^^^

A. Skillfulness  

The Buddha's teachings, like the principles they describe, are inter-related in complex ways. It is difficult to point out any one teaching that underlies everything else, as all the teachings are mutually dependent. Nevertheless, there are a number of possible entry points into their pattern, and one of those points is the Buddha's observation that it is possible to master a skill.

A. Thiện Pháp  

Giáo pháp của Đức Phật, như những nguyên lý chúng miêu tả, liên quan hỗ tương theo nhiều cách phức tạp. Khó chỉ ra được bất cứ một giáo pháp nào nhấn mạnh mọi điều nào khác, bởi vì tất cả những giáo pháp tương quan tùy thuộc. Tuy nhiên có một số những điểm thâm nhập có thể vào mô thức của chúng, và một trong những điểm đó là nhận xét của Đức Phật rằng có khả năng quán triệt chúng..

Unlike many of his contemporaries — and many thinkers before and since — the Buddha did not try to reason from abstract principles down to direct experience. As we noted in the Introduction, the Buddha's contemporaries were influenced by the premier science of their time — astronomy — in the way they viewed experience, and it is easy to see prejudices derived from astronomy at work in their thought: that the universe is composed of discrete bodies acting in line with regular, linear causes; and that human knowledge of these processes has no impact on the way they behave. These prejudices, when applied to human experience, resulted in what the Buddha called theories of being, or what we today would call theories of order: that the processes of the universe can be totally explained in terms of physical principles that follow linear causal patterns unaffected by human intervention. The various conclusions that developed out of this approach differed primarily in how one's soul — viewed in various ways either as a discrete thing or as a more abstract principle — was to look for release from this vast cosmic machine. Some insisted that action was illusory; others, that action was real but totally determined by fixed rules, serving only to bind one to the impersonal cycle.

Không như nhiều người đồng thời với Ngài – và nhiều nhà tư tưởng trước và từ thời của Ngài – Đức Phật không cố lập luận từ những nguyên lý trừu tượng đến kinh nghiệm trực tiếp. Như chúng ta đã lưu ý trong phần Dẫn nhập, những người đồng thời với Đức Phật bị ảnh hưởng bởi khoa học hàng đầu của thời họ - thiên văn học – về cách họ quan niệm kinh nghiêm, và dễ dàng thấy những thiên kiến có nguồn gốc từ thiên văn học ảnh hưởng trong tư tưởng họ: rằng vũ trụ được tạo thành bởi những thiên thể riêng lẻ họat động tuân theo những nguyên nhân tuyến tính, đều đặn và tri kiến con người về những tiến trình này không ảnh hưởng gì đến cách vận hành của chúng. Những thiên kiến này khi áp dụng vào kinh nghiệm của con người, đưa đến kết quả Đức Phật gọi là những lý thuyết tồn tại, hoặc ngày nay sẽ gọi là những lý thuyết về trật tự: rằng các tiến trình của vũ trụ có thể được hòan tòan giải thích theo những nguyên lý vật chất theo những mô thức nhân quả tuyến tính không bị ảnh hưởng bởi sự can thiệp của con người. Những kết luận khác nhau phát triển từ phương pháp này khác nhau chủ yếu với cách mà linh hồn con người – được quan niệm theo những cách khác nhau hoặc như cái gì đó tách rời hoặc một nguyên lý trừu tượng hơn – phải tìm kiếm giải thóat khỏi guồng máy vũ trụ mênh mông. Một số người khẳng định rằng hành động là ảo ảnh, những người khác, rằng hành động là thật nhưng hoàn được quyết định bởi những qui luật cố định, dùng chỉ để ràng buộc con nguời vào vòng lạnh lùng

In reaction to the theories of being, the Lokayatans proposed a theory of non-being or absolute chaos that, like all reactionary ideologies, was defined largely by what it denied. Although it admitted the primacy of the physical universe, it denied that any causal laws operated on the observable, human level. Everything, the Lokayatans said, was totally spontaneous, random, and chaotic. No personal souls were observable, and thus human identity was composed only of the temporary conjunction of elements that made up the body, terminating when those elements separated at death.

Phản ứng lại với những lý thuyết về tồn tại, Những người Lokayatans đề xuất thuyết phi tồn tại hoặc xáo trộn tuyệt đối mà, như tất cả những hệ tư tưởng phản động, được định nghĩa chủ yếu bằng những gì chúng bác bỏ. Mặc dù nó chấp nhận sự thống trị của vũ trụ vật chất, nó bác bỏ bất cứ qui luật nhân quả nào họat động trên bình diện con người và có thể quan sát được. Mọi sự vật, người Lokayatan nói, hòan tòan tự phát, tình cờ, và xáo trộn. Không có những linh hồn con người nào có thể quan sát được, và do đó thực thể con người được làm nên chỉ bằng sự kết hợp những yếu tố làm nên thân xác, chấm dứt lúc những yếu tố này tan rả khi chết.

In a manner typical of his approach to problems, the Buddha avoided both sides of this argument by focusing directly on the level of immediate experience and exploring the implications of truths that both sides overlooked. Instead of fixing on the content of the views expressed, he considered the actions of those who were expressing the views. The logic either of total determinism or of total chaos must end in the conclusion that purposeful action is pointless, and yet adherents of both schools continued to act in purposeful ways. The fact that each side advanced an interpretation of reality implied that both agreed that there were skillful and unskillful ways of approaching the truth, for each insisted that the other used unskillful forms of observation and argumentation to advance its views. Thus the Buddha looked directly at skillful action in and of itself, worked out its implications in viewing knowledge itself as a skill — rather than a body of facts — and found that those implications carried him all the way to release.

Với một phong cách tiêu biểu cho phương pháp giải quyết các vấn đề của ngài, Đức Phật tránh cả hai bên của cuộc tranh luận bằng cách tập trung trực tiếp trên bình diện kinh nghiệm tức thì và khám phá những hàm ý của những chân lý mà hai bên đã bỏ qua. Thay vì bám vào nội dung của những quan điểm được trình bày, ngài xem xét những hành động của những người phát biểu những quan điểm đó. Lập luận hoặc hòan tòan tiền định hoặc hòan tòan xáo trộn phải chấm dứt trước kết luận rằng hành động có mục đíchà vô nghĩa, và những người ủng hộ cả hai trường phái tiếp tục hành động theo những cách có mục đích. Sự kiện là mỗi bên đưa ra một giải thích về hiện thực hàm ý rằng cả hai đồng ý rằng có những cách thiện và bất thiện để tiếp cận chân lý, bởi vì mỗi bên đều khẳng định rằng bên kia dùng những dạng quan sát và lập luận bất thiện để đưa ra quan điểm của mình. Do đó Đức Phật xét thẳng vào hành động thiện trong và của chính nó, tìm ra những hàm ý của nó trong việc xem xét chính tri kiến là một thiện – hơn là một tập hợp những sự kiện – và phát hiện rằng những hàm ý đó đã đưa Ngài suốt con đường đến giải thóat

We have already touched on how implications drawn from the fact of skillful action shaped the major outlines of the Buddha's teachings. It will be useful to review those implications here. To begin with, the fact that skills can be developed implies that action is not illusory, that it actually gives results. Otherwise, there would be no such thing as skill, for no actions would be more effective than others. The fact of skillfulness also implies that some results are preferable to others, for otherwise there would be no point in trying to develop skills. In addition, the fact that it is possible to learn from mistakes in the course of developing a skill, so that one's future actions may be more skillful, implies that the cycle of action, result, and reaction is not entirely deterministic, and that acts of perception, attention, and intention can actually provide new input as the cycle goes through successive turns.

Chúng ta vừa đề cập về cách mà những hàm ý được rút ra từ những thiện nghiệp làm nên nét đại lược chính của giáo pháp của Đức Phật. Sẽ hữu ích để xem lại những hàm ý đó ở đây. Để bắt đầu, sự kiện các thiện pháp có thể phát triển hàm ý rằng nghiệp không phải là hư ảo, rằng nó thật sự cho quả. Nếu không sẽ không có việc gọi là thiện và không có những nghiệp này lại có hiệu quả hơn những nghiệp khác. Sự kiện về thiện pháp cũng hàm ý rằng những quả nào đó được ưa thích hơn những quả khác, vì nếu không sẽ không có ý nghĩa gì để phát triển những thiện pháp. Hơn nữa, sự kiện có thể học từ những sai lầm trong quá trình phát triển một thiện pháp do đó những hành động tương lai của người ta có thể thiện xảo hơn, hàm ý rằng chu kỳ nghiệp, quả và phản ứng không hòan tòan tiền định và những hành động nhận thức, chú tâm, và ý định có thể thực sự cung cấp dữ kiện mới vào khi trải qua các chu kỳ nối tiếp nhau.

