DUNG AN VIII.39: Abhisanda Sutta

 

Contents [go up]


  • Lời Giới Thiệu của người dịch
  • Khp 1: Saranagamana — I. Tam Quy
  • Khp 2: Dasa Sikkhapada — II. Thập Giới
  • Khp 3: Dvattimsakara — III. Ba Mươi Hai Phần
  • Khp 4: Samanera Pañha — IV. Nam Tử Hỏi Đạo
  • Khp 5: Mangala Sutta — V. Kinh Điềm Lành
  • Khp 6: Ratana Sutta — VI. Kinh Châu Báu
  • Khp 7: Tirokudda Kanda — VII. Kinh Ngoài Bức Tường
  • Khp 8: Nidhi Kanda — VIII. Kinh Bảo Tàng
  • Khp 9: Karaniya Metta Sutta — IX. Kinh Ḷng Từ
  •  

    Translator's Introduction

    This, the first book in the Khuddaka Nikaya (Collection of Short Discourses), appears to have been designed as a primer for novice monks and nuns. In nine short passages it covers the basic topics that one would need to know in beginning Buddhist monastic life; many of the passages also serve as useful introductions to Buddhist practice in general. Passages 1 and 2 cover the ceremony for taking ordination as a novice. Passage 3 gives preliminary guidance in the contemplation of the body, a meditation exercise designed to overcome lust. Passage 4 introduces many of the basic categories of analysis through which discernment can be developed, beginning with the most basic formulation of the causal principle so central to the Buddha's teaching. Passage 5 gives an overview of the practice as a whole — beginning with the need to associate with wise people, and ending with the attainment of Unbinding (nibbana/nirvana). This overview is presented in the context of the concept of protective rituals, and makes the point that — given the nature of human action and its results — the best protection comes not from rituals but from acting in a generous, moral, and wise manner. Passage 6 expands both on Passage 1 and Passage 5, detailing some of the virtues of the Buddha, Dhamma, and Sangha, while at the same time elaborating on the practice of meditation and the attainment of stream-entry — the point at which the meditator has his/her first glimpse of Unbinding. Passage 7 elaborates on the theme of generosity, showing how gifts to the Sangha can be dedicated to the welfare of one's dead relatives. Passage 8 presents meritorious action in general as an investment more reliable and longer-lasting than material investments. Passage 9 returns to the subject of meditation, focusing on the development of good will and loving-kindness.

    Giới thiệu:

    Đây là quyển kinh thứ nhất của Tiểu Bộ Kinh (Khuddhaka Nikaya), có lẽ đă được tổng hợp thành một quyển cẩm nang cho các Sa-di và Sa-di-ni. Quyển nầy gồm 9 bài kinh, bao gồm các đề tài cơ bản cho những vị xuất gia bắt đầu đời sống tu hành tại các tu viện. Tuy nhiên, nhiều đoạn kinh cũng được dùng để giới thiệu các căn bản Phật Pháp cho các cư sĩ. Bài kinh thứ nhất và thứ hai dùng trong các buổi lễ xuất gia của Sa-di và Sa-di-ni. Bài kinh thứ ba là các hướng dẫn tiên khởi để quán thân thể, một bài tập để vượt thắng ḷng tham dục. Bài kinh thứ tư giới thiệu các phân loại cơ bản để phân tích, phát triển tuệ tri, bắt đầu là nguyên lư duyên sinh, trọng tâm của đạo Phật. Bài kinh thứ năm đưa ra một tổng quan về sự tu tập - bắt đầu từ nhu cầu gần gũi các bậc thiện tri thức, và chấm dứt khi đắc Niết-bàn. Bài kinh đề cập đến các phước hạnh như là một sự pḥng hộ thiện lành, không phải từ các nghi lễ rườm rà mà từ các hành động bố thí, giới đức và trí tuệ. Bài kinh thứ sáu khai triển từ bài kinh thứ nhất và thứ năm, đề cập chi tiết về Tam Bảo Phật-Pháp-Tăng, và đồng thời tŕnh bày cách thức tu thiền để đắc quả Dự lưu, quả đầu tiên đưa đến Niết-bàn. Bài kinh thứ bảy có chủ đề về ḷng bố thí quảng đại, công đức từ sự cúng dường chư Tăng được hồi hướng đến các thân nhân đă qua đời. Bài kinh thứ tám giảng về các hành động từ thiện, bố thí sẽ đưa đến lợi lạc lâu bền, tốt hơn là các đầu tư về vật chất. Cuối cùng, bài kinh thứ chín trở về đề tài hành thiền, chú trọng đến việc phát triển ḷng từ mẫn, thiện ư, yêu thương mọi người, mọi loài.

     

    These nine passages, in different contexts, are frequently chanted in Theravada countries even today. Lay and ordained Buddhists chant Passage 1 daily, as an affirmation of their refuge in the Triple Gem. Monks will often chant Passages 5-9 as blessings when lay people make merit, and frequently use verses from Passage 5 as sermon themes.

    Tất cả 9 bài kinh này, trong những ư nghĩa khác nhau, thường được tụng đọc và suy niệm trong các cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy từ xưa cho đến hiện nay. Hằng ngày, cư sĩ lẫn tu sĩ đều tụng đọc bài kinh đầu tiên về quy y Tam Bảo để tự nhắc nhở. Các tu sĩ thường tụng các đoạn kinh trích trong các bài kinh thứ năm cho đến thứ chín khi nhận lănh sự cúng dường của cư sĩ, và thường dùng bài kinh thứ năm (Kinh Phước Đức) làm đề tài trong các buổi thuyết pháp.

     

    Thus the passages contained in this book serve as a useful introduction both to early Buddhist training and to modern Theravada practices.

    Tóm lại, quyển Tiểu Tụng này được dùng như một quyển kinh dẫn nhập hữu ích trong bước đầu của đời sống tu sĩ và trong đời sống của mọi Phật tử hiện thời.

     

    Homage to the Blessed One,
    the Worthy One,
    the Rightly Self-awakened One

    Con đem hết ḷng thành kính làm lễ Đức Thế Tôn, Ngài là bậc Arahan cao thượng, được chứng quả Chánh Biến Tri do Ngài tự ngộ không thầy chỉ dạy.

     

    1. Saranagamana — Going for Refuge [go up]

    [Alternate translation: Piyadassi.]

    I go to the Buddha for refuge.
    I go to the Dhamma for refuge.
    I go to the Sangha for refuge.
    
    A second time I go to the Buddha for refuge.
    A second time I go to the Dhamma for refuge.
    A second time I go to the Sangha for refuge.
    
    A third time I go to the Buddha for refuge.
    A third time I go to the Dhamma for refuge.
    A third time I go to the Sangha for refuge.
    

    I. Tam Quy (Saranattaya)

    Đệ tử quy y Phật,
    Đệ tử quy y Pháp,
    Đệ tử quy y Tăng.
    
