesia I saw venerable sites and objects that had the features of a syncretic religion. I couldn't help but feel saddened by this and reflect on the situation in Thailand. Who can deny the great value of memorials and venerable sites — one only has to look at Indonesia. All the monks and scriptures have disappeared, we cannot even say when it happened, but anyhow their sacred sites remain for the minority Buddhists.

Một số quan điểm của tôi  

Đến tham quan Indonesia, tôi thấy những địa điểm và vật thể có những nét đặc trưng đáng kính của một tôn giáo đồng nhất. Tôi không thể không cảm thấy buồn vì điều này và suy nghĩ về tình hình ở Thái Lan. Ai có thể phủ nhận giá trị to lớn của các đài tưởng niệm và địa điểm đáng kính - người ta chỉ có thể nhìn vào Indonesia. Tất cả các nhà sư và kinh sách đã biến mất, chúng tôi thậm chí không thể nói nó xảy ra khi nào, nhưng dù sao thì những địa điểm linh thiêng của họ vẫn còn đối với những người thiểu số theo đạo Phật.

My thoughts went back to Thailand with its immense wealth of religious objects and sacred Buddhist sites, more numerous even than in Indonesia. However many immense and amazing monuments Indonesia may have, they can't compare with the beauty of our Shrines and Uposatha Halls. Nowhere else in the world are there such inspiring and worthy sites. I am absolutely convinced that if only the Thai people were to study and come to a true understanding of Buddhism, their correct practice would make it impossible for other sects and ideologies to overwhelm and obliterate Buddhism from Thailand.

Suy nghĩ của tôi quay trở lại đất nước Thái Lan với vô số các vật thể tôn giáo và các địa điểm Phật giáo linh thiêng, nhiều hơn cả ở Indonesia. Tuy nhiên Indonesia có thể có nhiều di tích to lớn và tuyệt vời, chúng không thể so sánh với vẻ đẹp của Đền thờ và Uposatha Halls của chúng ta. Không nơi nào khác trên thế giới có những khu vực đầy cảm hứng và xứng đáng như vậy. Tôi hoàn toàn tin tưởng rằng chỉ cần người dân Thái Lan học tập và hiểu biết chân chính về Phật giáo, thực hành đúng đắn của họ thì sẽ không thể khiến các hệ phái và hệ tư tưởng khác lấn át và bị xóa Phật giáo khỏi Thái Lan.

Ven. Chao Khun Suviirañaa.n', Ven. Phra Khru Dhammadhornsombat' and Ven. Sudhammo were our guides throughout our tour of Indonesia and they looked after us very well. Although Ven. Chao Khun Vidhoondhammaaporn' was away in Bangkok, it became obvious to me how greatly they respected him there, for even small children knew of him when his name was mentioned. This gives me trust in his devotion the sacrifices he's made for the Buddhist Teachings which make him an important asset for Somdet Phra Ñaa.nasangworn, the present Supreme Patriarch of Thailand.

Ven. Chao Khun Suviirañaa.n ', Ven. Phra Khru Dhammadhornsombat 'và Ven. Sudhammo là hướng dẫn viên của chúng tôi trong suốt chuyến tham quan Indonesia và họ đã chăm sóc chúng tôi rất tốt. Mặc dù Ven. Chao Khun Vidhoondhammaaporn 'đang ở Bangkok, tôi thấy rõ rằng họ rất tôn trọng Ngài, vì ngay cả những đứa trẻ nhỏ cũng biết đến Ngài và tên Ngài được nhắc đến nhiều. Điều này khiến tôi tin tưởng vào Ngài đã có sự tận tâm của, những hy sinh mà Ngài đã thực hiện cho Phật Pháp, điều khiến Ngài trở thành phước lành quan trọng đối với Somdet Phra Ñaa.nasangworn, vị Giáo chủ tối cao hiện nay của Thái Lan.

Many centuries have passed since the first Thai delegation of monks went to spread Buddhism overseas. This present endeavor in Indonesia seems to me to be the most effective and fruitful since Ven. Chao Khun Phra Upali of the Ayutthaya[213] period led a group of fifteen monks to help re-establish Buddhism in Sri Lanka... It is a shame that there are so few capable monks for they are a great boon to Buddhism and to the international community, for nowadays they are much in demand. "When the giver has something in demand, shouldn't he give it to those in need?" Or is it that the Thai Sangha that numbers tens of thousands of monks is so impoverished that it doesn't have anything to offer them!

Nhiều thế kỷ đã trôi qua kể từ khi phái đoàn các nhà sư Thái Lan đầu tiên đi truyền bá Phật giáo ra nước ngoài. Nỗ lực hiện tại ở Indonesia này đối với tôi dường như là có kết quả và có nhiều phước lành nhất kể từ khi Ven. Chao Khun Phra Upali của thời Ayutthaya [213] đã dẫn đầu một nhóm mười lăm nhà sư để giúp tái lập Phật giáo ở Sri Lanka ... Thật đáng tiếc là ngày nay không có nhiều nhà sư có khả năng để đi hoằng pháp Phật giáo trong cộng đồng thế giới, vì Tăng sĩ có khả năng hoằng pháp là người rất cần thiết. "Khi người đàn tín có sự kêu gọi, ông ta không nên đưa nó cho những người cần sao?" Hay là Tăng đoàn Thái Lan với số lượng hàng vạn tu sĩ thiếu mọi phương diễn đến nỗi họ không thể đi hoằng pháp ở các cộng đồng trên thế giới!

At this time, some of the people of Indonesia are finding inspiration again in Buddhism and... totally dedicating themselves to it... even when the monks had been unable to visit, they had formed themselves into Buddhist Societies, and they were all certain that the Buddhist revival would continue into the future... in accordance with a five-hundred-year-old legend.

Vào thời điểm này, một số người dân Indonesia đang tìm lại nguồn cảm hứng trong Phật giáo và ... hoàn toàn cống hiến cho nó ... ngay cả khi các nhà sư không thể đến thăm, họ đã tự thành lập các Hội Phật giáo, và tất cả đều chắc chắn rằng sự phục hưng Phật giáo sẽ tiếp tục trong tương lai ... phù hợp với một truyền thuyết hơn năm trăm năm tuổi.

May all revered and worthy monks spread their loving-kindness towards Indonesia, to reverence the Buddhist religion and recollect the great compassion of the Lord Buddha.

Cầu mong tất cả các nhà sư đáng kính và xứng đáng trải rộng lòng từ của họ đối với Indonesia, để tôn kính Phật giáo và ghi nhớ lòng từ bi vĩ đại của Đức Phật.

33.4 Feelings about Going Overseas  

After traveling around these various countries — Australia, Indonesia and going through Singapore three times — we arrived back in Bangkok on the 24th of January 1977. We had been away for a little over two months. Although this may seem a short period, I certainly found it to be much more valuable than I had expected.

33.4 Những Cảm Xúc về Chuyến Tham Quan Nước Ngoài  

Sau khi đi tham quan các quốc gia khác nhau - Úc, Indonesia và Singapore ba lần - chúng tôi trở về Bangkok vào ngày 24 tháng 1 năm 1977. Chúng tôi đã đi được hơn hai tháng. Mặc dù đây có vẻ là một khoảng thời gian ngắn, nhưng tôi chắc chắn thấy nó có giá trị hơn nhiều so với những gì tôi mong đợi.

Quite a few people in Singapore and Australia had shown a genuine interest in studying Dhamma. This was most evident in Indonesia where their enthusiasm and earnestness had grown even more following the teaching I had been able to give. After going and witnessing this for myself, I had to feel sympathetic towards them. Though they have few teachers, they manage for the most part to continue with the practice.

Khá nhiều người ở Singapore và Úc đã thể hiện sự quan tâm thực sự đến việc học hỏi Giáo pháp. Điều này thể hiện rõ nhất ở Indonesia, nơi mà sự nhiệt tình và nghiêm túc của họ đã phát triển hơn nữa sau sự dạy dỗ của tôi. Sau khi đi và tận mắt chứng kiến điều này, tôi phải thương cảm cho họ. Mặc dù họ có ít giảng viên, nhưng phần lớn họ xoay sở để tiếp tục tu tập.

I have written about these teachings in Dhamma Questions and Answers from Abroad, while a more detailed description of our journey is found in An Account of Traveling Abroad. Anyone interested can read about it in these publications.[214]

Tôi đã viết về những lời dạy này trong cuốnPhật Pháp Vấn Đạo từ nước ngoài, mô tả chi tiết hơn về cuộc hành trình của chúng tôi được tìm thấy trong cuốn Hồi Ký về Chuyến Du Lịch Nước Ngoài. Bất kỳ ai quan tâm có thể đọc về nó trong các ấn phẩm này. [214]

The durian fruit[215] is thick skinned and has sharp prickles to protect its inner flesh. Whoever wants to eat it must carefully turn it around to find the seam between the segments and split it open along that line. You have probably partaken of this choice fruit and know its delicious flavor. What is there in this world that is impeccably good and right in its every aspect? The art of knowing how to get at the good part of the durian fruit is similar to wise people who know how to train themselves and practice so as to develop flawless virtue.

Trái sầu riêng [215]có vỏ dày và có các gai nhọn để bảo vệ phần thịt bên trong. Ai muốn ăn thì phải cẩn thận lật ngược lại để tìm đường nối giữa các đoạn rồi xẻ dọc theo đường đó. Chắc hẳn bạn đã từng ăn loại trái cây được lựa chọn này và biết hương vị thơm ngon của nó. Có gì trên thế giới này tốt đẹp hoàn hảo và đúng ở mọi khía cạnh của nó? Nghệ thuật biết cách lấy phần ngon của trái sầu riêng cũng giống như người khôn biết tự rèn luyện, rèn luyện để phát triển đức tính hoàn mỹ.

Among human beings of every gender, age group, race or tongue — and this extends to the animal kingdom — you probably won't find even one who doesn't admit to desiring their own happiness while abhorring suffering. It is because of these two conditions that all the sentient beings of the world struggle to find a way out of their loathed suffering and attain to the state of happiness that they desire.

Trong số những con người thuộc mọi giới tính, nhóm tuổi, chủng tộc hay nghề nghiệp- và điều này kéo dài đến cả thế giới động vật - bạn có thể sẽ không tìm thấy ngay cả một người không thừa nhận mong muốn hạnh phúc của riêng họ trong khi phải chịu đựng đau khổ. Chính vì hai điều kiện này mà tất cả chúng sinh trên thế giới đều phải đấu tranh để tìm ra một lối thoát khỏi nỗi đau khổ ghê tởm của họ và đạt đến trạng thái hạnh phúc mà họ mong muốn.

This struggle sometimes becomes apparent in the striving for development and progress. Although this development may seem to be a logical advance, with proper inspection, one will find that it is a very one-sided progress. The other side being a fall into degeneration and retrogression. The experience of suffering is of enormous value on the road to progress and development — (it gives the impetus to increasing cleverness so that one can survive). Yet at the same time, and in manifold ways, one brings more turmoil and distress into the world.

Sự đấu tranh này đôi khi trở nên rõ ràng trong sự phấn đấu để phát triển và tiến bộ. Mặc dù sự phát triển này có vẻ là một tiến bộ hợp lý, với sự kiểm tra thích hợp, người ta sẽ thấy rằng đó là một tiến bộ chỉ có một chiều. Mặt còn lại là rơi vào tình trạng thoái hóa và vi phạm. Trải nghiệm đau khổ có giá trị to lớn trên con đường tiến bộ và phát triển - (nó tạo động lực để ngày càng tăng cường sự khôn khéo để người ta có thể tồn tại). Tuy nhiên, cùng một lúc, và theo nhiều cách khác nhau, người ta mang lại nhiều xáo trộn và đau khổ hơn cho thế giới.

I had never gone abroad before, except when I had gone for morning alms round by boat, paddling across the River Mekong to the Laotian city of Vientiane, and then returning to my monastery. Yet here I was, with one foot in the grave, going away with people on an overseas's trip. I can't say that I saw anything worth getting excited about, other than seeing how the people and animals live in each country. Conditions were basically identical to what I already knew in Thailand and Laos, except the minor differences arising from local preferences.

Tôi chưa bao giờ ra nước ngoài trước đây, ngoại trừ khi tôi đi khất thực buổi sáng bằng thuyền, chèo qua sông Mekong đến thành phố Vientiane của Lào, và sau đó trở về tu viện của mình. Vậy mà tôi đã ở đây, sắp sửa xuống mộ, lại cùng mọi người đi một chuyến công du nước ngoài. Tôi không thể nói rằng tôi đã thấy bất cứ điều gì đáng để phấn khích, ngoài việc nhìn thấy con người và động vật sống ở mỗi quốc gia như thế nào. Các điều kiện về cơ bản giống với những gì tôi đã biết ở Thái Lan và Lào, ngoại trừ những khác biệt nhỏ xuất phát từ sở thích của địa phương.

All countries are in agreement on the one essential issue — an abhorrence of suffering and the struggle to overcome it. Thus the situation is that neither we nor any other creature wish to suffer, yet we are born encircled by these two conditions. We therefore need to reflect on how we should proceed with our lives regarding the three things that I will explain below. Each of us must live in a right, moral, Dhamma way. The results of misunderstanding this and going astray will not just entail failure to achieve happiness for oneself and others, but will also multiply the suffering and turmoil for both oneself and others.

Tất cả các quốc gia đều đồng ỳ về một vấn đề yếu tố cần thiết - sự sợ hãi đau khổ và cuộc đấu tranh để vượt qua nó. Vì vậy, tình trạng là cả chúng ta và bất kỳ sinh vật nào khác đều không muốn bị đau khổ, tuy nhiên chúng ta được sinh ra bị bao bọc bởi hai điều kiện này. Do đó, chúng ta cần phải suy nghĩ về cách chúng ta nên tiếp tục cuộc sống của mình liên quan đến ba điều mà tôi sẽ giải thích dưới đây. Mỗi chúng ta phải sống sao cho đúng, có đạo đức, đúng với Pháp . Kết quả của việc hiểu sai điều này và đi chệch hướng sẽ không chỉ dẫn đến việc không đạt được hạnh phúc cho chính mình và người khác, mà còn nhân lên đau khổ và bất ổn cho cả bản thân và người khác.

Whether they are influential, intelligent and knowledgeable, whether they are wealthy or poor, they all come up with the same excuses when talking about the virtues of Dhamma and its moral restraint. "I did it because of social pressure. It was what they expected of me." Recognize the fact that society is corrupt, and start to question your own role in it — why shouldn't each of us be able to help in correcting things? Why shouldn't we be able to counter the bad influences and develop a good and beneficial society?

Cho dù họ là người có thế lực, thông minh và hiểu biết, dù giàu hay nghèo, họ đều đưa ra những lý do giống nhau khi nói về các đức tính của Giáo pháp và sự kiềm chế đạo đức của nó. "Tôi làm điều đó vì áp lực xã hội. Đó là điều họ mong đợi ở tôi". Nhận ra sự thật rằng xã hội đang thối nát, và bắt đầu đặt câu hỏi về vai trò của chính mình trong đó - tại sao mỗi chúng ta không thể giúp đỡ trong việc chỉnh sai mọi thứ? Tại sao chúng ta không thể chống lại những ảnh hưởng xấu và phát triển một xã hội tốt đẹp và có lợi?

Family. Society. Livelihood. These three things will advance smoothly in an orderly peaceful way if their development accords with the Dhamma principles for lay people (the Gihipa.tipatti),[216] as set down by the Lord Buddha. A lack of harmonization will cause one's way of life to become worthless and it will only bring conflict. It is Dhamma with virtue that guides the world to happiness. The development of any nation, ideology or system — whether it is of material or administrative progress — that is deficient in such Dhamma virtue won't bring complete happiness to the heart. Dhamma requires that each person withdraws from bad conduct and becomes fearful about initiating corrupt behavior together. This is the true and supreme progress for the family, for society, for the advancement of the standard of living and for the nation as a whole.

Gia đình. Xã hội. Nghề nghiệp. Ba điều này sẽ tiến triển thuận lợi theo cách hòa bình có trật tự nếu sự phát triển của chúng phù hợp với các nguyên tắc Giáo pháp dành cho người tại gia (Gihipa.tipatti), [216]được thành lập bởi Đức Phật. Sự thiếu hài hòa sẽ khiến cách sống của một người trở nên vô giá trị và nó chỉ mang lại xung đột. Chính Giáo pháp với đức hạnh hướng dẫn thế giới đến hạnh phúc. Sự phát triển của bất kỳ quốc gia, hệ tư tưởng hay hệ thống nào - dù là tiến bộ vật chất hay hành chính - mà thiếu đi đức tính của Giáo pháp như vậy sẽ không mang lại hạnh phúc trọn vẹn cho tâm. Giáo pháp đòi hỏi mỗi người phải loại bỏ hành vi xấu và biết sợ hãi về việt cùng nhau bắt đầu làm quen với hành vi đồi bại. Đây là sự tiến bộ thực sự và tối cao cho gia đình, cho xã hội, vì sự thăng tiến của mức sống và của cả dân tộc.

My journey was facilitated in every way by the management — especially Air Force Lt. General Choo and Khun Supharp Sutthichot' — and staff of Thai International Airways... They helped arrange my passport and visas, and all along the way gave me exceptional assistance... I must give a special mention to Khun Sutthiphon Kansut and his wife (Khun Dtik) who arranged so much for us in Jakarta, with air tickets and accompanying me safely to Singapore and later Indonesia. So my special thanks to everyone who helped our party...

Hành trình của tôi được tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt bởi ban lãnh đạo - đặc biệt là Trung tướng Không quân Choo và Khun Supharp Sutthichot '- và các nhân viên của Thai International Airways ... Họ đã giúp làm hộ chiếu và thị thực cho tôi, và trên suốt chặng đường đã mang đến cho tôi sự hỗ trợ đặc biệt ... Tôi phải đặc biệt đề cập đến Khun Sutthiphon Kansut và vợ của anh ấy (Khun Dtik), người đã sắp xếp rất nhiều cho chúng tôi ở Jakarta, với vé máy bay và đi cùng tôi một cách an toàn đến Singapore và sau đó là Indonesia. Vì vậy, tôi đặc biệt cảm ơn tất cả những người đã giúp đỡ nhóm của chúng tôi ...

Approximately two months after our return, the lay people in Singapore invited me to go back to see whether there was a suitable site to build a monastery, as a center for teaching meditation. I went, but although we looked at about ten different sites, none of them seemed suitable. In one way this was a good thing, for if we had indeed built a monastery, the taking care of it would have become an extra burden for me.

Khoảng hai tháng sau khi chúng tôi trở về, các cư sĩ ở Singapore mời tôi quay lại xem có địa điểm nào thích hợp để xây dựng một tu viện, làm trung tâm dạy thiền hay không. Tôi đã đi, nhưng mặc dù chúng tôi đã xem xét khoảng mười địa điểm khác nhau, không có địa điểm nào trong số đó có vẻ phù hợp. Theo một cách nào đó, đây là một điều tốt, vì nếu chúng tôi thực sự đã xây dựng một tu viện, thì việc chăm sóc nó sẽ trở thành một gánh nặng thêm cho tôi.

34. Fifty-fifth and Fifty-sixth Rains Retreat, 1977-1978 (This Conditioned Body is the Va.tacakra)  

The bodily aggregate is the endlessly turning wheel of birth and death.[217] The heart of one without training must also spin with it, while anyone who has practiced will grow tired and weary of the whole affair. My body had been like this when, in 1964, I had left our group in Phuket. Even when I was sitting quietly, my voice had become so dried out and hoarse that I could no longer speak.

34. Khóa An Cư Kiết Hạ thứ 55 và 56, 1977-1978 (This Conditioned Body is the Va.tacakra)  

Sắc uẩn là bánh xe luân chuyển không ngừng của sinh và tử. [217] Tâm của một người không được tu tập cũng quay theo nó, trong khi bất kỳ ai đã tu tập sẽ trở nên mệt mỏi và suy yếu trong toàn bộ sự việc. Cơ thể của tôi đã như thế vào năm 1964, tôi rời nhóm của chúng tôi ở Phuket. Ngay cả khi tôi đang ngồi yên lặng, giọng nói của tôi đã trở nên khô và khàn đến mức tôi không thể nói được nữa.

It happened again when some newly ordained monks — (medical students[218] from Siriraj Hospital) — came to train under me. Straight after they had left, my old symptoms returned and I came down with various minor complaints. My voice was left hoarse and weak, and it has never been the same since. Dr. Rote invited me to go to Siriraj Hospital in Bangkok for a general medical examination. The tests there found no particular disease except the illness of old age — this is the nature of the cycle of birth and death. This is what befalls all bodily and mental phenomena and only the circumstances will differ.

Nó lại xảy ra khi một số nhà sư mới xuất gia - (sinh viên y khoa [218] từ bệnh viện Siriraj) - đến để tu tập dưới quyền tôi. Ngay sau khi họ rời đi, các triệu chứng cũ của tôi trở lại và tôi gặp nhiều khó khăn nhỏ khác nhau. Giọng nói của tôi bị khàn và yếu, và nó chưa bao giờ như vậy kể từ đó. Bác sĩ Rote mời tôi đến bệnh viện Siriraj ở Bangkok để khám sức khỏe tổng quát. Các cuộc kiểm tra ở đó không tìm thấy bệnh cụ thể nào ngoại trừ bệnh tật của tuổi già - đây là bản chất của vòng sinh tử. Đây là những gì xảy ra với tất cả các hiện tượng cơ thể và tinh thần và chỉ có các trường hợp là khác nhau.

35. Fifty-seventh Rains Retreat up to the Present, 1979-1991 Twenty-seven Years at Wat Hin Mark Peng  

Thinking back over those twenty-seven years that I have been in Wat Hin Mark Peng — what a long time it seems! If one were a lay person that would be more than enough time to establish a comfortable position and standard of living. Being an elderly monk, I take care of the monastery, which is the normal role for old monks everywhere. I can no longer get around as I once could, and even if I were able to go, there is no forest left for tudong wandering like in the old days. They have cut it all down.

35. Khóa An Cư Kiết Hạ thứ 57 cho đến hiện tại, 1979-1991 Twenty-seven Years at Wat Hin Mark Peng  

Nghĩ lại hơn hai mươi bảy năm tôi đã ở chùa Wat Hin Mark Peng - có vẻ như là một thời gian dài! Nếu một người là một cư sĩ sẽ có quá đủ thời gian để thiết lập một vị trí và mức sống thoải mái. Là một nhà sư lớn tuổi, tôi chăm sóc tu viện, đó là vai trò bình thường của các nhà sư già ở khắp mọi nơi. Tôi không còn có thể đi đó đây khắp nơi được như tôi đã từng đi, và ngay cả khi tôi có thể đi, cũng không còn rừng để tu khổ hạnh như ngày xưa nữa. Họ đã cắt giảm tất cả.

The number of devotees[219] also seems to be multiplying daily and wherever I go, more 'children' appear — born from the word rather than the womb. They have trailed after me ever since 1978, when Air Force General Harin Hongsakun invited me to go into the solitude of Orb Luang, Jormtong District of Chiang Mai Province. A crowd of people trailed after me, and instead of being able to cut down on food and bodily comforts, and get down to meditation — the opposite occurred. They provided a banquet, with cushions and a luxurious bed on which to sleep.

Số lượng người sùng đạo [219] dường như cũng đang tăng lên hàng ngày và bất cứ nơi nào tôi đến, có nhiều 'đứa con' xuất hiện hơn - những đứa con này do cách họ xưng hô với tôi chứ không phải là con ruột của chính tôi (không sinh ra từ bào thai). Họ đã theo dõi tôi kể từ năm 1978, khi Tướng không quân Harin Hongsakun mời tôi đến nơi vắng vẻ của Orb Luang, quận Jormtong của tỉnh Chiang Mai. Một đám đông theo sau tôi, và thay vì có thể cắt giảm thức ăn và các tiện nghi cơ thể, và bắt đầu thiền - điều ngược lại đã xảy ra. Họ cung cấp một bữa tiệc, với đệm và một chiếc giường sang trọng để ngủ.

When the Four Requisites of clothing, food, shelter and medicine become extravagant and overabundant, they can become an obstacle to the development of the beginner's meditation. A very wealthy and affluent monastery will tend towards dissension and disharmony, and its Dhamma study will not progress as it should. It is the same with the everyday world where an excess of wealth and affluence can become a threat to the whole community. The leaders and officials become corrupt and swindle the public and government, plundering the country and dividing the spoils. Contention arises among them when their vested interests don't agree. Any influential merchant or citizen who gets in their way is killed and so countless deaths occur. This is why the Lord Buddha said:

"Sakkaaro kaapurisa.m hanti" — "Power and influence destroy men of inferior wisdom."

Khi Bốn điều kiện cần về quần áo, thức ăn, chỗ ở và thuốc men trở nên xa hoa và thừa thãi, chúng có thể trở thành một chướng ngại cho sự phát triển thiền định của người mới bắt đầu. Một tu viện rất giàu có và sung túc sẽ có xu hướng chia rẽ và bất hòa, và việc nghiên cứu Giáo pháp sẽ không tiến triển như mong muốn. Điều này cũng giống như thế giới hàng ngày nơi mà sự dư thừa của cải và sung túc có thể trở thành mối đe dọa cho cả cộng đồng. Các nhà lãnh đạo và quan chức trở nên tham nhũng và lừa đảo công chúng và chính phủ, cướp bóc đất nước và phân chia chiến lợi phẩm. Giữa họ nảy sinh mâu thuẫn khi quyền lợi được giao của họ không đồng ý. Bất kỳ thương gia hoặc công dân có ảnh hưởng nào cản đường họ đều bị giết và do đó vô số cái chết xảy ra. Đây là lý do tại sao Đức Phật nói:

"Sakkaaro kaapurisa.m hanti" — "Quyền lực và ảnh hưởng hủy diệt những người có trí tuệ kém cỏi."