The important element in this input is attention. Anyone who has mastered a skill will realize that the process of attaining mastery requires attention to three things: (1) to pre-existing conditions, (2) to what one is doing in relation to those conditions, and (3) to the results that come from one's actions. This threefold focus enables one to monitor one's actions and adjust them accordingly. In this way, one's attention to conditions, actions, and effects allows the results of an action to feed back into future action, thus allowing for refinement in one's skill. By working out the implications of these requirements, the Buddha arrived at the principle of this/that conditionality, in which multiple feedback loops — sensitive to pre-existing conditions, to present input, and to their combined outcome — account for the incredible complexity of the world of experience in a way similar to that of modern theories of "deterministic chaos." In this sense, even though this/that conditionality may seem somewhat alien when viewed in the abstract, it is actually a very familiar but overlooked assumption that underlies all conscious, purposeful action. The Buddha simply explored the implications of this assumption much further than anyone else, all the way to the disbanding of space, time, and the present, together with their inherent stress.

Yếu tố quan trọng trong sự nhập liệu này là sự chú tâm. Bất cứ ai đã làm chủ được một thiện pháp sẽ nhận thấy rằng tiến trình có được sự làm chủ đó đòi hỏi phải chú tâm vào ba điều: (1) các điều kiện có trước, (2) cái mà người ấy đang làm có quan hệ với những điều kiện đó, và (3) những kết quả đến từ những hành động của người ấy. Việc tập trung ba lớp này làm cho người ta có thể theo dõi được hành động của mình và điều thích hợp. Bằng cách này, sự chú tâm của một người đến những điều kiện, những hành động, và hiệu quả làm cho những kết quả của một hành động phản hồi vào những hành động tương lai, do đó làm cho có sự tinh lọc trong thiện pháp của người ấy. Bằng cách hiểu được hàm ý của những điều cầu này, Đức Phật đã đi đến nguyên lý diều kiện do có cái này/thì có cái kia, trong đó các chuỗi phản hồi nhân lên - nhạy cảm với những điều kiện có trước, dữ kiện hiện tại, và với kết quả tổng hợp của chúng – làm nên sự phức tạp ngòai sức tưởng tượng của thế giới kinh nghiệm theo cách tương tự với cái thuyết hiện đại về “sự xáo trộn tiền định”. Theo ý nghĩa này, dù nguyên lý điều kiện do có cái này/nên có cái kia có thể có vẻ xa lạ trong chừng mực nào đó khi được xem xét trong sự trừu tượng, kỳ thực nó là những giả định, rất quen thuộc nhưng bị bỏ qua, làm nền cho tất cả những hành động có ý thức, có mục đích. Đức Phật chỉ khám phá những hàm ý của giả định này xa hơn bất cứ cái nào khác, suốt con đường dẫn đến tháo tung không gian, thời gian, và hiện tại, cùng với phiền não.

These implications of the fact of skillfulness account for the main framework of the Buddha's doctrine as expressed in the teachings on the four noble truths, dependent co-arising, and this/that conditionality. Other facets of skillful action also account for more detailed points within this framework. For instance, the Buddha's exploration of stress and its origination, in the light of skillful action, provided the analysis of mental and physical events ("name-and-form," nama-rupa) that played a central role in the second noble truth as expressed in terms of dependent co-arising.

Những hàm ý của sự thật về thiện pháp tạo nên bộ khung chính của học thuyết của Đức Phật như được trình bày trong những giáo pháp của ngài về Tứ Thánh Đế, duyên sinh, và nguyên lý điều kiện của thuyết có cái này/nên có cái kia. Những mặt khác của thiện nghiệp cũng làm thành những điểm chi tiết trong khuôn khổ này. Chẳng hạn Đức Phật xem xét khổ và nguồn gốc của khổ, dưới ánh sáng của thiện nghiệp, đưa đến việc phân tích các sự kiện vật chất và tinh thần (“danh và sắc,” nama-rupa) đóng vai trò trung tâm trong Thánh Đế thứ hai như được trình bày trong mối quan hệ với duyên sinh.

The first lesson of skillfulness is that the essence of an action lies in the intention motivating it: an act motivated by the intention for greater skillfulness will give results different from those of an act motivated by greed, aversion, or delusion. Intention, in turn, is influenced by the appropriateness or inappropriateness of the act of attention to one's circumstances. The less an act of attention is clouded by delusion, the more clearly it will see things in appropriate terms. The combination of attention and intention in turn determines the quality of the feeling and the physical events that result from the act. The more skilled the action, the more refined the feelings and physical events that result. Perceptions arise with regard to those results, some more appropriate than others. The act of attention selects which ones to focus on, thus feeding back into another round in the cycle of action, with all its inherent instabilities and uncertainties. Underlying the entire cycle is the fact that all its factors are in contact with consciousness. This constellation of factors came to form the central causal connection in one of the Buddha's most basic formulations of dependent co-arising, in which the mutual dependence of "name" (attention, intention, feeling, perception, and contact) and "form" (physical events) on the one hand, and consciousness on the other, accounted for the arising of all stress [§§218, 228].

Bài học thứ nhứt của thiện pháp là cốt lõi của hành động ở chỗ ý định thúc đẩy nó: một hành động được thúc dẩy bởi ý định nhằm thiện pháp to lớn hơn sẽ đem lại những kết quả khác với một hành động có động cơ tham, sân và si. Ý định, đến lượt nó, lại bị ảnh hưởng của sự thích hợp hay không thích hợp của hành động của ý định đối với hòan cảnh của con người. Một hành động chú tâm ít bị si che mờ, thì nó càng thấy được các sự vật trong những mối quan hệ phù hợp hơn. Sự kết hơp của chú tâm và ý định đến lượt chúng lại quyết định phẩm chất của cảm thọ và các sự kiện vật chất (sắc pháp) kết quả từ hành động. Hành động càng thiện xảo, thì cảm thọ và các sự kiện vật chất kết quả càng tinh tế. Những nhận thức khởi sanh liên quan đến những kết quả này, một số thích hợp hơn những cái khác. Hành động chú tâm chọn lọc những cái nào để tâp trung, do đó đưa thông tin phản hồi vào trong một chu kỳ hành động khác (chu kỳ/ vòng nghiệp), với tất cả những bất ổn, bấp bênh nội tại của nó. Làm nền cho tòan bộ chu kỳ này là sự kiện các yếu tố của nó tiếp xúc với ý thức. Nhóm các yếu tố này lại hình thành mối quan hệ nhân quả trọng tâm trong một trong những dạng diễn đạt mang tính công thức về duyên sinh cơ bản của Đức Phật , trong đó sự tùy thuộc hỗ tương của “danh” (chú tâm, ý định, nhận thức, và tiếp xúc) và “sắc” (các sự kiện vật chất) về một phía, và ý thức về phía khác, chịu trách nhiệm cho sự khởi sanh của khổ[§§218, 228].

The interplay of name, form, and consciousness also plays a role in the formulation of the third and fourth noble truths, providing an answer to the quandary of how the stress and suffering inherent in the cycle of action can be ended. If one tried simply to stop the cycle through a direct intention, the intention itself would count as a factor to keep the cycle going. This double bind can be dissolved, however, if one can watch as the contact between consciousness and the cycle naturally falls away. This possibility requires, not an attempt at inaction, but even greater skillfulness in all the factors of action. Convinced that the only way to true happiness would be to find a way out of the cycle, that there had to be such a way, and that this was it, the Bodhisatta developed each of the factors of skillful action to an even higher degree of skill.The most skillful form of attention, he discovered, was to view all of experience in terms of the four noble truths: stress, its origination, its cessation, and the path of practice leading to its cessation.

