"I say, then: go fetch that young man."

 

 

"Ta nói,"Vậy các ngươi hãy dẫn nó lại đây cho trẫm xem".

 

Responding, "As you say, your majesty," they went and fetched Prince Dighavu.

 

"Dạ xin vâng", họ đi và dẫn hoàng tử Dighavu đến

Then King Brahmadatta said to Prince Dighavu, "I say: Was that you rising in the last watch of the night, singing in a sweet voice and playing a lute in the elephant stable?"

 

Đức vua hỏi Dighavu: "Này chàng thanh-niên hiền-lành kia, có phải chính ngươi thổi sáo và hát trong lúc trời rựng sáng đó không?"

"Yes, your majesty."

 

"Tâu Ðại Vương, phải".

"I say then, my young man: sing and play the lute."

 

"Và ta nói, vậy nhà ngươi hãy thổi sáo và hát thêm cho trẫm nghe nữa xem?"

Responding, "As you say, your majesty," and seeking to win favor, Prince Dighavu sang with a sweet voice and played the lute.

 

Hoàng-tử Dighavu vâng lời "vâng Đại Vưong"và trổ hết tài ba để tìm ân-huệ và sự tin-cậy của nhà vua

Then King Brahmadatta said to him, "I say: You, my young man, are to stay and attend to me."

 

Vua Brahmadatta phán: "Này chàng trai hiền-lành kia, vậy ngươi hãy ở lại đây hầu trẫm".

 

"As you say, your majesty," Prince Dighavu replied. Then he rose in the morning before King Brahmadatta, went to bed in the evening after him, did whatever the king ordered, always acting to please him, speaking politely to him. And it was not long before King Brahmadatta placed the prince close to him in a position of trust.

 

Chàng thanh-niên Dighavu vâng lịnh và trở thành người hầu đáng tin cậy của vua. Chàng thức dậy sớm hơn vua, đi ngủ sau vua, vui lòng vâng dạ và hành-sự theo mạng-lịnh của ngài, có tính-nết đều-hòa, nhu-thuận, lời nói dễ thương. Không lâu sau đó, chàng được đức vua Brahmadatta tín-dụng, luôn-luôn sống cận bên ngài.

 

Then one day King Brahmadatta said to Prince Dighavu, "I say then, my young man: harness the chariot. I'm going hunting."

 

Ngày nọ đức vua Brahmadatta dạy: "Hỡi chàng trai thân mến! Ngươi hãy sắp đặt một cỗ long xa để chúng ta đi săn bắn".

 

Responding, "As you say, your majesty," Prince Dighavu harnessed the chariot and then said to King Brahmadatta, "Your chariot is harnessed, your majesty. Now is the time for you to do as you see fit."

 

Hoàng tử trả lời "Tâu đại vương, xin vâng."Thắng ngựa xong, Dighavu đến tâu vua: "Tâu Ðại Vương, long xa đã sắp đặt xong, xin ngài tùy-tiện".

 

Then King Brahmadatta mounted the chariot, and Prince Dighavu drove it. He drove it in such a way that the king's entourage went one way, and the chariot another. Then, after they had gone far, King Brahmadatta said to Prince Dighavu, "I say then, my young man: unharness the chariot. I'm tired. I'm going to lie down."

 

 

Vua Brahmadatta ngự lên xe và hoàng tử Dighavu cầm cương ngựa tìm cách tách khỏi quân-lính tùy-tùng phía sau, rồi rẽ qua ngõ khác. Sau khi vượt hết một đoạn đường dài, nhà vua phán: "Này chàng trai thân mến, ngươi hãy dừng xe lại cho trẫm nằm nghỉ mệt một chút".

 

Responding, "As you say, your majesty," Prince Dighavu unharnessed the chariot and sat down cross-legged on the ground. Then King Brahmadatta lay down, placing his head on Prince Dighavu's lap. As he was tired, he went to sleep right away. Then the thought occurred to Prince Dighavu: "This King Brahmadatta of Kasi has done us great harm. He has seized our troops, vehicles, lands, armories, & granaries. And it was because of him that my mother & father were killed. Now is my chance to wreak vengeance!" He drew his sword from his scabbard. But then he thought, "My father told me, as he was about to die, 'Don't, my dear Dighavu, be far-sighted. Don't be near-sighted. For vengeance is not settled through vengeance. Vengeance is settled through non-vengeance.' It would not be proper for me to transgress my father's words." So he put his sword back in its scabbard. A second time... A third time the thought occurred to Prince Dighavu: "This King Brahmadatta of Kasi has done us great harm. He has seized our troops, vehicles, lands, armories, & granaries. And it was because of him that my mother & father were killed. Now is my chance to wreak vengeance!" He drew his sword from his scabbard. But then he thought, "My father told me, as he was about to die, 'Don't, my dear Dighavu, be far-sighted. Don't be near-sighted. For vengeance is not settled through vengeance. Vengeance is settled through non-vengeance.' It would not be proper for me to transgress my father's words." So once again he put his sword back in its scabbard.

