TÌNH ĐỜI Ý ĐẠO

Tình đời, Ý đạo
(Cuộc đời Thánh tăng Ananda)
Hòa thượng Hộ Giác

Phần 4 - Trang 2

Phật lực

Cũng tại ngôi Ðông phương tự này, một buổi chiều, đức vua Pa-sê-na-đí vào bái kiến Ðức Tôn sư. Lúc bấy giờ có một số du sĩ các hệ phái khoảng 30 vị đi ngang qua, lông lá đầy mình, tóc tai dài thượt.

Thấy các vị ấy, nhà vua bạch Phật:

- Bạch Ðức Thế Tôn, các vị ấy có phải là những bậc Alahán?

- Tâu Ðại vương, người phàm còn ham thích khoái lạc vật chất thì khó mà nhận diện được ai đã đắc quả Alahán, ai chưa. Vì rằng, qua đàm thoại ta biết được trí tuệ, qua hành động ta biết được liêm chính, qua nguy biến ta biết được can trường. Ðể bảo đảm cho sự hiểu biết này phải dùng đến yếu tố thời gian và trí tuệ nhận xét.

- Này hiền đệ, Ðức Tôn sư quả thật khiêm tốn khi giải thích như vậy. Câu giải thích này như sen không thấm nước. Vì nếu Ðức Tôn sư nói trắng, các vị ấy không phải Alahán, thì tỏ ra tự tôn, bằng cho là phải thì vừa tự ti vừa không thành thật.

Ðức Tôn sư vừa dứt lời, vua Pa-sê-ná-đí vô cùng hoan hỉ. Ðức vua tán thán:

- Bạch Thế Tôn, thật là phi thường, thật là vi diệu, quả thật Ðức Tôn sư là bậc Toàn tri Diệu giác. Vì những vị ấy là mật thám viên của đệ tử.

Ðức Tôn sư ứng khẩu:

- Người hành đạo không nên có xảo thuật, không nên sống ỷ lại vào kẻ khác, không nên cố gắng bốc đồng, vô ý thức. Hãy sống cuộc sống thật sự nội tâm. Không nên đoán người qua hình thức, không nên quá tin lòng người sơ kiến. Vì gỗ, đất, thau, khi được mạ vàng thì hình thức sẽ bị đồng hóa, khó phân biệt.

Ðức Tôn sư cũng thường hay dạy các tỳ kheo:

- Này các tỳ kheo, mục đích Như Lai hành đạo không phải dối đời, không phải để được tôn sùng, không phải để có lợi lộc, danh vọng, không phải để trở thành giáo chủ. Mà mục đích hành đạo là để thúc liễm (Samvara), để dứt bỏ (Pàhàna), để chán nản (Viràga), để tịch tịnh (Nirodha).

- Này hiền đệ - Ðại đức Ananđa kể tiếp - tôi xin trở lại câu chuyện nàng Visàkhà. Một hôm, mặt mày bơ phờ, tóc tai ướt át, vừa đi vừa khóc. Nàng đến chùa bái kiến Ðức Tôn sư, báo tin buồn về cái chết đột ngột của đứa cháu gái mà nàng vô cùng thương mến vì tư chất thông mimh, ngoan hiền và là một cộng sự viên đắc lực trong các công tác phước thiện. Nàng nghẹn ngào kể lể:

- Bạch Ðức Thế Tôn, đệ tử vô cùng đau đớn. Nó chết, kể như đệ tử mất đi một cánh tay. Ðệ tử không làm sao tìm được một đứa cháu hiền, một cộng sự viên giỏi, một người bạn tốt như vậy.

- Này Visàkhà, trong thị trấn này có bao nhiêu dân số?
- Bạch Thế Tôn, có nhiều ức người.
- Nếu họ đều hiền, giỏi và tốt như Sú-đăt-ti cháu gái của ngươi thì ngươi có thương mến họ không?
- Bạch Ðức Thế Tôn, có.
- Có bao nhiêu người chết trong một ngày?
- Bạch Thế Tôn có nhiều người.

- Này Visàkhà, như vậy thì mỗi ngày ngươi phải nhiều lần bơ phờ, ủ dột, khóc lóc tiếc thương, hai hàng lệ chảy vì cái chết của những người ấy. Visàkhà này, thương yêu là nguyên nhân khổ não. Do đó, thương yêu nhiều, khổ não nhiều. Như lửa càng tăng thì nóng càng gắt.

Lãnh hội được Phật ngôn, nàng Visàkhà vơi bớt sầu khổ, tâm trạng trở lại bình thường. Nàng là bậc thánh nhập lưu nên chỉ có giới kiên cố, phần định và huệ thì chưa. Do đó, thỉnh thoảng cũng quên mình.

- Này hiền đệ, nơi nào có thương yêu nơi đó không có an tịnh. Cũng như nơi nào có giông gió nơi đó mặt nước phải chao động. Người đời chỉ thật sự an tịnh khi bình tĩnh đón nhận nghịch cảnh và tự chế trước thuận cảnh hoặc ít ra không phủ nhận nghịch cảnh.

