TT. Thích Giác Đẳng Tu Tập Tứ Vô Lượng Tâm - Bài 5: Sinh Hoạt Của Sáu Thức
Minh Hạnh chuyển biên
(Xin
lưu ý: những bài chuyển biên này chúng tôi hoan hỷ với những ai tải về
trang web nhà, để tôn trọng Giảng Sư xin giữ y bản chính, xin đừng sửa
chữa. Và xin đề rõ tên người chuyển biên) Trong chương trình Phật Pháp tối nay sẽ khác hơn chương trình buổi sáng chúng ta đã tham dự, trong chương trình này chúng ta sẽ phối hợp hai phương thức học Phật Pháp: Một là phương thức cổ điển và hai là phương pháp tân giáo dục hôm nay. Chúng tôi sẽ kể cho qúi vị nghe một câu chuyện ngắn có tên là "Pháp sư bắt chồn" rồi sau đó thì chúng tôi sẽ đem câu câu chuyện xưa rất là xưa này vào trong bài học, và tất cả chúng ta sẽ thực tập, ở trong phần thực tập này qúi vị cần một ít suy nghĩ, một ít trí nhớ và một ít kiên nhẫn để quan sát vấn đề, do vậy mỗi vị phải có một cây viết và một tờ giấy. Truyện kể rằng ngày xưa thời Đức Phật còn tại thế có một vị pháp sư tinh thông Tam Tạng kinh điển, nhưng vị này tu rất lâu vẫn chỉ lo học thôi chứ không hành đạo do vậy không đắc chứng được đạo quả. Rồi một lần đến thăm Đức Phật đảnh lễ Đức Phật, vị này thăm Đức Phật ở trong tâm trạng nghĩ rằng Đức Phật sẽ dạy dỗ thêm cho mình về giáo lý, nhưng trái ngược lại Đức Phật đã không dạy cho vị này điều gì mà Đức Phật chỉ kêu vị đó là "Người rỗng không". Nghe kêu như vậy thì vị pháp sư cảm thấy buồn tủi, và qua sự gợi ý của Đức Phật vị này biết rằng mình phải dành thì giờ nhiều hơn nữa để hành đạo. Bấy giờ vị này mới đi tìm các vị trưởng lão, các vị danh tăng đệ tử cao đồ của Đức Phật để học phương pháp hành thiền. Nhưng bởi vì là một vị Pháp Sư tinh thông Tam Tạng và rất nổi tiếng và dạy nhiều đệ tử nên không ai dám nhận lời dạy vị pháp sư này hết, một số vị thì ngại rằng vị này trình độ học quá cao mình không đủ khả năng để dạy dỗ, và một số vị khác như Ngài Xá Lợi Phất, Ngài Mục Kiền Liên v.v... thì hiểu rằng vị này rất ngã mạn do đó nếu mình dạy thì vị này cũng không tiếp nhận một cách bình thường như những người hành đạo khác. Do vậy tất cả các vị trưởng lão, tất cả các vị đệ tử Phật có kinh nghiệm tu tập đều từ chối không đưa ra bất cứ sự hướng dẫn nào cho vị Pháp Sư này về vấn đề hành thiền. Sau cùng Ngài Xá Lợi Phất giới thiệu vị Pháp Sư này đến một vị Sadi sống ở ngoài thành Xá Vệ và vị Sadi này tuổi còn rất nhỏ, nhưng Ngài Xá Lợi Phất cho biết đó là vị Sadi đã có sự tu chứng tương đối cao. Đức Phật nói rằng sự sống của con người chỉ là sự sinh hoạt của sáu giác quan mà thôi: Nhưng nói trên lý thuyết thì nghe rất dễ, tuy nhiên có rất ít người Phật tử hiểu được tầm quan trọng thế nào là phân biệt sự sinh hoạt của mắt, của tai, của mũi, lưỡi, thân, ý. Ví dụ như bây giờ chúng tôi nói đến chuyện trang hoàng nhà cửa, trang hoàng nhà cửa để làm gì? là để vừa con mắt mình phải không? để con mắt chúng ta đi ra đi vô thấy bàn ghế màu không đúng với nhãn quan của chúng ta và sắp xếp không được như ý chúng ta thì chúng ta không chịu, do đó chúng ta bỏ rất nhiều tiền cho con mắt của chúng ta. Rồi việc ăn uống là gì, nếu ăn để mà sống thì thức ăn thật là đơn giản, chúng ta không phải tốn nhiều tiền để mua thức ăn đắt ở tiệm mang về, hay mua rau mười mấy đồng một ký, chúng ta có thể ăn bánh mì và nước lạnh để sống qua ngày. Nhưng lưỡi chúng ta có nhiều nhu cầu hơn do đó chúng ta cần hơn. Thì như vậy; thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng, tạo ra nền văn hoá rất lớn trong xã hội loài người, có những kỹ nghệ chỉ để thoải mãn một giác quan thôi thì kỹ nghệ đó đáng tỷ tỷ bạc. Lấy ví dụ như âm nhạc, âm nhạc để làm gì? để cho tai của chúng ta vừa ý phải không? cho nghe vừa tai chúng ta, người ta tốn không biết