 

 

Hoàng-tử Dighavu vâng lời dừng xe lại, bước xuống đất rồi ngồi tréo hai cẳng. Ðức vua Brahmadatta nằm xuống gối đầu trên bắp vế chàng rồi ngủ mê-man vì đi đường mệt-mỏi. lúc đó chàng thanh-niên Dighavu phát-sinh ý nghĩ: "Nhà vua Brahmadatta xứ Kasi này đã gây cho gia-đình ta muôn vàn đau khổ. Do ông mà chúng ta mất hết quân-lính, chiến xa, kho-tàng, của cải, giang-san. Ðã vậy, ông còn giết cha mẹ ta. Giờ đây, đã đến lúc ta phải rửa sạch hận thù". Tính xong, chàng rút gươm ra khỏi vỏ. Nhưng chàng sực nhớ lại lời cha dặn khi trước: "Không nên để kéo dài, hỡi đứa con thân mến! ... Không nên nóng-nảy, vội-vàng. Vì hận thù không sao rửa được hận thù và chỉ có dứt bỏ hận thù mới mong dập tắt hận thù". Như vậy, ta không nên cãi lời cha dạy". Nghĩ xong, Dighavu để gươm vào vỏ. Chàng suy đi nghĩ lại như vậy đến lần thứ hai, lần thứ ba, rồi để gươm vào vỏ".

 

Then King Brahmadatta suddenly got up — frightened, agitated, unnerved, alarmed. Prince Dighavu said to him, "Your majesty, why have you gotten up suddenly — frightened, agitated, unnerved, & alarmed?"

 

 

đức vua Brahmadatta đang ngủ mê bỗng giật mình hoảng-hốt. Chàng Dighavu hỏi: "Tâu Ðại Vương, chẳng biết tại duyên cớ chi, Ngài đang ngủ ngon lành, bỗng-nhiên lại giật mình hoảng-hốt, tỏ vẻ kinh-hoàng sợ-hãi như vậy?"

 

"I say, my young man: Just now as I was dreaming, Prince Dighavu — son of Dighiti, king of Kasi — struck me down with a sword." Then Prince Dighavu, grabbing King Brahmadatta by the head with his left hand, and drawing his sword from its scabbard with his right, said, "I, your majesty, am that very Prince Dighavu, son of Dighiti, king of Kasi. You have done us great harm. You have seized our troops, vehicles, lands, armories, & granaries. And it was because of you that my mother & father were killed. Now is my chance to wreak vengeance!"

 

 

Nhà vua đáp: "Hỡi người bạn trẻ! Trẫm ngủ nằm mộng thấy hoàng-tử Dighavu, con vua Dighiti xứ Kosala, đang tuốt gươm toan hạ sát ta, nên mới giật mình hoảng-hốt, kinh-hoàng, sợ-hãi như thế". Lúc ấy hoàng-tử Dighavu đặt tay trái lên đầu vua Brahmadatta, tay phải tuốt gươm ra khỏi vỏ và nói: "Chính tôi là Dighavu đây. Tôi là đông-cung thái-tử của vua Dighiti xứ Kosala. Ðại Vương đã gây quá nhiều đau khổ cho gia-quyến tôi. Ngài đã hủy-diệt quân-lính, chiến xa, kho-tàng, của cải, giang-san của chúng tôi. Ðã vậy, ngài còn giết hại cha mẹ tôi. Giờ đây, đã đến lúc tôi phải rửa sạch hận thù".

 

So King Brahmadatta, dropping his head down to Prince Dighavu's feet, said, "Grant me my life, my dear Dighavu! Grant me my life, my dear Dighavu!"

 

 

đức vua Brahmadatta xứ Kasi liền cúi đầu quì mọp xuống chân Dighavu khẩn-khoản: "Hỡi bạn thân mến Dighavu! Hãy tha chết cho trẫm, hãy để trẫm được toàn mạng".

 

"Who am I that I would dare grant life to your majesty? It is your majesty who should grant life to me!"

 

 

Dighavu trả lời: "Tâu Ðại Vương, làm sao tôi có thể tha chết cho ngài đặng? Chính ngài nên dung-tha cho tôi mới phải".