The longer one stays in the same place, the more roots are put down. Lay devotees come to the monastery and notice features that aren't quite perfect or beautiful enough, which inspires them to build more permanent replacement structures that are more attractively designed.

Một người ở một chỗ càng lâu thì càng có nhiều sự dính mắc bám víu. Những người sùng đạo giáo dân đến tu viện và nhận thấy những đặc điểm không hoàn hảo hoặc chưa đủ đẹp, điều này thôi thúc họ xây dựng những công trình thay thế lâu dài hơn được thiết kế hấp dẫn hơn.

These beautiful buildings then need looking after, for not to do so would be an offence against the monks' Discipline. Need one ask who the caretaker is? It's this old monk of course. Teaching and training all the monks and novices who come here how to sit, to lie down, to eat, to go on alms round and all the various duties and obligations, including study requirements — this all falls on the shoulders of this old monk. They give one the title of senior incumbent and that seems quite fitting as one is truly encumbered. This though is unavoidable and one has to do one's best with the situation until the end of one's life.

Những tòa nhà đẹp đẽ này sau đó cần được chăm sóc, vì không làm như vậy sẽ là một hành vi vi phạm Giới luật của các nhà sư. Cần hỏi ai là người chăm sóc? Tất nhiên là vị sư già này. Việc giảng dạy và huấn luyện cho tất cả các vị sư và sa di đến cách ngồi, cách nằm, cách ăn, cách đi khất thực và tất cả các bổn phận và hành xử khác nhau, bao gồm cả yêu cầu tu học - tất cả đều đổ lên vai vị sư già này. Họ trao cho một người danh hiệu đương nhiệm cao cấp và điều đó có vẻ khá phù hợp vì một người thực sự bị đè nặng lên. Mặc dù vậy, điều này là không thể tránh khỏi và người ta phải cố gắng hết sức với hoàn cảnh cho đến cuối đời.

The Virtue and Merit of Buddhism  

I called to mind my teachers and the great masters of the past, the Lord Buddha being the prime example and how they led and guided the Teaching. The thought arose that I too had managed, step by step, to help guide this development along. My birth as a human being had not been wasted. Furthermore, I had ordained as a Buddhist monk and had fulfilled my obligations.

Đạo đức và phước báu của Phật giáo  

Tôi nhắc lại những người thầy của tôi và những bậc thầy vĩ đại trong quá khứ, Đức Phật là tấm gương chính và cách họ đã dẫn dắt và hướng dẫn Giáo lý. Ý nghĩ nảy sinh rằng tôi cũng đã từng điều hành từng bước để giúp định hướng sự phát triển này. Sinh ra làm người của tôi không hề uổng phí. Hơn nữa, tôi đã xuất gia trở thành một tu sĩ Phật giáo và đã hoàn thành nghĩa vụ của mình.

Whenever people paid respect or made offerings to me, I always thought: 'What are they venerating? They and I are identical — in that we are all conglomerations of the elements of earth, water, fire and air. They must at least be honoring the saffron robe which is the emblem and banner of the arahants. Such faith sustains the religion, and although conviction from within may be half-hearted, they have trust in what has been passed down to them'.

Bất cứ khi nào có người tỏ lòng thành kính hoặc cúng dường tôi, tôi luôn nghĩ: 'Họ đang tôn kính điều gì? Họ và tôi giống hệt nhau - ở chỗ tất cả chúng ta đều là tập hợp của các nguyên tố đất, nước, lửa và không khí. Ít nhất họ phải tôn kính chiếc áo cà sa là biểu tượng và là tiêu đề của các vị A la hán. Niềm tin như vậy duy trì tôn giáo, và mặc dù niềm tin từ bên trong có thể là nửa vời, họ tin tưởng vào những gì đã được truyền lại cho họ '.

I am fully aware of the immense virtue and value of Buddhism. Since my going forth and ordination, it has supported and nurtured me towards becoming a good and virtuous person. The Teaching has never led me to commit the slightest immoral deed.

Tôi hoàn toàn nhận thức được tính đạo đức và giá trị vô cùng to lớn của Đạo Phật. Kể từ khi tôi rời bỏ gia đình và xuất gia, nó đã hỗ trợ và nuôi dưỡng tôi trở thành một người tốt và có đạo đức. Giáo lý đã dạy tôi khiến tôi chưa bao giờ phạm phải một hành động trái đạo đức dù là nhỏ nhất.

Yet even so, we are always resisting and being recalcitrant towards it and continuing our evil ways. Our dwelling and sleeping places, our sleeping mat, pillow, and mosquito net, the food we eat — everything we daily pick up and use here, the whole lot belongs to the Buddha's Teaching. The medicines to treat any illness we might develop, belong to the faithful Buddhist devotees who selflessly donate them.

Tuy nhiên, ngay cả như vậy, chúng ta luôn chống lại và ngoan cố đối với nó và tiếp tục con đường xấu xa của chúng ta. Nơi ở và ngủ của chúng ta, chiếu, gối, mùng, thức ăn chúng ta ăn - tất cả những gì chúng ta nắm bắt và sử dụng hàng ngày ở đây, toàn bộ đều thuộc về Lời Phật dạy. Các loại thuốc để chữa trị bất kỳ bệnh tật nào mà chúng ta có thể phát triển, đều thuộc về những tín đồ Phật giáo trung thành, những người đã hiến tặng chúng một cách quên mình.

When we first ordain as monks we are completely dependent on the saffron robe, the emblem of the Noble Ones, which our Preceptor and Teachers bestow on us. (One's Preceptor and Teachers are simply the representatives of the Buddhist Teachings because they have all, without exception, taken refuge in the Triple Gem.) When one has received this matchless apparel, the people bow their respects and support one with floods of offerings. I have been able to survive to the present day because of this Teaching. Buddhism has brought infinite and untold virtue and blessings to me personally, and to all of us in the world.

Khi lần đầu tiên chúng ta xuất gia làm tu sĩ, chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào chiếc áo cà sa, biểu tượng của các Đấng Cao quý, mà Bậc thầy và những vị Thầy của chúng ta ban tặng cho chúng ta. (Các Thầy và Thầy của Một Người chỉ đơn giản là những người đại diện cho Giáo Pháp Phật Giáo bởi vì họ đều quy y Tam Bảo, không có ngoại lệ.) Khi một người đã nhận được bộ y phục vô song này, mọi người cúi đầu kính trọng và ủng hộ một người với nhiều sự cúng dường. Tôi có thể tồn tại cho đến ngày nay là nhờ Lời dạy này. Đạo Phật đã mang lại những đức hạnh và phước lành vô hạn và không thể kể xiết cho cá nhân tôi, và cho tất cả chúng ta trên thế giới.

Coming to live here, wherever I have been before, I have always done whatever I could, provided my health was up to it, to build a basis of solid durable constructions for Buddhism. Now that I am old and don't have enough strength for building projects, lay devotees become inspired to sponsor the constructions that will stand in for me in the future. We have shared any resources that are left over out among other monasteries.

Tới sinh sống tại đây, dù ở đâu trước đây, tôi luôn làm bất cứ việc gì có thể, với điều kiện sức khỏe của mình, để xây dựng cơ sở công trình vững chắc lâu bền cho Đạo Phật. Bây giờ tôi đã già và không còn đủ sức để xây dựng các dự án, những người đàn tín trở nên truyền cảm hứng để tài trợ cho những công trình sẽ đứng vững cho tôi trong tương lai. Chúng tôi đã chia sẻ bất kỳ tài nguyên nào còn sót lại giữa các tu viện khác.

Yet I will never become a slave to bricks, concrete and wood because I know that such materials are just external things. Despite their beauty and stylish design, no matter how many millions they cost, if we behave immorally they all become hollow and completely meaningless.

Tuy nhiên, tôi sẽ không bao giờ trở thành nô lệ cho những viên gạch, bê tông và gỗ vì tôi biết rằng những vật liệu đó chỉ là những thứ bên ngoài. Dù có vẻ đẹp và kiểu dáng thời trang, dù chúng có giá bao nhiêu triệu, nếu chúng ta cư xử trái đạo đức thì chúng đều trở nên rỗng tuếch và hoàn toàn vô nghĩa.

The true core or heart of Buddhism does not lie in material things, but in individual actions. This has been my guiding principle. The going forth in ordination has been termed nekkhamma or renunciation because it is the giving up of all forms of sensuality. Having resolved to train oneself — following the Noble Truth of the Lord Buddha's Teaching — to escape from all suffering, one should not then bury oneself under a pile of bricks and mortar.

Phần quan trọng hay trọng tâm thực sự của đạo Phật không nằm ở vật chất, mà nằm ở hành động của mỗi cá nhân. Đây là nguyên tắc chỉ đạo của tôi. Việc xuất gia được gọi là nekkhamma hay từ bỏ bởi vì nó là sự từ bỏ mọi hình thức của nhục dục. Khi đã quyết tâm tu tập bản thân - theo Đạo lý cao thượng của Đức Phật dạy - để thoát khỏi mọi đau khổ, thì không nên vùi mình dưới đống gạch vữa.

... These sorts of building projects[220] tend to be the source of great complications and difficulties and they mainly fail through lack of adequate resources — especially lack of moral virtue. Success makes one feel happy and warm inside, whereas failure brings the tearing of hair and agitation. I never allowed such feelings about my projects, and remained quite impartial and unconcerned about whether or not they would succeed.

... Những loại dự án xây dựng này [220] có xu hướng là nguồn gốc của những phức tạp và khó khăn lớn và chúng chủ yếu thất bại do thiếu nguồn lực thích hợp - đặc biệt là thiếu phẩm chất đạo đức. Thành công làm cho người ta cảm thấy hạnh phúc và ấm áp bên trong, trong khi thất bại mang lại cảm giác đau buồn và kích động. Tôi không bao giờ cho phép những cảm xúc như vậy vào các dự án của mình, và vẫn khá vô tư và không quan tâm đến việc liệu chúng có thành công hay không.

I think of every project as just a part of the duties of the religion. The resources all come from the devotees for I myself have no wealth. When the work is completed, it benefits Buddhism and brings much merit to the lay devotees. There should be no need to solicit contributions for that only brings annoyance so that people become fatigued with the whole business. I was able to complete all the projects because of donations that came in from all directions, including overseas contributions. Any offerings — such as Ka.thina and Sangha-daana — towards Wat Hin Mark Peng were kept specifically for that purpose,... while any contributions given to me and intended for my personal use — from one baht to ten, a hundred... to even millions — I have channelled all into the various community projects that I have already mentioned. Funds for this never seem to have dried up, and there remains a strong interest in aiding my projects... I myself don't seem to have retrogressed because of this and everything has gone smoothly. Saadhu! Saadhu! Saadhu! [It is well!] Past merit seems to have enabled me to be successful in this.

Tôi nghĩ mọi dự án chỉ là một phần nhiệm vụ của tôn giáo. Nguồn lực đều đến từ những người đàn tín vì bản thân tôi không có của cải gì. Khi công trình hoàn thành, nó mang lại lợi ích cho Phật giáo và mang lại nhiều công đức cho các cư sĩ tại gia. Không cần thiết phải kêu gọi đóng góp vì điều đó chỉ mang lại sự khó chịu và khiến mọi người trở nên mệt mỏi với toàn công việc. Tôi có thể hoàn thành tất cả các dự án nhờ các khoản đóng góp đến từ mọi hướng, bao gồm cả đóng góp ở nước ngoài. Tất cả sự cúng dường cho - bao gồm lễ Ka.thina và Sangha-daana - chùa Wat Hin Mark Peng đều được giữ riêng cho mục đích đó, ... trong khi bất kỳ khoản đóng góp nào cho tôi và nhằm mục đích sử dụng cá nhân - từ một baht đến mười, một trăm. .. đến hàng triệu - tôi đã chuyển tất cả vào các dự án cộng đồng khác nhau mà tôi đã đề cập. Nguồn vốn cho việc này dường như không bao giờ cạn, và vẫn có một sự quan tâm mạnh mẽ trong việc hỗ trợ các dự án của tôi ... Bản thân tôi dường như không vi phạm vì điều này và mọi thứ đã diễn ra suôn sẻ. Saadhu! Saadhu! Saadhu! [Lành thay! Lành thay! Lành thay!] Công đức trong quá khứ dường như đã giúp tôi thành công trong việc này.

I have never gone out looking for even a penny, but funds have rolled in from all directions. I've become something like a 'central reserve bank' for those Buddhists who want their funds directed to what will be most beneficial for Buddhism... Administrating these funds can be difficult because of the lack of records... But somehow I have smoothly managed them... by allowing sufficient to accumulate in a project-fund — for Sala, Uposatha Hall etc. — to complete the work then totally clearing its account.

Tôi chưa bao giờ ra ngoài kêu gọi dù chỉ một xu, nhưng tiền đã đổ về từ mọi hướng. Tôi đã trở thành một cái gì đó giống như một 'ngân hàng dự trữ trung ương' cho những Phật tử muốn quỹ của họ hướng đến những gì sẽ có lợi nhất cho Phật giáo ... Việc quản lý những quỹ này có thể khó khăn vì thiếu hồ sơ ... Nhưng bằng cách nào đó tôi đã quản lý chúng một cách suôn sẻ ... bằng cách cho phép tích lũy đủ vào quỹ dự án - cho Sala, Uposatha Hall, v.v. - để hoàn thành công việc sau đó dùng hết hoàn toàn tài khoản của mình.

Any monk engaging in such management needs to be absolutely sure of his ability and his incorruptibility, otherwise he should not involve himself. If one goes against this principle, it will damage the Buddhism that one respects so much, and will also lead to one's own downfall. There are examples of this everywhere. This 'Capital M'[-oney] can be quite deadly and has already destroyed many people.

Bất kỳ tu sĩ nào tham gia vào việc quản lý như vậy cần phải tuyệt đối chắc chắn về khả năng và sự liêm khiết của mình, nếu không thì không nên dấn thân vào. Nếu ai đi ngược lại nguyên tắc này, điều đó sẽ làm tổn hại đến Phật giáo mà người ta vô cùng kính trọng, và cũng sẽ dẫn đến sự sụp đổ của chính mình. Có những ví dụ về điều này ở khắp mọi nơi. 'Capital M' [- oney] này có thể khá nguy hiểm và đã phá hủy nhiều người.

Aiming solely for the benefit of Buddhism and the common good, without taking selfish advantage will be of great fruit, whereas undertaking anything for selfish motives will bring unfortunate results. It will be very damaging if one tries to get something for oneself while pursuing Buddhist projects. This is even more so for some 'monks'. After involving themselves in building works, such projects seem to take them over, and their inner spiritual work and discipline are all abandoned. They build outwardly but fail to build their inner selves, and this leads to great decline.

Chỉ hướng đến lợi ích của Phật giáo và lợi ích chung, không vụ lợi ích kỷ sẽ mang lại kết quả to lớn, ngược lại thực hiện bất cứ điều gì vì động cơ ích kỷ sẽ mang lại kết quả đáng tiếc. Sẽ rất tai hại nếu một người cố gắng đạt được điều gì đó cho riêng mình trong khi theo đuổi các dự án Phật giáo. Điều này thậm chí còn đúng hơn đối với một số 'nhà sư'. Sau khi tham gia vào việc xây dựng các công trình, các dự án như vậy dường như tiếp quản họ, và công việc tinh thần và kỷ luật bên trong của họ đều bị bỏ rơi. Họ xây dựng bề ngoài nhưng không xây dựng được nội tâm của mình, và điều này dẫn đến sự suy sụp lớn.

36. Summary  

It is now about sixty years since I first saw the forest here and it was 1964 when I actually came to live here. I have steadily developed it since that time and you can see the results with your own eyes. The important point being that this all arose through the faith and energy of my disciples, both monks and lay people, who contributed whatever they could — whether labor or money. There are more of them than I can ever hope to mention.

36. Tóm Tắt  

Bây giờ là khoảng 60 năm kể từ lần đầu tiên tôi nhìn thấy khu rừng ở đây và đó là năm 1964 khi tôi thực sự đến sống ở đây. Tôi đã dần dần phát triển nó kể từ thời điểm đó và bạn có thể nhìn thấy kết quả tận mắt. Điểm quan trọng là tất cả điều này nảy sinh nhờ niềm tin và nghị lực của các đệ tử của tôi, cả tu sĩ và cư sĩ, những người đã đóng góp bất cứ điều gì họ có thể— dù là sức lao động hay tiền bạc. Có nhiều điều trong số họ hơn tôi có thể hy vọng sẽ đề cập đến.

The Supreme Patriarch of Thailand (the late Somdet Phra Vaasana Mahaathera) graciously came to officiate at the ceremonial opening of the Mondop.[221] He was very pleased and officially declared Wat Hin Mark Peng to be a 'Model Monastery' in the development field, and gave me official recognition of this on the twenty-sixth of May 1982. This marks quite an honor for the monastery.

Vị Giáo chủ Tối cao của Thái Lan (cố Somdet Phra Vaasana Mahaathera) đã ân cần đến làm lễ tại lễ khai mạc Mondop. [221] Ngài rất hài lòng và chính thức tuyên bố Wat Hin Mark Peng là 'Tu viện kiểu mẫu' trong lĩnh vực phát triển, và chính thức công nhận điều này vào ngày 26 tháng 5 năm 1982. Đây là một vinh dự cho tu viện.

I really hope that Wat Hin Mark Peng may continue to be a place for monks to practice for the long-lasting benefit of Buddhism. Therefore may all of you who have helped in the support of Wat Hin Mark Peng be happy, long prosper and be firmly established in the noble Buddhist Teaching.

Tôi thực sự hy vọng rằng ngôi chùa Wat Hin Mark Peng có thể tiếp tục là nơi để các nhà sư tu hành vì lợi ích lâu dài của Phật giáo. Vì vậy, mong tất cả các bạn, những người đã giúp đỡ trong sự hỗ trợ cho ngôi chùa Wat Hin Mark Peng được hạnh phúc, thịnh vượng lâu dài và được vững chắc trong Giáo lý Phật giáo cao quý.

I have been a monk now for sixty-eight years and I have tried to practice only for the benefit of myself and others, starting with myself and then carrying this further for the good of others. By this I mean that I could go on tudong with great meditation teachers, starting with my very first year as a monk. I was determined to practice following the instruction of my Teachers, and as I had no other responsibilities to occupy me I could apply myself fully to the task.

Bây giờ tôi đã là một nhà sư có sáu mươi tám năm tu tập và tôi đã cố gắng thực hành chỉ vì lợi ích của bản thân và người khác, bắt đầu từ chính bản thân mình và sau đó thực hiện điều này xa hơn vì lợi ích của người khác. Với điều này có nghĩa là tôi có thể tu tập khổ hạnh với những vị thầy thiền vĩ đại, bắt đầu từ năm đầu tiên với tư cách là một nhà sư. Tôi quyết tâm thực hành theo sự hướng dẫn của các Thầy của tôi, và vì tôi không có trách nhiệm nào khác phải bận rộn nên tôi có thể hoàn toàn áp dụng vào công việc.

In later years, I was able to be away from them and therefore had to accept many responsibilities. A group of monks started following me and I had regularly to instruct the lay people. In those days because there were so few forest meditation monks, when lay people saw anyone with a following of monks they would immediately consider him an 'Ajahn' or Teacher and would trail after him. Even when it was like that I never slackened with my meditation efforts, and even saw it as a stimulus to practice even harder. This then became of benefit, both to myself and others.

Những năm sau này, tôi có thể xa họ và vì thế phải nhận nhiều trách nhiệm. Một nhóm các nhà sư bắt đầu đi theo tôi và tôi phải thường xuyên hướng dẫn các cư sĩ. Vào những ngày đó, vì có quá ít nhà sư lâm tăng hành thiền, nên khi cư sĩ nhìn thấy bất cứ ai đi theo các nhà sư, họ sẽ ngay lập tức coi người đó là 'Ajahn' hoặc Thầy và sẽ theo người đó. Ngay cả khi như vậy, tôi không bao giờ chùng bước với những nỗ lực thiền định của mình, và thậm chí còn xem đó như một động lực để tập luyện chăm chỉ hơn nữa. Điều này sau đó trở nên có lợi, cho cả bản thân tôi và những người khác.

To be truly of benefit to others requires that one first be of benefit to oneself. One is then able to share what one has with other people. If no one shows interest in receiving it, one hasn't lost anything. This has been part of my practice ever since I was ordained.

Để thực sự mang lại lợi ích cho người khác, trước tiên người ta phải có lợi cho chính mình. Sau đó, người đó có thể chia sẻ những gì mình có với người khác. Nếu không ai tỏ ra muốn nhận nó, thì người đó đã không mất gì cả. Đây là một phần trong thực hành của tôi kể từ khi tôi xuất gia.

On HM the King's birthday on the fifth of December 1990, I received by his order the ecclesiastical title of Ven. Phra Rajanirodharangsee Gambhiirapaññaavisit' Yatiga.nsasorn Bowornsanghaaraam Araññavaasee. I have already described my feelings about such ecclesiastical titles,[222]... and I haven't changed my mind,... but they explained to me that this was the way the king of Thailand always showed his appreciation for the work and responsibilities of senior monks,... and when they increased their good works so their title would be elevated. I am just a forest monk and I can only reflect on the gracious favor and offer my blessing — Anumodanaa! — to HM the King.

Nhân ngày sinh nhật của Quốc vương HM ngày 5 tháng 12 năm 1990, Quốc Vương đã ban tước hiệu Giáo hội Ven. Phra Rajanirodharangsee Gambhiirapaññaavisit 'Yatiga.nsasorn Bowornsanghaaraam Araññavaasee cho tôi. Tôi đã mô tả cảm xúc của mình về những chức danh giáo hội như vậy, [222] ... và tôi không thay đổi ý định, ... nhưng họ giải thích với tôi rằng đây là cách mà nhà vua Thái Lan luôn thể hiện sự đánh giá cao của mình đối với công việc. và trách nhiệm của các vị cao tăng, ... và khi các vị tăng làm việc thiện như vậy thì danh hiệu của họ sẽ được nâng lên. Tôi chỉ là một tu sĩ trong rừng và tôi chỉ có thể suy ngẫm về ân huệ và sự ban phước lành của tôi - Anumodanaa! - đến HM the King.

36.1 The Blessings and Beneficence of Parents  

We believe that having been born together in this world we all owe each other mutual benefit and welfare. Children are indebted to their parents and parents have new obligations towards their children. Each remembers their debt to the other without any thought of calling it in. The recalling to oneself of one's parental debt will, however, enable one to repay it, according to one's perception of it — for some this will be great, for others small. One got into this form of debt by one's own actions without coercion from anyone else, and so no one else can take it over.

36.1 Phước báu và sự làm phước của cha mẹ  

Chúng ta tin rằng đã sinh ra cùng nhau trên thế giới này, chúng ta đều nợ nhau về sự tương trợ và phúc lợi chung. Con cái mang ơn cha mẹ, cha mẹ có bổn phận đối với con cái. Mỗi người nhớ lại món nợ của mình với người kia mà không hề nghĩ đến việc phải mang nó vào. Tuy nhiên, việc nhớ lại cho bản thân mình về món nợ của cha mẹ sẽ giúp người ta có thể trả nợ, theo nhận thức của mỗi người - đối với một số người thì điều này là tuyệt vời, đối với những người khác thì nhỏ . Một người mắc phải dạng nợ này bằng hành động của chính mình mà không có sự ép buộc của bất kỳ ai khác, và vì vậy không ai khác có thể tiếp nhận nó.

People acknowledge their parental debt in innumerable ways. They recall that from their first until their last day, they had been and always would be cared for with love and devotion in every way. For instance, they had to rely on mother and father in learning how to sit up, to lie down, to stand up, to walk and to talk — for everything. When their parents became angry with them and smacked or caned them, the parents had also held back somewhat, remembering that "this is my child". Sometimes they couldn't bring themselves to do it.

Mọi người đền ơn món nợ của cha mẹ họ theo vô số cách. Họ nhớ lại rằng từ ngày đầu tiên cho đến ngày cuối cùng của họ, họ đã và sẽ luôn được chăm sóc bằng tình yêu thương và sự tận tâm về mọi mặt. Ví dụ, họ phải dựa vào mẹ và cha trong việc học cách ngồi lên, nằm xuống, đứng lên, đi lại và nói chuyện - cho mọi thứ. Khi cha mẹ tức giận và đánh bằng tay hoặc đánh bằng gậy, thì cha mẹ cũng phải kìm chế phần nào và nên nhớ rằng "đây là con của tôi". Đôi khi có những người không thể tự làm được.

There is a natural instinct in all beings for parents to love their offspring, and this includes even the animals. They love without thinking or knowing why, or what they can gain from it, and the children respond in the same way. The bonding between animals however is short-lived and only occurs while the offspring are still small, for with maturity it is all lost. Human love and affection knows no end. It endures until death and even beyond. The person who doesn't acknowledge the goodness and beneficence of his parents, and who doesn't repay their kindness is base and worse than an animal.

Có một bản năng tự nhiên trong tất cả chúng sinh là cha mẹ yêu thương con cái của họ, và điều này bao gồm cả động vật. Họ yêu mà không cần suy nghĩ hoặc không biết tại sao, hoặc họ có thể thu được gì từ nó, và trẻ em cũng đáp lại theo cách tương tự. Tuy nhiên, sự liên kết giữa các loài động vật chỉ tồn tại trong thời gian ngắn và chỉ xảy ra khi con còn nhỏ, vì khi trưởng thành thì tất cả sẽ mất đi. Tình yêu và tình cảm của con người không có hồi kết. Nó tồn tại cho đến chết và thậm chí xa hơn nữa. Một người không thừa nhận sự tốt lành và phúc lợi của cha mẹ mình, và không báo đáp lòng tốt của họ thì thấp kém và tồi tệ hơn một con vật.