Nàng Visàkhà có hai nữ bằng hữu là Súp-pá-va-sa và Súp-pí-da. Sau mỗi lần nghe pháp, ba người rủ nhau đi quanh chùa vấn an và tìm hiểu nhu cầu tứ sự của chư tăng để chung lo hộ độ.

Một hôm, vấn an một vị tỳ kheo bệnh, biết được nhu cầu cần có một tô nước súp để làm phương trị liệu, nàng Súp-pí-da lật đật về nhà, nhờ người giúp việc mua thịt. Nhưng rủi hôm ấy là ngày 30, chợ không bán thịt. Phần nhớ đến hình dáng vô cùng tiều tụy của vị tỳ kheo, phần nhớ Phật ngôn, rằng phụng sự người bệnh là phụng sự Ðức Phật, nàng quyết định lấy dao bén, tự tay xẻo thịt của mình nấu súp rồi sai người giúp việc đem dâng vị tỳ kheo bịnh. Còn nàng tự tay băng bó vết thương và nằm vùi trong phòng. Chồng nàng về không thấy vợ ra đón như mọi khi bèn vào phòng ân cần thăm hỏi. Khi biết rỏ sự tình, thay vì giận vợ và vị tỳ kheo bịnh, chàng lại vô cùng hoan hỉ, vì thấy vợ có đức tin dõng mảnh, dám lóc thịt nấu súp cúng dường. Chàng lập tức đến Kỳ viên tịnh xá cung thỉnh Ðức Tôn sư và chư tăng thọ trai ngày hôm sau tại tư gia.

Ðến nhà, không thấy nàng Súp-pí-da, Ðức Tôn sư phán hỏi. Ðược chồng nàng cẩn bạch là nàng đang bịnh. Ðức Tôn sư dạy đỡ nàng đến diện kiến. Khi nàng cúi đầu đãnh lễ, Ðức Tôn sư phúc chúc: xin cho nữ đạo hữu được an lành. Ngài phán vừa dứt, thì lạ thay, vết thương lành ngay tức khắc và toàn thân nàng, da thịt lại càng tươi thắm hồng nhuận hơn trước. Quả thật Phật lực phi thường. Nhân câu chuyện này, Ðức Tôn sư chế định giới luật:

- Tỳ kheo dùng thịt không quán tưởng, phạm tác ác. Nếu là thịt người, phạm ưng phát lộ.

Phước và Tội

- Này hiền đệ, một sự kiện khác, biểu tượng Phật lực vô cùng mầu nhiệm, đó là tín nữ Súp-pá-va-sa. Nàng mang thai 7 năm, 7 tháng, và chuyển bụng 7 ngày, đau đến tắt thở, từng hồi. Nhưng nhờ có đức tin vững chắc và lòng trong sạch tuyệt đối nơi Ðức Tôn sư, nên trong giờ phút thập tử nhất sanh, mạng sống mỏng manh như sợi chỉ mành treo chuông ấy, nàng ngỏ ý nhờ chồng đãnh lễ đôi chân hạnh phúc Ðức Tôn sư và thay lời bạch hộ rằng:

- Bạch Ðức Thế Tôn, nữ đạo hữu Súp-pá-va-sa mang thai 7 năm, 7 tháng và chuyển bụng 7 ngày. Nàng chịu vô vàn thống khổ đến phải ngất lịm từng hồi, mạng sống không còn bảo đảm, nàng ngưỡng vọng Ðức Thế Tôn và xin cúi đầu đãnh lễ dưới chân Ðức Thế Tôn.

Ðức Thế Tôn phúc chúc:

- Xin cho tín nữ Súp-pá-va-sa được an lành, hết đau đớn.

Liền khi ấy, nàng hết đau đớn và sanh con rất dễ dàng. Cả mẹ con đều được vuông tròn. Chồng về tới thấy vậy vô cùng mừng rỡ. Không hẹn mà vợ chồng cùng ứng khẩu: ân Ðức Phật vô lượng.

Ít lâu sau, nàng nhờ chồng cung thỉnh Ðức Tôn sư và chư tăng quang lâm tư gia thọ trai 7 ngày. Nhưng Ðức Tôn sư đã nhận lời mời của một gia đình có nhiều thiện cảm với Ðại đức Mục kiền liên (Moggallana). Vì có sự trùng hợp, Ðức Tôn sư bèn dạy Ðại đức Mục kiền liên đến tận nhà thí chủ hỏi xem có thể dời đến tuần sau hay không? Nếu có sự trở ngại và không thể dời ngày được thì Ðức Tôn sư không thể nhận lời mời của nàng Súp-pá-va-sa.

Vâng lời Phật dạy, Ðại đức Mục kiền liên đến nhà thí chủ thuật lại tự sự. Thí chủ bạch:

- Bạch Ðại đức, nếu Ðại đức bảo đảm được 3 điều kiện, thì tôi sẽ vui lòng nhường. Ba điều kiện ấy là:

1- Gia tài, sự nghiệp của tôi sẽ không bị tiêu tán.
2- Tôi còn sống đến tuần tới.
3- Ðức tin không bị sứt mẻ.