    Lần thứ hai đệ tử quy y Phật,
    Lần thứ hai đệ tử quy y Pháp,
    Lần thứ hai đệ tử quy y Tăng.
    
    Lần thứ ba đệ tử quy y Phật
    Lần thứ ba đệ tử quy y Pháp.
    Lần thứ ba đệ tử quy y Tăng.
    

     

    2. Dasa Sikkhapada — The Ten Training Rules [go up]

    [Alternate translation: Piyadassi.]

    I undertake the training rule to refrain from taking life.

    I undertake the training rule to refrain from stealing.

    I undertake the training rule to refrain from sexual intercourse.

    I undertake the training rule to refrain from telling lies.

    I undertake the training rule to refrain from intoxicating fermented & distilled beverages that lead to carelessness.

    I undertake the training rule to refrain from eating at the wrong time.1

    I undertake the training rule to refrain from dancing, singing, music, & watching shows.

    I undertake the training rule to refrain from wearing garlands and beautifying myself with perfumes & cosmetics.

    I undertake the training rule to refrain from high & luxurious seats & beds.

    I undertake the training rule to refrain from accepting gold & money.

    II. Thập Giới (Dasasikkhàpada)

    1. Đệ tử thực hành giới tránh sát sanh.

    2. Đệ tử thực hành giới tránh lấy của không cho.

    3. Đệ tử thực hành giới tránh tà hạnh trong các dục.

    4. Đệ tử thực hành giới tránh nói láo.

    5. Đệ tử thực hành giới tránh mọi cơ hội buông lung phóng dật do uống rượu hoặc các thứ men say.

    6. Đệ tử thực hành giới tránh ăn phi thời.

    7. Đệ tử thực hành giới tránh múa, hát, nhạc, kịch.

    8. Đệ tử thực hành giới tránh cơ hội đeo ṿng hoa và trang điểm với hương liệu, dầu xoa.

    9. Đệ tử thực hành giới tránh dùng giường cao và rộng.

    10. Đệ tử thực hành giới tránh nhận vàng bạc.

     

    Notes

    1. After noon & before dawn.

    Ghi Chú

    1. Sau ngọ & trước khi mặt trời mọc.

     

    3. Dvattimsakara — The 32 Parts [go up]

    [Alternate translation: Piyadassi.]

    [In this body there is:]

    hair of the head,
    	hair of the body,
    nails,
    	teeth,
    skin,
    	muscle,
    tendons,
    	bones,
    bone marrow,
    	spleen,
    heart,
    	liver,
    membranes,
    	kidneys,
    lungs,
    	large intestines,
    small intestines,
    	gorge,
    feces,
    	gall,
    phlegm,
    	lymph,
    blood,
    	sweat,
    fat,
    	tears,
    oil,
    	saliva,
    mucus,
    	oil in the joints
    urine,
    	brain.
    

    III. Ba Mươi Hai Phần (Dvattimsàkàra)

    [Trong thân này có:]

    tóc,
    lông,
    móng, 
    răng, 
    da, 
    thịt, 
    gân,
    xương,
    tủy, 
    thận,
    tim,
    gan,
    hoành cách mô,
    lá lách,
    phổi, 
    ruột,
    màng ruột,
    bụng, 
    phân,
    mật, 
    đàm, 
    mủ, 
    máu, 
    mồ hôi, 
    mỡ,
    nước mắt,
    mỡ
    da,
    nước miếng,
    nước mủ,
    chất nhờn ở khớp, 
    nước tiểu và năo trong đầu.

     

    4. Samanera Pañha — The Novice's Questions [go up]

    [Alternate translation: Piyadassi.]

    What is one?
    All beings subsist on food.1
    What is two?
    Name & form.2
    What is three?
    The three types of feeling.3
    What is four?
    The four noble truths.4
    What is five?
    The five aggregates.5
    What is six?
    The six internal sense media.6
    What is seven?
    The seven factors for Awakening.7
    What is eight?
    The noble eightfold path.8
    What is nine?
    The nine abodes for beings.9
    What is ten?
    Endowed with ten qualities, one is called an arahant.10

    IV. Nam Tử Hỏi Đạo (Kumàrapanha)

    Thế nào là một?
    Mọi loài hữu t́nh đều tồn tại nhờ thức ăn.1
    Thế nào là hai?
    Danh và sắc.2
    Thế nào là ba?
    Ba loại cảm thọ.3
    Thế nào là bốn?
    Bốn Thánh đế.4
    Thế nào là năm?
    Năm thủ uẩn.5
    Thế nào là sáu?
    Sáu nội xứ.6
    Thế nào là bảy?
    Bảy giác chi.7
    Thế nào là tám?
    Thánh đạo tám ngành.8
    Thế nào là chín? ?
    Chín nơi cư trú của các loài hữu t́nh.9
    Thế nào là mười??
    Vị nào có đủ mười đức tánh được gọi là vị A-la-hán.10

     

    Notes

    1. "There are these four nutriments for the establishing of beings who have taken birth or for the support of those in search of a place to be born. Which four? Physical food, gross or refined; contact as the second, intellectual intention the third, and consciousness the fourth." — SN 12.64.

    2. Mental & physical phenomena

    3. Pleasant, painful, neither pleasant nor painful.

    4. Stress, the origination of stress, the cessation of stress, the path of practice leading to the cessation of stress.

    5. Form, feeling, perception, fabrications, consciousness.

    6. Eye, ear, nose, tongue, body, intellect.

    7. Mindfulness, analysis of qualities, persistence, rapture, serenity, concentration, equanimity.

    8. Right view, right resolve, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness, right concentration.

    9. Seven stations of consciousness and two spheres:

    There are beings with diversity of body and diversity of perception, such as human beings, some devas, and some beings in the lower realms. This is the first station of consciousness.

    There are beings with diversity of body and singularity of perception, such as the devas of the Brahma hosts generated by the first [jhana]. This is the second station of consciousness.

    There are beings with singularity of body and diversity of perception, such as the Radiant Devas. This is the third station of consciousness.

    There are beings with singularity of body and singularity of perception, such as the Beautifully Lustrous Devas. This is the fourth station of consciousness.

    There are beings who, with the complete transcending of perceptions of [physical] form, with the disappearance of perceptions of resistance, and not heeding perceptions of diversity, thinking, 'Infinite space,' arrive at the dimension of the infinitude of space. This is the fifth station of consciousness.

    There are beings who, with the complete transcending of the dimension of the infinitude of space, thinking, 'Infinite consciousness,' arrive at the dimension of the infinitude of consciousness. This is the sixth station of consciousness.

    There are beings who, with the complete transcending of the dimension of the infinitude of consciousness, thinking, 'There is nothing,' arrive at the dimension of nothingness. This is the seventh station of consciousness.