I'm going to boast a bit here: I was born their son, but my ordination while still young prevented me from providing my parents with the material support that everyone usually gives. However my life as a monk allowed me to sustain and nourish their heart's aspirations and good will, and that was what they appreciated beyond all else. They could constantly call to mind that: "our own son is a monk!". No matter how near or far away — even a thousand kilometres distant — they could still be happy and content because their aspirations had been fulfilled.

Tôi mạn phép khoe khoang một chút ở đây: Tôi sinh ra là con trai của cha mẹ, nhưng việc xuất gia khi còn trẻ đã ngăn cản tôi chu cấp cho cha mẹ tôi sự hỗ trợ vật chất mà mọi người thường làm. Tuy nhiên, cuộc sống của tôi với tư cách là một nhà sư cho phép tôi duy trì và nuôi dưỡng những khát vọng và thiện chí của tâm họ, và đó là điều họ đánh giá cao hơn tất cả. Họ có thể liên tục gọi để nhớ rằng: "con trai của chúng tôi là một nhà sư!". Dù xa hay gần - dù xa đến cả nghìn cây số - họ vẫn có thể vui và mãn nguyện vì nguyện vọng của họ đã được thực hiện.

When both my parents became older, I returned to teach and fortify their faith until both decided to ordain and wear white robes. (Of course they already had faith. I was able to encourage and reinforce it so that they felt confident enough to ordain.) Their meditation brought them many remarkable experiences that strengthened their faith even more. I taught them about the path to happiness (Sugati) and both would attentively listen to me as pupils listen to their teacher. They received all the teaching with open hearts, not worrying that a 'child should be teaching his parents'.

Khi cha và mẹ tôi lớn tuổi, tôi trở lại giảng dạy và củng cố đức tin của họ cho đến khi cả hai quyết định xuất gia và mặc áo cà sa trắng. (Tất nhiên là họ đã có đức tin rồi. Tôi có thể khuyến khích và củng cố điều đó để họ cảm thấy đủ tự tin để xuất gia.) Việc thiền định đã mang lại cho họ nhiều trải nghiệm đáng chú ý và củng cố đức tin của họ hơn nữa. Tôi đã thuyết giảng về con đường dẫn đến hạnh phúc (Sugati) và cả hai chăm chú lắng nghe tôi nói như là các học sinh lắng nghe giáo viên của họ. Họ đón nhận tất cả sự thuyết giảng với tấm lòng rộng mở, không nghĩ rằng 'một đứa trẻ mà lại dạy dỗ cha mẹ mình'.

My father was a white robed chee pa-kao for eleven years before his passing away, at the age of seventy-seven. My mother was a white-robed nun for seventeen years, and died after my father when she was eighty-two. I taught them right up to their final moments, offering all the advice I possible could, and I really feel that I was able completely to repay my debt to them. I had no other outstanding debts. I organized funeral ceremonies suitable to their position and in accordance with my being a monk.

Cha tôi là một người chee pa-kao mặc áo choàng trắng trong mười một năm trước khi qua đời, ở tuổi bảy mươi. Mẹ tôi là một nữ tu áo trắng trong mười bảy năm, và mất sau cha tôi khi bà tám mươi hai tuổi. Tôi đã hướng dẫn họ đến những giây phút cuối cùng, đưa ra tất cả những lời khuyên mà tôi có thể có, và tôi thực sự cảm thấy rằng tôi hoàn toàn có thể báo ân họ. Tôi không có khoản nợ chưa thanh toán nào khác. Tôi tổ chức tang lễ phù hợp với vị trí của họ và phù hợp với việc tôi là một nhà sư.

Being ordained as a Buddhist monk for so long has allowed me to see the changing condition of this aging body with the transformations in the external world. I've seen so many things, both good and bad, and it has greatly expanded my wisdom and knowledge. I don't feel that I have wasted being born into the world with them. I consider that I have been indebted to this world for I have taken its elements of earth, water, fire and air to form a body. In maintaining it I have had to absorb and use the things of the world, for absolutely nothing of it belongs to me. After death everything must be left behind in this world.

Xuất gia theo đạo Phật quá lâu đã cho phép tôi nhìn thấy tình trạng thay đổi của cơ thể già nua này cùng với những biến đổi của thế giới bên ngoài. Tôi đã thấy rất nhiều điều, cả tốt và xấu, và nó đã mở mang trí tuệ và kiến thức của tôi rất nhiều. Tôi không cảm thấy rằng tôi đã lãng phí khi được sinh ra trên thế giới với họ. Tôi nghĩ rằng tôi đã mang ơn thế giới này vì tôi đã lấy các yếu tố của đất, nước, lửa và không khí để tạo thành một cơ thể. Để duy trì nó, tôi đã phải hấp thụ và sử dụng những thứ của thế giới, vì hoàn toàn không có gì thuộc về tôi. Sau khi chết tất cả mọi thứ phải được bỏ lại trên thế giới này.

Some people never consider such issues and by that fall into unyieldingly grasping hold of things — 'everything is mine!'. Husband, wife, children and grandchildren, household possessions — 'they are all mine'. To the end, even when those things disappear or are broken, they still retain their hold on them as 'mine'.

Một số người không bao giờ xem xét những vấn đề như vậy và do đó rơi vào tình trạng nắm bắt mọi thứ một cách kiên cường - 'mọi thứ là của tôi!'. Chồng, vợ, con và cháu, tài sản trong nhà - 'chúng đều là của tôi'. Cho đến cuối cùng, ngay cả khi những thứ đó biến mất hoặc bị phá vỡ, họ vẫn giữ chúng là 'của tôi'.

36.2 Activity that should not to be Performed Kamma that should not to be Made  

There is activity that we should not perform, yet having been born it has to be undertaken. We have been born with this self that is called 'conditioned'[223] and so, as a matter of course, we must grow old, become ill and die. Not a single person wants it to be like that — becoming old and decrepit until one can no longer go anywhere. No one wants to die, not to see their children and grandchildren's faces again. After death those that remain, even if they are the children of the deceased, will not keep the corpse at home for more than fifteen days, and most people will take it away for cremation. There it is, the 'activity that we should not undertake'. One respects them so highly and then throws them on the fire — yet this has become a necessary action. No one is going to keep the corpse at home.

36.2 Những việc không muốn làm Những Nghiệp không nên Tạo   

Có những hành vi mà chúng ta không nên làm, nhưng đã được sinh ra thì nó đã phải được chấp nhận. Chúng ta đã được sinh ra với cái tôi được gọi là 'điều kiện thiết yếu' [223] này, và do đó, như một lẽ tất nhiên, chúng ta phải già, bệnh và chết. Không một ai muốn trở nên như vậy - trở nên già nua và mục nát cho đến khi không còn có thể đi đâu được nữa. Không ai muốn chết đi, không được gặp lại mặt con cháu mình. Sau khi chết, những người còn lại, dù là con của người đã khuất, sẽ không giữ thi hài ở nhà quá mười lăm ngày, và hầu hết mọi người sẽ được hỏa táng. Nó là đây , 'hoạt động mà chúng ta không muốn thực hiện'. Người ta được sự tôn trọng cao và sau đó ném họ vào lửa - nhưng điều này đã trở thành một hành động cần thiết. Không ai đi giữ cái xác ở nhà.

The kamma[224] that should not be made occurs after someone's death. It doesn't matter who it is, one's father, mother, brothers, sisters or other relatives including one's respected Teachers, there have to be funeral rites. This requires a lot more labor and material things than at the time of birth, which succeeded with just the two — mother and father.

Nghiệp [224] không nên làm sau cái chết của một người nào đó. Bất kể là ai, cha, mẹ, anh, chị, em hay những người thân khác, kể cả những Người Thầy đáng kính của người đó, đều phải có nghi thức tang lễ. Việc này đòi hỏi nhiều sức lao động và vật chất hơn so với lúc mới sinh, cái mà hoàn thành thì chỉ có hai - mẹ và bố.

Funeral rites entail the feeding and receiving of guests, lay people and monks, and the finding of offerings for the monks. For those left behind who are not so well off this is no small burden. When they don't have enough, they have to borrow from relatives and friends, and so go further into debt. This sort of debt has absolutely no advantage and brings only loss. Still, anyone who is practicing generosity will treat it as a meritorious deed, which is a sort of profit for oneself. However one takes it, it is still 'something that we should not undertake' and yet, when those still living are confronted with this situation they feel obligated.

Các nghi thức tang lễ bao gồm việc cho ăn và tiếp khách, cư sĩ và nhà sư, và việc tìm kiếm lễ vật cho các nhà sư. Đối với những người không mấy khá giả thì đây là một gánh nặng không hề nhỏ. Khi không có đủ, họ phải đi vay mượn từ người thân, bạn bè và cứ thế nợ nần chồng chất. Loại nợ này hoàn toàn không có lợi ích gì và chỉ mang lại tổn thất. Tuy nhiên, bất cứ ai đang thực hành lòng bố thí sẽ coi đó là một việc làm có công, đó là một loại lợi nhuận cho bản thân. Tuy nhiên, ai cũng biết, đó vẫn là 'việc mà chúng ta không nên làm' và khi những người còn sống phải đối mặt với hoàn cảnh này, họ cảm thấy bị bắt buột.

36.3 Coming to Birth — Dying  

Coming to birth and dying are not the same for human beings of this world. In being born there is a sequence dependent on the parents. Whoever is born before is called 'elder', and whoever comes after is 'younger'. Dying is not like that. Whether one dies first or later depends on the results of one's kamma, each according to his or her own. Sometimes the younger dies before the elder or vice versa. After death one doesn't necessarily have to go on to be reborn as siblings, for again this depends on the results of kamma. One who has committed evil may be born as a preta or fall into deepest hell, into avicii.[225] Those who have purified their heart and transcended the mass of suffering will attain even to Nibbana. It all depends.

36.3 Sinh ra — và Chết đi  

Trên thế giới con người sinh ra và chết đi không giống nhau. Khi được sinh ra có một trình tự phụ thuộc vào cha mẹ. Ai sinh trước được gọi là 'lớn hơn', và ai đến sau được gọi là 'nhỏ hơn'. Chết không giống như vậy. Việc con người chết trước hay sau tùy thuộc vào nghiệp quả của mỗi người, tùy theo nghiệp của người đó. Đôi khi người trẻ hơn chết trước người lớn tuổi hoặc ngược lại. Sau khi chết một người không nhất thiết phải tiếp tục tái sinh thành anh chị em, vì điều này một lần nữa phụ thuộc vào quả của nghiệp. Một kẻ đã phạm tội ác có thể bị sinh ra làm ngạ quỷ hoặc đọa vào địa ngục sâu thẳm nhất, trở thành ngã qủy. [225] Những ai đã thanh lọc tâm của họ và vượt qua khối lượng đau khổ sẽ đạt được thậm chí đến Nibbana. Tất cả tùy thuộc vào.

I think that I have completely repaid my debt to my parents who have passed away... I was their youngest son and I've accomplished whatever duties were appropriate for a monk towards them both. Both probably thought the same about this, and wouldn't have wanted to call in any debt of mine, because it had all worked out as they wished.

Tôi nghĩ rằng tôi đã hoàn thành trả hiếu cho cha mẹ tôi, những người đã qua đời ... Tôi là con trai út của họ và tôi đã hoàn thành bất cứ nhiệm vụ nào phù hợp với một nhà sư đối với cả hai. Có lẽ cả hai đều nghĩ giống nhau về điều này, và sẽ không muốn đòi thêm khoản nợ nào của tôi, bởi vì tất cả đã diễn ra như họ mong muốn.

Ajahn Kumdee Ree-o rahng, my eldest brother, loved me very dearly, and I was sorry that he died when I was away spending the Rains Retreat in Chantaburi Province. I was unable to arrange his funeral in a way commensurate with his love for me. When my other elder brothers and sisters were still alive, I was able to teach them about virtue and Dhamma, each according to their temperament and potential, so that when they were about to die, they had some refuge in the heart. They hadn't wasted their life, for on meeting the Lord Buddha's Teachings they had practiced as much as they could, according to their ability.

Mrs. Ahn Prahp-phahn, my eldest sister and the second child, passed away in 1974 at the age of eighty-eight.

Mrs. Naen Chiang-tong, my elder sister and the third child, passed away in 1978 at the age of ninety.

Mr. Plian Ree-o rahng, my elder brother and the fourth child, passed away in 1972 at the age of eighty.

Mrs. Noo-an Glah Kaeng, my elder sister and the fifth child, passed away in 1973 at the age of seventy-nine.

Ven. Phra Gate, my elder brother and the sixth child, passed away in 1946 at the age of forty-eight with fourteen years as a monk.

Mrs. Thoop Dee-man, my younger sister, passed away on the sixteenth of May 1990 at the age of eight-six.

Ajahn Kumdee Ree-o rahng, anh cả của tôi, rất mực yêu thương tôi, và tôi rất tiếc vì anh ấy đã qua đời khi tôi đi tham dự Khóa An Cư Kiết Hạ tại Tỉnh Chantaburi. Tôi đã không thể sắp xếp để dự đám tang của anh ấy một cách tương xứng với tình yêu của anh ấy dành cho tôi. Khi các anh chị em khác của tôi còn sống, tôi đã có thể hướng dẫn họ về đức hạnh và giáo pháp, tùy theo khí chất và khả năng của họ, để khi họ sắp chết, họ có Giáo Pháp nương tựa trong tâm. Họ đã không lãng phí cuộc sống của mình, vì đã gặp được Lời dạy của Đức Phật, họ đã thực hành nhiều nhất có thể, tùy theo khả năng của họ.

Mrs. Ahn Prahp-phahn, chị lớn của tôi và là đứa con thứ hai của cha mẹ tôi, chết năm 1974 vào năm 88 tuổi.

Mrs. Naen Chiang-tong, chị lớn của tôi và là đức con thứ ba của cha mẹ tôi, chết năm 1978 vào năm 90 tuổi.

Mr. Plian Ree-o rahng, anh trai lớn của tôi và là đứa con thứ tư của cha mẹ tôi, chết năm 1972 vào năm 80 tuổi.

Mrs. Noo-an Glah Kaeng, chị lớn của tôi và là đưá con thứ năm của cha mẹ tôi, chết năm 1973 vào năm 79 tuổi.

Ven. Phra Gate, anh trai lớn của tôi và đứa con thứ sáu của cha mẹ tôi, chết năm 1946 vào năm 48 tuổi với 14 năm là tu sĩ.

Mrs. Thoop Dee-man, em gái tôi, chết ngày 16 tháng 5, 1990 vào năm 86 tuổi.

I made sure that all my brothers and sisters received the complete and proper funeral that they would have expected.[226] This was especially so with the youngest, Mrs. Thoop Dee-man, who in the last part of her life came to receive training with me as a white-robed nun at Wat Hin Mark Peng.

Tôi đã đảm bảo rằng tất cả các anh chị em của tôi đều nhận được một lễ tang đầy đủ và thích hợp mà họ mong đợi. [226] Điều này càng đặc biệt xảy ra với người trẻ nhất, bà Thoop Dee-man, người trong phần cuối của cuộc đời đã đến tu tập với tư cách là một nữ tu áo choàng trắng dưới sự hướng dẫn của tôi tại chùa Wat Hin Mark Peng.

She seems to have secured good results from her meditation practice that stood her in good stead when she became very ill, in the final part of her life. Her children came and took her away for hospital treatment in Sakhon Nakorn Province. They told me that her mindfulness was good and she was aware right up to the final moments. She had described what she was feeling to her children and grandchildren who were caring for her: that her feet were becoming cold, that the coldness had reached her calves, her knees and her chest. She mindfully concentrated on her chest and her breathing became fainter and fainter and finally everything became still.

Bà dường như đã đạt được kết quả tốt từ việc thực hành thiền định giúp bà có được trạng thái tốt khi bị ốm nặng, trong giai đoạn cuối của cuộc đời bà. Các con của bà đã đến và đưa bà đi điều trị tại bệnh viện ở tỉnh Sakhon Nakorn. Họ nói với tôi rằng sự tỉnh thức của và rất tốt và bà đã tỉnh thức ngay cả những giây phút cuối cùng. Bà đã mô tả những gì bà đang cảm thấy với những đứa con và cháu của bà, những người đang chăm sóc bà: bàn chân bà trở nên lạnh, cái lạnh đã đến bắp chân, đầu gối và ngực bà. Bà tập trung tâm trí vào lồng ngực và hơi thở của bà ngày càng nhẹ hơn và cuối cùng mọi thứ trở nên tĩnh lặng.

Now I have to depend on myself, for all my relatives and Meditation Masters are no longer available. I will continue to do good until no life remains because after death no one else can do either good or evil for us.

This autobiography has now reached my eighty-ninth year and I think I will finish with this much.

Bây giờ tôi phải phụ thuộc vào chính mình, vì tất cả những người thân của tôi và các Thiền sư thầy tôi không còn nữa. Tôi sẽ tiếp tục làm điều thiện cho đến khi không còn sự sống nào vì sau khi chết không ai khác có thể làm điều thiện hay điều ác cho chúng ta.

Cuốn tự truyện này khi tôi được chín mươi tuổi và tôi nghĩ rằng tôi hoàn thành với như vậy.

Translator's Epilogue   [227]

In November 1992, Venerable Ajahn Thate again fell ill with a lung infection. Complications set in with symptoms of heart disease and prostrate problems, and while treatment helped his health was never as strong as before.

Phần Kết Luận của Người dịch   [227]

Tháng 11 năm 1992, Hòa thượng Ajahn Thate lại lâm bệnh vì nhiễm trùng phổi. Các biến chứng cho thấy các triệu chứng của bệnh tim và các vấn đề về tuyến tiền liệt, và trong khi điều trị sức khỏe của Ngài không được khỏe như trước.

As described previously,[228] Venerable Ajahn Thate had always found Wat Tam Khahm to be an especially good place for both his Dhamma practice and his health. So in March 1993, he moved from Wat Hin Mark Peng to take up residence at Wat Tam Khahm, in the mountains of Sakhon Nakorn Province. Ven. Ajahn Kiem Sorayo was the abbot there and was very happy to welcome his venerable guest.

Như đã mô tả trước đây, [228] Hòa thượng Ajahn Thate luôn nhận thấy Chùa Watt Tam Khahm là một nơi đặc biệt tốt cho cả việc thực hành Giáo pháp và sức khỏe của Ngài. Vì vậy, vào tháng 3 năm 1993, Ngài chuyển từ chùa Wat Hin Mark Peng đến cư trú tại chùa Wat Tam Khahm, ở vùng núi của tỉnh Sakhon Nakorn. Ven. Ajahn Kiem Sorayo là trụ trì ở đó và rất vui mừng được đón tiếp vị khách đáng kính của mình.

Venerable Ajahn Thate's health then gradually improved and he amazed everyone with his renewed vigour and appetite. At his ninety-second birthday celebrations, he praised the local people of Sakhon Nakorn as the most supportive and caring of all. He told them that he was sorry not to have come to stay there when he was younger, when he could have taught them more.

Sau đó, sức khỏe của Hòa thượng Ajahn Thate dần dần được cải thiện và Ngài đã làm mọi người kinh ngạc về sức sống và sự thèm ăn của mình. Tại lễ kỷ niệm sinh nhật lần thứ chín mươi hai của mình, Ngài tán thán người dân địa phương của Sakhon Nakorn là những người ủng hộ và quan tâm nhất đến tất cả mọi người. Ngài nói với họ rằng Ngài rất tiếc vì đã không đến ở đó khi Ngài còn trẻ, khi Ngài có thể dạy họ nhiều hơn.

However, during May of 1994, Venerable Ajahn Thate's condition again changed for the worse with a deterioration in his strength and appetite. A medical professor and his team came and discovered a gall bladder obstruction — from gall bladder stones or perhaps from a growth. Despite Venerable Ajahn Thate's advanced age of ninety-two, they tried their utmost to nurse him back to health so that he could continue his teaching for another couple of years.

Tuy nhiên, vào tháng 5 năm 1994, tình trạng của Hòa thượng Ajahn Thate lại diễn biến theo chiều hướng xấu đi với sức lực và sự ăn uống bị giảm. Một giáo sư y khoa và nhóm của ông đã đến và phát hiện ra Ngài bị tắc nghẽn túi mật - do sỏi túi mật hoặc có thể là do khối u. Mặc dù Hòa thượng Ajahn Thate tuổi đã chín mươi hai, họ đã cố gắng hết sức để chăm sóc sức khỏe cho ngài để ngài có thể tiếp tục công việc giảng dạy trong vài năm nữa

A few days before the start of the Rains Retreat, Venerable Ajahn Thate spoke privately about his personal affairs. He charged that if he should die his body should first be kept at Wat Tam Khahm but that the cremation should take place at Wat Hin Mark Peng.[229] When his disciple took this opportunity to ask how long his body should be kept, Venerable Ajahn Thate replied that that should come from the general agreement of everyone involved.

Vài ngày trước khi khóa An Cư Kiết Hạ bắt đầu, Hòa thượng Ajahn Thate đã nói chuyện riêng về công việc cá nhân của mình. Ngài cho biết rằng nếu Ngài chết, thi thể của Ngài trước tiên nên được giữ ở chùa Wat Tam Khahm nhưng việc hỏa táng nên diễn ra tại chùa Wat Hin Mark Peng. [229] Người đệ tử của Ngài nhân cơ hội này hỏi rằng nên giữ thi hài của Ngài trong bao lâu, Hòa thượng Ajahn Thate trả lời rằng điều đó nên xuất phát từ sự đồng nhất của tất cả những người có liên quan.

Although Venerable Ajahn Thate was obviously frail and in pain during most of the Rains Retreat of 1994, he never complained or displayed any upset. He was a shining example of the good Dhamma practitioner to those monks who were taking care of him.

Mặc dù Hoà Thượng Ajahn Thate sức khỏe rất yếu và bị đau nhức trong hầu hết các cuộc Nhập thất năm 1994, nhưng Ngài không bao giờ than hay tỏ ra bất bình. Ngài là một tấm gương sáng về người thực hành Giáo pháp tốt cho những nhà sư đang chăm sóc Ngài.

On the morning of Saturday, 17 December 1994, after some liquidized food and his medicine, Ven. Ajahn Thate was, as usual, taken around in his wheelchair for some 'mobile meditation'. (With his infirmity, this had come to replace his normal walking meditation). After thirty minutes he said he was tired and went back to bed. His body seemed somewhat restless so his disciples played a tape of one of his own Dhamma talks on meditation. He confirmed to the monks that, 'it was certainly necessary to set (the mind) in neutrality'. Later in the day, after another 'wheel-around' he agreed that he was tired and so was helped into bed. This was at nine o'clock in the evening.

Vào sáng ngày thứ bảy, ngày 17 tháng 12 năm 1994, sau khi dùng bữa một số thức ăn và uống thuốc, như thường lệ, Ngài Ajahn Thate ngồi trên xe lăn để tu tập 'thiền hành'. (Với tình trạng bệnh của Ngài, điều này đã thay thế cho việc thiền hành bình thường). Sau ba mươi phút, Ngài nói rằng Ngài mệt và quay trở lại giường. Cơ thể của Ngài dường như bị co dật nên các đệ tử của ông đã phát đoạn băng về một trong những bài Pháp thoại của chính Ngài về thiền định. Ngài xác nhận với các nhà sư rằng, 'chắc chắn cần phải đặt (tâm trí) ở trạng thái thanh thản'. Cuối ngày, sau một cuộc 'ngồi trên xe lăn' đi hành thiền khác, Ngài cho biết rằng Ngài đã mệt và vì vậy đã được dìu vào giường. Lúc này là chín giờ tối.

The attendant monk respectfully suggested to the Venerable Ajahn that he should fix his attention on going to sleep so that he could wake up rested and strong. He nodded in agreement and almost immediately became still. His attendant noticed how easily he had gone to sleep and knowing that he usually slept on his right side[230] the attendant called on another monk to help turn him to that side, thinking that he could rest longer in that position.

Vị thị giả kính cẩn đề nghị với Hòa thượng Ajahn rằng Ngài nên tập trung tâm vào việc đi ngủ để có thể thức dậy một cách thoải mái và khỏe khoắn. Ngài gật đầu đồng ý và gần như ngay lập tức trở nên tĩnh lặng. Thị giả của Ngài nhận thấy Ngài đã đi vào giấc ngủ dễ dàng như thế nào và biết rằng Ngài thường nằm nghiêng mình bên phải để ngủ [230], thị giả đã kêu gọi một nhà sư khác giúp xoay Ngài sang bên đó, nghĩ rằng Ngài có thể nghỉ ngơi lâu hơn ở tư thế đó.

The monks massaged Venerable Ajahn Thate's hands as he slept and noticed that he was very still without any movement at all — abnormally so. (Some saliva was dribbling from his mouth but the monks thought that was because he had drunk so much herbal medicine.) The peaceful look on his face meant that the monks attending did not have an inkling that the Venerable Ajahn Thate had in fact already passed away.

Các nhà sư xoa bóp tay của Hòa thượng Ajahn Thate khi Ngài ngủ và nhận thấy rằng Ngài vẫn rất tĩnh lặng không có bất kỳ cử động nào - một cách bất thường. (Một ít nước bọt chảy ra từ miệng Ngài nhưng các nhà sư cho rằng đó là do Ngài đã uống quá nhiều nước thuốc thảo dược.) Vẻ mặt Ngài ôn hòa bình thản nên các nhà sư đang chăm sóc Ngài không nghĩ rằng trên thực tế, Hòa Thượng Ajahn Thate đã viên tịch.

Venerable Ajahn Thate's Funeral  

An ending of such great dignity and peace perfectly completes a life lived that way. His life had touched many, many, people and this became manifest in the funeral and cremation rites. When news spread about his passing, local monks and villagers immediately started coming to pay their last respects. It was announced that HM the King of Thailand would officially sponsor the funeral rites.