 

"In that case, my dear Dighavu, you grant me my life and I grant you your life."

 

 

Nhà vua đáp: "Thế thì xin chàng hãy tha chết cho trẫm và trẫm cũng để chàng được an-toàn".

 

Then King Brahmadatta and Prince Dighavu granted one another their lives and, taking one another by the hands, swore an oath to do one another no harm.

 

 

Như thế, vua Brahmadatta và Dighavu đều hoan-hỷ xóa bỏ hận thù, tha chết cho nhau. Hai người nắm tay tuyên-thệ sẽ không làm hại lẫn nhau".

 

Then King Brahmadatta said to Prince Dighavu, "In that case, my dear Dighavu, harness the chariot. We will go on."

 

 

Rồi vua Brahmadatta xứ Kasi phán: "Này bạn thân mến Dighavu, vậy chàng hãy sắp đặt long xa để chúng ta trở về". .

 

Responding, "As you say, your majesty," Prince Dighavu harnessed the chariot and then said to King Brahmadatta, "Your chariot is harnessed, your majesty. Now is the time for you to do as you see fit."

 

 

Hoàng tử trả lời "Tâu đại vương, xin vâng."Thắng ngựa xong, Dighavu đến tâu vua: "Tâu Ðại Vương, long xa đã sắp đặt xong, xin ngài tùy-tiện".

 

Then King Brahmadatta mounted the chariot, and Prince Dighavu drove it. He drove it in such a way that it was not long before they met up with the king's entourage.

 

 

Và rồi vua Brahmadatta lên long xa, và hoàng tử Dighavu điều khiển. Hoàng tử điều kiển không lâu trước khi họ gặp đoàn tùy tùng của nhà vua.

 

Then King Brahmadatta, having entered Varanasi, had his ministers & councilors convened and said to them, "I say, then. If you were to see Prince Dighavu, the son of Dighiti, the king of Kasi, what would you do to him?"

 

 

đức vua Brahmadatta xứ Kasi về tới triều, trong thành Bénarès, liền cho hội tất cả quân-thần và phán: "Này các khanh, nếu gặp được hoàng-tử Dighavu, con vua Dighiti xứ Kosala, thì các khanh sẽ xử-sự thế nào?"

 

Different ministers said, "We would cut of his hands, your majesty" — "We would cut off his feet, your majesty" — "We would cut off his hands & feet, your majesty" — "We would cut off his ears, your majesty" — "We would cut off his nose, your majesty" — "We would cut off his ears & nose, your majesty" — "We would cut off his head, your majesty."

 

 

Tâu Bệ Hạ, chúng tôi sẽ chặt tay chàng. Chúng tôi sẽ chặt chân chàng. Chúng tôi sẽ chặt luôn cả chân tay. Chúng tôi sẽ cắt tai chàng. Chúng tôi sẽ thẻo mũi chàng. Chúng tôi sẽ cắt cả tai, mũi chàng. Chúng tôi sẽ chặt đầu chàng".

 

Then the king said, "This, I say, is Prince Dighavu, the son of Dighiti, the king of Kasi. You are not allowed to do anything to him. It was by him that my life was granted to me, and it was by me that his life was granted to him."

 

 

Ðức vua phán: "Thì đây là hoàng-tử Dighavu, con vua Dighiti xứ Kosala. Nhưng trẫm cấm nhặt không cho ai đụng tới chàng. Vì chàng đã tha chết cho trẫm và trẫm cũng cam-kết để chàng được toàn-thân".

 

Then King Brahmadatta said to Prince Dighavu, "What your father said to you as he was about to die — 'Don't, my dear Dighavu, be far-sighted. Don't be near-sighted. For vengeance is not settled through vengeance. Vengeance is settled through non-vengeance' — in reference to what did he say that?"

 

 

Rồi vua Brahmadatta xứ Kasi hỏi: "Hỡi bạn thân mến Dighavu! Nhưng tại sao cha chàng trước khi chết lại dặn: "Chớ nên để kéo dài ... Chớ nên nóng-nảy, vội-vàng?"

 

"What my father said to me as he was about to die — 'Don't be far-sighted' — 'Don't bear vengeance for a long time' is what he was saying to me as he was about to die. And what he said to me as he was about to die — 'Don't be near-sighted' — 'Don't be quick to break with a friend' is what he was saying to me as he was about to die. And what he said to me as he was about to die — 'For vengeance is not settled through vengeance. Vengeance is settled through non-vengeance' — My mother & father were killed by your majesty. If I were to deprive your majesty of life, those who hope for your majesty's well-being would deprive me of life. And those who hope for my well-being would deprive them of life. And in that way vengeance would not be settled by vengeance. But now I have been granted my life by your majesty, and your majesty has been granted your life by me. And in this way vengeance has been settled by non-vengeance. That is what my father was saying to me as he was about to die."