    The dimension of non-percipient beings and, second, the dimension of neither perception nor non-perception. These are the two spheres.

    — Maha-nidana Suttanta, DN 15

    10. "The right view of one beyond training, the right resolve of one beyond training, the right speech of one beyond training, the right action of one beyond training, the right livelihood of one beyond training, the right effort of one beyond training, the right mindfulness of one beyond training, the right concentration of one beyond training, the right knowledge of one beyond training, the right release of one beyond training." — Maha-cattarisaka Sutta, MN 117.

    Ghi Chú

    1. Này các Tỷ-kheo, có bốn loại đồ ăn đưa đến sự tồn tại hay sự chấp thủ tái sanh của các loài hữu t́nh hay các loài chúng sanh. Thế nào là bốn? -Đoàn thực hoặc thô, hoặc tế; -Thứ hai là xúc; -Thứ ba là tư niệm; -Thứ tư là thức.— SN 12.64.

    2. Hiện tượng tinh thần và vật chất

    3. Hỷ, ưu, xă.

    4. Khổ, nguyên nhân của sự khổ, sự chấm dứt sự khổ, con đường đưa đến sự diệt khổ.

    5. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

    6. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư.

    7. Mindfulness, analysis of qualities, persistence, rapture, serenity, concentration, equanimity.

    8. Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.

    9.Có bảy trú xứ của thức và hai xứ:

    Có những loại hữu t́nh, thân dị loại và tưởng dị loại, như loài Người, một số chư Thiên và một số trong địa ngục. Đó là trú xứ thứ nhất của thức.

    Có những loại hữu t́nh, thân dị loại nhưng tưởng nhất loại, như các vị Phạm Chúng thiên được sanh vào cơi ấy, nhờ sơ Thiền. Đó là trú xứ thứ hai của thức.

    Có những loại hữu t́nh, thân nhất loại nhưng tưởng dị loại, như các vị Quang Âm thiên (Abhassarà). Đó là trú xứ thứ ba của thức.

    Có những loại hữu t́nh, thân nhất loại và tưởng cũng nhất loại, như các vị Biến Tịnh thiên (Subhakinna). Đó là trú xứ thứ tư của thức.

    Có những loại hữu t́nh, vượt ra khỏi tất cả sắc tưởng, đoạn trừ tất cả hữu đối tưởng, không suy tư đến mọi dị loại tưởng, chỉ có tưởng "Hư không là vô biên", được sanh vào cơi Hư không vô biên xứ. Đó là trú xứ thứ năm của thức.

    Có những loại hữu t́nh hoàn toàn vượt ra khỏi Không vô biên xứ, chỉ có tưởng "Thức là vô biên", được sanh vào cơi Thức vô biên xứ. Đó là trú xứ thứ sáu của thức.

    Có những loại hữu t́nh, hoàn toàn vượt ra khỏi Thức vô biên xứ, chỉ có tưởng "Vô sở hữu", được sanh vào cơi Vô sở hữu xứ. Đó là trú xứ thứ bảy của thức.

    Hai xứ là Vô tưởng hữu t́nh xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

    — Maha-nidana Suttanta, DN 15

    10. "Chánh kiến của bậc Thánh Vô Học, chánh tư duy của bậc Thánh Vô Học, chánh ngữ của bậc Thánh Vô Học, chánh nghiệp của bậc Thánh Vô Học, chánh mạng của bậc Thánh Vô Học, chánh tinh tấn của bậc Thánh Vô Học, chánh niệm của bậc Thánh Vô Học, chánh định của bậc Thánh Vô Học, chánh tri kiến của bậc Thánh Vô Học, chánh giải thóat của bậc Thánh Vô Học." — Maha-cattarisaka Sutta, MN 117.

     

    5. Mangala Sutta — Protection [go up]

    [This sutta also appears at Sn 2.4. Alternate translation: Narada | Piyadassi.]

    I have heard that at one time the Blessed One was staying in Savatthi at Jeta's Grove, Anathapindika's monastery. Then a certain deva, in the far extreme of the night, her extreme radiance lighting up the entirety of Jeta's Grove, approached the Blessed One. On approaching, having bowed down to the Blessed One, she stood to one side. As she stood to one side, she addressed him with a verse.

    Many devas and humans beings
    give thought to protection,
    desiring well-being.
    Tell, then, the highest protection.
    

    [The Buddha:]

    Not consorting with fools,
    consorting with the wise,
    paying homage to those worthy of homage:
    	This is the highest protection.
    
    Living in a civilized land,
    having made merit in the past,
    directing oneself rightly:
    	This is the highest protection.
    
    Broad knowledge, skill,
    well-mastered discipline,
    well-spoken words:
    	This is the highest protection.
    
    Support for one's parents,
    assistance to one's wife and children,
    consistency in one's work:
    	This is the highest protection.
    
    Giving, living in rectitude,
    assistance to one's relatives,
    deeds that are blameless:
    	This is the highest protection.
    
    Avoiding, abstaining from evil;
    refraining from intoxicants,
    being heedful of the qualities of the mind:
    	This is the highest protection.
    
    Respect, humility,
    contentment, gratitude,
    hearing the Dhamma on timely occasions:
    	This is the highest protection.
    
    Patience, compliance,
    seeing contemplatives,
    discussing the Dhamma on timely occasions:
    	This is the highest protection.
    
    Austerity, celibacy,
    seeing the Noble Truths,
    realizing Unbinding:
    	This is the highest protection.
    
    A mind that, when touched
    by the ways of the world,
    is unshaken, sorrowless, dustless, secure:
    	This is the highest protection.
    
    Everywhere undefeated
    when acting in this way,
    people go everywhere in well-being:
    	This is their highest protection.
    

    5. Mangala Sutta — Kinh Điềm Lành [go up]

    Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú tại Sàvatthi, ở Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Rồi một Thiên nhân, khi đêm đă gần măn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Đứng một bên, vị Thiên nhân ấy với bài kệ bạch Thế Tôn:
    Nhiều Thiên nhân và Người,
    Suy nghĩ đến điềm lành,
    Mong ước và đợi chờ,
    Một nếp sống an toàn,
    Xin Ngài hăy nói lên
    Về điềm lành tối thượng.
    
    Thế Tôn:
    
    Không thân cận kẻ ngu,
    Nhưng gần gũi bậc trí,
    Đảnh lễ người đáng lễ
    Là điềm lành tối thượng.
    
    Ở trú xứ thích hợp,
    Công đức trước đă làm,
    Chân chánh hướng tụ tâm,
    Là điều lành tối thượng.
    
    Học nhiều, nghề nghiệp giỏi,
    Khéo huấn luyện học tập,
    Nói những lời khéo nói
    Là điềm lành tối thượng.
    