Lễ tang của Hòa thượng Ajahn Thate  

Qua đời với một niềm kiêu hãnh và thanh thản tột cùng như vậy sẽ đạt được một cuộc đời toàn mỹ theo cách đó. Cuộc đời của Ngài đã làm xúc động rất nhiều người và điều này đã trở thành biểu hiện trong các nghi thức tang lễ và hỏa táng. Khi tin tức về việc Ngài qua đời được lan truyền, các nhà sư địa phương và dân làng ngay lập tức bắt đầu đến để bày tỏ lòng thành kính lần cuối. Đã có thông báo rằng HM Quốc vương Thái Lan sẽ chính thức tài trợ cho các nghi thức tang lễ..

As Venerable Ajahn Thate had previously ordered, his body was first kept at Wat Tam Khahm and then moved to Wat Hin Mark Peng. This is a bigger monastery and so much more appropriate for dealing with the funeral arrangements for the cremation was obviously to be a national event.

Theo di nguyện của Hòa thượng Ajahn Thate đã cho biết trước đó, thi hài của ngài đầu tiên được lưu giữ tại Wat Tam Khahm và sau đó được chuyển đến Wat Hin Mark Peng. Đây là một tu viện lớn hơn và rất thích nghi để cho việc tổ chức tang lễ hỏa táng xứng đáng là một sự kiện quốc gia.

The cremation of Venerable Ajahn Thate took place on 8 January, 1996. People from all over Thailand — led by HM the King and the royal family — came to pay their final respects. Each region where the Venerable Ajahn had stayed seemed to be represented — even from overseas — so it was as if even in death he was still able to bring people together. It is estimated that there were ten thousand monks present and many hundreds of thousands of lay people. (The temporary car park was filled with up to thirty thousand vehicles, including many small and large buses from all parts of Thailand.) Yet even with such numbers, it was arranged in a fitting and appropriate way and all accomplished through volunteer help and finance. (There were free food stalls and refreshments, showing the spirit of generosity that is so vital a part of the Lord Buddha's Teaching. Also half a million memorial books of Venerable Ajahn Thate's teachings were distributed to those present.)

Nghi thức hỏa táng Hòa thượng Ajahn Thate diễn ra vào ngày 8 tháng 1 năm 1996. Người dân từ khắp nơi trên đất nước Thái Lan - dẫn đầu là Quốc vương và hoàng gia - đã đến để bày tỏ lòng thành kính cuối cùng. Mỗi khu vực nơi Hoà Thượng Ajahn đã ở dường như đều có nghi thức tang lễ đại diện - ngay cả từ nước ngoài - vì vậy dường như ngay cả khi chết, Ngài vẫn có thể mang mọi người lại với nhau. Người ta ước tính rằng có một vạn tu sĩ hiện diện và hàng trăm ngàn cư sĩ. (Bãi đậu xe tạm thời có sức chứa lên đến ba mươi nghìn xe, bao gồm nhiều xe buýt lớn và nhỏ từ khắp mọi miền của Thái Lan.) Tuy nhiên, ngay cả với số lượng như vậy, nó đã được sắp xếp một cách vừa vặn và phù hợp và tất cả đều được thực hiện thông qua sự giúp đỡ và tài chính của tình nguyện viên . (Đã có những quầy bán đồ ăn và thức uống giải khát miễn phí, thể hiện tinh thần hào phóng, một phần rất quan trọng trong Lời dạy của Đức Phật. Ngoài ra, nửa triệu cuốn sách tưởng niệm những lời dạy của Hòa thượng Ajahn Thate đã được phân phát cho những người có mặt.)

The good weather allowed the arrangements to proceed smoothly. HM the King honored Venerable Ajahn Thate with royal sponsored funeral rites and the full panoply of ancient custom and ritual. When all was ready, HM the King flew in by helicopter officially to lead the making of offerings and light the cremation fire. The monks followed this, filing past the coffin, then the dignitaries with all the ordinary people who had supported Venerable Ajahn Thate for more than seventy years as a monk.

Thời tiết tốt cho phép nghi lễ diễn ra suôn sẻ. HM Nhà vua đã tôn vinh Hòa Thượng Ajahn Thate với các nghi thức tang lễ do hoàng gia bảo trợ và toàn cảnh về phong tục và nghi lễ cổ xưa. Khi tất cả đã sẵn sàng, HM Quốc vương chính thức bay đến bằng trực thăng để dẫn đầu việc cúng dường và đốt lửa hỏa táng. Các nhà sư làm theo điều này, diễn hành qua quan tài, sau đó là các chức sắc cùng với tất cả những người dân thường đã ủng hộ Hòa thượng Ajahn Thate trong hơn bảy mươi năm là một nhà sư.

The actual cremation took place later that night with a full moon shining down on the crematorium, lake and fountain, specially built for the occasion. (The crematorium is an imposing structure with traditional Thai tiered-roofs.) These remain as a landmark and memorial to Venerable Ajahn Thate when devotees come to practice Dhamma and remember his example.

Lễ hỏa táng thực sự diễn ra sau đêm đó với ánh trăng tròn chiếu xuống lò hỏa táng, hồ nước và đài phun nước, được xây dựng đặc biệt cho dịp này. (Lò hỏa táng là một công trình kiến trúc uy nghiêm với mái nhà tầng truyền thống của Thái Lan.) Đây vẫn là một cột mốc và kỷ vật tưởng nhớ đến Hòa thượng Ajahn Thate khi các tín đồ đến thực hành Giáo pháp và tưởng nhớ tấm gương của Ngài.

The next morning, when the fire was cooled, the bones and ashes of Venerable Ajahn Thate were reverently removed and safeguarded as relics.

Sáng hôm sau, khi lửa đã nguội, xương và tro cốt của Hòa thượng Ajahn Thate được di dời một cách tôn kính và được bảo vệ như xá lợi.

Thus ends the biography of Venerable Ajahn Thate. It started in a remote village at the beginning of the century and closed more than ninety years later surrounded by hundreds of thousands of disciples, including the King of Thailand. Along the Way, Venerable Ajahn Thate had continually taught and that continues in the practice he inspired and the books and taped talks he left behind — including this book.

Như vậy câu chuyện tiểu sử của Hòa thượng Ajahn Thate kết thúc. Nó bắt đầu ở một ngôi làng hẻo lánh vào đầu thế kỷ và chấm dứt sau đó hơn 90 năm được bao quanh bởi hàng trăm nghìn đệ tử, bao gồm cả Vua Thái Lan. Trên đường hoằng pháp, Hòa thượng Ajahn Thate đã liên tục giảng dạy và điều đó vẫn tiếp tục trong quá trình thực hành mà Ngài đã truyền cảm hứng và những cuốn sách và bài nói chuyện được ghi hình mà Ngài đã để lại - bao gồm cả cuốn sách này.

Appendixes

Appendix A  Siila: Precepts[231]

Anyone — of any religion or none — can appreciate the basic Buddhist guidelines for action and speech. There is no dogma hidden among these precepts for it is a plain and simple way of living without harming or hurting any creature. The other feature to bear in mind is that it is something that the individual accepts voluntarily. No one commands one to receive them. It is the individual's volition that changes a list of precepts into a way of living. The appreciation and mindfulness of one's actions and speech then become more subtle, which automatically leads on to meditation.

There are the basic Five Precepts and these become more refined with the Eight Precepts.

These Precepts can be received by simply saying:

"I undertake the training rule/precept... "

  • 1) "to abstain from taking life.
  • 2) to abstain from taking what is not given.
  • 3) to abstain from sexual misconduct.
  • 4) to abstain from false speech.
  • 5) to abstain from intoxicants causing heedlessness."

or:

  • 1) "to abstain from taking life.
  • 2) to abstain from taking what is not given.
  • 3) to abstain from unchastity.
  • 4) to abstain from false speech.
  • 5) to abstain from intoxicants causing heedlessness.
  • 6) to abstain from untimely eating.
  • 7) to abstain from dancing, singing, music and unseemly shows, from wearing garlands, smartening with scents, and embellishment with unguents.
  • 8) to abstain from the use of high and large luxurious couches."

Phụ Lục

Phụ Lục A  Siila: Giới luật[231]

Bất kỳ ai - thuộc bất kỳ tôn giáo nào hoặc không thuộc tôn giáo nào - đều có thể đánh giá cao các hướng dẫn cơ bản của Phật giáo về hành động và lời nói. Không có giáo điều nào được che giấu trong số những giới luật này vì đó là một cách sống đơn giản và dễ hiểu mà không làm tổn hại hoặc làm tổn thương bất kỳ sinh vật nào. Một đặc điểm khác cần lưu ý là nó là thứ mà cá nhân chấp nhận một cách tự nguyện. Không ai ra lệnh cho ai nhận chúng. Chính ý chí của cá nhân đã thay đổi danh sách các giới luật thành một cách sống. Sau đó, sự đánh giá cao và chánh niệm về hành động và lời nói của một người trở nên tinh tế hơn, điều này sẽ tự động dẫn đến thiền định.

Căn bản là có Ngũ giới và những giới này trở nên tinh vi hơn Bát giới.

Những Giới này có thể được tiếp nhận bằng cách nói đơn giản:

"con xin thọ trì ngũ giới/con xin thọ trì Bát giới... "

  • 1) "kiêng giữ sự sát sanh.
  • 2) Kiêng giữ sự lấy của không cho.
  • 3) Kiêng tránh hành vi tà dâm.
  • 4) Kiêng không nói dối.
  • 5) kiêng giữ không dùng các chất say gây."

or:

  • 1) "kiêng giữ sự sát sanh.
  • 2) Kiêng giữ sự lấy của không cho.
  • 3) Kiêng tránh hành vi tà dâm.
  • 4) Kiêng không nói dối.
  • 5) kiêng giữ không dùng các chất say gây."
  • 6) Kiêng không ăn sái giờ.
  • 7) kiêng khiêu vũ, ca hát, âm nhạc và các chương trình biểu diễn không rõ ràng, không đeo vòng hoa, tẩm hương thơm và trang điểm bằng các chất không phù hợp.
  • 8) kiêng sử dụng trường kỷ cao và lớn sang trọng."

Appendix B   The Dhamm' Characters as Written by Venerable Ajahn Fan Aacaaro[232]

"... In 1982 the compiler brought a copy of her book, Aajaaraa-phiwaht, (???) to show Venerable Ajahn Thate. It was the commemorative book for the royal opening of the chedi and museum of the late Ven. Ajahn Fan Aacaaro. On leafing through the book, he came across a sample of Ven. Ajahn Fan's handwriting using the dhamm' characters and asked whether the compiler of the book could understand them. When she admitted her ignorance, Venerable Ajahn Thate smiled and remarked that it was a shame that such knowledge was disappearing so fast, and that future generations would be completely ignorant of it... Just a few days later, Venerable Ajahn Thate kindly gave her the translation beautifully typed out. The original dhamm' characters and his translation appear below, together with his explanation:..."

Appendix B   Phụ lục B Các đặc điểm của Giáo pháp do Hòa Thượng Ajahn Fan Aacaaro viết [232]

"... Vào năm 1982, người biên soạn đã mang một bản sao cuốn sách của bà, Aajaaraa-phiwaht, (???) để Hòa Thượng Ajahn Thate xem. Đó là cuốn sách kỷ niệm cho việc hoàng gia mở cửa bảo tháp và bảo tàng của cố Ven. Ajahn Aacaaro. Khi lướt qua cuốn sách, Ngài thấy một mẫu chữ viết tay của Ajahn Fan sử dụng các ký tự của Pháp Luật và hỏi liệu người biên dịch cuốn sách có thể hiểu được chúng hay không. Khi bà thừa nhận sự thiếu hiểu biết của mình, Hòa Thượng Ajahn Thate mỉm cười và nhận xét rằng thật đáng tiếc khi những kiến thức như vậy biến mất quá nhanh, và các thế hệ tương lai sẽ hoàn toàn không biết gì về nó ... Chỉ vài ngày sau, Hòa Thượng Ajahn Thate đã vui lòng trao cho bà bản dịch được đánh máy đẹp. Các ký tự gốc của Pháp và bản dịch của Ngài xuất hiện bên dưới, cùng với lời giải thích của Ngài:..."

{image omitted from this edition — JB}

'Wise people are those that are able to prevent the arising of evil in their personality. There is a simile about a person planting a tree, a mango tree for example. The person steadily tends and cares for it, stopping any growth of parasitical creepers or pests because he is afraid that otherwise the tree will not flourish, and won't be fruitful. This is similar to the body of the wise person. It is natural for such a person to guard against wrong actions of body, speech and mind, so that they don't become the source for sadness and depression. Thus the Sakavati-Ajahn Teacher inquires into the first part of the Maatikaa which is "kusala dhamma...". He translates correctly and adds more similes so that I come to understand.'

{image omitted from this edition — JB}

Người khôn ngoan là người có khả năng ngăn chặn sự khởi sinh của điều bất thiện trong nhân cách của họ. Có một ví dụ về một người trồng cây, thí dụ, một cây xoài. Người đó thường xuyên chăm nom và săn sóc nó, ngăn chặn bất kỳ sự phát triển nào của cây dại hoặc sâu bệnh vì anh ta sợ rằng nếu không thì cây sẽ không sinh sôi và không kết trái. Điều này tương tự với cơ thể của một người khôn ngoan. Điều tự nhiên là những người như vậy phải đề phòng những hành động bất thiện của thân, khẩu và ý, để họ không trở thành nguồn gốc cho sự buồn phiền và trầm cảm. Vì vậy, Thầy Sakavati-Ajahn xem xét phần đầu tiên của Maatikaa là "pháp thiện ...". Anh ấy dịch một cách chính xác và thêm nhiều mô phỏng hơn để tôi hiểu.

"I wrote down the Thai translation of this text so that my readers can compare and understand its meaning. This Dhamm' alphabet is fast becoming extinct because nobody studies it anymore. Except, that is, for those who were ordained sixty years ago and learned it then. The Thai alphabet was then not so widespread and the monks had to learn the Dhamm' characters. We learned from actually reading the palm leaf manuscripts rather than just learning the vowels and consonants.

Tôi viết ra bản dịch tiếng Thái của văn bản này để độc giả của tôi có thể so sánh và hiểu ý nghĩa của nó. Bảng chữ cái Dhamm 'này nhanh chóng bị tuyệt chủng vì không ai nghiên cứu nó nữa. Ngoại trừ, đó là, đối với những người đã xuất gia sáu mươi năm trước và đã học nó sau đó. Bảng chữ cái Thái Lan sau đó không được phổ biến rộng rãi và các nhà sư phải học các ký tự của Dhamm. Chúng tôi học được từ việc thực sự đọc các bản thảo lá cọ hơn là chỉ học các nguyên âm và phụ âm.

The subject matter was always about the Buddha's Teachings. For instance, about generosity, morality and meditation; about the heavenly fruits of good deeds and the dreadful results in hell of bad deeds. After studying one or two manuscripts one could read them all.

Chủ đề luôn là về Lời dạy của Đức Phật. Ví dụ, về sự rộng lượng, đạo đức và thiền định; về những quả sanh thiên của những hành động thiện và những kết quả đáng sợ trong địa ngục của những hành động bất thiện. Sau khi nghiên cứu một hoặc hai bản thảo, người ta có thể đọc hết chúng.

In former days, in the time of Wiang-jan (Vientiane), the people still flourished and prospered with the Lord Buddha's Teachings. They studied using three alphabets: Dhamm', Korm, and 'Small Thai' (???).

Ngày xưa, vào thời Wiang-jan (Vientiane), dân chúng vẫn hưng thịnh và phát triển với Lời dạy của Đức Phật. Họ đã nghiên cứu bằng cách sử dụng ba bảng chữ cái: Dhamm ', Korm, và' Small Thai '(???).

They called them Dhamm' characters because they were only used for Dhamma, the Teachings of the Lord Buddha. An exception being those monks who disrobed after many years and used their knowledge to gain a living in astrology or herbal medicine. Otherwise, these characters were used to write down magic formula and spells. People then really held the Dhamm' characters to be sacred and supernaturally powerful. They considered them the very teaching of the Lord Buddha and it's true as they thought...

Họ gọi là các ký tự Dhamm vì chúng chỉ được sử dụng cho Giáo pháp, Lời dạy của Đức Phật. Một trường hợp ngoại lệ là những nhà sư sau nhiều năm tu đã hoàn tục và sử dụng kiến thức của mình để kiếm sống bằng chiêm tinh hoặc bốc thuốc. Nếu không, những ký tự này được dùng để viết ra công thức và phép thuật ma thuật. Mọi người sau đó thực sự coi các ký tự của Dhamm là linh thiêng và có sức mạnh siêu nhiên. Họ coi đó là lời dạy của Đức Phật và nó đúng như họ nghĩ ...

We only studied the Korm characters enough to know what they were about but did not write in them. If they were used in writing, again it was only for the Buddha's Teachings, the same as the Dhamm'. The Lesser ??? Thai script could be used for anything and is still used to this day in Vientiane, for that's where it originated but it has evolved a great deal since then..."

Chúng tôi chỉ nghiên cứu các ký tự Korm đủ để biết họ nói về điều gì nhưng không viết trong đó. Nếu chúng được sử dụng trong văn bản, một lần nữa nó chỉ dành cho Lời dạy của Đức Phật, cũng giống như Giáo pháp '. Càng ít ??? Chữ viết Thái có thể được sử dụng cho mọi thứ và vẫn được sử dụng cho đến ngày nay ở Vientiane, vì đó là nơi nó bắt nguồn nhưng nó đã tiến hóa rất nhiều kể từ đó ... "

Appendix C   The Buddhist Order of Monks in Thailand

The Buddhist Order of monks (bhikkhus) has an unbroken lineage of twenty-five centuries. In this world of growth and decay there is often need for reform as standards decline. Such reform historically has happened either through the king inviting knowledgeable monks to come and teach the ignorant monks, or by an internal process.

Phụ Lục C   Quy Chế Phật giáo tại Thái Lan

Quy Chế Tỳ kheo Phật giáo có một dòng truyền thừa liên tục suốt hai mươi lăm thế kỷ. Trong thế giới phát triển và tình trạng suy tàn thường cần phải cải cách khi các tiêu chuẩn suy giảm. Sự cải cách như vậy trong lịch sử đã xảy ra hoặc thông qua việc nhà vua mời các nhà sư thông thái đến và dạy cho các nhà sư ngu dốt, hoặc bằng một quy trình nội bộ.

In the chaos that followed the destruction of the old Thai capital of Ayutthaya, the general standard of the monk's understanding and conduct declined. When Crown Prince Monkut (later to become King Rama IV) became a monk and learned the Pali language, he found that there were great differences between what the texts described and what was actually practiced. A group of monks gathered around him intent on trying to follow more strictly the vinaya Discipline. When his son, King Chulalongkorn (Rama V), ascended to the throne, he formally acknowledged this reform group as the Dhammayut' (or Dhammayuttika) Nikaya. As this reform movement spread in influence, it acted as a catalyst for general reform. So that the majority grouping — the Mahaa-Nikaya — reformed itself and the whole Community of monks became revitalized.

This book spans the time when this reform movement was spreading, and shows how it also affected the tudong monks out in the forests.

Trong sự bạo loạn kéo theo sự tàn phá của thủ đô Ayutthaya cũ của Thái Lan, tiêu chuẩn chung về sự hiểu biết và ứng xử của các nhà sư đã giảm sút. Khi Thái tử Monkut (sau này trở thành Vua Rama IV) trở thành một nhà sư và học tiếng Pali, ông nhận thấy rằng có sự khác biệt lớn giữa những gì các văn bản mô tả và những gì thực sự được thực hành. Một nhóm các nhà sư tập trung xung quanh ông với mục đích cố gắng tuân thủ nghiêm ngặt hơn Kỷ luật vinaya. Khi con trai của ông, Vua Chulalongkorn (Rama V), lên ngôi, ông chính thức thừa nhận nhóm cải cách này là Kinh Nikaya (hay Dhammayuttika). Khi phong trào cải cách này có ảnh hưởng lan rộng, nó đóng vai trò như một chất xúc tác cho cải cách chung. Vì vậy, nhóm đa số - Maha-Nikaya - tự cải tổ và toàn bộ Cộng đồng các nhà sư được củng cố lại.

Cuốn sách này kéo dài trong thời gian phong trào cải cách này đang lan rộng, và cho thấy nó cũng ảnh hưởng như thế nào đến các nhà sư tu khổ hạnh trong rừng.

Appendix D   More Building Projects

Details of building projects abbreviated in the main text (Section 30) are detailed here:

35.1 The Uposatha Hall of Wat Hin Mark Peng

Phụ lục D   Các dự án xây dựng khác

Details of building projects abbreviated in the main text (Section 30) are detailed here:

35.1 The Uposatha Hall of Wat Hin Mark Peng

Around 1966, Mr. Gong Pewsiri from Koke Soo-ak Village... made a large Buddha-ruupa on the rocks facing the River Mekong... using the local rock... and organized it all himself for about one thousand baht. It was more than five metres high... but wasn't particularly beautiful because the workers were just ordinary local artisans rather than expert craftsmen... several attempts at remodelling transformed that into what we have today... After it was finished we built a pavilion around it...

Vào khoảng năm 1966, ông Gong Pewsiri ở làng Koke Soo-ak ... đã làm một tượng Phật-ruupa lớn trên những tảng đá hướng ra sông Mekong ... sử dụng đá địa phương ... và đã lên kế hoạch tất cả với giá khoảng một nghìn baht. Tượng cao hơn năm mét ... nhưng không đặc biệt đẹp vì những người thợ chỉ là những nghệ nhân địa phương bình thường chứ không phải là những thợ thủ công chuyên nghiệp ... một vài nỗ lực tu sửa đã biến tượng thành những gì chúng ta có ngày nay ... Sau khi hoàn thành, chúng tôi đã xây dựng một gian hàng xung quanh đó .

On the twenty-sixth of March, 1970, the monastery received a royal proclamation establishing its boundaries (visu.mgaama-siimaa). Seeing that Wat Hin Mark Peng had now been properly established according to the law,[233] I decided it was the right time to build an Uposatha Hall. Formal meetings of the monks could then convene according to the Discipline and that would be for the future growth of the Buddhist Teaching. The site of the large Buddha-ruupa seemed ideal, for if we were to build the Uposatha Hall around it we would have both a main Shrine Hall, and the main presiding Buddha-ruupa.

Vào ngày 26 tháng 3 năm 1970, tu viện nhận được một tuyên bố của hoàng gia về việc thiết lập Kiết Giới Sima (visu.mgaama-siimaa). Cho thấy rằng Wat Hin Mark Peng hiện đã được thành lập đúng theo luật, [233] tôi quyết định đây là thời điểm thích hợp để xây dựng một Nhà Nguyện (Uposatha Hall). Các cuộc họp chính thức của các nhà sư sau đó có thể được triệu tập theo Kỷ luật và điều đó sẽ cho sự phát triển trong tương lai của Giáo lý Phật giáo. Địa điểm của Buddha-ruupa lớn có vẻ lý tưởng, vì nếu chúng ta xây dựng Uposatha Hall xung quanh nó, chúng ta sẽ có cả một Điện thờ chính và Buddha-ruupa chủ trì chính.

The foundation stone-laying ceremony took place on the twelfth of April 1972, with Somdet Phra Maha Virawong (Pim Dhammdharo) of Wat Sri Mahaa Dhaatu in Bangkaen, Bangkok heading the monks and Air force Lt. General Choo Suddhichot' leading the lay devotees.

Lễ đặt viên đá diễn ra vào ngày 12 tháng 4 năm 1972, với Somdet Phra Maha Virawong (Pim Dhammdharo) của Wat Sri Mahaa Dhaatu ở Bangkaen, Bangkok, hướng dẫn các nhà sư và Trung tướng Không quân Choo Suddhichot 'dẫn đầu các cư sĩ tại gia.

They constructed this Uposatha Hall with tiered double roofs,[234] which are seven metres wide and twenty-one metres long, while the ceiling is nine metres above the floor... in all it cost about seven hundred thousand baht. The consecration ceremony... took place between the fifth and seventh of April 1973.

Họ đã xây dựng Đại sảnh Uposatha này với những mái nhà đôi nhiều tầng, [234] rộng bảy mét và dài hai mươi mốt mét, trong khi trần nhà cao hơn chín mét so với mặt sàn ... tổng cộng nó có giá khoảng bảy trăm nghìn baht. Lễ Hằng thuận ... diễn ra từ ngày 5 đến 7/4/1973.

In 1986 the baked clay tile roof was replaced and it was redecorated inside and out... which cost more than four hundred and fifty thousand baht.

35.2 Wat Hin Mark Peng's Mondop

Năm 1986, mái ngói đất sét nung được thay thế và trang trí lại từ trong ra ngoài ... với giá hơn bốn trăm năm mươi nghìn baht.

35.2 Wat Hin Mark Peng's Mondop

In 1972 I thought that this spot on the bank of the River Mekong would be an ideal site for building a mondop. It would be an artistic landmark for the Mekong River basin and have a Buddha-ruupa and Buddha relics. I also thought to myself that it could be a place to keep my bones... and then other people would not have to trouble themselves about finding a place.

Vào năm 1972, tôi nghĩ rằng vị trí bên bờ sông Mekong này sẽ là một địa điểm lý tưởng để xây dựng mondop - tòa nhà theo kiến ​​trúc tôn giáo truyền thống của Thái Lan với một tòa nhà hình vuông với mái thường nhọn. Nó sẽ là một thắng cảnh nghệ thuật cho lưu vực sông Mekong và có thờ tượng Phật và xá lợi Phật. Tôi cũng tự nghĩ rằng đó có thể là nơi lưu giữ tro cốt của mình ... và sau đó người khác sẽ không phải vất vả tìm.