Sự tác động qua lại giữa danh và sắc, và ý thức cũng có vai trò trong việc công thức hóa Thánh Đế thứ ba và thứ tư, đưa ra câu trả lời cho một câu hỏi hóc búa là làm thế nào khổ và phiền não nội tại trong chu kỳ nghiệp có thể chấm dứt. Nếu người ta chỉ cố gắng chận đứng chu kỳ thông qua ý trực tiếp, thì chính ý lại có tầm quan trọng như là một yếu tố giữ cho chu kỳ tiếp diễn. Sự ràng buộc kép này, tuy nhiên có thể bị phá vỡ nếu người ta quan sát khi sự tiếp xúc giữa ý thức và chu kỳ tách rời một cách tự nhiên. Khả năng này đòi hỏi, không phải là một nỗ lực không hành động, mà thậm chí thiện pháp lớn hơn nhiều trong các yếu tố của hành động. Tin rằng con đường duy nhất đi đến chân hạnh phúc sẽ là tìm cách thóat khỏi chu kỳ, rằng đã có một con đường như vậy, và rằng đây chính là con đường, Bồ tát đã phát triển mỗi yếu tố của hành động thiện ngay cả đến cấp độ thiện cao hơn. Ngài đã phát hiện hình thức thiện xảo nhứt của chú tâm là xem xét tất cả kinh nghiệm theo Tứ Thánh Đế: khổ, nguyên nhân của khổ, chấm dứt khổ, và con đường tu tập dẫn đến chấm dứt khổ.

These truths not only formed his most basic teaching [§188], but also played a role in the path of practice leading to the cessation of stress, as the factor of right view. The most skillful form of intention was to engage in the directed thoughts and evaluations that would lead the mind to the stillness of mental absorption. These factors played a role both as aspects of the path factor of right concentration and as the highest form of path factor of right resolve [§106]. The most refined forms of feeling and perception were the feelings of pleasure and equanimity and their accompanying levels of perception in the highest states of mental absorption [DN 9; §164], later included in the path factor of right concentration as well [§102].

Những chân lý này không chỉ làm nên giáo pháp cơ bản nhất của Ngài[§188]], mà còn đóng vai trò trong con đường tu tập đưa đến chấm dứt khổ, như là yếu tố Chánh Kiến của Bát Chánh Đạo. Hình thức thiện xảo nhứt của ý là tham dự vào tư tưởng và thẩm định trực tiếp đưa tâm trạng thái tĩnh lặng của sự tập trung tinh thần. Những yếu tố này đóng vai trò vừa là những khía cạnh của chánh định và vừa là hình thức cao nhất của chánh tư duy[[§106] của bát chánh đạo. Những hình thức tinh tế nhất của cảm thọ và nhận thức là những cảm thọ về dục lạc và xả ly và các cấp độ kèm theo của nhận thức trong những trạng thái cao nhất của định[DN 9; §164], sau này cũng được đưa vào yếu tố Chánh Định của Bát Chánh Đạo[§102].

The Wings to Awakening — as alternate expressions of the path to the cessation of stress — are also shaped by the implications of the fact of skillfulness. These implications account directly for the main factors in the Wings — the qualities of equanimity, concentration, and discernment that are needed to develop skillfulness — and indirectly for all the other qualities on which these qualities depend. As expressed in the non-linear pattern of this/that conditionality, these implications also account for the way in which the factors in the Wings must act as supports for one another in a pattern of mutual feedback. And, in the most general terms, the fact that skillfulness leads ultimately to a dimension where skillfulness is transcended, accounts for a paradoxical dynamic common to all seven sets that form the Wings: the meditator must intentionally make use of qualities from which he/she wants to escape, gaining familiarity with them in the course of mastering them to the point where they are naturally stilled. There the transcendent paths and their fruitions take over. This is the sense in which even the path of right practice must eventually be abandoned, but only after it has been brought to the culmination of its development.

Đôi cánh Giác ngộ - là sự biểu đạt khác của Bát Chánh Đạo dẫn đến chấm dứt khổ - cũng được hình thành bằng những hàm ý của sự thật về thiện pháp. Những hàm ý này trực tiếp tạo thành những yếu tố chính trong Đôi Cánh – những phẩm chất xả, định, tuệ cần để phát triển thiện pháp – và gián tiếp tạo thành những phẩm chất khác mà những phẩm chất này tùy thuộc vào. Như đuợc trình bày trong mô thức nguyên lý điều kiện có cái này/nên có cái kia, những hàm ý này làm thành con đường trong đó các yếu tố của Đôi Cánh phải họat động như là những yếu tố hỗ trợ lẫn nhau trong mô thức phản hồi hỗ tương. Và, nói một cách tổng quát nhất, thật ra là thiện pháp cuối cùng dẫn đến một chiều kích nơi mà thiện pháp bị vượt qua, sự năng động nghịch lý chung cho tất cả 7 đạo phẩm làm thành Đôi Cánh: thiền giả phải cố ý sử dụng những phẩm chất mà mình muốn thóat khỏi, làm quen với chúng trong quá trình làm chủ chúng đến mức độ mà chúng tự nhiên an tĩnh. Ở đấy các con đường vượt lên và những quả của chúng chiếm lĩnh. Đây là ý thức mà trong đó ngay cả con đường tu tập đúng đắn cuối cùng phải được buông bỏ, nhưng chỉ khi nó được đưa đến điểm đỉnh của sự phát triển của nó.

Many people have misunderstood this point, believing that the Buddha's teachings on non-attachment require that one relinquish one's attachment to the path of practice as quickly as possible. Actually, to make a show of abandoning the path before it is fully developed is to abort the entire practice. As one teacher has put it, a person climbing up to a roof by means of a ladder can let go of the ladder only when safely on the roof. In terms of the famous raft simile [§§113-114], one abandons the raft only after crossing the flood. If one were to abandon it in mid-flood, to make a show of going spontaneously with the flow of the flood's many currents, one could drown.

Nhiều người hiểu lầm điểm này, tin rằng giáo pháp của Đức Phật về không dính mắc đòi hỏi người ta từ bỏ sự gắn bó với con đường tu tập càng sớm càng tốt. Thực ra từ bỏ đường đạo trước khi nó được phát triển tròn đầy là từ bỏ hòan tòan việc tu tập. Như vị Đạo Sư có dạy, một người leo lên mái nhà bằng thang, chỉ có thể bỏ thang khi người ấy đã an tòan trên mái nhà. Trong ngụ ngôn nổi tiếng về chiếc bè[§§113-114] người ta chỉ bỏ bè khi đã vượt biển. Nếu người ta bỏ bè khi ở giữa biển, để chứng tỏ việc tự phát trôi theo những luồng nước biển, người ta có thể bị chết chìm.

When the factors of the path are mutually brought to a state of consummation, however, there occurs a point of equipoise called "non-fashioning" (atammayata) [§179], in which their contact with consciousness — still fully conscious — naturally becomes disengaged. In terms of chaos theory, this compares to a point of "resonance," where the equations defining a non-linear system interact in such a way that one of their members is divided by zero, meaning that anything entering such a point would be undefined in terms of the system, and so released. The moon, for instance, if it entered one of the resonances in the combined gravitational fields of the earth and the sun, would be freed from its orbit around both. And just as the forces of gravity would be required to bring the moon to this freedom from gravity, in the same way the path of skillful action would be required to bring the mind to the point of non-fashioning, where the cycle of action is brought to an end. This is how all experience of stress, suffering, and the entire cosmos conditioned by time and the present is brought to an end as well, leaving the limitless freedom of "consciousness without feature" [§235], the endpoint of all human striving.

Khi các yếu tố của đường đạo trong mối quan hệ lẫn nhau được đưa đến trạng thái hòan hảo, tuy nhiên, trước khi xuất hiện điểm cân bằng gọi là "tháo gỡ" (atammayata) [§179], trong đó sự tiếp xúc với ý thức –mặc dù vẫn hòan tòan ý thức – tư nhiên trở nên tách rời. Xét về lý thuyết hỗn hợp, điều này so sánh với một điểm của "cộng hưởng", nơi mà các phương trình xác định một hệ thống phi tuyến tính tương tác trong một cách mà một trong những thành viên của họ được chia bởi số không, có nghĩa là bất cứ điều gì vào một thời điểm như vậy sẽ là không xác định trong điều khoản của hệ thống, và phát hành ra. Ví dụ, mặt trăng, nếu nó được đưa vào một trong những cộng hưởng trong các lĩnh vực lực hấp kết hợp của trái đất và mặt trời, sẽ được giải thoát khỏi quỹ đạo xung quanh cả hai. Và cũng giống như các lực của trọng lực cần phải có để mang lại mặt trăng thoát ra khỏi từ lực hấp này, trong cùng một cách đường đi của hành động khéo léo cần phải có để mang tâm đến điểm không tạo thành, do chu kỳ của hành động này mang đến sự kết thúc. Đây là cách tất cả kinh nghiệm của sự căng thẳng, đau khổ, và toàn bộ vũ trụ bị chi phối bởi thời gian và hiện tại được đưa đến một kết thúc là tốt, để lại sự tự do vô hạn của "ý thức mà không có tính năng" [§235], điểm kết thúc của tất cả sự cố gắng của con người.