    Hiếu dưỡng mẹ và cha,
    Nuôi dưỡng vợ và con,
    Làm nghề không rắc rối
    Là điềm lành tối thượng.
    
    Bố thí, hành đúng pháp,
    Săn sóc các bà con,
    Làm nghiệp không lỗi lầm
    Là điềm lành tối thượng.
    
    Chấm dứt, từ bỏ ác,
    Chế ngự đam mê rượu,
    Trong pháp, không phóng dật
    Là điềm lành tối thượng.
    
    Kính lễ và hạ ḿnh,
    Biết đủ và biết ơn,
    Đúng thời, nghe Chánh pháp
    Là điềm lành tối thượng.
    
    Nhẫn nhục, lời ḥa nhă,
    Yết kiến các Sa-môn,
    Đúng thời, đàm luận pháp,
    Là điềm lành tối thượng.
    
    Khắc khổ và Phạm hạnh,
    Thấy được lư Thánh đế,
    Giác ngộ quả Niết bàn
    Là điềm lành tối thượng.
    
    Khi xúc chạm việc đời,
    Tâm không động, không sầu,
    Không uế nhiễm, an ổn
    Là điềm lành tối thượng.
    
    Làm sự việc như vậy,
    Không chỗ nào thất bại,
    Khắp nơi được an toàn,
    Là điềm lành tối thượng.
    

    6. Ratana Sutta — Treasures [go up]

    [This sutta also appears at Sn 2.1. Alternate translation: Piyadassi.]

    Whatever spirits have gathered here,
    	— on the earth, in the sky — 
    may you all be happy
    & listen intently to what I say.
    
    Thus, spirits, you should all be attentive.
    Show kindness to the human race.
    Day & night they give offerings,
    so, being heedful, protect them.
    
    Whatever wealth — here or beyond — 
    whatever exquisite treasure in the heavens,
    does not, for us, equal the Tathagata.
    	This, too, is an exquisite treasure in the Buddha.
    	By this truth may there be well-being.
    
    The exquisite Deathless — ending, dispassion — 
    discovered by the Sakyan Sage in concentration:
    There is nothing to equal that Dhamma.
    	This, too, is an exquisite treasure in the Dhamma.
    	By this truth may there be well-being.
    
    What the excellent Awakened One extolled as pure
    and called the concentration
    of unmediated knowing:
    No equal to that concentration can be found.
    	This, too, is an exquisite treasure in the Dhamma.
    	By this truth may there be well-being.
    
    The eight persons — the four pairs — 
    praised by those at peace:
    They, disciples of the One Well-Gone, deserve offerings.
    What is given to them bears great fruit.
    	This, too, is an exquisite treasure in the Sangha.
    	By this truth may there be well-being.
    
    Those who, devoted, firm-minded,
    apply themselves to Gotama's message,
    on attaining their goal, plunge into the Deathless,
    freely enjoying the Liberation they've gained.
    	This, too, is an exquisite treasure in the Sangha.
    	By this truth may there be well-being.
    
    An Indra pillar,1 planted in the earth,
    that even the four winds cannot shake:
    that, I tell you, is like the person of integrity,
    who — having comprehended
    the noble truths — sees.
    	This, too, is an exquisite treasure in the Sangha.
    	By this truth may there be well-being.
    
    Those who have seen clearly the noble truths
    well-taught by the one of deep discernment — 
    regardless of what [later] might make them heedless — 
    will come to no eighth state of becoming. 2
    	This, too, is an exquisite treasure in the Sangha.
    	By this truth may there be well-being.
    
    At the moment of attaining sight,
    one abandons three things:
    	identity-views, uncertainty,
    	& any attachment to precepts & practices. 3
    One is completely released
    from the four states of deprivation, 4
    and incapable of committing
    the six great wrongs. 5
    	This, too, is an exquisite treasure in the Sangha.
    	By this truth may there be well-being.
    
    Whatever bad deed one may do
    — in body, speech, or in mind — 
    one cannot hide it:
    an incapability ascribed
    to one who has seen the Way.
    	This, too, is an exquisite treasure in the Sangha.
    	By this truth may there be well-being.
    
    Like a forest grove with flowering tops
    in the first month of the heat of the summer,
    so is the foremost Dhamma he taught,
    for the highest benefit, leading to Unbinding.
    	This, too, is an exquisite treasure in the Buddha.
    	By this truth may there be well-being.
    
    Foremost,
    foremost-knowing,
    foremost-giving,
    foremost-bringing,
    	unexcelled, he taught the
    foremost Dhamma.
    	This, too, is an exquisite treasure in the Buddha.
    	By this truth may there be well-being.
    
    Ended the old, there is no new taking birth.
    dispassioned their minds toward further becoming,
    they, 			with no seed, no desire for growth,
    the prudent, 	go out like this flame.
    	This, too, is an exquisite treasure in the Sangha.
    	By this truth may there be well-being.
    
    Whatever spirits have gathered here,
    	— on the earth, in the sky — 
    let us pay homage to the Buddha,
    the Tathagata worshipped by beings
    human & divine.
    	May there be
    	well-being.
    
    Whatever spirits have gathered here,
    	— on the earth, in the sky — 
    let us pay homage to the Dhamma
    & the Tathagata worshipped by beings
    human & divine.
    	May there be
    	well-being.
    
    Whatever spirits have gathered here,
    	— on the earth, in the sky — 
    let us pay homage to the Sangha
    & the Tathagata worshipped by beings
    human & divine.
    	May there be
    	well-being.
    

    6. Ratana Sutta — Kinh Châu Báu [go up]

    Phàm ở tại đời này,
    Có sanh linh tụ hội,
    Hoặc trên cơi đất này,
    Hoặc chính giữa hư không
    Mong rằng mọi sanh linh,
    Được đẹp ư vui ḷng,
    Vậy, hăy nên cẩn thận,
    Lắng nghe lời dạy này.
    
    Do vậy các sanh linh,
    Tất cả hăy chú tâm,
    Khởi lên ḷng từ mẫn,
    Đối với mọi loài, người.
    Ban ngày và ban đêm,
    Họ đem vật cúng dường,
    Do vậy không phóng dật,
    Hăy giúp hộ tŕ họ.
    
    Phàm có tài sản ǵ,
    Đời này hay đời sau,
    Hay ở tại thiên giới,
    Có châu báu thù thắng,
    Không ǵ sánh bằng được,
    Với Như Lai, Thiện Thệ
    Như vậy, nơi Đức Phật,
    Là châu báu thù diệu,
    Mong với sự thật này,
    Được sống chơn hạnh phúc.
    
    Đoạn diệt và ly tham,
    Bất tử và thù diệu,
    Phật Thích Ca Mâu-Ni,
    Chứng pháp ấy trong thiền.
    Không ǵ sánh bằng được,
    Với pháp thù diệu ấy.
    Như vậy, nơi Chánh pháp,
    Là châu báu thù diệu,
    Mong với sự thật này,
    Được sống chơn hạnh phúc.
    