... In 1977 things started to happen with plans being drawn and the Fine Arts Department inspecting and improving the artistic design... it has three stories and is thirty-six metres high, with each floor being thirteen metres square... and the total cost was finally about five million baht.

35.3 The Desarangsee Hall

... Vào năm 1977 mọi thứ bắt đầu với bản thiết kế được vẽ ra và Cục Mỹ thuật kiểm tra và cải tiến thiết kế mỹ thuật ... tòa nh có ba tầng và cao ba mươi sáu mét, với mỗi tầng là mười ba mét vuông ... và tổng chi phí cuối cùng là khoảng năm triệu baht.

35.3 The Desarangsee Hall

... The original sala at Wat Hin Mark Peng was all wooden with some woven split bamboo sides and a tin roof... this was replaced by the Sala Desapradit' that was also made of wood... because of the number of visitors this gradually became too dilapidated and overcrowded so... a new two-storied concrete sala was built, twenty-three metres wide by forty-four metres long... and cost more than seven and a half million baht. They named it the Sala Desarangsee B.E. 2529...

35.4 Mural Wall Painting

... Sala ban đầu ở Wat Hin Mark Peng đều bằng gỗ với một số nan tre đan hai bên và mái lợp bằng thiếc ... cái này đã được thay thế bằng Sala Desapradit 'cũng được làm bằng gỗ ... vì số lượng du khách đến thăm viếng quá đông mà nơi này dần trở nên quá đổ nát nên ... một cái sala bê tông hai tầng mới được xây dựng, rộng hai mươi ba mét dài bốn mươi tư mét ... và có giá hơn bảy triệu rưỡi baht. Họ đặt tên nó là Sala Desarangsee B.E. 2529 ...

35.4 Mural Wall Painting

... Paintings were commissioned in September 1987... On the central wall they portray scenes from the Lord Buddha's life... the right-hand wall depicts aspects of Wat Hin Mark Peng... the left-hand wall portrays Northeast regional customs and traditions... They took twelve months to paint at a cost of six hundred and fifty thousand baht....

35.5 The Bell Tower

... Các bức tranh được vẽ trên những vách tường vào tháng 9 năm 1987 ... Trên bức tường trung tâm, chúng miêu tả những cảnh trong cuộc đời của Đức Phật ... bức tường bên phải mô tả các khía cạnh của Wat Hin Mark Peng ... bức tường bên trái miêu tả khu vực Đông Bắc phong tục và truyền thống… Họ đã mất mười hai tháng để vẽ với chi phí sáu trăm năm mươi nghìn baht….

35.5 The Bell Tower

... A bell that cost sixty thousand baht was cast and hung in a tower which cost three hundred and fifty thousand baht....

35.6 Wat Hin Mark Peng's Library

...

35.7 The Drum Tower

...

35.8 Dwelling Places for the Monks

.. Một chiếc chuông trị giá sáu mươi nghìn baht được đúc và treo trong tháp có giá ba trăm năm mươi nghìn baht ....

35.6 Wat Hin Mark Peng's Library

...

35.7 The Drum Tower

...

35.8 Dwelling Places for the Monks

... Huts have been repaired and completely rebuilt... large or small according to the circumstances... usually in the Thai Style... until there are now fifty-six huts or kutis for the monks and novices... with thirty-seven in the nuns' quarters. The nuns' sala, the kitchens, toilets, washing facilities, a largish waterworks and electricity generators... these are valued at not less than ten million baht....

35.9 The Monastery Perimeter Wall

... Những túp lều đã được sửa chữa và xây dựng lại hoàn toàn ... lớn hay nhỏ tùy theo hoàn cảnh ... thường là theo kiểu Thái ... cho đến nay có năm mươi sáu túp lều cho các nhà sư và sa di ... với ba mươi bảy trong khu của các nữ tu. Sala của các nữ tu, nhà bếp, nhà vệ sinh, cơ sở giặt ủi, một nhà máy nước lớn và máy phát điện ... những thứ này trị giá không dưới mười triệu baht ....

35.9 The Monastery Perimeter Wall

... Since 1965, the monastery became ever more solidly established... with its area also expanding through donations. In 1985 the local District Officer helped arrange official acknowledgement of this with land deeds from the Department of Land for two hundred and sixty-one rai... It was the first place in that region to have legal claim to the land.

... Kể từ năm 1965, tu viện ngày càng được xây dựng kiên cố hơn ... với diện tích cũng được mở rộng thông qua các khoản quyên góp. Năm 1985, Cán bộ Huyện địa phương đã giúp sắp xếp công nhận chính thức về điều này bằng các chứng thư về đất đai từ Sở Đất đai với giá hai trăm sáu mươi mốt rai ... Đây là nơi đầu tiên trong khu vực có yêu cầu hợp pháp về đất đai.

... seeing the expansion of the local villages and the already established nature of the monastery... I thought it would be good to mark the boundaries clearly with a perimeter wall... the provincial Accelerated Rural Development prepared the site and it was built in 1986 at a cost of more than one and a half million baht.

... nhìn thấy sự mở rộng của các ngôi làng địa phương và các tu viện đã được thành lập ... Tôi nghĩ sẽ rất tốt nếu đánh dấu ranh giới rõ ràng bằng một bức tường chu vi ... Ban Phát triển Nông thôn của tỉnh đã chuẩn bị địa điểm và nó đã được xây dựng vào năm 1986 với chi phí hơn một triệu rưỡi baht.

Celebrating HM The King's Fifth Cycle Anniversary  

After finishing all these building projects... according to plan... I thought it would be appropriate that everyone who had helped could come together and see the results... and also take the opportunity to celebrate HM the King's Fifth Cycle Anniversary.[235]... So on the twenty-fifth and twenty-sixth of April 1987 many senior monks and lay people came together to honor HM the King, to admire the completed monastery and to celebrate my own eighty-fifth birthday...

Kỷ niệm ngày chu kỳ thứ năm của HM The King's  

Sau khi hoàn thành tất cả các dự án xây dựng này ... theo đúng kế hoạch ... Tôi nghĩ sẽ rất thích hợp để tất cả những người đã giúp đỡ có thể cùng nhau xem kết quả ... và cũng nhân cơ hội để kỷ niệm Chu kỳ lần thứ năm của Vua HM. [235]... Vì vậy, vào ngày hai mươi lăm và hai mươi sáu tháng 4 năm 1987, nhiều tu sĩ cao cấp và cư sĩ đã cùng nhau đến để tôn kính Đức Vua, để chiêm ngưỡng ngôi tự viện đã hoàn thành và kỷ niệm sinh nhật lần thứ tám mươi lăm của chính tôi ...

I was able not only to establish Wat Hin Mark Peng on a solid foundation but the remaining resources were shared out... among other deserving monasteries, schools and hospitals etc... To give some idea of this I will mention those projects that I can remember and have not yet described:

Tôi không chỉ thành lập ngôi chùa Wat Hin Mark Peng trên một nền tảng vững chắc mà số tiền còn lại đã được chia sẻ ... giữa các tu viện, trường học và bệnh viện xứng đáng khác, v.v. Để đưa ra một số ý tưởng về điều này, tôi sẽ đề cập đến những dự án mà tôi có thể nhớ và chưa mô tả:

1. Wat Araññavaasee received an Uposatha Hall, a Dhamma Study Hall, two kutis, a perimeter wall and a concrete road. This cost more than nine million baht.

2. Wat Phra Buddhabaht-korkaeng (Wen Koom)... Srii Chiang Mai District received buildings costing more than three and a half million baht.

3. Wat Pah Kut Ngiew... Bahn Peur District... more than two million baht.

4. Wat Phra Buddhabaht-Bua-bok... Bahn Peur District... more than three and a half million baht.

5. Wat Pah Desarangsee (Wang Nam Mork)... Srii Chiang Mai District... two and a half million baht.

6. Wat Bodhisomphorn... in Udorn-thani where one million baht was donated.

1. Chùa Wat Araññavaasee đã xây được một Đại Sảnh Uposatha, một Hội trường Nghiên cứu Giáo pháp, hai kutis, một bức tường bao quanh và một con đường bê tông. Cái này có giá hơn chín triệu baht.

2. Chùa Wat Phra Buddhabaht-korkaeng (Wen Koom) ... Quận Srii Chiang Mai xây được các tòa nhà có giá hơn ba triệu rưỡi baht.

3. Chùa Wat Pah Kut Ngiew... Bahn Peur District... nhận được hơn hai triệu baht.

4. Chùa Wat Phra Buddhabaht-Bua-bok... Bahn Peur District... nhận được hơn 3 triệu rưỡi baht.

5. Chùa Wat Pah Desarangsee (Wang Nam Mork)... Srii Chiang Mai District... nhận được 2 triệu rưỡi baht.

6. Chùa Wat Bodhisomphorn... tại Udorn-thani tài trợ 1 triệu baht .

7. The Phra Buddhabaht-Desarangsee-Vitayah School... of Srii Chiang Mai District and the Glahng Yai Nirodharangsee School... in Bahn Peur District received school buildings worth four million seven hundred thousand baht. The Ministry of Education acknowledged this aid to their school's programme by honoring me in 1987 and 1988 with their special award... and likewise in 1989 from the National Committee for Primary Education...

Trường Phra Buddhabaht-Desarangsee-Vitayah ... ở quận Srii Chiang Mai và trường Glahng Yai Nirodharangsee ... ở quận Bahn Peur đã được xây các tòa nhà trị giá bốn triệu bảy trăm nghìn baht. Bộ Giáo dục ghi nhận sự hỗ trợ này cho chương trình của trường họ bằng cách vinh danh tôi vào năm 1987 và 1988 với giải thưởng đặc biệt của họ ... và tương tự như vậy vào năm 1989 từ Ủy ban Quốc gia về Giáo dục Tiểu học ...

8. The Nirodharangsee-kampeepaññajahn Trust which is a scholarship fund for poor but well behaved, hard working and clever students in the province of Nongkhai. At present, it contains almost one million two-hundred thousand baht. There is also Nongkhai's Midday Meal Programme fund for pupils that stands at almost two and a half million baht. We are helping to provide a lunch time meal for pupils in six schools in the Bahn Mor - Phra Buddhabaht area and aim to give help province-wide.

9. The Thate Desarangsee Fund for caring for the monks and novices and the maintenance of the buildings of Wat Hin Mark Peng, which stands at five million seven hundred thousand baht.

Besides this, there are the following projects still being implemented:

8. Nirodharangsee-kampeepaññajahn Trust là quỹ học bổng dành cho các sinh viên nghèo nhưng có hạnh kiểm tốt, chăm chỉ và thông minh ở tỉnh Nongkhai. Hiện tại, số tiền còn lại gần một triệu hai trăm nghìn baht. Ngoài ra còn có quỹ Chương trình Bữa ăn Giữa trưa của Nongkhai dành cho học sinh trị giá gần hai triệu rưỡi baht. Chúng tôi đang giúp cung cấp một bữa ăn trưa cho học sinh ở sáu trường học trong khu vực Bahn Mor - Phra Buddhabaht và nhằm giúp đỡ trên toàn tỉnh.

9. Quỹ Thate Desarangsee để chăm sóc các nhà sư và các sadi và bảo trì các tòa nhà của Wat Hin Mark Peng, trị giá năm triệu bảy trăm nghìn baht.

Bên cạnh đó, có những dự án sau đây vẫn đang được hoàn thành:

1. A hospital ward for monks and novices at Khon Kaen University Medical School that has four million two hundred thousand baht allocated to it at present.

2. A hospital ward in the district hospital of Pa Tew in Chumporn Province that my devotees have named the Luang Poo Thate Desarangsee Eighty-eighth Year Memorial Building and to which they have contributed three million baht.

3. An Uposatha Hall at Wat Pah Nah Seedah...

4. A crematorium for Wat Hin Mark...

5. A water treatment plant for Wat Hin Mark...

6. A Shrine Hall and guest kuti at Wat Hin Mark...

Plans to build a Chedi-Museum are now nearing completion.

1. Một khu bệnh viện dành cho các nhà sư và sadi tại Trường Y Đại học Khon Kaen hiện có bốn triệu hai trăm nghìn baht được phân bổ.

2. Một khu bệnh viện ở bệnh viện huyện Pa Tew ở tỉnh Chumporn mà những người đàn tín của tôi đặt tên là Tòa nhà Tưởng niệm Tám mươi tám năm Luang Poo Thate Desarangsee và họ đã đóng góp ba triệu baht.

3. An Uposatha Hall at Wat Pah Nah Seedah...

4. A crematorium for Wat Hin Mark...

5. A water treatment plant for Wat Hin Mark...

6. A Shrine Hall and guest kuti at Wat Hin Mark...

Những dự án xây ở Chedi-Museum bây giờ gần hoàn thành.

Glossary  

The words defined in this concise Glossary[236] are mostly either Pali, the language of the Theravada Buddhist scriptures, or Thai.

For Thai measurements, place names, titles etc., also see under that heading.

Aacariya-vat'
(Thai-Pali): Acts of service by a junior monk or novice for his teacher (Ajahn), e.g., supplying drinking and washing water, cleaning his hut or kuti, washing his robes, etc. This is part of the monastic training laid down by the Buddha.
Ajahn
(Thai): Teacher. A respectful title used for senior monks and one's meditation teacher. (Also more generally for university teachers, etc.) See Thai Titles.
Anattaa:
'Not-self', egolessness, one of the three characteristics of all existence. See Ti- lakkha.na.
Aniccaa:
Impermanent, transient, one of the three characteristics of all existence. See Ti- lakkha.na.
Añjali:
Raising the hands, palms together, as a gesture of respect. Grahp: (Thai) bowing from the kneeling position to show high respect.
Arahant:
Worthy one; one who has attained Nibbana.
Asubha:
Meditation on the unbeautiful, 'loathsome', usually ignored, side of the body. Used together with the three characteristics of existence as an antidote for infatuation. Also see Kamma.t.thana kaayagataasati.
Bhavanga:
In Thai used to describe a trance-like meditative state; the mind's underlying resting place. Also see reference in separate glossary to 'Steps Along the Path'.
Bhikkhu:
A Buddhist monk; an alms mendicant.
Brahmacariya:
The Holy life; religious life; strict chastity.
Buddha:
The Awakened One; Enlightened One; usually referring to Siddhattha Gotama after his Enlightenment.
Chedi
(Thai); Cetiya (Pali): Stupa, pagoda, usually a cone shaped monument containing relics.
Chee-pah kao:
One who wears white robes (rather than the yellow robes of monk or novice) and who lives the homeless life under the Eight Precepts. Also see Maer Chee.
Citta
(Pali); jhit, jhit-jai (Thai): Mind; heart.
Dhamma:
The Teachings (of the Buddha); the Truth; the Supramundane; virtue.
dhamma:
Thing; phenomenon; nature; condition.
Dhammayut'( Nikaaya):
One of the two Theravada 'sects' in Thailand. See Appendix C.
Dhaatu:
An element; natural condition; earth, water, fire and wind or air. Dhaatu-khandha (Thai): the body. Taht (Thai): the elemental 'winds', 'humors', physiological processes, from a Thai traditional view point.
Dhutanga:
See Tudong.
Dukkha:
Suffering. See Noble Truths.
Ittarom
(??? Thai); i.t.thaarama.na (Pali): Those four arom or objects that (as far as the world is concerned) are worth wishing for: material gains, rank, praise and pleasure.
Jhaana
: Meditative absorption in a single object. Full concentration. Also see Nirodha- samaapatti.
Kamma
(Pali); Karma (Sanskrit): Intention, volitional speech and action, which can be wholesome, unwholesome or neutral.
Kamma.t.thaana:
(1) 'Working ground' or subject of meditation; the act of meditation. The subjects mentioned in this book are: AAnaapaana-sati: mindfulness of breathing. (Also see A. I. 30,41; Vism. 197); Buddhaanus-sati: recollection of the virtues and qualities of the Lord Buddha. (Also see A. VI, 10, 25; D.33; Vis. VII.) The Thai daily chanting also includes such a recollection; Kaayagataa-sati: mindfulness occupied with the body; contemplation on the 32 impure parts of the body.
Kamma.t.thaana:
(2) This is also used as a general term describing the way of practice of meditation monks originating in the forests of N.E. Thailand.
Ka.thina:
The annual robes-giving ceremony, offered sometime during the month following the Rains Retreat.
Khandha:
Aggregate; category. Refers to each of the five components of human psycho-physical existence: body, feeling, perception, mental-formation, consciousness. For the unenlightened, these form the five groups of clinging for the identification of 'self'.
Kilesa:
Defilements; impurities; impairments. These include: greed, hatred, delusion, conceit, wrong view, doubt or uncertainty, sloth, restlessness, shamelessness, lack of moral concern.
Krot
(Thai): A large umbrella, usually hand-made from bamboo and cloth, used as a forest shelter by hanging a mosquito net from it.
Kuti
(Thai-Pali): A monk's hut or simple shelter. (Often translated here as 'hut'.) However, it can also mean any dwelling place for monks or nuns so in the more established monasteries it might be quite a big structure.
Maer Chee
(Thai): A nun in white robes who keeps either Eight or Ten Precepts. Also see: Chee- pah kao.
Mahamakut Monastic College:
A monk's university based at Wat Bovoranives in Bangkok, which is the central organizing authority for many official Dhamma courses and their examination.
Mahaa-nikaaya:
The older and numerically larger of the two 'sects' of Thai Theravada Buddhism. See Appendix C.
Mondop:
A large, usually square-sectioned monument or building.
Naama (-dhamma):
Mind; name; mental factors; mentality. Also Ruupa-dhamma.
Ñaa.na:
Knowledge; wisdom; insight.
Nekkhamma:
Renunciation; letting go; giving up the world; self-denial. This term is always used in the Pali texts as an antonym to kaama, sensuality.
Nibbaana
(Pali); Nirvana (Sanskrit): The extinction of the fires of greed, hatred and ignorance; the extinction of all defilements and suffering; Liberation; the Unconditioned.
Nikaya:
A grouping or 'sect', which has developed in the Bhikkhu Sangha.
Nimit'
(Thai); Nimitta (Pali): Mark, sign. An image or vision, which sometimes arises in meditation.
Nirodha-samaapatti:
Highest state of concentration possible, where there is a temporary suspension of all consciousness and mental activity. (See the Po.t.thapaada Sutta (D.i.178); Vis. XXIII.) Also Saññaa-vedayita-nirodha.
Noble Truths
(The Four): The briefest synthesis of the entire teachings of Buddhism: The Truth of: (1) Suffering (Dukkha); (2) the Cause, Origin or Source of Suffering (Samudaya); (3) the Cessation or Extinction of Suffering (Nirodha); (4) the Path, the Way, the Noble Eightfold Path (Magga).
Ordination
; Upasampadaa (Pali), Boo-at (Thai): Going Forth; this is the assembled monk's formal acceptance of a candidate-monk into the Community. There is no taking of life- vows. This is therefore different from the Christian 'ordination'.
Pali:
The language of the ancient texts of the Theravaada Canon.
Paaraajika:
The four most serious offenses against the Monk's Discipline (the Vinaya Rule), which automatically causes the offender to fall from being a monk. They are: sexual intercourse, theft, murder and falsely claiming supernormal attainments.
Paaramii
(Paaramitaa): 'Perfection'. Ten qualities leading to Buddha-hood: generosity, morality, renunciation, wisdom, energy, patience, honesty, determination, loving-kindness, and equanimity.
Paa.timokkha:
The fundamental 227 rules observed by monks (bhikkhus). A single monk recites it with the whole Community (of monks) present, every lunar fortnight.
Pavaara.na:
The annual formal assembly for bhikkhus that marks the end of the Rains Retreat; when each monk offers the others the opportunity to admonish him for any transgressions he may have committed.
Rains Retreat
; Pansah (Thai); Vassa (Pali): The annual three month period during the monsoon season — from the full moon (usually) of July to the full moon (usually) of October — when monks are restricted from traveling. It also is the measure of years for a monk or nun.
Ruupa(-dhamma):
Matter; form; material; body; corporeality. See Naama-dhamma.
Sala
(Thai): The usually quite large, open-sided hall used for general meetings or more specific functions.
Samaadhi:
Concentration; one-pointedness of mind; the condition of mind when focussed, centered and still.
Sama.na:
Recluse; holy one; a Buddhist monk; one following the Brahmacariya.
Sa"ngha:
(lit: congregation) (1) Those Noble Ones forming the third of the Three Jewels; (2) the Order of monks.
Sa.nkhaara:
Compounded things, conditioned things, formative factors, determinations.
Sappaaya:
Favorable conditions (for meditation, etc.): suitable abode; suitable location; suitable speech; suitable person (as spiritual companion and teacher); suitable food; suitable climate; suitable posture.
Sati:
Mindfulness; awareness; attentiveness.
Siila:
Virtue; morality; moral conduct; a precept; training rule. See Appendix A.
Siima:
The formally agreed and designated assembly place required for any formal meeting of the Community of monks. In Thailand they mark this area by boundary stones which usually encircle the Uposatha Hall.
Thai:
The author's home language is the Northeastern dialect, which is very close to Laotian. As in English, where many root words come from Greek and Latin, Thai has many that come from Pali and Sanskrit — especially in Buddhist terminology. Some of the following names and titles are therefore Thai-Pali.
Thai Measurements:
Baht: The Thai currency. (25 baht are (1992) worth one US$); Sen: The old Thai unit of distance, equal to 40 metres; Rai: The old Thai unit of area, equal to 1600 sq. metres. (2.53 rai = one acre.)
Thai Place Names:
villages are often named after a local feature of the landscape so: Bahn = Village; Dong = Rain Forest; Nakorn = City; Nah = Field; Nong = Swampy Lake; Phra Bart = Buddha-footprint; Poo = Mountain; Tam = Cave. (Over the years, with the increase in population some villages have become towns and then Districts and then even Provinces.)
Thai Titles:
In Thailand, not using an honorific before the person's name is rude — unless speaking to intimates or children. Hence the large number of 'titles'.
Ajahn
(Thai); Acariya (Pali): Ven. Teacher; Meditation Master. (Also sometimes used as an honorific for school teachers, etc.); Khun (Thai): the equivalent of Mr., Mrs., or Ms.; Phra or Tahn: Venerable, generally used in addressing younger monks; Phra Thera: a senior monk of at least 10 years standing but usually much more; Luang Por (Ven. Father), Luang Poo (Ven. Grandfather): These are both general forms of address to highly venerated Elder monks; Luang Dtah is less respectful. It is often applied to a monk ordained late in life, perhaps after having a family.
Somdet
; Chao Khun; Phra Khru: Officially awarded ecclesiastical titles. As one moves up the hierarchy, so one's title changes and another monk may then receive that same title. This can be confusing, therefore their Thai name is often appended in brackets to differentiate between holders of the same title.
Ti-lakkha.na
: The 'three characteristics of existence' are Impermanency (aniccaa), Suffering (dukkha), and Not-self (anattaa).
Tudong
(Thai); dhutanga (Pali): Often refers to the forest monk's way of life, his wandering through forests and living at the foot of trees. It more literally refers to the 'austere practices' that are 'means of shaking off or removing defilements'. Traditionally (Vism. 59- 83) there are thirteen of these: wearing refuse-rag robes; possessing only the three robes; eating only alms food; on alms round going from house to house; eating only one meal a day; eating only from one's alms bowl; refusing food that comes late; forest dweller's practice; living at the roots of trees; open-air dweller's practice; charnel-ground dweller's practice; any-bed user's practice; sitter's practice (of not lying down).
Uposatha:
Observance Day. Also see Wan Phra.
Uposatha
(Pali); Bot (Thai): In established monasteries there is usually a special Shrine Hall, often with the main Buddha-statue, where all formal Sangha observances are carried out. In forest monasteries more informal arrangements are allowed by the Discipline.
Vinaya:
Monastic Discipline or Rule, which includes the core 227 Paatimokkha rules together with many other ordinances for the right living and harmony of the Community of monks.
Wan Phra:
(Thai): The Observance Day (Quarter-moon Day) or 'Buddhist Sabbath' follows a lunar calender. The villagers of that time would also measure their year in lunar months and days. So, for example, rather than Monday, Tuesday, etc., they would refer to 'the second or third day of the waxing moon'. Also Uposatha.
Wat
(Thai): A monastery or 'temple'.

Từ Điển Pali-Thái-Việt  

Những từ vựng được định nghĩa trong Từ Điển Thuật Ngữ ngắn gọn [236] này hầu hết đều là tiếng Pali, ngôn ngữ của kinh điển Phật giáo Nguyên thủy, hoặc tiếng Thái.

Đối với các đo lường của Thái Lan, địa danh, chức danh, v.v., cũng xem dưới tiêu đề đó.