 

 

Dighavu trả lời: "Tâu Ðại Vương, trước khi chết vua cha có dạy: "Chớ nên để kéo dài", có nghĩa là không nên để hận thù kéo dài thêm nữa. Ngài nói: "Chớ nên nóng-nảy, vội-vàng!", có nghĩa là chớ nên nóng lòng lôi kéo bạn bè tấn-công để rửa hận. Vua cha lại nói: "Không thể lấy hận thù rửa sạch hận thù, mà chỉ có dứt bỏ hận thù mới mong dập tắt hận thù", có nghĩa là khi Ðại Vương giết cha mẹ tôi, nếu tôi tìm cách hãm-hại ngài thì tất-nhiên quan quân của ngài sẽ giết tôi, rồi bè đảng của tôi tìm cách báo-oán, tàn-sát lại quân-lính của Ðại Vương. Làm vậy, không sao lấy hận thù để dập tắt hận thù đặng. Tâu Ðại Vương, nhưng giờ đây, ngài đã tha mạng sống cho tôi và tôi cũng chẳng sát hại ngài. Như vậy, sự dứt bỏ hận thù đã dập tắt hận thù. Ðó là những lời trăn-trối của vua cha trước khi thăng-hà".

 

Then King Brahmadatta said, "Isn't it amazing! Isn't it astounding! How wise this Prince Dighavu is, in that he can understand in full the meaning of what his father said in brief!" So he returned his father's troops, vehicles, lands, armories, & granaries, and gave him his daughter in marriage.

 

Lúc đó, vua Brahmadatta xứ Kasi phán: "Tuyệt-diệu thay! Chàng thanh-niên Dighavu thật rất thông-minh, nên đã lãnh-hội được những lời trối-trăn bóng gió, khó hiểu, của vua cha". Nói xong, ngài ra lịnh trả lại quân-lính, chiến xa, kho-tàng, của cải, đất đai cho Dighavu và gả luôn công-chúa cho chàng".

 

Such, monks, is the forbearance & gentleness of kings who wield the scepter, who wield the sword. So now let your light shine forth, so that you — who have gone forth in such a well-taught Dhamma & Discipline — will be their equal in forbearance & gentleness.

Mv 10.2.3-20

 

 

"Này các tỳ-khưu, đó là tư-cách bền tâm, nhẫn-nại, nhu-thuận của các vua chúa trị-vì thiên-hạ. Còn đối với các ngươi là bậc xuất-gia, nương theo giáo pháp tìm đường thánh thiện, các ngươi cũng phải bền tâm, nhẫn-nại thế nào để nghiêm-trì giới luật, bảo-tồn chân-lý chói ngời, rạng-rỡ trên khắp thế-gian".

 

4. Modesty [go up]

 

 

999

 

 

§ 4.1. "'This Dhamma is for one who is modest, not for one who is self-aggrandizing.' Thus was it said. With reference to what was it said? There is the case where a monk, being modest, does not want it to be known that 'He is modest.' Being content, he does not want it to be known that 'He is content.' Being reclusive, he does not want it to be known that 'He is reclusive.' His persistence being aroused, he does not want it to be known that 'His persistence is aroused.' His mindfulness being established, he does not want it to be known that 'His mindfulness is established.' His mind being centered, he does not want it to be known that 'His mind is centered.' Being endowed with discernment, he does not want it to be known that 'He is endowed with discernment.' Enjoying non-complication, he does not want it to be known that 'He is enjoying non-complication.' 'This Dhamma is for one who is modest, not for one who is self-aggrandizing.' Thus was it said. And with reference to this was it said."

AN 8.30

§ 4.1. "Này các Tỷ kheo, Pháp này để cho người it dục, Pháp này không để cho người có dục lớn, như vậy được nói đến. Do duyên gì được nói như vậy? Này các Tỷ kheo, ở đây Tỳ kheo ít dục, không muốn “Mong người ta biết là tôi ít dục”; sống viễn ly, không muốn “ Mong người ta biết tôi sống viễn ly”; tinh cần tinh tấn, không muốn “Mong người ta biết tôi sống tinh cần tinh tấn”; trú niệm, không muốn “Mong người ta biết tôi trú niệm”; có định, không muốn ”Mong người ta biết tôi có định”; có tuệ, không muốn “Mong người ta biết tôi có tuệ”; không thích hý luận, không muốn “Mong người ta biết tôi không thích hý luận”. Này các Tỷ kheo, Pháp này để cho người ít dục, Pháp này không để cho người có dục lớn” đã được nói đến như vậy. Do duyên này được nói như vậy."