    Phật Thế Tôn thù thắng,
    Nói lên lời tán thán,
    Pháp thiền định trong sạch,
    Liên tục không gián đoạn,
    Không ǵ sánh bằng được,
    Pháp thiền vi diệu ấy,
    Như vậy, nơi Chánh pháp,
    Là châu báu thù diệu
    Mong với sự thật này,
    Được sống chơn hạnh phúc.
    
    Tám vị bốn đôi này,
    Được bậc thiện tán thán,
    Chúng đệ tử Thiện Thệ,
    Xứng đáng được cúng dường.
    Bố thí các vị ấy,
    Được kết quả to lớn.
    Như vậy, nơi Tăng chúng,
    Là châu báu thù diệu.
    Mong với sự thật này,
    Được sống chơn hạnh phúc.
    
    Các vị ḷng ít dục,
    Với ư thật kiên tŕ,
    Khéo liên hệ mật thiết,
    Lời dạy Gotama!.
    Họ đạt được quả vị,
    Họ thể nhập bất tử,
    Họ chứng đắc dễ dàng,
    Hưởng thọ sự tịch tịnh,
    Như vậy, nơi tăng chúng,
    Là châu báu thù diệu,
    Mong với sự thật này,
    Được sống chơn hạnh phúc.
    
    Như vậy cột trụ đá,
    Khéo y tựa ḷng đất,
    Dầu có gió bốn phương,
    Cũng không thể dao động,
    Ta nói bậc chơn nhân,
    Giống như ví dụ này.
    Vị thể nhập với tuệ,
    Thấy được những Thánh đế,
    Như vậy, nơi Tăng chúng,
    Là châu báu thù diệu.
    Mong với sự thật này,
    Được sống chơn hạnh phúc.
    
    Những vị khéo giải thích,
    Những sự thật Thánh đế,
    Những vị khéo thuyết giảng,
    Với trí tuệ thâm sâu,
    Dầu họ có hết sức,
    Phóng dật không tự chế,
    Họ cũng không đến nỗi,
    Sanh hữu lần thứ tám.
    Như vậy, nơi Tăng chúng,
    Là châu báu thù diệu.
    Mong với sự thật này,
    Được sống chơn hạnh phúc.
    
    Vị ấy nhờ đầy đủ,
    Với chánh kiến sáng suốt,
    Do vậy, có ba pháp,
    Được hoàn toàn từ bỏ.
    Thân kiến và nghi hoặc,
    Giới cấm thủ cũng không;
    Đối với bốn đọa xứ,
    Hoàn toàn được giải thoát;
    Vị ấy không thể làm,
    Sáu điều ác căn bản.
    Như vậy, nơi Tăng chúng,
    Là châu báu thù diệu.
    Mong với sự thật này,
    Được sống chơn hạnh phúc.
    
    Dầu vị ấy có làm
    Điều ác ǵ đi nữa,
    Với thân hay với lời,
    Kể cả với tâm ư,
    Vị ấy không có thể
    Che đậy việc làm ấy,
    Vị ấy được nói rằng,
    Không thể thấy ác đạo.
    Như vậy, nơi Tăng chúng,
    Là châu báu thù diệu.
    Mong với sự thật này,
    Được sống chơn hạnh phúc.
    
    Đẹp là những cây rừng
    Có bông hoa đầu ngọn,
    Trong tháng ba nóng bức,
    Những ngày hạ đầu tiên,
    Pháp thù thắng thuyết giảng,
    Được ví dụ như vậy,
    Pháp đưa đến Niết-bàn,
    Pháp hạnh phúc tối thượng.
    Như vậy, nơi Đức Phật,
    Là châu báu thù diệu
    Mong với sự thật này,
    Được sống chơn hạnh phúc.
    
    Cao thượng, biết cao thượng,
    Cho, đem lại cao thượng,
    Bậc vô thượng thuyết giảng,
    Pháp cao thượng thù thắng.
    Như vậy, nơi đức Phật,
    Là châu báu thù diệu.
    Mong với sự thật này,
    Được sống chơn hạnh phúc.
    
    Nghiệp cũ đă đoạn tận,
    Nghiệp mới không tạo nên,
    Với tâm tư từ bỏ,
    Trong sanh hữu tương lai.
    Các hột giống đoạn tận,
    Ước muốn không tăng trưởng,
    Bậc trí chứng Niết-bàn,
    Ví như ngọn đèn này.
    Như vậy, nơi Tăng chúng,
    Là châu báu thù diệu.
    Mong với sự thật này,
    Được sống chơn hạnh phúc.
    
    Phàm ở tại đời này,
    Có sanh linh tụ hội,
    Hoặc trên cơi đất này,
    Hoặc chính giữa hư không,
    Hăy đảnh lễ đức Phật,
    Đă như thực đến đây,
    Được loài Trời, loài Người,
    Đảnh lễ và cúng dường.
    Mong rằng với hạnh này,
    Mọi loài được hạnh phúc.
    
    Phàm ở tại nơi này,
    Có sanh linh tụ hội,
    Hoặc trên cơi đất này,
    Hoặc chính giữa hư không.
    Hăy đảnh lễ Chánh pháp,
    Đă như thực đến đây,
    Được loài Trời, loài Người,
    Đảnh lễ và cúng dường.
    Mong rằng với hạnh này,
    Mọi loài được hạnh phúc.
    
    Phàm ở tại nơi này,
    Có sanh linh tụ hội,
    Hoặc trên cơi đất này,
    Hoặc chính giữa hư không.
    Hăy đảnh lễ chúng Tăng
    Đă như thực đến đây,
    Được loài Trời, loài Người,
    Đảnh lễ và cúng dường.
    Mong rằng với hạnh này,
    Mọi loài được hạnh phúc.
    
    

    Notes

    1. Indra-pillar: A tall hardwood pillar, planted at the entrance to a village.

    2. The person who has reached this stage in the practice will be reborn at most seven more times.

    3. These three qualities are the fetters abandoned when one gains one's first glimpse of Unbinding at stream-entry (the moment when one enters the stream to full Awakening).

    4. Four states of deprivation: rebirth as an animal, a hungry shade, an angry demon, or a denizen of hell. In the Buddhist cosmology, none of these states is eternal.

    5. The six great wrongs: murdering one's mother, murdering one's father, murdering an arahant (fully Awakened individual), wounding a Buddha, causing a schism in the Sangha, or choosing anyone other than a Buddha as one's foremost teacher.

    Ghi Chú

    1. Indra-pillar: A tall hardwood pillar, planted at the entrance to a village.

    2. Vị đă đạt đến cảnh giới này sẽ không tái sanh quá bảy lần.

    3. Ba loại kiết sử được đoạn diệt khi một vị thấy được Niết Bàn lần đầu tiên (đắc đạo quả Tu Đà Hườn, tầng Thánh đầu tiên).