Thus we can say that the Dhamma — in terms of doctrine, practice, and attainment — derives from the fully explored implications of one observation: that it is possible to master a skill. This point is reflected not only in the content of the Buddha's teachings, but also in the way they are expressed. The Buddha used many metaphors, explicit and implicit, citing the skills of craftsmen, artists, and athletes to illustrate his points. The texts abound with explicit similes referring to acrobats, archers, bathmen, butchers, carpenters, farmers, fletchers, herdsmen, musicians, painters, etc., pointing out how their skills correspond either to the way the mind fashions stress and suffering for itself, or to the skills a meditator needs to develop in order to master the path to release. On the implicit level, the passages dealing with meditation are filled with terms derived from music theory. In his younger days as a prince, the Bodhisatta — like other young aristocrats of his time — was undoubtedly a connoisseur of the musical arts, and so was naturally familiar with the theory that lay behind them. Because the terminology of this theory is so pervasive in the teachings he formulated as a Buddha, it will be useful to discuss it here briefly.

Do đó chúng ta có thể nói rằng Pháp – về phương diện học thuyết, tu tập và chứng ngộ -bắt nguồn từ những hàm ý đã được khám phá của một nhận định: rằng nó có thể làm chủ một thiện pháp. Điểm này không những được phản ảnh trong nội dung giáo pháp của Đức Phật mà còn trong cả cách diễn đạt chúng. Đức Phật dùng nhiều ẩn dụ, minh hiển và ẩn tàng, nói về những kỹ năng của thợ thủ công, nghệ sĩ, vận động viên để minh họa quan điểm của Ngài. Các kinh điển dồi dào những so sánh rõ ràng nói đến những người làm xiếc, bắn cung, đồ tể, thợ mộc, nông dân, thợ làm tên, người chăn gia súc, nhạc sĩ, họa sĩ. v.v., chỉ ra cách mà kỹ năng của họ có quan hệ hoặc là cách mà trí óc của họ tạo nên phiền não và khổ cho chính họ, hoặc là những thiện pháp mà một thiền giả cần phát triển để làm chủ được con đường giải thoát. Ở mức độ hàm ý, các đọan kinh trích nói về thiền định đầy rẫy những từ ngữ có nguồn gốc từ lý thuyết âm nhạc. Khi còn là một hòang tử trẻ, Bồ tát – giống như những người quí tộc trẻ của thời đại Ngài – chắc chắn là am tường nghệ thuật âm nhạc và do đó dĩ nhiên là quen với lý thuyết nền tảng của âm nhạc. Bởi vì thuật ngữ của lý thuyết này được sử dụng rộng rãi trong những giáo pháp mà ngài tạo lập khi là Đức Phật, nên sẽ có ích để bàn nó ở đây một cách ngắn gọn.

Unfortunately, we do not have a full treatise on the theory of musical performance as practiced during the Buddha's time, but there are enough references to music scattered through the texts for us to piece together the outlines of that theory. The first step in performance was to tune one's instrument, "establishing" one's tonic note (literally, "base," thana) to make it on-pitch ("even," or sama), then to fine-tune or attune ("ferret out" or "penetrate") the remaining notes (again, "bases") of the scale in relation to the tonic. This required a great deal of skill, sensitivity, and some mathematical knowledge, as the well-tempered scale had not yet been developed, and many different ways of calculating the scale were in use, each appropriate to a different emotion. The musician then picked up the theme (nimitta) of the composition. The theme functioned in several ways, and thus the word "theme" carried several meanings. On the one hand it was the essential message of the piece, the image or impression that the performer wanted to leave in the listener's mind. On the other hand, it was the governing principle that determined what ornamentation or variations would be suitable to the piece.

Không may, chúng ta không có một nghiên cứu đầy đủ về lý thuyết về việc diễn tấu âm nhạc như được áp dụng thời Đức Phật, nhưng có đủ những tham khảo về âm nhạc rải rác thông qua các kinh điển cho chúng ta phác họa về lý thuyết đó. Bước đầu trong việc diễn tấu là so dây nhạc cụ, thiết lập nốt nhạc đầu của thang âm (nghĩa đen là “ nền,” thana) làm cho nó đúng tần số (“đều” hoặc sama), rồi chỉnh thật đúng (“tìm ra” hoặc “thâm nhập”) những nốt còn lại của thang âm (một lần nữa, “các nốt nền”) tương quan với nốt đầu. Điều này đòi hỏi nhiều sự khéo léo (thiện xảo), nhạy cảm, và kiến thức tóan nhất định, bởi vì thang âm thật hài hòa với nhau chưa được phát triển đúng mức, và có nhiều cách để tính tóan thang âm đựơc sử dụng, mỗi cách phù hợp với cảm xúc khác nhau. Nhạc sĩ chọn chủ đề (nimitta) của tác phẩm. Chủ đề thực hiện nhiều chức năng khác nhau do đó từ “chủ đề” có mấy nghĩa. Một mặt nó là thông điệp cần thiết của tác phẩm, hình ảnh hay ấn tượng mà người biểu diễn muốn để lại trong tâm trí người nghe. Mặc khác, nó là nguyên tắc quán xuyến quyết định những biến tấu phù hợp với tác phẩm.

These musical terms recur throughout the Buddha's discussion of meditation [§§66, 74, 86, 150, 161, etc.]. For instance, in one context the Buddha says that one should establish one's persistence to the right pitch, attune the remaining faculties to that pitch, and then pick up one's theme. In other contexts, he says that one should become attuned to a particular theme, or that one should develop meditation in tune with a particular object. Impossibilities are said to be "non-base," analogous to tones that cannot function as musical notes. There are enough passages to show that the Buddha used this terminology conscious of its musical connotations, and that he wanted to make the point that the practice of meditation was similar to the art of musical performance. We should thus try to be sensitive to these terms and their implications, for the comparison between music and meditation is a useful one.

Những thuật ngữ âm nhạc này xuất hiện lập đi lập lại trong suốt phần thảo luận của Đức Phật về thiền định [§§66, 74, 86, 150, 161, etc.]. Chẳng hạn, trong một bối cảnh Đức Phật nói là phải tạo sự quyết tâm đến đúng (cao) độ, điều chỉnh những năng lực còn lại cùng với (cao) độ đó, và rồi chọn chủ đề. Trong những bối cảnh khác, Ngài nói rằng người ta phải điều chỉnh phù hợp với chủ đề, hoặc rằng người ta phải phát triển thiền định phù hợp với một đối tượng cụ thể. Các trường hợp không thể được gọi là “không-nền”, tương đương với những âm không thể thực hiện chức năng của những nốt nhạc. Có đủ những đọan trích cho thấy Đức Phật dùng những thuật ngữ này có ý thức về những nội hàm âm nhạc của chúng, và rằng Ngài muốn làm rõ quan điểm việc tu tập thiền định cũng giống như trình tấu âm nhạc. Do đó chúng ta nên nhạy cảm đối với những từ này và những hàm ý của nó, vì sự so sánh giữa âm nhạc và thiền định là một so sánh hữu ít.

In the most general sense, this comparison underlines the fact that the knowledge needed for release from suffering is the same sort as that involved in mastering a skill — a continued focus on the present, a sensitivity to one's context, one's own actions, and their combined consequences, rather than a command of an abstract body of facts. To develop the path is to become more and more sensitive to the present — in particular, more sensitive to one's own sensitivity and its consequences. This is similar to the way in which a musician must learn to listen to his/her own performance, a process that ultimately involves listening to the quality of one's listening itself. The greater one's sensitivity in listening, the more profound one's performances become. In the same way, the greater one's sensitivity to one's own mind in the development of skillful qualities, the more one abandons the causes of suffering and realizes its cessation.