AN 8.30

§ 4.2.
[Sumana:]
When I was seven
& newly gone forth,
having conquered with my power
the great powerful serpent,
I was fetching water for my preceptor
from the great lake, Anotatta,1
when the Teacher saw me & said:

"Look, Sariputta, at that one,
the young boy coming there,
carrying a pot of water,
well-centered within,
his practices — inspiring;
his bearing — admirable.
He's Anuruddha's novice,
mature in his powers,
made thoroughbred by a thoroughbred,
good by one who is good,
tamed by Anuruddha,
trained by one whose task
is done.

He,      having reached the highest peace
& realized the unshakable,
Sumana the novice
wants this:
'Don't let anyone know me.'"
Thag 6.10

§ 4.2.

[Sumana:]

Từ hồ nước to lớn,
Tên A-no-tat-ta
Ta đem nước hồ về,
Cho bậc giáo thọ sư,
Thấy vậy bậc Đạo Sư,
Nói về ta như sau:
Này Sà-ri-put-ta!
Xem đứa trẻ này đến,
Tự bưng cầm ghè nước,
Nội tâm khéo định tỉnh.
Với nhiệm vụ khả ái,
Cử chỉ rất thuần thiện.
Người đệ tử Sa-di,
Của Anuruddha,
Có thần thông uy lực,
Thuần thục và điêu luyện.
Thuần lương nhờ giáo dục,
Do vị đại thuần lương,
Thiện hạnh nhờ giáo dục,
Bởi bậc khéo thiện hạnh.
Nhờ Anuruddha,
Khéo huấn luyện điều phục,
Được học tập giảng dạy,
Làm xong việc phải làm.
Đạt được tịnh tối thắng,
Chứng đắc, không dao động,
Sa-di Sumana,
Muốn: 'Không ai biết ta'.

Thag 6.10

Note

1. Anotatta: A fabulous lake located in the Himalayas, famed for the purity of its cool waters. Sumana would have had to use his psychic powers to fetch water from there.

 

 

999

 

5. Contentment [go up]

 

 

999

 

§ 5.1. "'This Dhamma is for one who is content, not for one who is discontent.' Thus was it said. With reference to what was it said? There is the case where a monk is content with any old robe cloth at all, any old almsfood, any old lodging, any old medicinal requisites for curing sickness at all. 'This Dhamma is for one who is content, not for one who is discontent.' Thus was it said. And with reference to this was it said.

AN 8.30

§ 5.1. "Này các Tỳ kheo, Pháp này để cho người biết đủ, Pháp này không để cho người không biết đủ, nhu vậy đã được nói đến. Do duyên gì được nói như vậy? Ở đây, này các Tỷ kheo. Tỷ kheo biết đủ với bất cứ vật dụng gì như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Này các Tỷ kheo, Pháp này để cho người biết đủ, Pháp này không để cho người không biết đủ” đã được nói đến như vậy. Do duyên này được nói như vậy.

AN 8.30

§ 5.2. "And how is a monk content? Just as a bird, wherever it goes, flies with its wings as its only burden; so too is he content with a set of robes to provide for his body and alms food to provide for his hunger. Wherever he goes, he takes only his barest necessities along. This is how a monk is content.

DN 2

 

 

999

.

§ 5.3. "There is the case where a monk is content with any old robe cloth at all. He speaks in praise of being content with any old robe cloth at all. He does not, for the sake of robe cloth, do anything unseemly or inappropriate. Not getting cloth, he is not agitated. Getting cloth, he uses it unattached to it, uninfatuated, guiltless, seeing the drawbacks (of attachment to it), and discerning the escape from them. He does not, on account of his contentment with any old robe cloth at all, exalt himself or disparage others. In this he is diligent, deft, alert, & mindful. This is said to be a monk standing firm in the ancient, original traditions of the noble ones.