    4. Bốn đọa xứ: súc sanh, ngạ quỷ, a tu la, hay địa ngục. Trong quan điểm của đạo Phật, những cảnh giới này đều không trường tồn.

    5. Sáu trọng tội: giết mẹ, giết cha, giết A La Hán (Bậc đă hoàn toàn Giác Ngộ), làm chảy máu Phật, chia rẽ Tăng Chúng, hay là chọn một Bậc Đạo Sư khác ng̣ai Đức Phật.

    7. Tirokudda Kanda — Hungry Shades Outside the Walls [go up]

    [This sutta also appears at Pv I.5.]

    Outside the walls they stand,
    	& at crossroads.
    At door posts they stand,
    	returning to their old homes.
    But when a meal with plentiful food & drink is served,
    	no one remembers them:
    Such is the kamma of living beings.
    
    Thus those who feel sympathy for their dead relatives
    give timely donations of proper food & drink
    	— exquisite, clean — 
    [thinking:] "May this be for our relatives.
    		May our relatives be happy!"
    
    And those who have gathered there,
    	the assembled shades of the relatives,
    with appreciation give their blessing
    for the plentiful food & drink:
    	"May our relatives live long
    	because of whom we have gained [this gift].
    	We have been honored,
    	and the donors are not without reward!"
    
    For there [in their realm] there's
    	no farming,
    	no herding of cattle,
    	no commerce,
    	no trading with money.
    They live on what is given here,
    	hungry shades
    	whose time here is done.
    
    As water raining on a hill
    flows down to the valley,
    	even so does what is given here
    	benefit the dead.
    As rivers full of water
    fill the ocean full,
    	even so does what is given here
    	benefit the dead.
    
    "He gave to me, she acted on my behalf,
    	they were my relatives, companions, friends":
    Offerings should be given for the dead
    when one reflects thus
    on things done in the past.
    For no weeping,
    	no sorrowing
    	no other lamentation
    		benefits the dead
    		whose relatives persist in that way.
    But when this offering is given, well-placed in the Sangha,
    it works for their long-term benefit
    and they profit immediately.
    
    In this way 	the proper duty to relatives has been shown,
    		great honor has been done to the dead,
    		and monks have been given strength:
    
    	The merit you've acquired
    		isn't small.
    

    7. Tirokudda Kanda — Kinh Ngoài Bức Tường [go up]

    [This sutta also appears at Pv I.5.]

    Ở bên ngoài bức tường,
    Bọn họ đứng chờ đợi,
    Giao lộ, ngă ba đường,
    Trở về mái nhà xưa,
    Đợi chờ bên cạnh cổng.
    
    Nhưng khi tiệc thịnh soạn,
    Được bày biện sẵn sàng,
    Đủ mọi thức uống ăn,
    Không một ai nhớ họ.
    Sự kiện này phát sinh
    Từ nghiệp xưa của họ.
    
    Vậy ai có từ tâm,
    Nhớ cho các thân nhân,
    Thức uống ăn thanh tịnh,
    Tốt đẹp và đúng thời.
    
    Món này cho bà con,
    Mong bà con an lạc,
    Đám ngạ quỷ thân bằng,
    Đă tề tựu chỗ đó.
    
    Sẽ mong muốn chúc lành,
    V́ thực phẩm đầy đủ,
    Mong quyến thuộc sống lâu,
    Nhờ người, ta hưởng lợi.
    
    V́ đă kính lễ ta,
    Thí chủ không thiếu quả
    Tại đó không cấy cày,
    Cũng không nuôi súc vật.
    
    Cũng không có buôn bán,
    Không trao đổi tiền vàng,
    Các ngạ quỷ họ hàng,
    Chỉ sống nhờ bố thí.
    
    Như nước đổ xuống đồi,
    Chảy xuống tận vực sâu,
    Bố thí tại chỗ này,
    Cung cấp loài ngạ quỷ.
    
    Như ḷng sông tràn đầy,
    Đưa nước đổ xuống biển,
    Bố thí tại chỗ này,
    Cung cấp loài ngạ quỷ.
    
    Người ấy đă cho ta,
    Đă làm việc v́ ta,
    Người ấy là quyến thuộc,
    Người ấy chính thân bằng.
    Hăy bố thí ngạ quỷ,
    Nhớ việc xưa chúng làm.
    
    Không khóc than, sầu muộn,
    Không thương tiếc cách ǵ,
    Giúp ích loài ngạ quỷ,
    Quyến thuộc làm như vầy,
    Không lợi cho ngạ quỷ.
    
    Nhưng khi vật cúng dường,
    Khéo đặt vào chư Tăng
    Ích lợi chúng lâu dài,
    Bây giờ, về sau nữa.
    
    Chánh pháp được giảng bày,
    Như vậy cho quyến thuộc,
    Kính trọng biết chừng nào,
    Đối với người đă khuất,
    Chư Tăng được cúng dường,
    Cũng tăng thêm dơng mănh,
    Người tích tụ công đức,
    Thật to lớn biết bao.
    

    8. Nidhi Kanda — The Reserve Fund [go up]

    A person stashes a fund away,
    deep underground, at the water line:
    "When a need or duty arises,
    this will provide for my needs,
    for my release if I'm denounced by the king,
    molested by thieves,
    in case of debt, famine, or accidents."
    With aims like this
    	in the world
    a reserve fund is stashed away.
    
    But no matter how well it's stored,
    deep underground, at the water line,
    it won't all always serve one's need.
    The fund gets shifted from its place,
    or one's memory gets confused;
    	or — unseen — 
    	water serpents make off with it,
    	spirits steal it,
    	or hateful heirs run off with it.
    When one's merit's ended,
    it's totally destroyed.
    
    But when a man or woman
    has laid aside a well-stored fund
    of giving, virtue,
    restraint, & self-control,
    	with regard to a shrine,
    	the Sangha,
    	a fine individual,
    	guests,
    	mother, father,
    	or elder sibling:
    That's a well-stored fund.
    	It can't be wrested away.
    	It follows you along.
    When, having left this world,
    	for wherever you must go,
    	you take it with you.
    This fund is not held in common with others,
    & cannot be stolen by thieves.
    
    So, prudent, you should make merit,
    the fund that will follow you along.
    This is the fund
    that gives all they want
    to beings human, divine.
    
    Whatever devas aspire to,
    	all that is gained by this.
    A fine complexion, fine voice,
    a body well-built, well-formed,
    lordship, a following:
    	all that is gained by this.
    Earthly kingship, supremacy,
    the bliss of an emperor,
    kingship over devas in the heavens:
    	all that is gained by this.
    The attainment of the human state,
    any delight in heaven,
    the attainment of Unbinding:
    	all that is gained by this.
    Excellent friends,
    appropriate application, 1
    mastery of clear knowing & release: 2
    	all that is gained by this.
    Acumen, 3 emancipations, 4
    the perfection of disciplehood:
    	all that is gained by this.
    Private Awakening, 5
    Buddhahood:
    	all that is gained by this.
    