Người thị giả
(Tiếng Thái-Pali): Một người tu sĩ trẻ hoặc sa di giúp đỡ săn sóc cho vị thầy của mình (Ajahn), chẳng hạn như cung cấp nước uống và giặt giũ, dọn dẹp túp lều hoặc kuti, giặt áo cà sa, v.v. Đây là một phần của khóa đào tạo tu viện từ thời Đức Phật.
Ajahn
(Thai): Giảng Sư. Một danh hiệu tôn trọng được sử dụng cho các nhà sư cao cấp và thiền sư của một người. (Cũng nói chung hơn cho giáo viên đại học, v.v.) Xem Tiêu đề tiếng Thái.
Vô Ngã:
Vô ngã ', vô ngã, một trong ba đặc tính của mọi tồn tại.. See Ti- lakkha.na.
Vô thường:
Vô thường, nhất thời, một trong ba đặc tính của mọi tồn tại. See Ti- lakkha.na.
Chấp tay:
Đưa hai tay lên, lòng bàn tay vào nhau như một cử chỉ tôn trọng. (Thái) cúi đầu từ tư thế quỳ để thể hiện sự tôn trọng cao.
A La Hán:
Bậc Thánh; một người đã đạt được Nibbana.
Bất tịnh:
Bất tịnh—Sự suy gẫm về mười đối tượng ghê tởm của cơ thể, về căn bản giống như sự suy gẫm về nghĩa trang. Được sử dụng cùng với ba đặc tính của sự tồn tại như một liều thuốc giải độc cho sự mê đắm. Cũng thấy Kamma.t.thana kaayagataasati.
Bhavanga:
Trong tiếng Thái được sử dụng để mô tả trạng thái thiền giống như xuất thần; nơi an nghỉ cơ bản của tâm trí. Cũng xem tham chiếu trong bảng thuật ngữ riêng cho 'Các bước dọc theo con đường'.
Bhikkhu:
Một nhà sư Phật giáo; một người tu sĩ khất thực.
Brahmacariya:
Cuộc sống Thánh; đời sống tôn giáo; trinh tiết nghiêm ngặt.
Đức Phật:
Bậc Chánh Đẳng Giác; Bậc Giác Ngộthường đề cập đến Siddhattha Gotama sau khi Ngài thành đạo.
Chedi
(Thai); Cetiya (Pali): Bảo tháp, chùa, thường là di tích hình nón thờ xá lợi.
Chee-pah kao:
Người mặc y trắng (chứ không phải áo vàng của nhà sư hoặc sa di) và sống cuộc sống vô gia cư trì Bát Giới. Also see Maer Chee.
Citta
(Pali); jhit, jhit-jai (Thai): Tâm.
Dhamma:
Giáo Pháp của Đức Phật; Chân Lý ;
Pháp:
Điều kiện; hiện tượng; Thiên nhiên; tình trạng.
Dhammayut'( Nikaaya):
Một trong hai 'tông phái' Theravada ở Thái Lan. Xem Phụ lục C
Dhaatu:
Một yếu tố; điều kiện tự nhiên; đất, nước, lửa và gió hoặc không khí. Dhaatu-khandha (tiếng Thái): cơ thể. Taht (tiếng Thái): nguyên tố 'gió', 'tiếng động', các quá trình sinh lý, theo quan điểm truyền thống của Thái Lan.
Dhutanga:
See Tudong.
Dukkha:
Suffering. See Noble Truths.
Ittarom
(??? Thai); i.t.thaarama.na (Pali): Bốn hương thơm hoặc vật thể đó (trong phạm vi thế giới có liên quan) đáng được ước ao: lợi ích vật chất, thứ hạng, sự khen ngợi và niềm vui.
Jhaana
: Sự thẩm thấu thiền trong một đối tượng duy nhất. Sự tập trung hoàn toàn. xem thêm tại Nirodha- samaapatti.
Kamma
(Pali); Karma (Sanskrit):Ý định, lời nói và hành động có chủ đích, có thể là lành mạnh, bất thiện hoặc trung tính.
Kamma.t.thaana:đề mục để tham thiền
(1) ' Dùng đất làm đề mục' hoặc chủ đề thiền định; hành động thiền định. Các chủ đề được đề cập trong cuốn sách này là: AAnaapaana-sati: chánh niệm về hơi thở. (Cũng xem A. I. 30,41; Vism. 197); Buddhaanus-sati: hồi ức về những đức tính và phẩm chất của Đức Phật. (Cũng xem A. VI, 10, 25; D.33; Vis. VII.) Việc tụng kinh hàng ngày của Thái Lan cũng bao gồm một hồi ức như vậy; Kaayagataa-sati: chánh niệm chiếm giữ thân thể; quán chiếu về 32 phần bất tịnh của cơ thể.
Kamma.t.thaana:
(2) Đây cũng được sử dụng như một thuật ngữ chung mô tả cách thức thực hành của các nhà sư thiền định có nguồn gốc từ các khu rừng của N.E. nước Thái Lan.
Ka.thina:
Lễ Dâng Y hàng năm, được tổ chức vào khoảng thời gian trong tháng sau Khóa An Cư Kiết Hạ.
Khandha: Khanda (p): Uẩn—Năm uẩn—Aggregates.
Tổng hợp; thể loại. Đề cập đến từng thành phần trong số năm thành phần của sự tồn tại tâm lý - vật lý của con người: cơ thể, cảm giác, tri giác, sự hình thành tinh thần, ý thức. Đối với người chưa giác ngộ, những thứ này tạo thành năm nhóm bám víu để xác định 'tự ngã'.
Kilesa: Phiền não
Ô nhiễm; tạp chất; khiếm khuyết. Chúng bao gồm: tham lam, hận thù, si mê, ngã mạn, tà kiến, nghi ngờ hoặc không chắc chắn, lười biếng, bồn chồn, vô liêm sỉ, thiếu quan tâm đến đạo đức.
Krot
(Thai): Một chiếc ô lớn, thường được làm bằng tay từ tre và vải, được sử dụng làm nơi trú ẩn trong rừng bằng cách treo màn chống muỗi lên đó.
Kuti
(Thai-Pali):Túp lều của một nhà sư hoặc nơi trú ẩn đơn giản. (Thường được dịch ở đây là 'túp lều'.) Tuy nhiên, nó cũng có thể có nghĩa là bất kỳ nơi ở nào dành cho các nhà sư hoặc nữ tu sĩ, vì vậy trong những tu viện lâu đời hơn, nó có thể là một công trình kiến trúc khá lớn.
Maer Chee
(Thai): Người nữ tu sĩ mặc áo cà sa trắng giữ Tám hoặc Mười Giới. Also see: Chee- pah kao.
Mahamakut Monastic College:
Trường đại học của một nhà sư có trụ sở tại Wat Bovoranives ở Bangkok, là cơ quan trung ương tổ chức nhiều khóa học Giáo pháp chính thức và kỳ thi.
Mahaa-nikaaya:
Xưa hơn và lớn hơn về số lượng trong hai 'giáo phái' của Phật giáo Nguyên thủy Thái Lan. See Appendix C.
Mondop:
Một đài kỷ niệm hoặc tòa bảo tháp, thường có hình vuông.
Naama (-dhamma):
Tâm; Tên; yếu tố tinh thần; . Also Ruupa-dhamma.
Ñaa.na:
Hiểu biết; trí tuệ; cái nhìn sâu sắc.
Nekkhamma:
Từ bỏ; buông tay; từ bỏ thế giới; sự tự phủ nhận. Thuật ngữ này luôn được sử dụng trong các văn bản Pali như một từ trái nghĩa với kaama, nhục dục.
Nibbaana
((Tiếng Pali); Nirvana (tiếng Phạn): Sự dập tắt các ngọn lửa của tham, sân, si; sự diệt vong của mọi phiền não và đau khổ; Giải phóng; không điều kiện.
Nikaya:
Một nhóm hay 'giáo phái', đã phát triển trong Tăng đoàn Tỳ Kheo..
Nimit:
(Tiếng Thái); Nimitta (Pali): Đánh dấu, ký tên. Một hình ảnh hoặc tầm nhìn, đôi khi nảy sinh trong thiền định..
Nirodha-samaapatti:
Trạng thái tập trung cao nhất có thể, nơi tạm thời đình chỉ mọi hoạt động ý thức và tinh thần. (Xem Po.t.thapaada Sutta (D.i.178); Vis. XXIII.) Cũng là Saññaa-vedayita-nirodha.
Noble Truths
(The Four): Sự tổng hợp ngắn gọn nhất của toàn bộ giáo lý của Đạo Phật: Sự thật về: (1) Khổ (Dukkha); (2) Nguyên nhân, Nguồn gốc hay Nguồn gốc của Đau khổ (Samudaya); (3) Sự Chấm dứt hay Sự Diệt Khổ (Nirodha); (4) Con đường, Con đường, Bát Chánh đạo (Magga).
Ordination
;Upasampadaa (Pali), Boo-at (Thái): Xuất gia; đây là sự chấp nhận chính thức của một tu sĩ vào Cộng đồng tăng chúng. Không có lời thề. Do đó, điều này khác với 'sự phong chức' của Cơ đốc giáo.
Pali:
Ngôn ngữ kinh điển cổ xưa của kinh điển Theravaada.
Paaraajika:
Bốn tội nghiêm trọng nhất đối với Kỷ luật của Tu sĩ (Luật tạng), là nguyên nhân khiến người vi phạm không được xuất gia. Đó là: quan hệ tình dục, trộm cắp, giết người và tuyên bố sai sự thật về những thành tựu thần thông.
Paaramii
(Balamật): 'Ba la mật'. Mười phẩm chất dẫn đến cấp bậc của vị phật "thức tỉnh": 1) xả thí., 2) trì giới, 3) ly dục, 4) trí tuệ, 5) tinh tấn, 6) nhẫn nại, 7) chân thật, 8) chí nguyện, 9) từ ái, 10) hành xả..
Paa.timokkha:
227 quy luật cơ bản được tuân thủ bởi các Tỳ kheo (Tỳ khưu). Một nhà sư duy nhất đọc nó với toàn thể Cộng đồng Tăng chúng (gồm các nhà sư) hiện diện, cứ hai tuần một lần âm lịch.
Pavaara.na:
Đại hội chính thức hàng năm cho các Tỳ khưu đánh dấu sự kết thúc của Khóa An cư Kiết hạ; khi mỗi nhà sư cho những người khác cơ hội để khuyên nhủ một vị tỳ kheo về bất kỳ vi phạm nào mà vị tỳ kheo đó có thể đã phạm phải.
Rains Retreat
; Pansah (Thai); Vassa (Pali): Khoảng thời gian ba tháng hàng năm trong mùa mưa - từ trăng tròn (thường) của tháng bảy đến trăng tròn (thường) của tháng mười - khi các nhà sư bị hạn chế đi lại. Nó cũng là thước đo số năm của một nhà sư hoặc nữ tu.
Ruupa(-dhamma):
Vấn đề; hình thức; vật tư; phần thân; tính xác thực. See Naama-dhamma.
Sala
(Thai): Hội trường thường khá rộng, có mặt thoáng được sử dụng cho các cuộc họp chung hoặc các chức năng cụ thể hơn.
Samaadhi:
Sự tập trung; nhất tâm bất loạn; tình trạng của tâm trí khi tập trung, tập trung và tĩnh lặng.
Sama.na:
Recluse; holy one; a Buddhist monk; one following the Brahmacariya.
Sa"ngha:
(lit: congregation) (1) Those Noble Ones forming the third of the Three Jewels; (2) the Order of monks.
Sa.nkhaara:
Ðiều kiện thiết yếu: Essential condition:
Sappaaya:
Favorable conditions (for meditation, etc.): suitable abode; suitable location; suitable speech; suitable person (as spiritual companion and teacher); suitable food; suitable climate; suitable posture.
Sati:
Mindfulness; awareness; attentiveness.
Siila:
Virtue; morality; moral conduct; a precept; training rule. See Appendix A.
Siima:
The formally agreed and designated assembly place required for any formal meeting of the Community of monks. In Thailand they mark this area by boundary stones which usually encircle the Uposatha Hall.
Thai:
The author's home language is the Northeastern dialect, which is very close to Laotian. As in English, where many root words come from Greek and Latin, Thai has many that come from Pali and Sanskrit — especially in Buddhist terminology. Some of the following names and titles are therefore Thai-Pali.
Thai Measurements:
Baht: Đồng tiền Thái Lan. (25 baht (1992) trị giá một Đô la Mỹ); Sen: Đơn vị Thái Lan cũ về khoảng cách, bằng 40 mét; Rai: Đơn vị diện tích cũ của Thái Lan, bằng 1600 mét vuông. (2,53 rai = một mẫu Anh.)
Thai Place Names:
villages are often named after a local feature of the landscape so: Bahn = Village; Dong = Rain Forest; Nakorn = City; Nah = Field; Nong = Swampy Lake; Phra Bart = Buddha-footprint; Poo = Mountain; Tam = Cave. (Over the years, with the increase in population some villages have become towns and then Districts and then even Provinces.)
Thai Titles:
In Thailand, not using an honorific before the person's name is rude — unless speaking to intimates or children. Hence the large number of 'titles'.
Ajahn
(Thai); Acariya (Pali): Ven. Teacher; Meditation Master. (Also sometimes used as an honorific for school teachers, etc.); Khun (Thai): the equivalent of Mr., Mrs., or Ms.; Phra or Tahn: Venerable, generally used in addressing younger monks; Phra Thera: a senior monk of at least 10 years standing but usually much more; Luang Por (Ven. Father), Luang Poo (Ven. Grandfather): These are both general forms of address to highly venerated Elder monks; Luang Dtah is less respectful. It is often applied to a monk ordained late in life, perhaps after having a family.
Somdet
; Chao Khun; Phra Khru: Officially awarded ecclesiastical titles. As one moves up the hierarchy, so one's title changes and another monk may then receive that same title. This can be confusing, therefore their Thai name is often appended in brackets to differentiate between holders of the same title.
Ti-lakkha.na
:'Ba đặc tính của sự tồn tại' là Vô thường (aniccaa), Khổ (dukkha) và Vô ngã (anattaa).
Tudong
(Tiếng Thái); dhutanga (tiếng Pali): Thường chỉ cho lối sống của một tu sĩ lâm tăng, đi hành cước trong rừng và sống dưới gốc cây. Theo nghĩa đen, là đề cập đến 'các sụ tu khắc khổ' còn gọi là "Hạnh Đầu Đà" là 'phương tiện rũ bỏ hoặc loại bỏ phiền não'. Theo truyền thống (Vism. 59- 83) có mười ba loại tu hạnh đầu đà là: 1) hạnh phấn tảo y , 2) hạnh ba y, 3) hạnh khất thực, 4) hạnh khất thực từng nhà, 5) hạnh nhất tuệ thực, 6) hạnh ăn bằng bát, 7) hạnh không để dành đồ ăn (không nhận đồ ăn sau khi đã ăn xong), 8) hạnh ở rừng, 9) hạnh ở gốc cây, 10) hạnh ở giữa trời, 11) hạnh ở nghĩa địa, 12) hạnh nghỉ chỗ nào cũng xong, 13) hạnh ngồi (không nằm).
Uposatha:
Observance Day. Also see Wan Phra.
Uposatha
(Pali); Bot (Thai):Trong việc thành lập các tu viện luôn có một Điện thờ đặc biệt thường có tượng Phật chính, nơi thực hiện mọi hoạt động nghi lễ của Tăng đoàn. Tại các tu viện trong rừng qui luật cho phép sắp xếp không quá nghiêm khắc hơn.
Vinaya:
Kỷ luật hoặc Quy tắc Tu viện, bao gồm 227 quy tắc Paatimokkha chính yếu cùng với nhiều giáo luật khác vì sự sống đạo đức và hòa hợp của Tăng đoàn.
Wan Phra:
(Thai): Ngày Lễ Quan Trai (Ngày Rằm tháng Tư) hay 'Ngày Sabát của Phật giáo' theo lịch âm. Dân làng thời đó cũng đo năm của họ theo tháng và ngày âm lịch. Vì vậy, ví dụ, thay vì thứ Hai, thứ Ba, v.v., họ sẽ đề cập đến 'ngày thứ hai hoặc thứ ba của mặt trăng tròn'. Also Uposatha.
Wat
(Thai): A monastery or 'temple'.

The Meaning of Anattaa   [237]

Anything fashioned by conditions, whether physical or mental, is called a sa.nkhaara. All sa.nkhaaras are unsteady and inconstant (anicca.m) because they are continually moving and changing about. All sa.nkhaaras are incapable of maintaining a lasting oneness: This is why they are said to be stressful (dukkha.m). No sa.nkhaaras lie under anyone's control. They keep changing continually, and no one can prevent them from doing so, which is why they are said to be not-self (anattaa). All things, whether mental or physical, if they have these characteristics by nature, are said to be not-self. Even the quality of deathlessness — which is a quality or phenomenon free from fashioning conditions, and which is the only thing in a state of lasting oneness — is also said to be not-self, because it lies above and beyond everything else. No one can think it or pull it under his or her control. Only those of right view, whose conduct lies within the factors of the path, can enter in to see this natural quality and remove their attachments to all things — including their attachment to the agent that goes about knowing those things. In the end, there is no agent attaining or getting anything. However natural phenomena behave, that is how they simply keep on behaving at all times.

When meditators practice correctly and have the discernment to see that quality (of deathlessness) as it really is, the result is that they can withdraw their attachments from all things — including their attachment to the discernment that enters in to see the quality as it really is.

The practice of all things good and noble is to reach this very point.

Ven. Phra Ajahn Thate Desarangsee

Ý Nghĩa của Vô Thường  [237]

Bất cứ thứ gì được tạo ra bởi sự kết hợp, dù là vật chất hay tinh thần, đều được gọi là hành (Sankhàra). Tất cả các hành đều không ổn định và thay đổi (vô thường - aniccam) bởi vì chúng liên tục chuyển động và thay đổi. Tất cả các hành đều không có khả năng duy trì sự thống nhất lâu dài: Đây là lý do tại sao chúng được cho là khổ (dukkham). Không ai kiểm soát được các hành. Chúng thay đổi liên tục, và không ai có thể ngăn cản chúng làm như vậy, đó là lý do tại sao chúng được cho là vô ngã (anattaa). Tất cả mọi thứ, dù là tinh thần hay vật chất, nếu chúng có những đặc điểm này về bản chất, được cho là vô ngã. Ngay cả phẩm chất của sự vĩnh cửu - là một chất lượng hoặc hiện tượng không bị ảnh hưởng bởi các điều kiện kết hợp, và là thứ duy nhất ở trạng thái duy nhất lâu dài - cũng được cho là vô ngã, bởi vì nó nằm trên và vượt ra ngoài mọi thứ khác. Không ai có thể nghĩ nó hoặc kéo nó trong tầm kiểm soát của mình. Chỉ những người có chánh kiến, có hạnh kiểm nằm trong các yếu tố của Bát Chánh Đạo, mới có thể đi vào để thấy được phẩm chất tự nhiên này và loại bỏ chấp trước của họ vào mọi sự vật - bao gồm cả chấp trước của họ vào tác nhân dẫn đến hiểu biết những điều đó. Cuối cùng, không có tác nhân nào đạt được hoặc nhận được bất cứ điều gì. Tuy nhiên các hiện tượng tự nhiên hoạt động, đó là cách chúng đơn giản là tiếp tục hoạt động mọi lúc.

Khi các thiền giả thực hành đúng cách và có sự sáng suốt để thấy phẩm chất (bất tử) đó thực sự là như thế nào, thì kết quả là họ có thể buông bỏ chấp trước của mình khỏi mọi sự vật - kể cả chấp trước của họ vào sự phân biệt đi vào để thấy như nó thực sự Là.

Việc tu tập mọi điều tốt và cao quý là đạt đến chính điểm này.