Ðại đức đệ nhất thần thông im lặng giây phút:

- Này đạo hữu, hai điều kiện trước bần đạo bảo đảm được. Duy điều kiện thứ ba thì xin đạo hữu tự bảo đảm lấy.

Thí chủ bằng lòng dời đến tuần sau.

Ðức Tôn sư và các bậc thánh nhơn vô lậu thọ trai tại nhà nàng Súp-pá-va-sa suốt 7 ngày. Ðến ngày thứ bảy Ðức Tôn sư phán hỏi:

- Này Súp-pá-va-sa, 7 năm, 7 tháng mang thai nặng nhọc và suốt 7 ngày chuyển bụng khai hoa, đau đớn cùng cực, ngất lịm từng hồi vậy nàng còn muốn có con nữa không?

- Bạch Ðức Thế Tôn, đệ tử muốn được 7 đứa con như vậy nữa.

Ðức Tôn sư dạy:

- Này Súp-pá-va-sa, định luật là vậy. Vật không vừa lòng thì liên hệ với người mình vừa lòng. Vật không thương thì liên hệ với người mình thương. Sự khổ ẩn trong hình thức vui. Do đó, người đời rất dễ quên mình, thất niệm.

- Này hiền đệ- Ðại đức Ananđa kể tiếp- cũng tại Sa-văt-thi này, có rất nhiều sự kiện liên quan đến Phật hạnh, nhưng tôi chỉ xin kể thêm một chuyện nữa thôi gọi là bồi đắp đức tin và sự ngưỡng vọng của đệ. Câu chuyện như vầy:

- Cuối sơ thời (1) và đầu trung thời, tính theo lịch trình khai đạo của ÐứcThế Tôn. Thuở ấy là thời kỳ vàng son cực thịnh của chánh pháp, như ánh thái dương soi sáng khắp nơi, khiến quần chúng qui ngưỡng chánh pháp như trăm sông đổ về biển cả. Ngay đến đệ tử của các Hệ phái cũng bỏ đạo, qui y Tam bảo, tạo nên một phong trào đổi đạo chưa từng có trong lịch sử Ấn Ðộ. Do đó, giáo chủ các Hệ phái liên kết nhau mưu tìm biện pháp đối phó.

Chú thích: (1) Sơ thời là 15 năm đầu. Trung thời là 15 năm giữa. Hậu thời là 15 năm cuối của 45 năm Ðức Thế Tôn khai đạo.

Giai đoạn đầu, họ phát động chiến dịch tuyên truyền bằng cách chia ra nhiều đoàn tuyên vận, đứng tại ngã ba, ngã tư đường, các trục giao thông quan trọng hoặc tại những địa điểm đông dân cư, đồng loạt kêu gọi với một luận điệu thống nhất:

- Thưa đồng bào, nếu Ðức Sa môn Cồ Ðàm là Phật tổ thì chúng tôi cũng là Phật tổ; nếu Ngài là giáo chủ thì chúng tôi cũng là giáo chủ; sự cúng dường Sa môn Cồ Ðàm được phúc quả nhiều thế nào thì sự cúng dường chúng tôi cũng được phúc quả nhiều thế đó.

Chiến dịch tuyên truyền này hoàn toàn thất bại. Tiếng hô hào của họ bị lạc lõng như tiếng nói giữa sa mạc. Kết quả hoàn toàn trái ngược. Ðệ tử thuộc thành phần trí thức của họ cảm thấy xấu hổ, trơ trẻn nên bỏ đạo. Thành phần chưa có cảm tình với họ thì trở nên chán ghét.

Thất bại trên phương diện tuyên truyền, họ họp mặt để thảo bàn kế hoạch. Một người trong nhóm tương đối sắc bén, giảo hoạt phát biểu:

- Thưa các Ngài, trên đời có trăm mưu ngàn kế. Kế hoạch này thất bại ta áp dụng kế hoạch khác: công khai không được thì âm thầm, cường dũng không được thì nhu hòa. Tôi đề nghị chúng ta nên dùng mỹ nhân kế, vừa nhẹ nhàng vừa hiệu lực, nếu không kết quả trên mặt thực chất thì chúng ta sẽ thành công trên mặt dư luận. Tôi còn nhớ, trong hàng đệ tử chúng ta, có nàng Chin-cha (Cincà) đẹp như tiên nga ngọc nữ. Nếu nàng khứng giúp thì kế hoạch chắc chắn sẽ thành công.

Ðề nghị này được toàn thể tán đồng. Ngay lúc ấy, nàng Chin-cha cũng vừa đi tới. Vì có dụng ý trước, nên các vị Giáo chủ im lặng không nói một lời và cũng không buồn nhìn mặt nàng. Trước thái độ ấy, nàng hết sức kinh ngạc, khó chịu và tủi hổ. Nàng thưa:

- Thưa các Ngài, đệ tử không biết mình có hành động bất xứng thế nào khiến các Ngài xem đệ tử như người xa lạ? Xin các Ngài thương tình chỉ dạy để đệ tử ngăn ngừa về sau.