 

§ 5.3. " Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết đủ với bất cứ loại y nào, và nói lời tán thán sự biết đủ với bất cứ loại y nào, không vì nhân y phục rơi vào sự tầm cầu bất chính, không thích hợp. Nếu không được y, không có lo âu tiếc nuối; nếu được y không có tham lam, mê say, tham đắm; thấy sự nguy hiểm và với trí tuệ thấy được sự xuất ly, vị ấy hưởng thọ y, không vì biết đủ với bất cứ loại y nào, không có khen mình chê người. Ai ở đây, không khéo (thiện xảo), không có thụ động, tỉnh giác, chánh niệm, này các Tỷ-kheo, đấy gọi là Tỷ-kheo đứng ở trên Thánh truyền thống, kỳ cựu, được nhận biết là tối sơ.

 

"Furthermore, the monk is content with any old almsfood at all. He speaks in praise of being content with any old almsfood at all. He does not, for the sake of almsfood, do anything unseemly or inappropriate. Not getting almsfood, he is not agitated. Getting almsfood, he uses it unattached to it, uninfatuated, guiltless, seeing the drawbacks (of attachment to it), and discerning the escape from them. He does not, on account of his contentment with any old almsfood at all, exalt himself or disparage others. In this he is diligent, deft, alert, & mindful. This is said to be a monk standing firm in the ancient, original traditions of the noble ones.

 

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết đủ với bất cứ loại khất thực nào, và nói lời tán thán sự biết đủ với bất cứ loại khất thực nào, không vì nhân khất thực rơi vào sự tầm cầu bất chính, không thích hợp. Nếu không được đồ ăn khất thực, không có lo âu tiếc nuối; nếu được đồ ăn khất thực, không có tham lam, mê say, tham đắm; thấy sự nguy hiểm và với trí tuệ thấy được sự xuất ly, vị ấy hưởng thọ đồ ăn khất thực, không vì biết đủ với bất cứ loại đồ ăn khất thực nào, không có khen mình, chê người. Ai ở đây khôn khéo (thiện xảo), không có thụ động, tỉnh giác, chánh niệm, này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo đứng ở trên Thánh truyền thống, kỳ cựu, được nhận biết là tối sơ.

 

"Furthermore, the monk is content with any old lodging at all. He speaks in praise of being content with any old lodging at all. He does not, for the sake of lodging, do anything unseemly or inappropriate. Not getting lodging, he is not agitated. Getting lodging, he uses it unattached to it, uninfatuated, guiltless, seeing the drawbacks (of attachment to it), and discerning the escape from them. He does not, on account of his contentment with any old lodging at all, exalt himself or disparage others. In this he is diligent, deft, alert, & mindful. This is said to be a monk standing firm in the ancient, original traditions of the noble ones."

AN 4.28

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết đủ với bất cứ loại sàng tọa nào, và nói lời tán thán sự biết đủ với bất cứ loại sàng tọa nào, không vì nhân sàng tọa rời vào sự tầm cầu bất chính, không thích hợp. Nếu không được sàng tọa, không có lo âu tiếc nuối; nếu được sàng tọa, không có tham lam, mê say, đắm đuối; thấy sự nguy hiểm và với trí tuệ thấy được sự xuất ly, vị ấy hưởng thọ sàng tọa, không có khen mình chê người. Ai ở đây khôn khéo, (thiện xảo), không có thụ động, tỉnh giác, chánh niệm, này các Tỷ-kheo, đây gọi là vị Tỷ-kheo đứng ở trên Thánh truyền thống kỳ cựu, được nhận biết là tối sơ.

AN 4.28

§ 5.4.
[MahaKassapa:]
Coming down from my dwelling place,
I entered the city for alms,
stood courteously next to a leper
eating his meal.

He, with his rotting hand,
tossed me a morsel of food,
and as the morsel was dropping,
a finger fell off
right there.

Sitting next to a wall,
I ate that morsel of food,
and neither while eating it,
nor having eaten,
did I feel
any disgust.

Whoever has mastered
left-over scraps for food,
smelly urine for medicine,
the foot of a tree for a dwelling,
cast-off rags for robes:
He is a man
of the four directions.

* * *

This is enough for me —
desiring to do jhana,
resolute, mindful;
enough for me —
desiring the goal,
resolute,
a monk;
enough for me —
desiring comfort,
resolute,
in training;
enough for me —
desiring my duty,
resolute,
Such.

* * *

There is no such pleasure for me
in the music of a five-piece band
as there is when my mind
is at one,
seeing the Dhamma
aright.
Thag 18

§ 5.4.