Trong ý nghĩa chung nhứt, sự so sánh này nhấn mạnh sự kiện tri kiến cần cho sự giải thóat khỏi khổ cũng giống như kiến thức liên quan đến vịệc làm chủ một kỹ năng – sự tập trung liên tục vào hiện tại, sự nhạy cảm đối với bối cảnh của người ta, những hành động của riêng người ta, và những hệ quả tổng hợp của chúng hơn là tuân theo mệnh lệnh của một khối trừu tượng của những sự kiện. Để phát triển đường đạo phải ngày càng nhạy cảm hơn đối với hiện tại – đặc biệt là nhạy cảm hơn với chính sự nhạy cảm của mình và những hệ quả của nó. Điều này cũng tương tự như một nhạc sĩ phải lắng nghe sự diễn tấu của mình, một quá trình mà xét cho cùng liên quan đến sự lắng nghe chất lượng của sự lắng nghe. Sự nhạy cảm trong lắng nghe của người ta càng tốt chừng nào, thì sự diễn tấu càng trở nên sâu sắc. Cũng như vậy, sự nhạy cảm càng lớn của tâm con người trong việc phát triển những phẩm chất thiện xảo, thì người ta càng bỏ được những nguyên nhân của khổ và thực hiện việc chấm dứt nó.

In addition to this general observation, the comparison between music and meditation highlights a number of practical points in the development of meditative skill. First, it underscores the need for flexibility and ingenuity in the practice, tempered by an awareness of the limits of how far that flexibility can go. A skilled musician in the Buddha's time had to master not one but many tuning systems so as to handle a full range of musical themes, while simultaneously knowing which ways of tuning were unworkable. In the same way, a skilled meditator should know of many valid ways of tuning the mind to the theme of its meditation — and should have a command of them all so as to deal with various contingencies as they arise — but at the same time must be aware that some varieties of meditation simply do not lead to Awakening. In this light, the seven sets of the Wings to Awakening can be viewed as the Buddha's complete list of workable systems for tuning the mind. (There is evidence suggesting that seven is the number of musical tuning systems (gramaraga) recognized in the Buddha's time.) The implication here is that any path of practice deviating from these systems would be like an instrument tuned to a discordant scale, and would not be in harmony with the way of the contemplative (samana) who aims at a life in tune (sama) with the Dhamma.

Ngòai nhận xét tổng quát này, sự so sánh giữa âm nhạc và thiền định làm nổi bật một số điểm thiết thực trong việc phát triển kỹ năng thiền định. Trước hết nó nhấn mạnh sự cần thiết về sự linh họat và sáng tạo trong tu tập được trui rèn bằng ý thức những giới hạn của sự linh họat này đến mức nào. Một mhạc sĩ thiện nghệ thời Đức Phật phải làm chủ không những một mà nhiều hệ thống hòa âm để có thể trình tấu mọi chủ đề âm nhạc, trong khi đồng thời hiểu hệ thống hòa âm nào không ứng dụng được. Cũng như vậy, một thiền giả thiện xảo phải biết nhiều cách hữu hiệu để hòa tâm mình với chủ đề thiền và phải nắm chắc chúng để xử lý những tình huống đột xuất khi chúng phát sinh – nhưng đồng thời phải ý thức biến tấu của thiền định nào đó không dẫn đến Giác ngộ. Dưới ánh sáng đó, 7 đạo phẩm của Đôi cánh Giác ngộ có thể được coi là một danh sách hòan chỉnh về những hệ thống khả thi để hòa tâm của Đức Phật (Có chứng cớ cho thấy rằng số 7 là số của những hệ thống hòa âm của âm nhạc (gramaraga)được công nhận vào thời của Đức Phật.) Hàm ý ở đây là bất cứ con đường tu tập nào lệch khỏi những hệ thống này sẽ giống như một nhạc cụ được hòa âm theo một thang âm không hài hòa, và không hòa điệu với cách mà một sa-môn (samana) hướng đến một cuộc sống hòa âm với Pháp (Dhamma)

A second point is that the musical analogy makes vivid the need for balance in meditative practice, a lesson that appears repeatedly in the texts [§§66, 86, 97, 161]. Just as a musical instrument should neither be too sharp nor too flat, the mind on the path has to find a balance between excessive energy and excessive stillness. At the same time, it must constantly watch out for the tendency for its energy to slacken in the same way that stringed instruments tend to go flat. The "rightness" of right view and other factors of the path thus carries the connotation not only of being correct, but also of being "just right."

Điểm thứ hai là sự so sánh với âm nhạc làm nổi bật sự cần thiết về sự quân bình trong tu tập thiền định, một bài học xuất hiện nhiều lần trong kinh sách[§§66, 86, 97, 161]. Giống như một nhạc cụ không được cao quá mà cũng không được thấp quá, tâm trên đường tu tập phải tìm được sự quân bình giữa hưng phấn quá và trầm lặng quá. Đồng thời, phải thường xuyên cảnh tỉnh với xu hướng sự hưng phấn chùng xuống như là một nhạc cụ có dây bị chùng dây. Sự “đúng đắn” của Chánh Kiến và những thành tố khác của Bát Chánh Đạo do nó mang ý nghĩa không những đúng mà cònh là “chính xác.”

A third point is that this analogy helps clarify passages in the texts that speak of attaining the goal without effort [§62]. Taken out of context, these passages seem to contradict or totally negate the many other passages that focus on the need for effort in the practice. Viewed in context of the music analogy, however, they make perfect sense. Like a musical virtuoso, one develops skill to the point where it becomes effortless, but the perfection of the skill does not negate the fact that it took a great deal of effort to reach that level of mastery.

Điểm thứ ba là sự so sánh này giúp làm sáng tỏ những đọan kinh trích dẫn nói về việc đạt mục đích mà không cần nỗ lực[§62]. Bị tách ra khỏi văn cảnh, những đọan kinh này có vẽ trái ngược hoặc hòan tòan phủ định nhiều đọan trích khác nhấn mạnh đến sự cần thiết của nỗ lực trong tu tập. Xét trong bối cảnh sự tương tự với âm nhạc, tuy nhiên, chúng tạo nên ý nghĩa hòan chỉnh. Giống như một nhạc sĩ bậc thầy, người ta phát triển kỹ năng (thiện xảo) đến độ không cần cố gắng, nhưng sự hòan hảo của kỹ năng không phủ nhận sự kiện là cần có nỗ lực rất lớn để đạt được trình độ bậc thầy đó.

In fact, the Buddha's path is a meta-skill — the full art or science of skillfulness, in and of itself — in which one focuses on the mind as the source of what is skillful and unskillful, learns to deal skillfully with unskillful states of mind, then to deal more skillfully even with skillful states to the point of focusing not on the skill, but on the skill of acquiring a skill, so that one ultimately sees what lies both in the skillfulness and beyond [§61].

* * *

Thật ra, con đường của Đức Phật là một thiện pháp viên mãn – nghệ thuật tròn đầy hoặc khoa học về thiện pháp, trong và của chính nó – trong đó người ta tập trung vào tâm như là nguồn của thiện pháp và bất thiện pháp, học cách ứng phó với những trạng thái thiện xảo và không thiện xảo của tâm, rối ứng phó càng thiện xảo hơn đối với những trạng thái thiện xảo đến điểm tập trung không chỉ vào thiện pháp, mà còn vào sự thiện xảo để đạt được thiện pháp, do đó cuối cùng người ta thấy được điều nằm trong thiện pháp và vượt lên trên.[§61].

* * *

The passages included in this first section cover three themes: (1) how the distinction between what is skillful and not is fundamental to the practice; (2) how to determine what is skillful and not; and (3) how to become skillful in developing skillful states of mind. Because these issues are so basic, the passages are fairly self-explanatory. A few of their facets, however, are easy to overlook.

Những đọan kinh trích gồm trong phần thứ nhứt đề cập ba chủ đề: (1) sự phân biệt giữa thiện pháp và bất thiện pháp là cần thiết trong việc tu tập như thế nào; (2) Cách xác định cái gì là thiện pháp và bất thiện pháp; và (3) làm thế nào để trở thành thiện xảo trong việc phát triển những trạng thái thiện xảo của tâm.Bởi vì những vấn đề này rất cơ bản, những đọan kinh trích là gần như tự giải thích khá tốt. Tuy nhiên chúng có một vài khía cạnh dễ bị bỏ qua.