Ven. Phra Ajahn Thate Desarangsee

Notes  

1.
7 # 5 4 [In the traditional Thai calendar: 7 = the seventh day (Saturday); 5 = the fifth lunar month; 4 = the fourth day of the waning moon — JTB]
2.
He finally received the ecclesiastical title of Phra Raja-nirodharangsee
3.
The Buddhist texts were traditionally inscribed in these characters which are of Indo-Cambodian root. See Appendix B.
4.
As opposed to the local Esan or Northeast regional dialect.
5.
A forest fruit abundant in the North-east of Thailand that could be eaten when there was no rice.
6.
See Appendix A.
7.
See Glossary. Thai Measurements.
8.
There are no obligatory life vows for Buddhist monks.
9.
Kamma.t.thaana monks. See Glossary.
10.
The nursery-rice fields are sown by 'broadcast-sowing' and the young seedlings therefore need to be separated and individually replanted in larger, prepared fields. This must all be done by hand with bent back, as each seedling is pushed into the half-flooded paddy fields.
11.
I.e., the basic diet.
12.
Rice planted on upland fields, which is a different strain from that planted in the flooded paddy fields.
13.
The skilled splitting of bamboo and whittling the strips to raffia thinness. Reaping would usually start at dawn, when the dampness keeps the bamboo strips pliable enough to be pulled tightly around the rice sheaf.
14.
The typical cart would have been two-wheeled, with a yoke for a pair of water buffalo. During plowing, one water buffalo at a time would be used to pull the plow through the semi-flooded paddy-fields.
15.
Dukkha Sacca. The term dukkha (suffering) is not limited to painful experience but refers to the ultimate unsatisfactory nature and the general insecurity of all conditioned phenomena which, on account of their impermanence, are all liable to be unfulfilling. This needs great wisdom to see in its true profundity. See Glossary: Noble Truths.
16.
Folk belief spoke of charms, herbs, and magical tattoos that would 'armour' the skin against any weapon.
17.
Occult and magical things.
18.
Ordering others to kill any living creature is a breach of the monastic discipline and of basic Buddhist morality.
19.
Thailand even sent troops, late in 1918, to help the Allies.
20.
Venerable Ajahn Mun (1870-1949), through his impeccable example and skill in teaching others, was mainly responsible for revitalizing the forest tradition in modern Thailand. He taught and trained many disciples who became meditation masters in their own right. Through the purity of their practice and by pointing to the essence of the Buddha's Teachings, they were able to inspire people to cultivate the Buddhist Path throughout Thailand and later overseas. Nowadays, he is considered the 'Father' of the present N.E. Thailand meditation tradition.
21.
Wandering for seclusion through the forest. See Glossary.
22.
pra-kane (Thai): formally offering certain articles, mainly food or medicines, into the hands of the monk.
23.
Concentration. See Glossary.
24.
Walking along the paddy dyke paths.
25.
Huts used by the villagers when out working in their fields, usually just a very simple thatch and bamboo structure raised on posts.
26.
Wat is a monastery or 'temple'.
27.
Lit: the 'going forth', Pabbajaa (Pali); going-forth or 'novice-ordination'. Full 'bhikkhu ordination' requires a minimum age of 20 years.
28.
The Traibhum or Three Worlds, a cosmogony and commentary.
29.
Nak Dhamm'. It has three grades: Grade Three (Nak Dhamm' Dtree), Grade Two (Nak Dhamm' Toh), and the top Grade One (Nak Dhamm' Aek).
30.
See Glossary.
31.
2467 BE.
32.
Siima. See Glossary.
33.
Upajjhaaya: The head monk who presides over the ordination ceremony.
34.
Kammavaacaariya: Another senior monk who recommends the ordination candidate's acceptance into the community of monks.
35.
The month of offering and sewing of robes immediately following the Rains Retreat.
36.
Pali is examined in nine grades. On passing grade three one is given the title Mahaa before one's name.
37.
In those days tudong was uncommon, and some saw it akin to undisciplined vagrancy. A monk's parents might be shocked and ashamed to discover that their son had left on tudong.
38.
Young boys would lodge with a monk, helping him with chores while receiving support and education. This enabled poor boys from villages without schools to come and live in the towns and it formed a route for them to go on to higher education.
39.
Lit: the twelfth [lunar] month.
40.
Probably meaning the making and repair of robes, krot, bowl-stand, etc.
41.
Daily Chanting and Recollection of the Buddha, Dhamma and Sangha.
42.
The jungle at night is very dark and even darker during a storm.
43.
Kuti: (Normally) a very simple hut or dwelling for a monk or nun.
44.
See Appendix C.
45.
Venerable Ajahn Sao Kantasiilo (1860-1942) (pronounced 'Sow') was Venerable Ajahn Mun's original teacher, and together they were the 'Fathers' of the Thai forest meditation lineage.
46.
Sappaaya: See Glossary.
47.
Aegle marmelos: a medicinal, hard shelled fruit, about the size of an orange.
48.
Acariya-vat': these duties form part of the young monk's training. See Glossary.
49.
A title of respect for an elderly lady.
50.
On transferring to the other Nikaya, (Group or 'sect') the counting of seniority starts again. See Glossary and Appendix C.
51.
Saññaa-vipallaasa: delusional derangement.
52.
Paaraajika: meaning he would have to disrobe. See Glossary.
53.
I.e., he claimed enlightenment.
54.
Conditions can be exacerbated by the local jungle's heat and humidity.
55.
He had actually stopped breathing for quite a period, before recovering.
56.
An area of jungle outside the town, set aside for the cremating of dead bodies. Somewhere feared by the residents but favored as a place of solitude by tudong monks.
57.
Dhaatu (Pali) — Taht (Thai): See Glossary.
58.
Pee (Thai) means a ghost or spirit, of which there are many varieties. The pee-um manifests as a suffocating feeling or a kind of nightmare, as if a ghost is sitting astride one's chest.
59.
Country folk inevitably hunted in the jungles and fished in the floods.
60.
Pogostemon patchouli: from which camphor-like crystal smelling salts are made.
61.
'Subconsciousness'. See Glossary.
62.
Nirodha-samaapatti. See Glossary.
63.
Ayatana: the eyes, ears, nose, tongue, touch and mind 'doors'.
64.
[Iddhi-]patiharn (Thai): psychic powers and such like.
65.
Before entering, the determination is made to withdraw after a certain length of time.
66.
Jhaana: full concentration on a single object. See Glossary.
67.
Saññaa-vedayita-nirodha (also called nirodha-samaapatti); magga, phala, nibbana; jhaana- samaapatti
68.
Lit: ghost or demon realms; i.e., those of blame and doubt. The previous paragraphs and hypothetical questions are phrased this way to forestall any criticism that the author, by even bringing up such profound subjects, might be seen as hinting about his own attainments.
69.
This lacuna appears in the original, probably meaning that it is better to go no further into the matter.
70.
Chee-pah kao: A layman who lives the homeless life under Eight Precepts, wearing white robes rather than the saffron robes of a monk or novice. See Appendix A.
71.
A folk belief that any sudden or extraordinary abundance was an omen of approaching death.
72.
Lit: dhaatu-khandha and aayatana.
73.
Luang Dtah: See Thai Titles in Glossary. Mun is a given name and this is not the same person as the famous meditation master.
74.
[sic] Master or Mister, not Venerable.
75.
In those days, monks who were able to live unharmed in remote, 'demon-infested' caves and jungles were held in superstitious awe.
76.
The traditional Pali phrases start with: "Araha.m sammaa sambuddho... ".
77.
Monks who have committed a paaraajika offence are barred.
78.
There are no life vows for Buddhist monks. Badly practicing monks, especially those who have broken the paaraajika offenses, can tarnish the whole Community. A monk guilty of such an offence — in this case, falsely claiming to be an arahant — is automatically no longer considered a monk even though he may still be wearing robes.
79.
To Thai ears, the cock normally crows: "aek-ee-aek-aekkk". But Luang Dtee-a now heard: "jhit-jao- pen-aek," where aek means one.
80.
'Dtook-gaer' is the Thai name for the gecko-lizard, and for its cry; 'dtoo-a -jow-gaer-laew' is its new message, where gaer means old.
81.
Described following a famous Thai literary mountain-maze.
82.
Dtai (Thai): the old style torch made from crumbly, rotten wood particles, compressed in an inflammable resin and bound in leaves in a long cylinder.
83.
According to the monk's discipline, water has to be filtered of all living creatures before use.
84.
Wan Phra: The Buddhist 'Sabbath', which falls on the full, new and quarter moons.
85.
This would break the monk's and nun's Precepts.
86.
Often employed in exorcising 'demon-possession'. The villagers still had many animist beliefs.
87.
In the days before motorized rice mills, each house would have a stamp mill. The 'mortar' would usually be a partially hollowed out tree trunk into which the unhusked rice would be fed by one person, while another person worked the pestle. This was pivoted on a long pole so that stepping with all one's weight on one end would lift the heavy pestle up at the other end. Stepping off, the pestle would fall on and pound the husks from the rice. Collecting water from the village well and pounding the rice were daily chores.
88.
An 'adept' initiated into some occult power. It could be concerned with medicines, black magic, hunting powers, or, in this case, invulnerability. It was believed that certain ritualistic rules secretly received from the teacher had to be strictly observed in order for the spells and 'gifts' to keep on working.
89.
I.e., reversing or inverting the normal act of respect. Feet are considered unmentionably low and contemptible in polite Thai society. The author adds his apologies in parentheses for even mentioning the matter!
90.
A power object, an amulet or charm.
91.
Wat Pah Salawan. The rail line had not then been extended to Udorn-thani and Nongkhai.
92.
A constitutional monarchal style of democracy.
93.
Lit: great convergence.
94.
Asubha. See Glossary.
95.
Nakorn Wiang-jan (Thai-Lao): then the French colonial capital of Laos.
96.
The ancient northern Lao capital, Nakorn Luang = Capital City.
97.
The River Mekong is a great river, but the volume of water rapidly declines after the Monsoon so that massive 'island' sand banks are exposed.
98.
A famous statue of the Buddha, after which the city is named.
99.
The river usually forms the border between Laos and Thailand except for this stretch, where both banks belong to Laos.
100.
The traditional medicines from the Buddha's time were often pickled in (cow's) urine.
101.
Buses or trains were rarely available.
102.
Probably the scholastic monks.
103.
As the author explains at the end of this section, this is aimed mainly at monks (and celibates) and should be understood in that context. The special Thai vocabulary for monks is sometimes used and this makes close translation difficult.
104.
Celibate life. See Glossary.
105.
Mahaa-niyom was originally the verse (gaathaa), 'mettaa-mahaa-niyom'. This then became an idiom, meaning that someone is attractive or charming, having charisma, perhaps by using an occult spell to make one desirable to others.
106.
Unfortunately, it is still very much the case that ordination for men is much more widely supported and therefore more easily accomplished.
107.
According to the monastic discipline, a monk or nun cannot be alone with the opposite sex and always needs a chaperon.
108.
There is a tradition in Thailand that every young man should ordain for a certain period — here are no life vows for a mon — which shows his 'maturity', after that he may marry. Therefore monks, in some quarters, may be considered desirable future partners.
109.
Cousin of the Buddha and personal attendant, renowned for his memory of the Buddha's discourses.
110.
Ittarom. See Glossary.
111.
Fully-ordained Buddhist nun. This eminent disciple of the Buddha, Ayya Upalava.n.na, was an arahant and foremost in psychic powers amongst women.
112.
I.e., by not indulging in sensual pleasures but turning to examine their effect on the mind, one can transcend them. Thus there is neither indulgence, nor repression but the middle path of restraint and insight.
113.
Lit: of the samana (recluse, lit: 'the peaceful one' ) gender. (In Thai there are three genders: male, female and samana.)
114.
A Thai pun: to mould or fashion = pan; fist = kam-pan.
115.
According to the monastic Rule, monks are strictly prohibited from accepting money, gold and silver.
116.
Craving for and indulgence in pleasurable experience arising from the five senses.
117.
The Shan States and Burma are mainly Buddhist; many of the hill tribes are Buddhist(-animist).
118.
This area of Burma was home to many ethnic groups: Shan, Mon, Karen etc., and it was still under British colonial rule.
119.
Lit: the Japanese War.
120.
The familiar name of Piboon Songkram, who headed the Thai government at that time.
121.
One of the highest in Thailand, over 2,000 metres.
122.
Muntiacus muntjak are quite small in size, have a barking cry when alarmed, and are normally very shy.
123.
Ang-sa: (Thai) the long, narrow rectangular piece of yellow cloth, worn across the left shoulder beneath the monk's robe.
124.
An ordinary candle protected from the wind by a cylinder of cloth. Normally used by forest monks.
125.
Monks on tudong would carry a bag with bowl and spare robes over one shoulder while the other shoulder was balanced with a small bag and krot.
126.
Acacia insuavis (Leguminosae).
127.
Mi-ang is the fermented tea leaf, so this would be an area of tea bush plantation, quite high up in the mountains.
128.
Ti-lakkha.na: impermanence; suffering; not-self. See Glossary.
129.
Lit: 300 sen.
130.
Buddhaanussati: See Kamma.t.thaana: in Glossary.
131.
The different hilltribe groups have their own distinct languages, mostly quite different from Thai. In those days with no schools, most people would not be able to speak Thai.
132.
See Glossary. ('Body and mind-concomitants'.)
133.
Lit: "would have made for a lot of fun." A euphemistic way of saying that he might have become unbalanced.
134.
A monk depends on the generosity and goodwill of the lay people for his alms food. If there are many villagers, however poor, each will only be required to contribute a small portion. If there are too few families, unless specifically invited, a monk may feel reluctant to stay there so as not to impose on them.
135.
For Thais, rice is the staple at every meal. In Thai, 'to eat' literally is 'to eat rice'.
136.
Wild yams, taros and other potato-type tubers were widely found and eaten throughout Northern Thailand. In the North-east of Thailand, they were considered more a famine food, glutinous rice being very much the staple.
137.
Attakilamathaanuyoga. See (Sam. LVI. 11).
138.
Colocasia antiquorum Aroideae, the coco-yam or taro.
139.
Pai is a playing or gambling card; too-ah and be-er are gambling games using cowrie shells.
140.
Lit: 'to lay down forest cloth.' In the Lord Buddha's time, the monks would collect discarded cloth to wash and sew together into 'rag-robes'. Tort phah pah continues this tradition, sometimes by offering the cloth with a leafy branch resting on it, sometimes by actually laying out the cloth in the bushes where the monk would pass.
141.
Lit: 'hot-hearted', i.e., impatient for quick results.
142.
Pee dtong leeung: where pee is spirit or ghost; dtong is a large (banana) leaf; leeung is yellow. This tribe is also called the Marabi, an ethnic group of North Thailand.
143.
In the Shan States of Burma.
144.
Kan-dtok and kan-pahn: types of large raised trays on pedestals.
145.
Generally, Thais are very modest about such things.
146.
Unlike other parts of Thailand where snakes are sometimes eaten, and meat and fish may be only half-cooked or raw
147.
Of the sack- or upas-tree, Antiaris toxicaria (Urticaceae).
148.
Slaves were commonplace up until the late nineteenth century.
149.
Anusaya-kilesa: seven unwholesome latent defiling tendencies or inclinations of the mind: sensuality; grudge; speculative opinions; doubts; conceit; craving for continued existence; ignorance. Fear falls in the realm of the last three.
150.
Vaasanaa-nisai. He was praised by the Buddha as being foremost in wisdom and ability to expound on the Dhamma. (Although some other individual traits were also remarked upon.)
151.
Phra Sammaa Sambuddha Chao who has fulfilled all the Perfections (paaramii: See Glossary) and thereby perfected his whole character and transcended all personality traits.
152.
A laywoman devotee.
153.
Jhaana: there are eight levels of absorption concentration depending on the refinement of the meditation.
154.
Pubbe-senha-sannivaasa: a Pali-Thai word pointing to the power of remembering former births, specifically one's former partner.
155.
The leader and personification of evil forces.
156.
paaramii. See Glossary.
157.
khun (Thai). There are plays on words here difficult to convey in English.
158.
Kaama-khun (Thai); in Pali (kaama-gu.na) means 'the cords (or strands) of sensuality'. (See D.33; M.13, 26, 59, 66).
159.
Nekkhamma (Pali): renunciation. This term is always used in the Pali texts as antonym to kaama.
160.
A hollow section of large bamboo gives a deep resonant sound, often used in the villages for signalling, almost like a drum.
161.
Austere practices. See Tudong in Glossary.
162.
Abhiññaa: psychic powers; divine ear; reading the minds of others; remembering past lives; divine eye; knowledge of liberation of the mind.
163.
Ti-lakkha.na. See Glossary.
164.
Lokiiya-abhiññaa; lokiiya-jhaana: mundane psychic powers and absorption-concentration of the unenlightened being.
165.
A cousin of the Lord Buddha, who originally had mundane psychic powers but through jealousy and ambition eventually tried to kill the Buddha and subsequently lost them.
166.
An ancient, devoutly Buddhist people, once powerful in present day Burma and Thailand, now an ethnic minority group in both countries.
167.
Ti-sara.nagamana: Taking refuge in the Buddha, Dhamma and Sangha.
168.
Now the main Dhammayut' monastery in the town of Udorn-thani.
169.
In Thailand, this is traditionally considered a very inauspicious dream.
170.
An annual ceremony where the villagers present offerings to the monks to make merit for the dead, while the distribution of the gifts is done by drawing lots.
171.
Dhamma-osot (Thai): To cure sickness through the practice of Dhamma, using the healing power of virtue and meditation.
172.
Not to be confused with the more famous Ajahn Mahaa Pin Paññaabalo mentioned earlier.
173.
The Northeast region is generally regarded as the poorest part of Thailand. It is also the driest and most infertile so that many people had to go off and work as laborers in the other regions of Thailand when there was no work in the fields.
174.
See Appendix C for background to this tension.
175.
This whole area was rich in tin deposits. Dta-gooa Toong means Field of Tin while Tai Muang means Behind the Mine.
176.
A monk's 'ordination' is registered and details entered in a small identification book. This is the equivalent of the ordinary Thai citizen's I.D. card.
177.
Historically, education had started in the local monastery. As the bureaucracy developed, so monastic affairs were subsumed under the Education Ministry.
178.
Aesop's Fables are taught in Thai elementary schools.
179.
nipa fruiticans.
180.
About two acres. See Glossary: Thai measurements.
181.
Upajjhaaya: is a senior monk who is certified to conduct ordinations, etc.
182.
I.e., some donors wanted it to be used specifically for Ven. Ajahn Thate's personal use, rather than for general use.
183.
Lit: "falling? — rising?". This refers to concentrating on the abdominal movements from breathing.
184.
Thai idiom, meaning 'without advertising'. This development is significant because it shows the gradual acceptance by the central authorities of the Kammatthana Forest tradition.
185.
'Phra Raja-tahn Samanasak', which is conferred by the king. See Thai Titles in Glossary.
186.
'Phra Raja-tahn Samanasak Phra Raja-kana-sahman Fai Vipassanaa. Addressed as 'Chao Khun'.
187.
Where Arañña means 'forest'.
188.
Loka-dhamma: gain and loss; honor/prominence and dishonor/obscurity; happiness and misery; praise and blame. (Vis. XXII); cp. (A.VIII, 5).
189.
It is in the Poo Pahn range, with heights of over 300 metres.
190.
Wild boar were common in jungle monasteries until quite recent times. They have a reputation for dauntlessness, agility, toughness and the ability to eat virtually anything.
191.
Hin Mark Peng is the name for some huge rocks on the bank of the River Mekong.
192.
This refers to the traditional design, being raised off the ground on posts, with a high peaked, steeply angled roof (for better rain run-off during the monsoon season). 'Hut' is here the normal translation of kuti however this can be any-sized dwelling for monks or nuns.
193.
This exemplifies the author's wish to show appreciation for such good works. As specific names and costs are not as meaningful for non-Thai readers, the author has given permission for future passages to be simplified which is indicated by ellipses...
194.
Collecting water from the roof, mainly for drinking during the long, hot dry season.
195.
A long, low boat with an extended propeller shaft.
196.
I.e., the full specified three months were not completed.
197.
Thinking that he might have seen the future winning numbers in his meditation.
198.
Thailand has always been open to missionaries. The Thai king is Buddhist but protects all religions.
199.
Buddhism declined from being a major religion in India for many reasons: The Muslim invasions from the North-west, the Hindu resurgence and a probable decline in Dhamma practice. The famous Buddhist 'temple' in Bodh' Gaya became a Hindu temple until this century, when a 'Buddhist revival' has led to its restoration.
200.
Place of the Buddha's Birth, Enlightenment, First Dhamma Teaching and Final Passing Away.
201.
Bangkok is the western name, in Thai it is 'Krung Thep' or City of Angels.
202.
People who have realized the first of the four stages of enlightenment.
203.
I.e., rather than the underlying problems being class and capital, they are greed, aversion and delusion.
204.
Compare with Bangkok!
205.
Lit: like playing the flute to a water buffalo. Like 'pearls before swine', perhaps.
206.
In accordance with Thai good manners.
207.
The ellipses in this paragraph are in the original.
208.
Meditative absorption on an object.
209.
Quoting some teachings of the Buddha.
210.
Nirandorn means 'eternity'.
211.
Meditative absorption on a non-material object
212.
When Prince Siddhattha Gotama went forth from his palace into the homeless life, these were his first teachers whom he then surpassed. See the Ariyapariyesena Sutta [M.I.163-166].
213.
The former capital of Siam between 1569-1767, when it was destroyed by invading Burmese forces.
214.
'Pucchavipassana Dhamma Nai Dtang Pratate'; 'Prawat Cheewit Karn Pai Dtang Pratate'. No English translation is available. ??? include Thai titles ???
215.
Durio zibethinus (Malvaceae). The durian is generally highly prized and one of the most expensive fruits. There is a skill to splitting it open without spoiling the succulent fruit inside.
216.
This includes generosity, morality, right livelihood and meditation.
217.
Vatacakra (Thai); va.t.tacakka (Pali).
218.
Becoming monks for a short period.
219.
Lit: children and grandchildren.
220.
For more details see Appendix D.
221.
See Glossary.
222.
See Section 28.1.
223.
Sankhaara. See Glossary.
224.
Volitional action. See Glossary.
225.
The preta or realm of hungry ghosts; avicii is one of the most painful hells. But note that no realm is eternal for all are conditioned by one's deeds or kamma.
226.
See the following section for the venerable author's own passing and funeral.
227.
Based on "A Disciple's Notes" in a Thai language memorial publication: ???
228.
See Section 29 above.
229.
In Thailand, the bodies of important people will be preserved for a certain time to allow suitable arrangements to be prepared and for people to come and pay their last respects. Two of Venerable Ajahn Thate's prominent supporters had also already built a crematorium and chedi at Wat Hin Mark Peng.
230.
Recommended by the Buddha himself.
231.
This had been added by the translator for those unfamiliar with the Buddhist Precepts. They are mentioned throughout the text.
232.
Included as an addition at the back of the original Thai edition of the Autobiography.
233.
Thai Law has special regulations about such things.
234.
In the traditional Thai architectural style.
235.
In Thailand, one's birth-year accords with the name of an animal and a number. There are twelve animals in the cycle and ten numbers, which means both cycles come full circle at age 60. It is considered an especially significant birthday.
236.
Another Glossary specifically for Steps along the Path follows that work.
237.
Translated from the Thai by Thanissaro Bhikkhu.