[MahaKassapa:]

Từ trú xứ bước xuống,
Ta vào thành khất thực,
Ta cẩn thận đến gần,
Một người cùi đang ăn.
Với bàn tay lở loét,
Nó bỏ vào một muỗng,
Khi bỏ vào muỗng ấy,
Ngón tay rời rơi vào.
Dựa vào một chân tường,
Ta ăn miếng ăn ấy,
Đang ăn và ăn xong,
Ta không cảm ghê tởm.
Miếng ăn đứng nhận được
Xem như thuốc tiêu hôi,
Chỗ nằm dưới gốc cây,
Và y từ đống rác,
Ai thọ dụng chúng được,
Được gọi người bốn phương.

* * *

Vừa đủ ta chánh niệm,
Hăng hái muốn tu thiền,
Vừa đủ ta Tỷ-kheo
Hăng hái muốn phước lợi.
Vừa đủ ta Tỷ-kheo,
Hăng hái muốn an lạc,
Vừa đủ ta Tỷ-kheo,
Hăng hái tu Du-già.

* *  *


Người vậy không ưa thích,
Cả năm loại nhạc khí,
Khi đã được nhất tâm,
Chơn chán thiền quán pháp.
Thag 18
 
 
 

 

 

§ 5.5. On one occasion the Blessed One was staying near Alavi on a spread of leaves by a cattle track in a simsapa forest. Then Hatthaka of Alavi, out roaming & rambling for exercise, saw the Blessed One sitting on a spread of leaves by the cattle track in the simsapa forest. On seeing him, he went to him and, on arrival, having bowed down to him, sat to one side. As he was sitting there he said to the Blessed One, "Lord, I hope the Blessed One has slept in ease."

 

§ 5.5. Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Àlavì, tại Gomagga, trong rừng Simsapà, trên chỗ có trải lá. Rồi Hatthaka, người Àlavì, đang đi bộ hàng du ngoạn, thấy Thế Tôn đang ngồi trên chỗ có trải lá trong rừng Simsapà ở Gomagga, thấy vậy, liền đi đến Thế Tôn ; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống mộ bên. Ngồi xuống một bên, Hatthaka người Àlavì bạch Thế Tôn :
-" Bạch Thế Tôn, Thế Tôn sống có an lạc không ? "

"Yes, young man. I have slept in ease. Of those in the world who sleep in ease, I am one."

 

-" Phải, này Hoàng Tử, ta sống được an lạc. Và những ai cảm thấy an lạc ở đời, Ta là một trong số những người ấy."

 

"But cold, lord, is the winter night. The 'Between-the-Eights' is a time of snowfall. Hard is the ground trampled by cattle hooves. Thin is the spread of leaves. Sparse are the leaves in the trees. Thin are your ochre robes. And cold blows the Verambha wind. Yet still the Blessed One says, 'Yes, young man. I have slept in ease. Of those in the world who sleep in ease, I am one.'"

 

-" Bạch Thế Tôn, lạnh là đêm mùa đông, thời gian giữa những ngày tám (trước và sau ngày rằm) là thời gian tuyết rơi, cứng rắn là đất do trâu bò dẫm đạp, mỏng manh là nệm làm bằng lá, lưa thưa là những lá của cây, lạnh là tấm vải cà Savittha, và lạnh là làn gió thổi.
Rồi Thế Tôn nói như sau :
- "Phải, này Hoàng Tử, ta sống được an lạc. Và những ai cảm thấy an lạc ở đời, Ta là một trong số những người ấy."

 

"In that case, young man, I will question you in return. Answer as you see fit. Now, what do you think: Suppose a householder or householder's son has a house with a gabled roof, plastered inside & out, draft-free, with close-fitting door & windows shut against the wind. Inside he has a horse-hair couch spread with a long-fleeced coverlet, a white wool coverlet, an embroidered coverlet, a rug of kadali-deer hide, with a canopy above, & red cushions on either side. And there a lamp would be burning, and his four wives, with their many charms, would be attending to him. Would he sleep in ease, or not? Or how does this strike you?"

 

-"Vậy nay, này Hoàng Tử, ở đây ta sẽ hỏi Hoàng Tử, nếu có thể kham nhẫn, Hoàng Tử hãy trả lời. Hoàng Tử nghĩ thế nào, này Hoàng Tử ? Ở đây, người gia chủ hay con người gia chủ có nhà có nóc nhọn, với các tường trét trong trét ngoài, che chở khỏi gió, chốt cửa được khóa chặt, các cửa sổ được đóng kín. Trong ấy, có một chỗ nằm có tấm thảm len với lông dài, với tấm vải giường bằng len trắng, chăn len thêu bông, nệm bằng da quý con sơn dương kadaki, tấm thảm có tàn tre phía trên và gối nệm đỏ cả hai đầu, có đèn thắp đỏ và bốn bà vợ đẹp hầu hạ. Này Hoàng Tử, Hoàng Tử nghĩ thế nào, người ấy nằm ngủ có an lạc không ? Hay Hoàng Tử nghĩ thế nào ?"