First, it is important to note that the definition of skillful states of mind as free of greed, aversion, and delusion, provides a convenient rule of thumb for distinguishing between intentions that are merely good and those that are actually skillful. Sometimes good intentions are colored by ignorance, as when one tries to help another person without knowing the true source of that person's problem. This would qualify as a good but not a skillful intention. As we have noted, the processes of causality are sensitive and complex. Thus there is no getting by on well-meaning intentions alone. One must monitor one's actions continually to make sure that they are, in fact, appropriate to the present situation and not based on ignorance. Delusion, even well-meaning delusion, is a source for unskillful acts. For this reason, one needs to be constantly observant of one's actions and their effects [§6] so that one's good intentions can truly become skillful, and one's actions can actually do justice to the specific conditions in the here and now produced by the process of this/that conditionality.

Trước hết, điều quan trọng cần chú ý rằng định nghĩa những trạng thái thiện xảo của tâm là thóat khỏi tham, sân, si đem lại qui luật tất cả các thuận lợi cho việc phân biệt giữa các ý định chỉ là tốt thôi và những ý định thực sự thiện xảo. Đôi khi những ý định tốt mang màu sắc vô minh, như khi chúng ta cố gắng giúp đỡ ai đó mà không biết cội nguồn thật sự của vấn đề của người ấy. Điều này được đánh giá là tốt nhưng không phải là ý định thiện xảo. Như chúng ta đã lưu ý, các quá trình nhân quả là nhạy cảm và phức tạp. Do đó không dễ gì vượt qua được bằng các ý định tốt mà thôi. Người ta phải theo dõi những hành động của mình liên tục để bảo đảm rằng chúng thât sự thích hợp với hòan cảnh hiện tại, và không dựa vào vô minh. Si, ngay cả si có ý tốt, là nguồn gốc của những hành động bất thiện xảo. Vì lý do này người ta cần phải thường xuyên theo dõi những hành động của mình và các quả của chúng [§6] để những ý định tốt có thể trở thành thiện xảo, và những hành động của người ta có thể đúng với những điều kiện cụ thể ở đây và bây giờ do tiến trình của nguyên lý điều kiện có cái này/nên cái kia sản sinh ra.

Second, the distinction between skillful and unskillful provides an insightful explanation for the causes for good and evil behavior. This distinction is not limited to the values of any particular society, and it avoids the issue of whether beings are inherently good or bad. When people act in evil ways, it is because they lack skill in the way they think; when they think in skillful ways, they naturally will do good. Because skill is something that can be acquired, the way to goodness is open for all people who want to be good, no matter how badly they have behaved in the past. The Canon tells of people who had committed misdeeds and, upon realizing their mistakes, confessed them to the Buddha. The most striking instance was King Ajatasattu [DN 2], who had killed his father in order to secure his position on the throne. In spite of the gross nature of the deed, the Buddha approved of the king's confession, and — instead of playing on any feelings of guilt the king might have had — encouraged him in his determination to mend his ways, adding that it is a cause for progress in the noble way if one realizes one's mistakes as such and resolves not to repeat them. Thus it is always possible to make a fresh start in life, aware of one's past bad kamma and resolving to mend one's ways, unburdened with any feelings that one might be inherently unworthy or bad.

Thứ hai, sự phân biệt giữa thiện và bất thiện đem lại sự giải thích thấu đáo về những nguyên nhân của của hành vi thiện và bất thiện. Sự phân biệt này không giới hạn đối với những giá trị của một xã hội cụ thể nào, và nó tránh vấn đề liệu là chúng sinh tính bản thiện hay là tính bản ác. Khi người ta hành động theo cách ác, chỉ vì họ thiếu thiện xảo trong cách suy nghĩ của họ; khi họ suy nghĩ theo cách thiện xảo, tự nhiên họ sẽ làm thiện. Bởi vì thiện xảo là điều có thể có thụ đắc, con đường dẫn đến thiện là rộng mở cho tất cả những ai muốn thiện, bất kể trong quá khứ họ đã làm ác như thế nào. Kinh điển có kể câu chuyện những người làm những việc sai quấy, khi nhận ra lỗi của họ, thú nhận với Đức Phật Trường hợp nổi bật nhất là Vua Ajatasattu [DN 2], đã giết cha mình để đảm bảo ngôi vua cho mình. Bất kể bản chất đáng kinh tởm của hành động đó, Đức Phật đã chấp nhận sự sám hối của nhà vua, và – thay vì quan tâm đến những cảm thọ tội lỗi mà nhà vua có thể có – khuyến khích ông trong quyết định của ông về việc chuộc lỗi lầm, nói thêm rằng đó là nguyên nhân cho sự tiến bộ trên con đường cao cả nếu người ta nhận được lỗi lầm của mình như vậy và quyết tâm không tái phạm. Do đó bất cứ lúc nào cũng có thể làm lại cuộc đời, ý thức được ác nghiệp quá khứ của mình và quyết tâm khắc phục, trút bỏ gánh nặng của những cảm thọ là bản thân mình vốn có là không xứng đáng hay xấu xa.

Third, it is important to note the two basic factors, internal and external, that enable one to tell what is skillful and unskillful. The main internal factor is "appropriate attention," [§53] which is well illustrated in §1. One learns to view one's thoughts objectively, without partiality, in terms of their actual consequences. As this factor develops from a sense of conviction in the principle of kamma [§§9-17], it turns into the ability to view all of experience in terms of the four noble truths [§51].

Thứ ba, điều quan trong là lưu ý hai thành tố cơ bản, bên trong và bên ngòai, làm cho người ta có thể phân biệt cái gì là thiện xảo và bất thiện xảo. Thành tố bên trong là “chú tâm đúng mức” [§53] được minh họa kỹ ở §1. Người ta học cách xem xét tư tưởng của mình một cách khách quan, không thiên vị, về phương diện hệ quả thật sự của chúng . Khi thành tố này phát triển từ ý thức xác tín về nguyên lý nghiệp [§§9-17], nó chuyển thành khả năng xem xét tất cả những kinh nghiệm theo Tứ Thánh Đế[§51].

The main external factor is friendship with admirable people [§54], defined as those who live by the principle of kamma. From their teachings, one can learn the advisability of trying to develop skillfulness in the first place; in their behavior, one can see skillfulness in action. These internal and external factors reinforce one another, in that skillful attitudes lead one to seek out admirable people to begin with, and admirable people lead one by word and example to see the less obvious advantages of skillful attitudes. Fortunately, every human being alive has some skillful qualities in his or her mind, as well as access to people who are admirable on at least some level. Thus no one consciously starting on the Buddhist path is starting from scratch. Rather, each person is advised to make the most of opportunities that have already been present and to search for further opportunities to develop the mind in a skillful direction.

Thành tố chính bên ngòai là tình bạn với những bậc đáng kính[§54], được xác định là những người sống theo nguyên lý nghiệp. Từ những lời giảng dạy của họ, hành giả có thể học được những lời khuyên về cố gắng phát triển thiện pháp trước tiên; từ hành vi của họ, hành giả có thể thấy được sự thiện xảo trong thực hành. Những thành tố bên trong và bên ngòai này tăng trưởng lẫn nhau, trong đó những thái độ thiện xảo đưa hành giả đi tìm những bậc đáng kính để bắt đầu cùng họ, và những bậc này hướng dẫn hành giả bằng lời nói và thí dụ để nhận biết những thuận lợi ít rõ ràng hơn của những thái độ thiện xảo. May thay mỗi người đang sống có những phẩm chất thiện xảo nhất định trong tâm mình, cũng như tiếp cận được những bậc đáng kinh ít nhứt là ở một cấp độ nào đó. Do đó không ai khởi bước trên đường đạo từ vệt xuất phát. Mà, mỗi người được khuyên là tận dụng những cơ hội đã từng xuất hiện và tìm những cơ hội thêm nữa để phát triển tâm theo hướng thiện xảo.