Chụp được thời cơ, một vị trong nhóm lên tiếng, giọng nói áo não:

- Này tín hữu, tín hữu thật là vô tình! Tín hữu không cần biết đến sự đau khổ của chúng tôi. Chúng tôi đang bị ông Sa môn Cồ Ðàm làm cho thân bại danh liệt, và gây thảm hại toàn bộ cơ sở: vật chất lẫn tinh thần. Thế mà tín hữu có ngó ngàng gì tới.

- Thưa các Ngài, nhà nghèo thì mới hay con thảo, nước loạn thì mới biết tôi trung. Con là đệ tử thì sự đau khổ của các Ngài cũng là sự đau khổ của con. Nhưng con là phận nữ nhi thì biết liệu phương gì để giúp các Ngài đắc lực. Xin các Ngài chỉ dạy. Nếu có thể được, thì con xin tình nguyện làm bất cứ những gì mà khả năng con cho phép.

Thấy kế hoạch có hiệu quả, các vị ấy nhờ nàng tiến hành mỹ nhân kế. Nàng bằng lòng vô điều kiện. Thoạt tiên, nàng tạo sự hoang mang, nghi ngờ trong hàng Phật tử bằng cách mỗi chiều, chờ Phật tử nghe pháp ra về thì nàng đi vào chùa. Có ai hỏi đi đâu thì nàng trả lời lấp lững rằng: các vị tìm hiểu chuyện người khác làm gì. Hoặc sáng sớm, nàng vô chùa trước, chờ đến giờ Phật tử vào chùa, thì nàng ngược chiều đi ra. Và nếu có ai hỏi thì nàng cũng úp mở trả lời rằng: chuyện nàng ăn đâu, ngủ đâu, nào có liên hệ gì đến họ mà lý sự. Hành động này được tiếp diễn đều đặn suốt hai tháng đầu như một Phật tử ngoan đạo, chân chánh.

Giai đoạn thứ hai, nàng dùng đòn phép tinh vi hơn, táo bạo hơn, đó là lời xác nhận bán chính thức của nàng, mỗi khi được hỏi đến. Nàng nói:

- Quí vị cũng như Ðức vua Pa-sê-ná-đí đi chùa sớm hôm, cúng dường, lễ bái đức Sa môn Cồ Ðàm lâu nay, chắc các vị biết người yêu của ông ta chớ.

Một số người non lòng nhẹ dạ, tò mò tìm biết, thì nàng giải thích bằng luận điệu vô cùng nguy hiểm rằng: "Ðức Phật là người đã từng hưởng thủ mọi thứ khoái lạc vật chất, nhất là dục lạc, thì tránh sao khỏi những giây phút yếu lòng. Chính lúc ấy, tôi là người diễm phúc được Ngài để dạ yêu thương. Sự đi đứng bất thường của tôi, cũng chỉ nhằm bảo vệ tình trạng lén lút ấy".

Câu kết luận này là chất bổi đổ vào đống lửa dư luận đang âm ỉ cháy. Nhóm ngoại đạo muốn đốt giai đoạn bằng cách tạo thêm sức gió rỉ tai thổi mạnh ngọn lửa dư luận, nhằm thiêu rụi toàn bộ uy tín và đạo nghiệp của Ðức Phật.

- Này hiền đệ, chính cá nhân tôi cũng nóng lòng và chua xót. Thấy tôi phiền não, Ðức Tôn sư dạy:

- Này Ananđa, người bóc phẩn bôi bẩn mặt trăng sẽ gánh chịu hai hậu quả: một là tay họ dính phẩn, hai là sự thất bại ê chề khi họ bị phẩn đó rớt xuống đầu, cổ thế nào, người ác ý muốn hãm hại Như Lai cũng sẽ mang lấy hậu quả trầm trọng như thế đó.

Bắt đầu tháng thứ tư, nàng lấy vải cũ buộc bụng và cứ độn thêm mỗi tháng, do đó, bụng nàng cứ to dần. Ðến tháng thứ tám, thứ chín, nàng tự dần bàn tay bàn chân cho sưng lên và độn bụng bằng khúc cây tròn như sắp đến ngày khai hoa nở nhụy.

Người thiện, người ác

Thế rồi ngày quyết định đã đến. Ðây cũng là quyết định tồn vong của Phật giáo. Nếu nàng Chin-cha thắng thì Phật giáo sẽ bị tận diệt, bằng ngược lại Phật giáo sẽ cực thịnh, huy hoàng.

Hôm ấy, Ðức Tôn sư đang ngự trên pháp tòa giảng đạo. Phong thái uy nghiêm như sư tử hống, hiền mát như ánh trăng rằm. Ngay lúc ấy, nàng Chin-cha xuất hiện, một tay chống nạnh, một tay chỉ Ðức Tôn sư đay nghiến:

- Phải mà, ông thuyết hay quá mà! Giọng nói ông thu hút quần chúng như có thôi miên. Răng ông liền lạc, đều đặn và trong sáng. Mở miệng ra là ông kêu gọi mọi người ly dục, nhưng riêng ông thì đã ly dục chưa? Những câu kinh của ông ngọt ngào, hấp dẫn như khúc hát ân tình, như tiếng nói yêu đương trên giường ngủ.