    So powerful is this,
    	the accomplishment of merit.
    Thus the wise, the prudent,
    	praise the fund of merit
    	already made.
    

    8. Nidhi Kanda — Kinh Bảo Tàng [go up]

    Một người cất kho báu,
    Ở tận dưới giếng sâu,
    Nghĩ: "Nếu cần giúp đỡ,
    Nó ích lợi cho ta".
    
    Nếu bị vua kết án,
    Hoặc trả các nợ nần,
    Hoặc bị cướp giam cầm,
    Và đ̣i tiền chuộc mạng,
    Khi mất mùa, tai nạn,
    Với mục đích như vầy,
    Ở trên cơi đời này,
    Sẽ đến giành kho báu.
    
    Dẫu nó không bao giờ,
    Được cất kỹ như vậy,
    Ở tận dưới giếng sâu,
    Vẫn không đủ hoàn toàn,
    Giúp ích người mọi lúc.
    
    Kho báu bị dời chỗ,
    Hoặc người quên dấu vết,
    Hoặc rắn thần lấy đi,
    Hoặc thần linh tẩu tán,
    
    Hoặc đám người thừa kế,
    Kẻ ấy không chấp nhận,
    Di chuyển kho báu đi,
    Khi kẻ ấy không thấy.
    Và khi phước đức tận,
    Tất cả đều tiêu tan.
    
    Những khi người nam, nữ,
    Có bố thí, tŕ giới
    Hoặc thiền định, trí tuệ,
    Kho báu khéo để dành.
    
    Trong chùa, tháp, Tăng đoàn,
    Một cá nhân, lữ khách,
    Hoặc người mẹ, người cha,
    Hoặc là người anh nữa.
    
    Kho này khéo để dành,
    Đi theo người, không mất,
    Giữa mọi vật phải rời,
    Người cùng đi với nó.
    
    Không ai khác chia phần,
    Không cướp nào lấy được.
    Vậy những kẻ tinh cần,
    Hăy làm việc phước đức,
    Kho báu ấy theo người,
    Sẽ không bao giờ mất.
    
    Đây là một kho báu,
    Có thể làm thỏa măn,
    Mọi ước vọng thiên, nhân,
    Dù họ mong muốn ǵ,
    Đều đạt được tất cả,
    Nhờ công đức phước nghiệp.
    
    Vẻ đẹp của màu da,
    Vẻ đẹp của âm thanh,
    Vẻ đẹp của dáng h́nh,
    Vẻ đẹp của toàn thân,
    Địa vị thật cao sang,
    Cùng với đoàn hầu cận,
    Tất cả đều đạt được,
    Nhờ phước nghiệp công đức.
    
    Ngôi đế vương một cơi,
    Cực lạc Chuyển luân vương,
    Và ngự trên Thiên đường,
    Tất cả đều đạt được,
    Nhờ phước nghiệp công đức.
    
    Vẻ tối thắng của người,
    Mọi hoan lạc cơi trời,
    Hay tịch diệt tối thắng,
    Tất cả đều đạt được
    Nhờ phước nghiệp công đức.
    
    Đạt tối thắng bằng hữu,
    Chuyên tu tập chánh chân,
    Đạt minh trí giải thoát,
    Tất cả đều đạt được.
    Nhờ phước nghiệp công đức.
    
    Tứ vô ngại giải đạo,
    Tám cấp độ giải thoát,
    Viên măn trí Thanh văn,
    Cả hai cách giác ngộ:
    Độc giác, Chánh Đẳng giác,
    Tất cả đều đạt được,
    Nhờ phước nghiệp công đức.
    
    Phước báo thật lớn lao,
    Do công đức thù thắng,
    V́ thế kẻ tinh cần,
    Và những người có trí,
    Đă tạo nện kho tàng.
    Công đức nhờ phước nghiệp.
    

    Notes

    1. Proper practice of the Dhamma.

    2. Clear knowing = knowledge of previous lives, knowledge of the passing away and arising (rebirth) of beings, knowledge of the ending of the mental fermentations: sensual passion, becoming, views, ignorance. Release = release from the cycle of rebirth.

    3. Acumen = acumen with regard to the Dhamma, to its meaning, to language, & to quick-wittedness. These four talents are found in some, but not all, arahants.

    4. Emancipations. The Maha-nidana Suttanta [DN 15] describes the eight emancipations as follows:

    "Possessed of form, one sees forms. This is the first emancipation.

    "Not percipient of form internally, one sees forms externally. This is the second emancipation.

    "One is intent only on the beautiful. This is the third emancipation. With the complete transcending of perceptions of [physical] form, with the disappearance of perceptions of resistance, and not heeding perceptions of diversity, thinking, 'Infinite space,' one enters and remains in the dimension of the infinitude of space. This is the fourth emancipation. With the complete transcending of the dimension of the infinitude of space, thinking, 'Infinite consciousness,' one enters and remains in the dimension of the infinitude of consciousness. This is the fifth emancipation.

    "With the complete transcending of the dimension of the infinitude of consciousness, thinking, 'There is nothing,' one enters and remains in the dimension of nothingness. This is the sixth emancipation.

    "With the complete transcending of the dimension of nothingness, one enters and remains in the dimension of neither perception nor non-perception. This is the seventh emancipation.

    "With the complete transcending of the dimension of neither perception nor non-perception, one enters and remains in the cessation of perception and feeling. This is the eighth emancipation.

    "Now, when a monk attains these eight emancipations in forward order, in reverse order, in forward and reverse order, when he attains them and emerges from them wherever he wants, however he wants, and for as long as he wants, when through the ending of the mental fermentations he enters and remains in the fermentation-free awareness-release and discernment-release, having directly known it and realized it in the here and now, he is said to be a monk released in both ways. And as for another release in both ways, higher or more sublime than this, there is none."

    5. Private Awakening: Awakening as a Private Buddha, one who can gain Awakening without relying on the teachings of others, but who cannot formulate the Dhamma in the way a Full Buddha can.

    1. Tu tập Giáo Pháp chân chánh.

    2. Clear knowing = knowledge of previous lives, knowledge of the passing away and arising (rebirth) of beings, knowledge of the ending of the mental fermentations: sensual passion, becoming, views, ignorance. Release = release from the cycle of rebirth.

    3. Acumen = acumen with regard to the Dhamma, to its meaning, to language, & to quick-wittedness. These four talents are found in some, but not all, arahants.

    4. Giải thoát. The Maha-nidana Suttanta [DN 15] mô tả tám giải thóat như sau:

    "Tự ḿnh có sắc, thấy các sắc pháp. Đó là giải thoát thứ nhất.