The two prerequisites for skillfulness are amplified in §2. The discourse from which this passage comes — the Discourse to the Kalamas — is often referred to as the Buddha's charter of free inquiry, because of the emphasis it lays on seeing the truth for oneself, without reliance on outside authority. This interpretation, however, misses one of the important clauses in the discourse, where the Buddha says that one must take note of what wise people censure and praise. In other words, one must check one's own perceptions against those of people of upright character and solid experience, for until one gains Awakening, one's perceptions are bound to be partial and biased. This is why the Buddha says [§115] that friendship with admirable people — which begins with the ability to recognize admirable people — is the whole of the life of practice.

Hai điều kiện tiên quyết của sự thiện xảo được bàn rộng ở §2. Bài giảng mà từ đó đọan trích này được rút ra - Bài giảng Kalamas – được đề cập như là điều lệ về tư do tìm hỏi, bởi vì sự nhấn mạnh của nó là ở chỗ tự tìm thấy chân lý cho chính mình không nương cậy quyền lực bên ngòai. Tuy nhiên, hiểu như vậy lại bỏ quên những câu quan trọng trong bài giảng ở chỗ Đức Phật nói hành giả phải ghi nhớ những gì những bậc trí giả xác nhận và ca ngợi. Nói cách khác, hành giả phải kiểm tra những nhận thức của mình bằng đối chiếu với những nhận thức của những người tính cách thẳng ngay và kinh nghiệm thâm hậu, cho đến khi đạt được Giác Ngộ, những nhận thức của hành giả có xu hướng lệch lạc và thiện vị. Đó là lý do mà Đức Phật nói[§115] rằng tình bạn với những bậc đáng kính – bắt đầu với khả năng nhận ra những bậc đáng kính – là tòan bộ đời sống tu tập.

The interaction between appropriate attention and friendship with admirable people in mastering skillful mental qualities is well-illustrated in §6. This passage, in which the Buddha shortly after his Awakening is instructing his seven-year-old son (who was born just before Prince Siddhattha left home), shows very explicitly how one develops appropriate attention by reflecting on the consequences of one's actions before, while, and after acting. If one realizes, after acting, that what looked like a proper action before and while acting actually turned out to have unfavorable consequences, one should confess the mistake to one's experienced friends on the path. This allows one to benefit from their counsel and also to make public one's resolve not to make the same mistake again. In this way, although one is responsible for treading the path oneself, one can benefit from the wisdom and encouragement of those already familiar with the way.

Sự tác động qua lại giữa sự chú tâm đúng mức và tình bạn với những bậc đáng kính (bậc hiền trí) trong việc quán triệt được các phẩm chất thiện xảo của tâm được minh họa kỹ ở §6. Đọan trích này, trong đó Đức Phật một thời gian ngắn sau khi Giác ngộ chỉ dạy cho người con trai bảy tuổi của ngài (người được sinh ra chỉ trước khi Thái tử Siddhattha rời khỏi nhà) trình bày rõ ràng cách phát triển sự chú tâm đúng mức bằng cách quán chiếu những hệ quả của những hành động của hành giả trước, trong và sau khi hành động. Nếu hành giả nhận ra, sau khi hành động, rằng cái nhìn có vẻ là hành động đúng trước và trong khi hành động hóa ra không cón hệ quả ưa thích, hành giả phải sám hối sai lầm của mình với những người bạn từng trải trên đường đạo. Điều này làm cho hành giả nhận được lời khuyên của họ và quyết tâm của mình là không lập lại sai lầm đó nữa. Bằng cách này, dù do hành giả phải tự chịu trách nhiệm bước trên đường đạo, hành giả có thể có được lợi lạc từ trí tuệ và sự sách tấn của những người đã có kinh nghiệm trên con đường đạo.

Passages from the Pali canon  

§ 1. Before my self-awakening, when I was still just an unawakened Bodhisatta, the thought occurred to me: 'Why don't I keep dividing my thinking into two classes?' So I made thinking imbued with sensuality, thinking imbued with ill will, & thinking imbued with harmfulness one class, and thinking imbued with renunciation, thinking imbued with non-ill will, & thinking imbued with harmlessness another class.

Tư liệu từ kinh điển Pali  

§ 1. Chư Tỷ-kheo, trước khi Ta giác ngộ, khi chưa thành Chánh Giác và còn là Bồ-tát, Ta suy nghĩ như sau: "Ta sống suy tư và chia hai suy tầm". Chư Tỷ-kheo, phàm có dục tầm nào, sân tầm nào, hại tầm nào, Ta phân thành phần thứ nhất; Phàm có ly dục tầm nào, vô sân tầm nào, vô hại tầm nào, Ta phân thành phần thứ hai..

And as I remained thus heedful, ardent, & resolute, thinking imbued with sensuality arose in me. I discerned that 'Thinking imbued with sensuality has arisen in me; and that leads to my own affliction or to the affliction of others or to the affliction of both. It obstructs discernment, promotes vexation, & does not lead to Unbinding.'

Chư Tỷ-kheo, rồi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Khi dục tầm khởi lên, Ta tuệ tri: "Dục tầm này khởi lên nơi Ta, và dục tầm này đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết-bàn".

As I noticed that it leads to my own affliction, it subsided. As I noticed that it leads to the affliction of others... to the affliction of both... it obstructs discernment, promotes vexation, & does not lead to Unbinding, it subsided. Whenever thinking imbued with sensuality had arisen, I simply abandoned it, destroyed it, dispelled it, wiped it out of existence. [Similarly with thinking imbued with ill will & harmfulness.]

Chư Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: "Dục tầm này đưa đến tự hại", dục tầm được biến mất, Chư Tỷ-kheo, khi ta suy tư: "Dục tầm đưa đến hại người", dục tầm được biến mất. Chư Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: "Dục tầm đưa đến hại cả hai", dục tầm được biến mất. Chư Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: "Dục tầm diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết-bàn", dục tầm được biến mất. Chư Tỷ-kheo, như vậy Ta tiếp tục trừ bỏ, xả ly và đoạn tận dục tầm.

Whatever a monk keeps pursuing with his thinking & pondering, that becomes the inclination of his awareness. If a monk keeps pursuing thinking imbued with sensuality, abandoning thinking imbued with renunciation, his mind is bent by that thinking imbued with sensuality. [Similarly with thinking imbued with ill will & harmfulness.]

Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều vấn đề gì, thời tâm sanh khuynh hướng đối vấn đề ấy. Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều về dục tầm, vị ấy từ bỏ ly dục tầm. Khi tâm đã nặng về dục tầm, thời tâm vị ấy có khuynh hướng về dục tầm.

Just as in the last month of the Rains, in the autumn season when the crops are ripening, a cowherd would look after his cows: he would tap & poke & check & curb them with a stick on this side & that. Why is that? Because he foresees flogging or imprisonment or a fine or public censure arising from that [if he let his cows wander into the crops]. In the same way I foresaw in unskillful qualities drawbacks, degradation, & defilement, and I foresaw in skillful qualities rewards related to renunciation & promoting cleansing.

Chư Tỷ-kheo, ví như vào cuối tháng mùa mưa, về mùa thu, khi lúa đã trổ hạt, một người mục đồng chăn giữ bò, cầm roi đánh các con bò bên này, đánh bên kia, chế ngự chúng, ngăn chận chúng. Vì sao vậy? Chư Tỷ-kheo, vì người mục đồng thấy do nhân duyên này, đưa đến sự chết, sự tù tội, sự đánh đập hay sự trách móc. Chư Tỷ-kheo, cũng vậy, Ta đã thấy sự nguy hại, sự hạ liệt, sự uế nhiễm của các pháp bất thiện, và thấy sự viễn ly, sự lợi ích, sự thanh tịnh của các thiện pháp.

And as I remained thus heedful, ardent, & resolute, thinking imbued with renunciation arose in me. I discerned that 'Thinking imbued with renunciation has arisen in me; and that leads neither to my own affliction, nor to the affliction of others, nor to the affliction of both. It fosters discernment, promotes lack of vexation, & leads to Unbinding. If I were to think & ponder in line with that even for a night... even for a day... even for a day & night, I do not envision any danger that would come from it, except that thinking & pondering a long time would tire the body. When the body is tired, the mind is disturbed; and a disturbed mind is far from concentration.' So I steadied my mind right within, settled, unified, & concentrated it. Why is that? So that my mind would not be disturbed. [Similarly with thinking imbued with non-ill will & harmlessness.]