Ðức Tôn sư im lặng. Phật tử hoang mang. Bầu không khí ngột ngạt. Vũ trụ như ngừng quay. Nàng tiếp tục tấn công:

- Này ông, ông hãy nhìn tôi cho thật kỹ. Cái thai của tôi đã dư chín tháng rồi. Suốt thời gian ấy ông quá vô tình, lang bạc. Thuở mới yêu nhau thì ông hứa hẹn đủ điều, giờ thì ông ngoảnh mặt quay lưng như tuồng vô tích sự. Tuy nhiên, vì thông cảm, tôi đề nghị ông nên nhờ các đệ tử trung kiên, như nàng Visàkhà, ông Cấp cô độc, hoặc đức vua Pa-sê-ná-đí thay ông lo liệu cũng được. Ông nên nhớ, đây không phải là nhiệm vụ của ông đối với tôi mà là nghĩa vụ thiêng liêng của tình phụ tử.

Nói xong, nàng nhìn khắp giảng đưòng như phân trần, như khiêu khích.

Với giọng hiền hòa, trầm lặng, Ðức Tôn sư nói:

- Này Chin-cha, sự kiện này chỉ có ngươi và Như Lai mới rỏ thực, giả mà thôi.

Nói xong Ðức Tôn sư tiếp tục lặng thinh. Không hiểu câu nói thật ngắn này mầu nhiệm thế nào, mà khiến nàng Chin-cha kinh hoàng toát mồ hôi lạnh. Tay, chân và bờ môi run lên như bị tên độc. Cố bình tĩnh, nàng trả đủa:

- Phải rồi, đúng rồi. Trong hương thất, giữa đêm trường thì nào ai biết được, nếu không phải là hai chúng ta. Tôi thật không ngờ ông đủ can đảm nói câu đó tại đây, mà không biết ngượng.

Ðức Tôn sư phán:

- Này Chin-cha, Như Lai xác nhận câu nói của Như Lai không thay đổi.

Không biết đây là sự ngẫu nhiên hay Phật lực, trong khi nàng Chin-cha xỉ xỏ và gân cổ thóa mạ, hạ nhục Ðức Tôn sư thì vải buộc khúc cây bị đứt, hài nhi chào đời không phải bằng xương bằng thịt mà là một khúc gỗ tròn.

Nàng quính quáng như gà mắc đẻ, mặt mày xanh như bị dính chàm và đứng bất động như bị trời trồng. Phật tử thấy chuyện trơ trẽn, chướng tai gai mắt, không ai bảo ai, họ nhất tề đứng lên xô đuổi nàng ra khỏi giảng đường và đẩy luôn ra khỏi cổng Kỳ viên tịnh xá. Khi hình bóng nàng vừa khuất tầm mắt Ðức Tôn sư thì nàng bị đất rút. Nàng chết vô cùng đau khổ chết trong kinh hoàng và nhục nhã.

Ngày hôm sau, chư vị tỳ kheo bàn tán xôn xao câu chuyện này. Ðức Tôn sư dạy:

- Này các tỳ kheo, các thầy không nên kết án ai nếu chưa xét xử phân minh, chưa nắm được tội trạng chắc chắn. Người thích làm ác là người hay nói láo, thiếu thành thật và bất chấp hậu quả.

Biến cố lớn này là bài học cho những ai mưu mô hãm hại Ðức Phật và tiêu diệt Phật giáo.

Mọi sự chống đối, mọi âm mưu phá hoại tự động lắng dịu và bẳng đi một thời gian. Nhưng về mặt chìm, nhóm Lục sư ngoại đạo vẫn rình rập tìm cơ hội quật khởi. Sở dĩ họ mang mặc cảm đố kỵ thù ghét vì từ ngày Ðức Phật ra đời và đạo Phật được phổ cập thì quần chúng đều hướng về chánh pháp. Ðệ tử của các vị cũng lần lượt bỏ đạo. Do đó, uy tín họ bị sứt mẻ, đệ tử giảm lần, lợi lộc không có, danh vọng tiêu tan.

Kế hoạch dùng sắc đẹp mỹ nhân bất thành, họ xoay qua dùng xác chết mỹ nhân để triệt hạ uy tín Ðức Bổn sư. Họ mướn người giết một thiếu nữ trẻ đẹp tên Sun-đà-ri đem chôn dấu dưới đống hoa cũ phía sau hương thất. Thi hành xong thủ đoạn, họ hô hoán là Sun-đà-ri mất tích rồi rầm rộ tìm kiếm. Cuối cùng, đến nơi chôn dấu, họ bới xác nàng lên rồi kết án Ðức Tôn sư lén lút ân ái với Sun-đà-ri và giết nàng để diệt khẩu. Câu chuyện này cũng gây hoang mang trong quần chúng không ít. Những kẻ nhẹ dạ yếu lòng nghe lời đồn đãi, đã chỉ trích Ðức Phật thậm tệ. Nhưng chỉ ít hôm sau, kẻ giết mướn bị bắt và cung khai tất cả.