bao nhiêu tiền vì điều đó. Do vậy khi một người hành giả thiền định thì người này có làm một công việc là cố gắng để phân biệt cái nào thuộc về thấy, cái nào thuộc về nghe, cái nào thuộc về ngửi, cái nào thuộc về nếm, cái nào thuộc về đụng, cái nào thuộc về suy nghĩ và cái nào là sắc, cái nào là thinh, cái nào là khí, cái nào là vị, cái nào là xúc. Sắc là cái gì con mắt thấy, thinh là tiếng mà tai nghe, khí hay là hương là mùi mũi ngửi, vị đắng cay ngọt lạt v.v... đó là cái gì lưỡi nếm. Và cái nóng, cái lạnh, cái êm, cái không êm, đó là thuộc về thân của mình, thuộc về xúc giác. Còn thuộc về ý thì có nhu cầu rất lớn của nó, có vị nào ở đây quen đọc sách thì qúi vị cảm thông được tâm trạng này, có một lúc nào đó mà chúng ta không có sách đọc thì cảm thấy buồn vô cùng, buồn một cách da diết và gặp một cuốn sách thì coi ngấu nghiến. Chúng tôi nhớ hồi xưa khi ở Thái Lan trong một làng rất hẻo lánh, không có sách vở Việt Nam, một lần có một người gửi cho chúng tôi một tạp chí Việt Nam, chúng tôi đọc từ đầu đến cuối không bỏ trang nào. Nó là gì? Nó là thức ăn của ý. Do đó cái gì ngoài thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng, cái đó là ý. Làm cái gì đó cho vui cho buồn, giả tỉ như tình thương, tình yêu là thuộc về ý, hạnh phúc thuộc về ý, nhưng sự hoài niệm cũng thuộc về ý, như trường hợp cái gì qúi vị ngó bằng con mắt thì đó là cảnh sắc, như bức tranh mà qúi vị ngó trên đường rồi về qúi vị hồi nhớ tưởng lại thì nó không còn là cảnh sắc nữa, tại qúi vị không dùng con mắt nữa mà là dùng ý để nhớ. Phân biệt ra điều này thì chúng ta sẽ có rất nhiều điểm lợi. Do vậy trong đạo Phật nói đến người tu là người phải biết nhiếp phục sáu căn, phải biết hành hoạt của sáu căn, sáu căn tiếp xúc với sáu cảnh như thế nào, sáu căn đó là bản thân của chúng ta, sáu cảnh đó là môi trường sống của chúng ta và do vậy bài học đầu tiên chúng tôi sẽ đưa ra ở đây là chúng tôi sẽ nêu lên một điều gì đó và qúi vị cho chúng tôi biết là điều đó thuộc về sinh hoạt của giác quan nào, điều đó thuộc về để thoải mãn mắt, để thoải mãn tai, để thoải mãn mũi, thân, ý v.v.... Nhưng những điều chúng tôi đưa ra hoàn toàn không có liên quan đến Phật Pháp chỉ là cuộc sống hàng ngày của qúi vị thôi, do đó qúi vị nhớ và suy niệm rất kỹ xem điều đó thoải mãn điều nào trong giác quan của chúng ta. Bây giờ trước khi chúng ta bắt đầu chuyện đó thì chúng tôi muốn qúi vị ôn bài một chút xíu. Con người chúng ta có tất cả là sáu giác quan, giác quan thứ nhất là mắt, giác quan thứ hai là tai, giác quan thứ ba là lưỡi. Qúi vị nhớ như vậy, nhu cầu của miệng tức là nhu cầu về lời nói thuộc về ý chứ không thuộc về lưỡi, khi nào chúng ta nói về ăn uống hay là mặn ngọt chua cay thì mới là vị, như một người họ thích nói thì là thuộc về ý, khi nào chúng ta nếm thì mới thuộc về vị. Qúi vị nhớ là sáu giác quan của chúng ta là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ý. Bây giờ có một việc rất quan trọng, đó là: Cái mà mắt thấy gọi là sắc, Sắc, thinh, hương, khí, vị, xúc, pháp, nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý. Thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng, là sự hoạt động của sáu giác quan. Bây giờ chúng ta học là sáu căn, sáu cảnh và sáu thức. Nói về căn thì có mắt là nhãn căn, cái biết của mắt gọi là thị giác, con mắt thấy cảnh sắc. Bây giờ chuyện rất là quan trọng là chúng ta có thể truy ra được. Nhãn là mắt Nói cho đủ là cảnh sắc, cảnh thinh, cảnh khí, cảnh vị, cảnh xúc, cảnh pháp. Câu hỏi là một người thích mua quần áo đẹp thì họ mua quần áo là để thoả mãn cái gì trong sáu căn đó? Namo Buddhaya (Hết băng giảng 3) |
Muc Luc trang 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 |