    "Không biết tự ḿnh có sắc, thấy các sắc ngoài tự thân. Đó là giải thoát thứ hai.

    "Tâm mạnh hướng đến thanh tịnh. Đó là giải thoát thứ ba. Hoàn toàn vượt khỏi mọi sắc tưởng, đoạn diệt mọi hữu đối tưởng, không suy tư đến mọi tưởng dị biệt, với tư tưởng: "Hư không là vô biên", chứng và an trú Hư không vô biên xứ. Đó là giải thoát thứ tư. Hoàn toàn vượt khỏi Hư không vô biên xứ, với tư tưởng: "Thức là vô biên", chứng và an trú Thức vô biên xứ. Đó là giải thoát thứ năm.

    "Hoàn toàn vượt khỏi Thức vô biên xứ, với tư tưởng: "Vô sở hữu" chứng và an trú Vô sở hữu xứ. Đó là giải thoát thứ sáu.

    "Hoàn toàn vượt khỏi Vô sở hữu xứ, chứng và an trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đó là giải thoát thứ bảy.

    "Vượt khỏi hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và an trú Diệt thọ tưởng định. Đó là giải thoát thứ tám.

    "Khi một vị Tỷ-kheo thuận thứ thể nhập tám giải thoát này, có thể nhập và có thể xuất khỏi bất cứ giải thoát nào khi nào ḿnh muốn, chỗ nào ḿnh muốn và dài bao lâu ḿnh muốn - và với các lậu hoặc được đoạn trừ, vị Tỷ-kheo chứng và an trú trong tám giải thoát và tuệ giải thoát, không c̣n lậu hoặc ngay trong thời hiện tại, tự ḿnh thấu đạt và chứng ngộ. Không c̣n có một Câu giải thoát nào khác cao hơn và thù thắng hơn Câu giải thoát này.."

    5. Private Awakening: Awakening as a Private Buddha, one who can gain Awakening without relying on the teachings of others, but who cannot formulate the Dhamma in the way a Full Buddha can.

    9. Karaniya Metta Sutta — Good Will [go up]

    SuttaReadings.net iconListen to this sutta

    [This sutta also appears at Sn 1.8. Alternate translations: Buddharakkhita | Amaravati | Ñanamoli | Piyadassi]

    This is to be done by one skilled in aims
    who wants to break through to the state of peace:
    Be capable, upright, & straightforward,
    easy to instruct, gentle, & not conceited,
    content & easy to support,
    with few duties, living lightly,
    with peaceful faculties, masterful,
    modest, & no greed for supporters.
    
    Do not do the slightest thing
    that the wise would later censure.
    
    Think: Happy, at rest,
    may all beings be happy at heart.
    Whatever beings there may be,
    	weak or strong, without exception,
    	long, large,
    	middling, short,
    	subtle, blatant,
    	seen & unseen,
    	near & far,
    	born & seeking birth:
    May all beings be happy at heart.
    
    Let no one deceive another
    or despise anyone anywhere,
    or through anger or resistance
    wish for another to suffer.
    
    As a mother would risk her life
    to protect her child, her only child,
    even so should one cultivate a limitless heart
    with regard to all beings.
    With good will for the entire cosmos,
    cultivate a limitless heart:
    Above, below, & all around,
    unobstructed, without hostility or hate.
    Whether standing, walking,
    sitting, or lying down,
    	as long as one is alert,
    one should be resolved on this mindfulness.
    This is called a sublime abiding
    	here & now.
    
    Not taken with views,
    but virtuous & consummate in vision,
    having subdued desire for sensual pleasures,
    	one never again
    	will lie in the womb.
    

    9. Karaniya Metta Sutta — Kinh Từ Bi [go up]

    Vị thiện xảo mục đích,
    Cần phải làm như sau:
    Sau khi hiểu thông suốt,
    Con đường an tịnh ấy,
    Có khả năng, trực tánh,
    Thật sự, khéo chân trực,
    Dễ nói và nhu ḥa,
    Không có ǵ cao mạn.
    
    Sống cảm thấy vừa đủ,
    Nuôi sống thật dễ dàng,
    Ít có sự rộn ràng,
    Sống đạm bạc giản dị.
    Các căn được tịnh lạc,
    Khôn ngoan và thật trọng,
    Không xông xáo gia đ́nh,
    Không tham ái, tham vọng.
    
    Các sở hành của ḿnh,
    Không nhỏ nhen vụn vặt,
    Khiến người khác có trí,
    Có thể sanh chỉ trích.
    Mong mọi loài chúng sanh,
    Được an lạc, an ổn,
    Mong họ chứng đạt được,
    Hạnh phúc và an lạc.
    
    Mong tất cả những ai,
    Hữu t́nh có mạng sống,
    Kẻ yếu hay kẻ mạnh,
    Không bỏ sót một ai,
    Kẻ dài hay kẻ lớn,
    Trung, thấp, loài lớn, nhỏ.
    
    Loài được thấy, không thấy,
    Loài sống xa, không xa,
    Các loài hiện đang sống,
    Các loài sẽ được sanh,
    Mong mọi loài chúng sanh
    Sống hạnh phúc an lạc.
    
    Mong rằng không có ai,
    Lường gạt lừa dối ai,
    Không có ai khinh mạn,
    Tại bất cứ chỗ nào.
    Không v́ giận hờn nhau,
    Không v́ tưởng chống đối.
    Lại có người mong muốn,
    Làm đau khổ cho nhau.
    
    Như tấm ḷng người mẹ,
    Đối với con của ḿnh,
    Trọn đời lo che chở,
    Con độc nhất ḿnh sanh.
    Cũng vậy, đối tất cả
    Các hữu t́nh chúng sanh,
    Hăy tu tập tâm ư,
    Không hạn lượng rộng lớn.
    
    Hăy tu tập từ tâm,
    Trong tất cả thế giới,
    Hăy tu tập tâm ư,
    Không hạn lượng rộng lớn.
    Phía trên và phía dưới,
    Cũng vậy, cả bề ngang,
    Không hạn chế, trói buộc,
    Không hận, không thù địch.
    
    Khi đứng, hay khi đi,
    Khi ngồi, hay khi nằm,
    Lâu cho đến khi nào,
    Khi đang c̣n tỉnh thức,
    Hăy an trú niệm này,
    Nếp sống này như vậy,
    Được đời đề cập đến,
    Là nếp sống tối thượng.
    
    Ai từ bỏ tà kiến,
    Giữ giới, đủ chánh kiến,
    Nhiếp phục được tham ái,
    Đối với các dục vọng,
    Không c̣n phải tái sanh,
    Đi đến thai tạng nữa.
    

     Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

     Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
    Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

    Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

     | trở về đầu trang | Home page |