Một nghĩa cử vô cùng cảm động

Một buổi sáng. Gió thoảng hơi sương. Khí trời mát dịu. Chu vi Kỳ viên tự vẫn thiền vị u nhàn. Cái u nhàn của ngoại cảnh cũng ảnh hưởng phần nào đến sự an tịnh nội tâm của các bậc Sa môn hành đạo.

Tiếng đọc kinh của các vị tân thọ tỳ kheo vang nhẹ từng hồi. Một số đang đi kinhh hành, một số đang giặt giũ y phục, trong khi một số khác đang quét dọn tịnh thất. Ngoài tiếng học kinh tất cả đều yên lặng.

Ðức Tôn sư ngự qua, tất cả đều cúi đầu kính cẩn. Vị đang đi thì đứng lại, đang ngồi thì đứng lên, đang làm việc thì tạm ngưng để tỏ lòng tôn kính.

Ðức Tôn sư để lời thăm hỏi một vài vị hoặc nhắc nhở một vài câu kinh rồi Ngài tiếp tục ngự qua. Ðến một tịnh thất, Ngài dừng bước và hỏi Ðại đức Ananđa:

- Vị nào ở trong tịnh thất này?
- Bạch Ðức Thế Tôn, thầy Tí-sá.
- Ông ấy có mặt hay đi vắng.
- Có lẽ thầy đang ở bên trong.

Ðức Thế Tôn ngự vào. Bên trong một cảnh tượng vô cùng thương tâm hiện ra trước mắt Ðức Từ phụ. Ðó là hình ảnh một vị Tỳ kheo trung kiên, nằm trên chiếc đơn nhỏ, mình mẫy lỡ lói, mủ máu và nước vàng chảy ra vô cùng hôi hám. Có nơi máu mủ đã khô cứng; có nơi vẫn còn chảy ướt; có nơi đã có giòi. Thầy nằm bất động như xác chết.

Nghe tiếng động, thầy nhướng mắt lên nhìn Ðức Phật. Thầy mừng quá, định chấp tay đãnh lễ nhưng bất lực.

Ðức Tôn sư yên lặng. Ðại đức Ananđa yên lặng. Thầy Tí-sá cũng yên lặng. Tuy nhiên, qua ánh mắt từ bi của Ðức Tôn sư, thầy Tí-sá vô vàn cảm động. Những giọt nước mắt sung sướng, ngập ngừng, chậm chạp chảy xuống đọng lại ở hai bên má hóp.

- Này Tí-sá, thầy đau lắm không?
- Bạch Ðức Thế Tôn, đau lắm. Ðệ tử cảm tưởng đang nằm trên gai.
- Ngươi không có pháp lữ, đồng đạo hoặc đệ tử chăm sóc sao?
- Bạch Ðức Thế Tôn, lúc trước có, nhưng giờ họ đã bỏ đệ tử đi hết rồi.
- Tại sao vậy?
- Bạch Ðức Thế Tôn, vì họ chán đệ tử đau đã lâu ngày. Hơn nữa, bịnh đệ tử thì nhơ nhớp hôi hám. Do đó, họ bỏ đệ tử một mình.

Nói đến đây thì thầy kiệt sức, không nói được nữa.

Ðức Tôn sư ngự thẳng xuống nhà trù lấy nồi múc nước. Ðại đức Ananđa nhúm lửa. Khi nước sôi, Ðức Tôn sư và Ðại đức Ananđa khiêng thầy Tí-sá luôn chiếc giường ra ngoài và bắt đầu rửa ráy. Một số Tỳ kheo đi ngang qua trông thấy, bèn tiếp tay thay y. Ðức Tôn sư nhẹ tay rửa ghẻ khắp châu thân thầy Tí-sá. Nhận thấy thân hình tương đối sạch sẽ và mạng căn thầy không thể tồn tại được. Ðức Tôn sư phán dạy:

- Tí-sá ơi, thân này chẳng còn bao lâu đâu, khi tâm thức đã lìa bỏ rồi thì nằm bất dộng trên mặt đất như đống tro tàn vô bổ. Tí-sá hãy nhìn xác thân hôi thúi này, nó nhơ nhớp vô cùng, các vật uế trược chảy ra thường trực. Thế mà người không giác ngộ chân lý ấy vẫn ưa thích và mê say.

Lãnh hội được lý đạo, thầy Tí-sá chứng quả Alahán. Nhưng vì bịnh tình quá trầm trọng nên thầy viên tịch. Ðức Tôn sư dạy làm lễ hỏa táng và tạo tháp để tôn thờ xá lợi. Có nhiều trường hợp tương tự, Ðức Tôn sư cũng tự tay rửa ráy, ẳm bồng, hoặc xê dịch bịnh nhân, hoặc tự tay cho uống thuốc. Ðể có điều kiện phục dịch và giúp đỡ bịnh nhân, Ðức Tôn sư họp tăng và chế định giới luật:

- Này các tỳ kheo, các thầy không cha mẹ, anh em. Do đó, các thầy phải giúp đỡ nhau như tình ruột thịt. Sự chăm sóc tỳ kheo bịnh cũng đồng nghĩa với phục dịch Như Lai. Nếu thầy đau, trò chăm sóc. Trò đau, thầy chăm sóc. Vị nào không phụng hành, vị ấy phạm tác ác. Trường hợp không có trò riêng thì trò đồng sư phải được thay vào, bằng không, thì phạm tác ác. Nếu không có trò đồng sư thì tăng phải đứng ra đảm trách.