"Yes, lord, he would sleep in ease. Of those in the world who sleep in ease, he would be one."

 

- "Bạch Thế Tôn, người ấy nằm ngủ an lạc. Nếu có những người cảm thấy an lạc ở đời, người ấy là một trong những người ấy."

 

"But what do you think, young man. Might there arise in that householder or householder's son any bodily fevers or fevers of mind born of passion so that — burned with those passion-born fevers — he would sleep miserably?"

 

-" Hoàng Tử nghĩ thế nào, này Hoàng tử, với người gia chủ hay người con của người gia chủ ấy, khởi lên những nhiệt lão về thân hay về tâm, do tham ái sanh. Bị nung đốt bởi những nhiệt não do tham ái sanh, người ấy có cảm thấy đau khổ không ?"

"Yes, lord."

-" Thưa có, bạch Thế Tôn."

 

"As for those passion-born fevers — burned with which the householder or householder's son would sleep miserably — that passion has been abandoned by the Tathagata, its root destroyed, like an uprooted palm tree, deprived of the conditions of existence, not destined for future arising. Therefore he sleeps in ease.

 

-" Người gia chủ hay con của người gia chủ ấy, này Hoàng Tử, bị nung đốt bởi những nhiệt não do tham ái sanh, cảm thấy đau khổ. Tham ái ấy, Như Lai đã đoạn tận, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. Do vậy ta cảm thấy an lạc."

 

"Now, what do you think, young man. Might there arise in that householder or householder's son any bodily fevers or fevers of mind born of aversion so that — burned with those aversion-born fevers — he would sleep miserably?"

 

-"Hoàng Tử nghĩ thế nào, này Hoàng Tử, với người gia chủ hay con của người gia chủ ấy, khởi lên những nhiệt não về thân hay tâm do sân sanh. Bị nung đốt bởi những nhiệt não do sân sanh, người ấy có cảm thấy đau khổ không ?"

"Yes, lord."

 

- "Thưa có, bạch Thế Tôn."

 

"As for those aversion-born fevers — burned with which the householder or householder's son would sleep miserably — that aversion has been abandoned by the Tathagata, its root destroyed, like an uprooted palm tree, deprived of the conditions of existence, not destined for future arising. Therefore he sleeps in ease.

 

-" Người gia chủ hay con của người gia chủ ấy, này Hoàng Tử, bị nung đốt bởi những nhiệt não do sân sanh, cảm thấy đau khổ. Sân ấy, Như Lai đã đoạn tận, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. Do vậy ta cảm thấy an lạc.

 

"Now, what do you think, young man. Might there arise in that householder or householder's son any bodily fevers or fevers of mind born of delusion so that — burned with those delusion-born fevers — he would sleep miserably?"

"Yes, lord."

-"Hoàng Tử nghĩ thế nào, này Hoàng Tử, với người gia chủ hay con của người gia chủ ấy, khởi lên những nhiệt não về thân hay tâm do si sanh. Bị nung đốt bởi những nhiệt não do si sanh, người ấy có cảm thấy đau khổ không ?"

-" Thưa có, bạch Thế Tôn."

"As for those delusion-born fevers — burned with which the householder or householder's son would sleep miserably — that delusion has been abandoned by the Tathagata, its root destroyed, like an uprooted palm tree, deprived of the conditions of existence, not destined for future arising. Therefore he sleeps in ease.

 

-" Người gia chủ hay con của người gia chủ ấy, này Hoàng Tử, bị nung đốt bởi những nhiệt não do si sanh, cảm thấy đau khổ. Si ấy, Như Lai đã đoạn tận, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. Do vậy ta cảm thấy an lạc."

 

"Always, always,
he sleeps in ease:
the brahman totally unbound,
who doesn't adhere
to sensual pleasures,
who's without acquisitions
& cooled.

Having cut all ties
& subdued fear in the heart,
calmed,
he sleeps in ease,
having reached peace
of awareness."
AN 3.34

 

Luôn luôn được an lạc,

Vi phạm chí tịch tịnh
Không bị dục uế nhiễm
Trong mát, không sanh y, 
Mọi tham trước dứt đoạn,
Nhiếp phục tâm sầu khổ, 
An tịnh, cảm thọ lạc
Với tâm đạt an tịnh.

AN 3.34

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

  Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật trình bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

Trang trước | Trang kế| trở về đầu trang | Home page |