Notes  

1.
7 # 5 4 [In the traditional Thai calendar: 7 = ngày thứ Bảy (Saturday); 5 = ngày thứ năm của tháng âm lịch; 4 = ngày thứ tư của tuần trăng khuyết — JTB]
2.
Cuối cùng ông đã nhận được danh hiệu giáo hội của Phra Raja-nirodharangsee
3.
Các văn bản Phật giáo theo truyền thống được ghi trong những ký tự này có nguồn gốc Ấn-Campuchia. Xem Phụ lục B..
4.
Trái ngược với phương ngữ khu vực người Esan là dân tộc ở miền nàm Nigeria hoặc Đông Bắc địa phương .
5.
Một loại trái cây rừng phong phú ở phía đông bắc Thái Lan có thể ăn được khi không có gạo.
6.
Xem Phụ Lục A.
7.
Xem phần từ vựng. Đo lường Thái Lan.
8.
Không có giới hạn bắt buộc nào đối với các nhà sư Phật giáo.
9.
Kamma.t.thaana monks. See Glossary.
10.
Các cánh đồng lúa mạ được gieo bằng phương pháp 'gieo sạ phát sóng' và các cây con non do đó cần được tách ra và trồng lại riêng lẻ trên các cánh đồng lớn hơn, đã chuẩn bị sẵn sàng. Tất cả việc này người ta phải cúi cong người xuống cắm cây lúa bằng tay, vì mỗi cây con được đẩy xuống ruộng ngập nước.
11.
I.e., the basic diet.
12.
Lúa trồng trên vùng cao như đồi khác với giống lúa trồng trên ruộng ngập nước.
13.
Kỹ thuật chẻ tre và vót các dải tre để tạo độ mỏng. Việc gặt thường bắt đầu vào lúc bình minh, khi độ ẩm giữ cho các dải tre đủ dẻo để được kéo chặt quanh bẹ lúa.
14.
Một loại xe cày điển hình sẽ là xe hai bánh, với một cái chạc cho một đôi trâu nước. Trong quá trình cày, mỗi lần con trâu sẽ được sử dụng để kéo cày qua những cánh đồng ngập nước phân nửa ruộng.
15.
Dukkha Sacca. Thuật ngữ dukkha (đau khổ) không chỉ giới hạn trong kinh nghiệm đau đớn mà đề cập đến bản chất không thỏa mãn và sự bất an chung của tất cả các hiện tượng của các hành, do tính chất vô thường của chúng, tất cả đều có tánh chất không hài lòng. Điều này cần sự tác ý khôn khéo để nhìn thấy sự sâu sắc thực sự của nó. Xem Chú giải thuật ngữ: Tứ Diệu Đế.
16.
Niềm tin dân gian nói về bùa chú, thảo mộc và những hình xăm ma thuật có thể 'tạo áo giáp' cho da chống lại bất kỳ vũ khí nào.
17.
Những điều huyền bí và kỳ diệu.
18.
Ra lệnh cho người khác giết bất kỳ sinh vật sống nào là vi phạm kỷ luật tu viện và đạo đức cơ bản của Phật giáo.
19.
Thậm chí Thái Lan còn gửi quân đội, vào cuối năm 1918, để giúp Đồng minh.
20.
Hòa thượng Ajahn Mun (1870-1949), qua tấm gương hoàn hảo và kỹ năng giảng dạy người khác của Ngài, Ngài chịu trách nhiệm chính trong việc hồi sinh truyền thống Lâm Tăng ở Thái Lan hiện đại. Ngài đã giảng dạy và đào tạo nhiều đệ tử trở thành thiền sư theo đúng nghĩa của họ. Thông qua sự thanh tịnh thân và ý trong sự thực hành của họ và bằng cách chỉ vào thực tính của Lời dạy của Đức Phật, họ đã có thể truyền cảm hứng cho mọi người tu luyện Con đường Phật giáo trên khắp Thái Lan và sau đó là ở nước ngoài. Ngày nay, Ngài được coi là 'Cha đẻ' của N.E hiện tại. Truyền thống thiền của Thái Lan.
21.
Sống ẩn dật trong rừng.. See Glossary.
22.
pra-kane (Thai): cách thức dâng một số vật phẩm, chủ yếu là thức ăn hoặc thuốc men vào tay nhà sư.
23.
Concentration. See Glossary.
24.
Đi bộ dọc theo con đê lúa.
25.
Túp lều được dân làng sử dụng khi đi làm rẫy, thường chỉ là một mái tranh rất đơn sơ bằng tre dựng trên cột.
26.
Wat nghĩa là tu viện hay chùa.
27.
Lit: 'Xuất gia', Pabbajaa (Pali); xuất gia hoặc 'thọ giới sa di'. 'Truyền giới Tỳ khưu' đầy đủ đòi hỏi độ tuổi tối thiểu là 20 tuổi.
28.
Traibhum hay Three Worlds, một nghiên cứu vũ trụ và bình luận.
29.
Nak Dhamm'. It has three grades: Grade Three (Nak Dhamm' Dtree), Grade Two (Nak Dhamm' Toh), and the top Grade One (Nak Dhamm' Aek).
30.
See Glossary.
31.
2467 BE.
32.
Siima. See Glossary.
33.
Upajjhaaya: Sư trưởng chủ trì lễ xuất gia..
34.
Kammavaacaariya:Một tu sĩ cao cấp khác là người đề xuất sự chấp nhận của ứng viên xuất gia vào cộng đồng các nhà sư.
35.
Tháng cúng dường và may áo cà sa ngay sau Khóa An cư Kiết hạ.
36.
Lớp học tiếng Pali có chín lớp. Khi vượt qua lớp ba, một người được đặt danh hiệu Mahaa trước tên của người đó.
37.
tudong không phổ biến trong thời gian đó, và một số người xem nó giống như sự sống vô kỷ luật. Cha mẹ của một nhà sư có thể kinh ngạc và xấu hổ khi phát hiện ra rằng con trai của họ đã bỏ đi tu khổ hạnh (tudong).
38.
Các cậu bé thường đến ở với một nhà sư, giúp ông ta làm việc nhà trong khi nhận được sự hỗ trợ và giáo dục. Điều này tạo điều kiện cho những cậu bé nghèo từ những ngôi làng không có trường học có thể đến và sống trong thị trấn và nó đã hình thành con đường cho các em học lên cao hơn.
39.
Lit: tháng mười hai [âm lịch].
40.
Có lẽ có nghĩa là làm và sửa chữa áo càsa, lều, cái giá đựng bình bát, v.v.
41.
Tụng kinh hàng ngày và hồi tưởng về Đức Phật, Pháp và Tăng.
42.
Khu rừng vào ban đêm rất tối và khi có bão thì càng tối hơn.
43.
Kuti: (Thông thường) một túp lều hoặc nơi ở rất đơn giản cho một tu sĩ hoặc nữ tu sĩ.
44.
See Appendix C.
45.
Hòa thượng Ajahn Sao Kantasiilo (1860-1942) (đọc là 'Sow') là thầy ban đầu của Hòa thượng Ajahn Mun, và cùng là 'Tổ phụ' của dòng thiền Lâm Tăng Thái Lan.
46.
Sappaaya: See Glossary.
47.
Aegle marmelos: một loại quả dược liệu, có vỏ cứng, kích thước bằng một quả cam..
48.
Acariya-vat': những nhiệm vụ này là một phần của việc đào tạo tu sĩ trẻ. Xem Bảng chú giải thuật ngữ
49.
Một danh hiệu tôn trọng dành cho một phụ nữ lớn tuổi.
50.
On transferring to the other Nikaya, (Group or 'sect') the counting of seniority starts again. See Glossary and Appendix C.
51.
Saññaa-vipallaasa: rối loạn tinh thần.
52.
Paaraajika: nghĩa là Ngài sẽ phải cởi bỏ áo cà sa. Xem Bảng chú giải thuật ngữ.
53.
I.e., he claimed enlightenment.
54.
Conditions can be exacerbated by the local jungle's heat and humidity.
55.
Anh ta thực sự đã ngừng thở trong một thời gian khá dài, trước khi hồi phục..
56.
An area of jungle outside the town, set aside for the cremating of dead bodies. Somewhere feared by the residents but favored as a place of solitude by tudong monks.
57.
Dhaatu (Pali) — Taht (Thai): See Glossary.
58.
Pee (Thai) Pee (tiếng Thái) có nghĩa là ma hoặc linh hồn, có nhiều loại. Biểu hiện như một cảm giác ngột ngạt hoặc một loại ác mộng, như thể một con ma đang ngồi trước ngực của một người.
59.
Country folk inevitably hunted in the jungles and fished in the floods.
60.
Pogostemon patchouli: từ băng phiến có mùi tinh thể giống long não được tạo ra.
61.
'Subconsciousness'. See Glossary.
62.
Nirodha-samaapatti. See Glossary.
63.
Ayatana: the eyes, ears, nose, tongue, touch and mind 'doors'.
64.
[Iddhi-]patiharn (Thai): psychic powers and such like.
65.
Before entering, the determination is made to withdraw after a certain length of time.
66.
Jhaana: là tập trung hoàn toàn vào một đối tượng duy nhất. See Glossary.
67.
Saññaa-vedayita-nirodha (also called nirodha-samaapatti); magga, phala, nibbana; jhaana- samaapatti
68.
Lit: cõi ma hoặc quỷ; tức là những điều đáng trách và nghi ngờ. Các đoạn trước và các câu hỏi giả định được diễn đạt theo cách này để ngăn chặn bất kỳ lời chỉ trích nào mà tác giả, bằng cách đưa ra các chủ đề sâu sắc như vậy, có thể được coi là ám chỉ về thành tựu của chính mình.
69.
Chiếc lacuna này xuất hiện trong bản gốc, có lẽ có nghĩa là tốt hơn hết là đừng đi sâu vào vấn đề.
70.
Chee-pah kao: Một cư sĩ thọ Bát Giới, mặc áo cà sa màu trắng của cư sĩ chứ không phải áo cà sa của một tu sĩ hay sa di. Xem Phụ lục A.
71.
Một niềm tin dân gian rằng bất kỳ sự dồi dào đột ngột hoặc bất thường nào là điềm báo của cái chết đang đến gần.
72.
Lit: dhaatu-khandha and aayatana.
73.
Luang Dtah: Xem Tiêu đề tiếng Thái trong Bảng chú giải thuật ngữ. Mun là một cái tên đã được đặt sẵn và người này không phải là vị thiền sư nổi tiếng..
74.
[sic] Master or Mister, not Venerable.
75.
In those days, monks who were able to live unharmed in remote, 'demon-infested' caves and jungles were held in superstitious awe.
76.
Truyền thống Pali bắt đầu với: "Araha.m sammaa sambuddho... ".
77.
Monks who have committed a paaraajika offence are barred.
78.
There are no life vows for Buddhist monks. Badly practicing monks, especially those who have broken the paaraajika offenses, can tarnish the whole Community. A monk guilty of such an offence — in this case, falsely claiming to be an arahant — is automatically no longer considered a monk even though he may still be wearing robes.
79.
Đối với của người Thái, gà thường gáy: "aek-ee-aek-aekkk". Nhưng Luang Dtee-a lại nghe: "jhit-jao- pen-aek," trong đó aek có nghĩa là một.
80.
'Dtook-gaer' is the Thai name for the gecko-lizard, and for its cry; 'dtoo-a -jow-gaer-laew' is its new message, where gaer means old.
81.
Được mô tả theo một văn học nổi tiếng của Thái Lan.
82.
Dtai (Thái): ngọn đuốc kiểu cũ được làm từ những mảnh gỗ mục nát, mục nát, được nén trong một loại nhựa dễ cháy và buộc trong lá thành hình trụ dài.
83.
Theo quy luật của nhà sư, nước phải được lọc sạch tất cả các sinh vật sống trước khi sử dụng.
84.
Wan Phra: 'Ngày Bát Quan Trai Giới' của Phật giáo, rơi vào các trăng tròn, ngày đầu tháng và ngày mùng 8, ngày 24.
85.
Điều này sẽ phá vỡ Giới luật của tu sĩ và nữ tu sĩ.
86.
Thường được sử dụng để trừ tà 'quỷ ám'. Dân làng vẫn có nhiều niềm tin về vật linh.
87.
Trước kia khi có nhà máy xay lúa, mỗi nhà sẽ có một cái cối xay nghiền gạo thành bột. 'Cái cối' thường là một thân cây rỗng một phần để người ta cho gạo chưa xay vào đó, trong khi một người khác giã chày. Cái này được quay trên một cái sào dài để việc đạp bằng toàn bộ trọng lượng của một người vào một đầu sẽ nâng chiếc chày nặng lên ở đầu kia. Khi người đó bước ra, cái chày sẽ rơi xuống và đập trấu ra khỏi gạo. Lấy nước giếng làng và giã gạo là những công việc hàng ngày.
88.
Một 'lão luyện' đã bắt đầu tạo ra một sức mạnh huyền bí nào đó. Nó có thể liên quan đến thuốc men, ma thuật đen, sức mạnh săn bắn, hoặc trong trường hợp này là khả năng bất khả xâm phạm. Người ta tin rằng một số quy tắc nghi lễ bí mật nhận được từ giáo viên phải được tuân thủ nghiêm ngặt để các phép thuật và 'quà tặng' tiếp tục hoạt động.
89.
Tức là đảo ngược hoặc đảo ngược hành động tôn trọng thông thường. Bàn chân được coi là thấp và khinh thường trong xã hội lịch sự Thái Lan. Tác giả thêm lời xin lỗi của mình trong ngoặc đơn vì đã đề cập đến vấn đề này!
90.
Một vật quyền năng, một bùa hộ mệnh hoặc bùa chú.
91.
Wat Pah Salawan. Tuyến đường sắt vẫn chưa được mở rộng đến Udon-thani và Nong Khai..
92.
Một phong cách dân chủ quân chủ lập hiến..
93.
Lit: sự tập trung tuyệt vời.
94.
Asubha. See Glossary.
95.
Nakorn Wiang-jan (Thai-Lao): Thủ đô Lào thời đó là thuộc địa của Pháp .
96.
Cố đô Lào capital, Nakorn Luang = Capital City.
97.
Sông Mekong là một con sông lớn, nhưng thủy triều giảm nhanh chóng sau Gió mùa khiến các bờ cát như hòn đảo khổng lồ lộ ra.
98.
Một bức tượng nổi tiếng của Đức Phật, sau đó thành phố được đặt tên.
99.
Con sông này thường tạo thành biên giới giữa Lào và Thái Lan, ngoại trừ đoạn này, nơi cả hai bờ đều thuộc về Lào.
100.
Các loại thuốc cổ truyền từ thời Đức Phật thường được ngâm trong nước tiểu của con (bò).
101.
Xe buýt hoặc xe lửa hiếm khi có sẵn.
102.
Có thể là các nhà sư ở trường học thường nên không biết Ngài
103.
Như tác giả giải thích ở phần cuối này, điều này chủ yếu nhắm vào các tu sĩ (và những người độc thân) và nên được hiểu trong bối cảnh đó. Từ vựng tiếng Thái đặc biệt dành cho các nhà sư đôi khi được sử dụng và điều này làm cho việc dịch sát nghĩa trở nên khó khăn..
104.
Celibate life. See Glossary.
105.
Mahaa-niyom was originally the verse (gaathaa), 'mettaa-mahaa-niyom'. Điều này sau đó đã trở thành một thành ngữ, có nghĩa là ai đó hấp dẫn hoặc quyến rũ, có sức thu hút, có lẽ bằng cách sử dụng một câu bùa chú huyền bí để khiến một người trở nên hấp dẫn đối với người khác.
106.
Thật không may, vẫn còn rất nhiều trường hợp rằng việc truyền giới cho nam giới được ủng hộ rộng rãi hơn nhiều và do đó dễ dàng hoàn thành hơn.
107.
Theo giới luật của tu viện, một tu sĩ hay ni cô không thể ở một mình với người khác phái và luôn cần có người đi kèm.
108.
Có một truyền thống ở Thái Lan rằng mọi thanh niên nên xuất gia trong một thời gian nhất định (gọi là tu gieo duyên) - ở đây không có lời thề cả đời như một nhà sư - điều này thể hiện sự 'trưởng thành' của anh ta, sau đó anh ta có thể kết hôn. Vì vậy, các nhà sư, trong một số khu vực, có thể được coi là đối tác tương lai đáng mơ ước.
109.
Người em họ của Đức Phật và là vị thị giả, nổi tiếng về trí nhớ của Ngài về các bài giảng của Đức Phật.
110.
Ittarom. See Glossary.
111.
Vị Ni sư xuất gia . Đệ tử lỗi lạc của Đức Phật, Ayya Upalava.n.na, là một vị A la hán và bậc nhất về thần thông trong giới nữ.
112.
I.e., bằng cách buông bỏ dục lạc mà nhìn sâu vào và xem xét ảnh hưởng của chúng đối với tâm, người ta có thể vượt qua chúng. Vì vậy, không có sự buông thả, cũng không phải kìm nén mà là con đường tu tập của sự kiềm chế và sự sáng suốt.
113.
Lit: Ẩn sĩ (ẩn dật, lit: (Trong tiếng Thái có ba giới tính: nam, nữ và ẩn sĩ.)
114.
Một cách chơi chữ của người Thái: để làm khuôn hoặc thời trang = chảo; nắm tay = kam-pan.
115.
Theo Quy tắc của tu viện, các nhà sư không được nhận tiền, vàng và bạc.
116.
Thèm muốn và say mê trải nghiệm thú vị phát sinh từ năm giác quan - mắt, tai, mũi, lưỡi, và thân..
117.
Các bang Shan và Miến Điện chủ yếu theo đạo Phật; nhiều bộ lạc trên đồi theo đạo Phật (-animist).
118.
Khu vực này của Miến Điện là nơi sinh sống của nhiều dân tộc: Shan, Mon, Karen, v.v., và nó vẫn còn nằm dưới sự cai trị của thực dân Anh.
119.
Lit: the Japanese War.
120.
Cái tên quen thuộc của Piboon Songkram, người đứng đầu chính phủ Thái Lan lúc bấy giờ.
121.
Là nơi cao nhất tại Thailand, hơn 2,000 metres.
122.
Muntiacus muntjak là con mang Ấn Độ giống như con nai có kích thước khá nhỏ, có tiếng sủa khi báo động và bình thường rất nhút nhát.
123.
Ang-sa: (Thai) mảnh vải dài, hẹp hình chữ nhật màu vàng, đeo ngang vai trái bên dưới áo cà sa.
124.
Một ngọn nến thông thường được bảo vệ khỏi gió bởi một hình trụ bằng vải. Thường được sử dụng bởi các tu sĩ lâm tăng.
125.
Các nhà sư tu khổ hạnh trong rừng (tudong) sẽ đeo một chiếc túi đựng bát và áo cà sa dự phòng qua một bên vai trong khi vai còn lại được giữ thăng bằng với một chiếc túi nhỏ và krot.
126.
Acacia insuavis (Leguminosae).
127.
Mi-ang là lá chè đã lên men, nó được trồng ở vùng trồng bụi chè khá cao trên núi.
128.
Ti-lakkha.na: Vô thường; khổ đau; vô ngã. See Glossary.
129.
Lit: 300 sen.
130.
Buddhaanussati: See Kamma.t.thaana: in Glossary.
131.
Nhiều giống người hilltribe khác nhau họ có ngôn ngữ riêng của họ, hoàn toàn khác với người Thái. Thời đó chưa có trường học, hầu hết những người này không thể nói tiếng Thái.
132.
See Glossary. ('Body and mind-concomitants'.)
133.
Lit: "sẽ tạo ra rất nhiều niềm vui. "Một cách nói hoa mỹ để nói rằng anh ta có thể đã trở nên mất cân bằng.
134.
Một nhà sư tùy theo lòng hảo tâm và thiện chí của đàn tín mà bố thí thức ăn của mình. Nếu có nhiều dân làng dù nghèo thì mỗi người chỉ được yêu cầu đóng góp một phần nhỏ. Nếu có quá ít gia đình, trừ khi được mời đặc biệt, một nhà sư có thể cảm thấy miễn cưỡng ở lại đó để không tạo sức nặng cho họ.
135.
For Thais, rice is the staple at every meal. In Thai, 'to eat' literally is 'to eat rice'.
136.
Wild yams, taros and other potato-type tubers were widely found and eaten throughout Northern Thailand. In the North-east of Thailand, they were considered more a famine food, glutinous rice being very much the staple.
137.
Attakilamathaanuyoga. See (Sam. LVI. 11).
138.
Colocasia antiquorum Aroideae, the coco-yam or taro.
139.
Pai là một thẻ chơi hoặc cờ bạc; too-ah và be-er là những trò chơi cờ bạc sử dụng vỏ bò.
140.
Lit: 'miếng vải để trải rừng.' Vào thời Đức Phật, các nhà sư sẽ thu gom vải vụn để giặt và may lại thành 'áo choàng bằng vải vụn'. Tort phah pah tiếp tục truyền thống này, đôi khi bằng cách dâng tấm vải có cành lá nằm trên đó, đôi khi bằng cách trải tấm vải trong bụi cây nơi nhà sư đi qua.
141.
Lit: 'hot-hearted', i.e., impatient for quick results.
142.
Pee tong leung: ma qủi hoặc linh hồn; dtong là một loại lá (chuối) lớn; leung là màu vàng. Bộ tộc này còn được gọi là Marabi, một tộc người ở Bắc Thái Lan.
143.
In the Shan States of Burma.
144.
Kan-dtok and kan-pahn: types of large raised trays on pedestals.
145.
Generally, Thais are very modest about such things.
146.
Không giống như các vùng khác của Thái Lan, có nơi đôi khi họ ăn thịt rắn và thịt và cá có thể được nấu chín hoặc ăn sống
147.
Thuộc cây sa nhân, họ đậu (Antiaris toxaria) (Urticaceae).
148.
Slaves were commonplace up until the late nineteenth century.
149.
Anusaya-kilesa: bảy khuynh hướng hoặc khuynh hướng phiền não bất thiện ngủ ngầm của tâm: 1.Tham dục tiềm miên (Kāmarāgānusaya), 2. Phẫn nộ tiềm miên (Paṭighānusaya), 3. Tà kiến tiềm miên (Diṭṭhānusaya), 4. Hoài nghi tiềm miên (Vicikicchānusaya), 5. Kiêu mạn tiềm miên (Mānānusaya), 6. Tham hữu tiềm miên (Bhavarāgānusaya), 7. Vô minh tiềm miên (Avijjānusaya). Sự sợ hãi rơi vào ba cái cuối.
150.
Vaasanaa-nisai. Ngài được Đức Phật khen ngợi là bậc nhất về trí tuệ và khả năng giảng giải giáo pháp. (Mặc dù một số đặc điểm cá nhân khác cũng được nhận xét.)
151.
Phra Sammaa Sambuddha Chao, người đã hoàn thành tất cả các Sự hoàn hảo (paaramii: See Glossary) và do đó hoàn thiện toàn bộ nhân vật của mình và vượt qua tất cả các đặc điểm tính cách.
152.
A laywoman devotee.
153.
Jhaana: có tám cấp bậc thẩm thấu tập trung tùy thuộc vào sự tinh luyện của thiền định.
154.
Pubbe-senha-sannivaasa: một từ tiếng Pali-Thái chỉ sức mạnh của việc tưởng nhớ những người trong kiếp quá khứ, cụ thể là người bạn đời cũ của mình.
155.
người lãnh đạo và hiện thân của các thế lực tà ác.
156.
paaramii. See Glossary.
157.
khun (Thai). Đây là những cách chơi chữ khó khó giải thích bằng tiếng Anh.
158.
Kaama-khun (Thai); in Pali (kaama-gu.na) means 'the cords (or strands) of sensuality'. (See D.33; M.13, 26, 59, 66).
159.
Nekkhamma (Pali): Xuất gia. Thuật ngữ này thường dùng trong kinh điển Pali trái nghĩa với kaama - tham døc.
160.
Một khúc tre lớn rỗng ruột cho âm vang trầm, thường được dùng trong làng để làm tín hiệu, gần giống như trống..
161.
Thực hành khắc nghiệt. Xem Tudong trong Bảng chú giải thuật ngữ.
162.
Abhiññaa: Pháp thần thông; Dibbasota: Thiên nhĩ thông; Cetopariyañāṇa: Tha tâm thông; Pubbenivāsānussatiñāṇa: Túc mạng thông; Cutūpapātañāṇa: Thiên nhãn thông; Āsavakkhayañāṇa: Lậu tận thông; Iddhividhi: Biến hoá thông.
163.
Ti-lakkha.na. See Glossary.
164.
Lokiiya-abhiññaa; lokiiya-jhaana: sức mạnh tâm linh trần tục và khả năng tập trung thẩm thấu của người chưa giác ngộ.
165.
Devadatta là người em họ của Đức Phật, người ban đầu có siêu năng lực phàm tục (thần thông) nhưng do ghen tị và tham vọng đã cố gắng giết Đức Phật và sau đó cuối cùng mất thần thông.
166.
Một dân tộc cổ xưa, sùng đạo Phật, từng hùng mạnh ở Miến Điện và Thái Lan ngày nay, nay là một nhóm dân tộc thiểu số ở cả hai quốc gia.
167.
Ti-sara.nagamana: Quy Y Phật Pháp Tăng
168.
Bây giờ là tu viện chính của Dhammayut 'ở thị trấn Udorn-thani.
169.
Ở Thái Lan, đây theo truyền thống nhân gian thì được coi là một giấc mơ rất xấu..
170.
Một buổi lễ hàng năm, nơi dân làng dâng lễ vật lên các nhà sư để làm công đức cho người chết, trong khi việc phân phát lễ vật được thực hiện bằng cách rút thăm.
171.
Dhamma-osot (tiếng Thái): Chữa bệnh bằng cách thực hành Giáo pháp, sử dụng sức mạnh chữa bệnh của đức hạnh và thiền định.
172.
Đừng nhầm lẫn với Ajahn Mahaa Pin Paññaabalo nổi tiếng hơn đã được đề cập trước đó.
173.
Vùng Đông Bắc Thái Lan thường được coi là vùng nghèo nhất. Nơi đây khô ráo và cằn cõi khiến nhiều người phải bỏ đi làm thuê ở các vùng khác của Thái Lan khi không có việc làm.
174.
See Appendix C for background to this tension.
175.
Toàn khu vực này có nhiều mỏ thiếc. Dta-gooa Toong nghĩa là mỏ thiết trong khi Tai Muangnghĩa là đằng sau mỏ.
176.
'Thọ giới' của một nhà sư được đăng ký và ghi chi tiết vào một cuốn sổ nhận dạng nhỏ. Đây là thẻ giống như thẻ I.D. của công dân Thái Lan bình thường.
177.
Trong lịch sử, sự giáo dục bắt đầu từ tu viện địa phương. Khi bộ máy hành chính phát triển, các công việc của tu viện được đặt dưới quyền của Bộ Giáo dục..
178.
Truyện ngụ ngôn Aesop được dạy ở các trường tiểu học Thái Lan.
179.
nipa fruiticans.
180.
Vào khoảng hai mẫu Anh. See Glossary: Thai measurements.
181.
Upajjhaaya: là một nhà sư cao cấp được chứng nhận để tiến hành các lễ thọ giới, v.v.
182.
Nghĩa là, một số nhà tài trợ muốn nó được sử dụng đặc biệt cho Ven. Ajahn Thate sử dụng cá nhân, thay vì sử dụng chung.
183.
Lit: "phồng - xẹp". Điều này đề cập đến việc tập trung vào các chuyển động bụng từ hơi thở.
184.
Thành ngữ Thái, có nghĩa là 'không có quảng cáo'. Sự phát triển này rất có ý nghĩa vì nó cho thấy sự chấp nhận dần dần của các cơ quan trung ương đối với truyền thống Rừng Kammatthana.
185.
'Phra Raja-tahn Samanasak', được nhà vua phong tặng. Xem Tiêu đề tiếng Thái trong Bảng chú giải thuật ngữ.
186.
'Phra Raja-tahn Samanasak Phra Raja-kana-sahman Fai Vipassanaa. Được gọi là 'Chao Khun'.
187.
Where Arañña means 'forest'.
188.
Loka-dhamma: 1. Được lợi (Lābha), 2. Mất lợi (Alābha), 3. Được danh (Yasa), 4. Mất danh (Ayasa) , 5. Chê bai (Nindā) , 6. Khen ngợi (Pasaṃsā) , 7. Hạnh phúc (Sukha) , 8. Đau khổ (Dukkha).(Vis. XXII); cp. (A.VIII, 5).
189.
Nó nằm trong dãy Poo Pahn, với độ cao hơn 300 mét.
190.
Lợn rừng rất phổ biến trong các tu viện trong rừng cho đến thời gian khá gần đây. Chúng được biết về sự dũng cảm, nhanh nhẹn, dẻo dai và khả năng ăn hầu hết mọi thứ.
191.
Hin Mark Peng là tên gọi của một số tảng đá khổng lồ bên bờ sông Mekong.
192.
Điều này đề cập đến thiết kế truyền thống, được nâng lên khỏi mặt đất trên các trụ, với một đỉnh cao, mái có góc dốc (để thoát nước mưa tốt hơn trong mùa gió mùa). 'Túp lều' ở đây là bản dịch thông thường của kuti, tuy nhiên đây có thể là nơi ở cho các nhà sư hoặc nữ tu.
193.
Điều này thể hiện mong muốn của tác giả là thể hiện sự trân trọng đối với những tác phẩm hay. Vì tên và chi phí cụ thể không có ý nghĩa đối với độc giả không phải là người Thái Lan, tác giả đã cho phép các đoạn được đơn giản hóa trong tương lai và được biểu thị bằng dấu chấm lửng .
194.
Tồn trữ nước mưa từ mái nhà, chủ yếu để uống trong mùa khô nóng kéo dài.
195.
Một chiếc thuyền dài, thấp với trục chân vịt dài.
196.
I.e., ba tháng được chỉ định đầy đủ đã không được hoàn thành.
197.
Họ nghĩ rằng Ngài có thể nhìn thấy những con số trúng trong thiền định của Ngài.
198.
Thái Lan luôn mở cửa cho những người truyền giáo. Vua Thái Lan theo đạo Phật nhưng bảo vệ mọi tôn giáo.
199.
Phật giáo không còn là một tôn giáo chính ở Ấn Độ vì nhiều lý do: Các cuộc xâm lược của người Hồi giáo từ phía Tây Bắc, sự trỗi dậy của đạo Hindu và sự suy giảm có thể xảy ra trong việc thực hành Giáo pháp. 'Ngôi đền' Phật giáo nổi tiếng ở Bodh 'Gaya đã trở thành một ngôi đền Hindu cho đến thế kỷ này, khi' sự phục hưng Phật giáo 'đã dẫn đến việc khôi phục lại ngôi đền.
200.
Nơi Đức Phật Đản sinh, Thành đạo, Giảng dạy Giáo pháp đầu tiên và cuối cùng Viên tịch Niết-bàn.
201.
Bangkok là tên Tây Phương, Tại Thai thì gọi là 'Krung Thep' hoặc thành phố của các thiên thần.
202.
Những người đã nhận ra tầng đầu tiên trong bốn tầng giác ngộ.
203.
I.e., hơn là những vấn đề như là sự căng thẳng và ngu ngốc, chúng là tham lam, sân hận và si mê.
204.
So sánh với Bangkok!
205.
Lit: như "đờn gảy tai trâu". Có lẽ giống như 'viên ngọc để trước con heo'.
206.
Phù hợp với cách cư xử tốt của người Thái.
207.
Dấu chấm lửng trong đoạn văn này là trong bản gốc.
208.
Sự thẩm thấu thiền trên một đối tượng.
209.
Câu Phật Ngôn của Đức Phật .
210.
Nirandorn có nghĩa là 'vĩnh cửu'.
211.
Sự thẩm thấu thiền trên một vật thể phi vật chất
212.
Khi Thái tử Siddhartha Gautama đi ra khỏi cung điện của mình vào cuộc sống vô gia cư, đây là những người thầy đầu tiên mà sau đó Ngài đã vượt qua. Xem Kinh Ariyapariyesana [M.I.163-166].
213.
Cố đô của Xiêm La trong khoảng thời gian 1569-1767, khi nó bị phá hủy bởi quân xâm lược Miến Điện.
214.
'Pucchavipassana Dhamma Nai Dtang Pratate'; 'Prawat Cheewit Karn Pai Dtang Pratate'. No English translation is available. ??? include Thai titles ???
215.
Durio zibethinus (Malvaceae). Sầu riêng nói chung được đánh giá cao và là một trong những loại trái cây đắt nhất. Có một kỹ năng để tách nó ra mà không làm hỏng trái cây mọng nước bên trong.
216.
This includes generosity, morality, right livelihood and meditation.
217.
Vatacakra (Thai); va.t.tacakka (Pali).
218.
Becoming monks for a short period.
219.
Lit: children and grandchildren.
220.
For more details see Appendix D.
221.
See Glossary.
222.
See Section 28.1.
223.
Sankhaara. See Glossary.
224.
Hành động do ý muốn (tác ý).. See Glossary.
225.
Ngạ quỷ hay cõi ngạ quỷ; avicii là một trong những địa ngục đau đớn nhất. Nhưng lưu ý rằng không có cảnh giới nào là vĩnh cửu đối với tất cả mọi người đều do hành động hoặc nghiệp của mỗi người điều chỉnh.
226.
Xem phần sau để biết về sự ra đi và tang lễ của chính tác giả đáng kính.
227.
Dựa trên "Ghi chú của một đệ tử" trong một ấn phẩm tưởng niệm bằng tiếng Thái: ???
228.
Coi đoạn 29 ở trên.
229.
Ở Thái Lan, thi thể của những người quan trọng sẽ được bảo quản trong một thời gian nhất định để chuẩn bị những sự sắp xếp phù hợp và cho mọi người đến để tỏ lòng thành kính lần cuối. Hai trong số những người ủng hộ nổi bật của Hòa thượng Ajahn Thate cũng đã xây dựng một lò hỏa táng và bảo tháp tại Wat Hin Mark Peng.
230.
Do chính Đức Phật giới thiệu.
231.
Điều này đã được thêm vào bởi người dịch cho những người không quen thuộc với Giới luật Phật giáo. Chúng được đề cập trong suốt văn bản.
232.
Được bao gồm như một phần bổ sung ở mặt sau của cuốn Tự truyện phiên bản gốc của Thái Lan.
233.
Luật Thái Lan có những quy định đặc biệt về những điều như vậy.
234.
Theo phong cách kiến trúc truyền thống của Thái Lan.
235.
Ở Thái Lan, năm sinh của một người phù hợp với tên của một con vật và một con số. Có mười hai con giáp trong chu kỳ và mười con số, có nghĩa là cả hai chu kỳ đều tròn đầy ở tuổi 60. Đây được coi là một sinh nhật đặc biệt quan trọng.
236.
Một Bảng chú giải thuật ngữ khác dành riêng cho Các bước dọc theo con đường theo sau công việc đó.
237.
Dịch từ sinh ngữ Thai bởi Thanissaro Bhikkhu.

Cập nhập ngày: Thứ Năm ngày 16-9-2021

webmasters: Minh Hạnh & Thiện Pháp


Trang trước | | trở về đầu trang | Home page |