Ðại đức Ananđa có nhiều đức tánh cao quí, nhất là đối với tăng đồ cũng như tín đồ lúc bịnh hoạn. Ðiển hình như lúc hay tin Ðại đức Phắc-gú-ná, Ðại đức Ghí-ri-ma-nan-đá, ông bá hộ Á-ná-thá-bin-đí-cá, ông bá hộ Ma-ná-đin-ná v.v... bị bịnh, thì Ðại đức lập tức vào bạch Phật để Ðức Tôn sư thăm hỏi, an ủi hoặc nhắc nhở.

Sự giúp đỡ chăm sóc người trong lúc bịnh hoạn là một nghĩa cử, một ân tình khó quên giữa người bịnh và người nuôi bịnh. Bịnh là người thù của mạng sống. Sự chăm sóc bịnh nhân được mau bình phục đồng nghĩa với sự cứu mạng. Ðức Tôn sư và Ðại đức Ananđa là bạn lành, là nơi nương tựa của mọi người.

Một tấm lòng

Một buổi bình minh rực nắng. Ðại đức Ananđa vào thành Sà-văt-thi khất thực. Trên đường đi, Ðại đức bắt gặp ông bà-la-môn Săn-ga-rá-vá mỗi ngày tắm ba lần: sáng, trưa, và chiều dưới sông Găn-ga vì tin rằng, nước sông này bắt nguồn từ thiên đường, chảy qua đỉnh đầu thần Siva, nên có thể rửa sạch tất cả tội lỗi.

Ðại đức rất muốn tiếp độ ông ta, nhưng tự thấy khả năng và công hạnh của mình chưa được thù thắng, nên bạch Phật:

- Bạch Ðức Thế Tôn, ông bà-la-môn Săn-ga-ra-vá là người lão thành, nhân cách tốt, có thể đối thoại được. Nhưng vì tin chấp cổ truyền nên chưa có chánh tín. Xin Ðức Thế Tôn từ bi tiếp độ.

Sáng hôm sau, Ðức Phật quang lâm tư gia ông bà-la-môn. Sau những câu chào hỏi xã giao, Ðức Phật gợi chuyện:

- Lúc này, ông còn tắm mỗi ngày ba lần như thường lệ chứ?
- Thưa còn.
- Xin ông vui lòng cho biết lợi ích của sụ tắm và trầm mình trong sông Găn-ga. Những con sông khác có kết quả lợi lạc như sông Găn-ga không?
- Thưa Ngài Cồ Ðàm, tương truyền rằng nước sông Găn-ga rất linh thiêng, có thể rửa sạch những điều tội lỗi, vì nó bắt nguồn từ thiên đàng và chảy qua đỉnh đầu thần Siva. Do đó, tôi tin tưởng và tiếp tục hành trì cho đến ngày nay.
- Như Lai muốn biết rỏ hơn và mong ông thông cảm: cuộc đối thoại này chỉ nhằm mục đích làm sáng tỏ vấn đề và trang điểm cho kiến thức. Vậy, theo ông, thì tội ở trong tâm hay ở ngoài thân?
- Thưa, ở trong tâm.
- Nếu tội ở trong tâm thì khi tắm, nước có chảy qua tâm được không?
- Nước không chảy qua tâm được nhưng Ngài đừng quên rằng đây là chất nước thiêng có khả năng rửa sạch tội lỗi trong tâm.
- Ông nghĩ đức tin có thể hoán chuyển và che dấu sự thật được sao?
- Thưa Ngài Cồ Ðàm, không thể được.
- Này ông, nếu đức tin không thể che dấu và hoán chuyển sự thật thì sự tin rằng nước sông Găn-ga có thể rửa được tội lỗi trong tâm ấy có phải là sự thật hay không? Một người lạc đường, quay mặt đi về hướng tây tin rằng mình đang đi về hướng đông. Vậy sự tin tưởng ấy có thay đổi được phương hướng hay không?
- Thưa không.
- Câu chuyện này thì người tin tưởng nước sông Găn-ga có khả năng rửa sạch tội ác trong tâm cũng thế ấy. Hoặc người nọ có cái nồi bằng vàng nhưng bị dính phân toàn diện. Người ấy chỉ rửa bên ngoài, tin tưởng rằng bên trong cũng sạch. Vậy, theo ông, đức tin ấy có đúng sự thật không?
- Thưa Ngài Cồ Ðàm, đức tin ấy hoàn toàn sai sự thật.
- Này bà-la-môn, Như Lai nói, thân ác nghiệp, khẩu ác nghiệp, ý ác nghiệp là những chất dơ chỉ có thể rửa bằng nước chánh pháp chứ không thể rửa sạch bằng nước thường.

Như Lai gọi thân thiện nghiệp, khẩu thiện nghiệp, ý thiện nghiệp là chất nước tinh khiết, mầu nhiệm có khả năng rửa sạch tội ác trong tâm. Này bà-la-môn, hãy vào đây, vào tắm nước chánh pháp của Như Lai, vừa sâu thẳm vừa trong sạch, không dơ đục, không cặn bã, có bến lài, phẳng và đẹp, nơi mà bậc trí thức hạnh ngộ, tắm rửa, tắm xong lên bờ an vui, tự tại.

Sau khi Ðức Phật phân tách lý đạo, ông bà-la-môn vô cùng hoan hỉ:

- Bạch Ðức Thế Tôn, thật rõ ràng sáng tỏ như lật ngữa bàn tay, như mở cánh cửa đóng, như chỉ lối kẻ lạc đường, như soi sáng nơi tối tăm để người có mắt được trông thấy. Ðệ tử xin phát nguyện trọn đời quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Xin Ðức Thế Tôn nhận biết cho đệ tử từ nay là cận sự nam đã quy y Tam Bảo.

Ðại đức Ananđa là người quảng đại, là đồng sự lợi lạc của mọi người. Những đức tính cao quí khác có rất nhiều nhưng nổi bật nhất là đức khiêm cung. Ðối với các bậc trưởng lão La hán được Ðức Phật tuyên dương là đệ nhất, như Ðại đức Ma-ha Ca-diếp (Mahà Kassapa) chẳng hạn, thì Ðại đức Anađa tuyệt đối kính trọng, thậm chí không dám xưng hô bằng pháp danh.

Có một lần, Ðại đức Ca-diếp làm thầy tế độ cho giới tử xuất gia. Trong cuộc lễ này, Ðại đức Ananđa được mời làm thầy giáo thọ. Theo truyền thống tăng sự, thì thầy giáo thọ phải đọc tuyên ngôn liên hệ đến pháp danh Thầy Tế Ðộ. Do đó, Ðại đức Ananđa từ khước vì không dám tuyên đọc pháp danh Trưởng lão Ma-ha Ca-diếp. Ðức Bổn sư biết rõ việc này nên Ngài cho phép đọc thế danh thay cho pháp danh cũng được.

Một lần khác, Ðại đức Ananđa cung thỉnh Ðại đức Ca-diếp hoan hỉ cùng sang ni viện dạy đạo, vì rằng Ðại đức Ca-diếp rất nổi tiếng về đạo hạnh, lời dạy của Ngài sẽ vô cùng ích lợi cho ni chúng. Ðại đức Ca-diếp hoan hỉ nhận lời nhưng vì Ngài là vị đệ nhất hạnh Ðầu Ðà và, thường xuyên sống ẩn cư, không lưu tâm đến vấn đề xã giao mà chỉ dạy đạo. Dạy đạo xong là cáo biệt ngay. Một cô ni phê bình rằng: đáng lý Ngài không nên dạy đạo trước một vị pháp sư lỗi lạc như Ðại đức Anađa. Hành động như vậy chẳng khác gì người bán muối lẻ bán cho người lái muối.

Ðại đức Ca-diếp, một hôm gặp Ðại đức Ananđa bèn nói:

- Này hiền đệ, giữa đệ và tôi ai là người bán muối. Ðức Thế Tôn có khen hiền đệ là người có đạo hạnh như Ngài chưa. Riêng tôi thì đã được Ðức Thế Tôn ban khen công khai giữa tăng chúng là người có đạo hạnh như Ngài, cũng như ban khen Ðại đức Xá lợi phất có khả năng thuyết pháp như Ngài.

- Bạch Tôn giả- Ðại đức Ananđ nói với sự tôn kính tuyệt đối- xin Tôn giả đừng để tâm làm gì. Nữ nhi phần đông thiển cận, bồng bột, và nông nổi.

Sở dĩ Ðại đức Ca-diếp nhắc lại câu chuyện người bán muối và lời khen của Ðức Thế Tôn không phải vì chấp nhất câu nói của cô ni thiếu suy nghĩ mà Ngài dụng tâm qua sự quen biết và trách nhiệm dạy đạo ni chúng của Ðại đức Ananđa sẽ có cơ hội giúp cô ta hồi tâm. Ðây là một cách cứu độ gián tiếp. Nếu không cô ta sẽ gánh lấy tội lỗi nặng nề vì thái độ phạm thượng ấy. Vã lại, đạo tình giữa hai vị quả thật vô cùng thắm thiết. Ðại đức Ca-diếp thường gọi Ðại đức Ananđa bằng danh từ "Chú nhỏ", mặc dù tóc Ðại đức Ananđa đã bạc. Và Ðại đức Ananđa cũng lấy làm hoan hỉ với lối xưng hô thân mật này.

-oOo-

Xem Tiếp Phần 5

Trở Laị Phần 4