Chư Tỷ-kheo, trong khi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần như vậy, khi ly dục tầm khởi lên, Ta tuệ tri như vầy: "Ly dục tầm này khởi lên nơi Ta và ly dục tầm này không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai, tăng trưởng trí tuệ, không dự phần vào phiền não, đưa đến Niết-bàn". Chư Tỷ-kheo, nếu ban đêm Ta suy tư, quán sát (về ly dục tầm) không phải từ nhân duyên ấy Ta thấy sợ hãi. Chư Tỷ-kheo, nếu ban ngày Ta suy tư, quán sát (về ly dục tầm), không phải từ nhân duyên ấy Ta thấy sợ hãi. Chư Tỷ-kheo, nếu ban đêm, ban ngày, Ta suy tư, quán sát (về ly dục tầm), không phải từ nhân duyên ấy Ta thấy sợ hãi. Và Ta suy tư, quán sát quá lâu, thân ta có thể mệt mỏi; khi thân mệt mỏi thì tâm bị dao động; khi tâm bị dao động thì tâm rất khó được định tĩnh. Chư Tỷ-kheo, rồi tự nội thân Ta trấn an tâm, trấn tịnh tâm, khiến được nhất tâm, khiến thành định tĩnh. Vì sao vậy? Vì để tâm Ta khỏi dao động.

Whatever a monk keeps pursuing with his thinking & pondering, that becomes the inclination of his awareness. If a monk keeps pursuing thinking imbued with renunciation, abandoning thinking imbued with sensuality, his mind is bent by that thinking imbued with renunciation. [Similarly with thinking imbued with non-ill will & harmlessness.]

Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều vấn đề gì, thời tâm sanh khuynh hướng đối vấn đề ấy. Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều về ly dục tầm, vị ấy từ bỏ dục tầm. Khi tâm đã đặt nặng về ly dục tầm, tâm vị ấy có khuynh hướng về ly dục tầm. (Tương tự khi suy tư, quán sát về vô sân tầm, bất hại tầm).

Just as in the last month of the hot season, when all the crops have been gathered into the village, a cowherd would look after his cows: while resting under the shade of a tree or out in the open, he simply keeps himself mindful of 'those cows.' In the same way, I simply kept myself mindful of 'those mental qualities.'

Chư Tỷ-kheo, ví như vào cuối tháng hè, khi tất cả lúa gạo đã cất vào kho thóc, một người mục đồng chăn giữ các con bò. Khi người mục đồng ở dưới gốc cây hay ở ngoài trời, người ấy có thể nghĩ đến có việc cần phải làm, và người ấy nghĩ: "Đây là những con bò". Chư Tỷ-kheo, cũng vậy ở đây, có việc cần phải làm, và Ta nghĩ: "Đây là những pháp".

Unflagging persistence was aroused in me, and unmuddled mindfulness established. My body was calm & unaroused, my mind concentrated & single. Quite secluded from sensuality, secluded from unskillful (mental) qualities, I entered & remained in the first jhāna: rapture & pleasure born of seclusion, accompanied by directed thought & evaluation. With the stilling of directed thoughts & evaluations, I entered & remained in the second jhāna: rapture & pleasure born of concentration, unification of awareness free from directed thought & evaluation — internal assurance. With the fading of rapture I remained equanimous, mindful, & alert, and sensed pleasure with the body. I entered & remained in the third jhāna, of which the noble ones declare, 'Equanimous & mindful, he has a pleasant abiding.' With the abandoning of pleasure & pain — as with the earlier disappearance of joys & distresses — I entered & remained in the fourth jhāna: purity of equanimity & mindfulness, neither pleasure nor pain.

Chư Tỷ-kheo, Ta phát tâm dõng mãnh, tinh tấn, không có tiêu cực, niệm không tán loạn được an trú, tâm được khinh an, không có cuồng nhiệt, tâm được định tĩnh nhất tâm. Chư Tỷ-kheo, Ta ly dục, ly ác, bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Diệt tầm và tứ, Ta chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, Ta chứng và an trú Thiền thứ ba. Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, Ta chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.

When the mind was thus concentrated, purified, bright, unblemished, rid of defilement, pliant, malleable, steady, & attained to imperturbability, I directed it to the knowledge of recollecting my past lives. I recollected my manifold past lives, i.e., one birth, two... five, ten... fifty, a hundred, a thousand, a hundred thousand, many aeons of cosmic contraction, many aeons of cosmic expansion, many aeons of cosmic contraction & expansion: 'There I had such a name, belonged to such a clan, had such an appearance. Such was my food, such my experience of pleasure & pain, such the end of my life. Passing away from that state, I re-arose there. There too I had such a name, belonged to such a clan, had such an appearance. Such was my food, such my experience of pleasure & pain, such the end of my life. Passing away from that state, I re-arose here.' Thus I remembered my manifold past lives in their modes & details.

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh. Ta nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Ta nhớ rằng: "Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sinh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mực như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây". Như vậy, Ta nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết.

This was the first knowledge I attained in the first watch of the night. Ignorance was destroyed; knowledge arose; darkness was destroyed; light arose — as happens in one who is heedful, ardent, & resolute.

Chư Tỷ-kheo, đó là minh thứ nhất Ta đã chứng được cuối đêm canh thứ nhất; vô minh được đoạn trừ, minh sanh khởi, bóng tối được đoạn trừ, ánh sáng sanh khởi, trong khi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần

When the mind was thus concentrated, purified, bright, unblemished, rid of defilement, pliant, malleable, steady, & attained to imperturbability, I directed it to the knowledge of the passing away & reappearance of beings. I saw — by means of the divine eye, purified & surpassing the human — beings passing away & re-appearing, and I discerned how they are inferior & superior, beautiful & ugly, fortunate & unfortunate in accordance with their kamma: 'These beings — who were endowed with bad conduct of body, speech & mind, who reviled the noble ones, held wrong views and undertook actions under the influence of wrong views — with the breakup of the body, after death, have re-appeared in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell. But these beings — who were endowed with good conduct of body, speech, & mind, who did not revile the noble ones, who held right views and undertook actions under the influence of right views — with the breakup of the body, after death, have re-appeared in the good destinations, in the heavenly world.' Thus — by means of the divine eye, purified & surpassing the human — I saw beings passing away & re-appearing, and I discerned how they are inferior & superior, beautiful & ugly, fortunate & unfortunate in accordance with their kamma.

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Ta với Thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, lời và ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời và ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, cõi Trời, trên đời này. Như vậy, vị ấy với Thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ.

This was the second knowledge I attained in the second watch of the night. Ignorance was destroyed; knowledge arose; darkness was destroyed; light arose — as happens in one who is heedful, ardent, & resolute.

Chư Tỷ-kheo, đó là minh thứ hai. Ta đã chứng được cuối đêm canh thứ hai; vô minh được đoạn trừ, minh sanh khởi, bóng tối được đoạn trừ, ánh sáng sanh khởi, trong khi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần

When the mind was thus concentrated, purified, bright, unblemished, rid of defilement, pliant, malleable, steady, & attained to imperturbability, I directed it to the knowledge of the ending of the effluents. I discerned, as it had come to be, that 'This is stress... This is the origination of stress... This is the cessation of stress... This is the way leading to the cessation of stress... These are effluents... This is the origination of effluents... This is the cessation of effluents... This is the way leading to the cessation of effluents.' My heart, thus knowing, thus seeing, was released from the effluent of sensuality, released from the effluent of becoming, released from the effluent of ignorance. With release, there was the knowledge, 'Released.' I discerned that 'Birth is ended, the holy life fulfilled, the task done. There is nothing further for this world.'

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm, đến Lậu tận trí. Ta biết như thật: "Đây là khổ", biết như thật: "Đây là Nguyên nhân của Khổ", biết như thật: "Đây là sự Diệt khổ", biết như thật: "Đây là con đường đưa đến diệt khổ", biết như thật: "Đây là những lậu hoặc", biết như thật: "Đây là nguyên nhân của các lậu hoặc", biết như thật: "Đây là sự đoạn trừ các lậu hoặc", biết như thật: "Đây là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc". Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã giải thoát". Ta tuệ tri: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm xong, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa".

This was the third knowledge I attained in the third watch of the night. Ignorance was destroyed; knowledge arose; darkness was destroyed; light arose — as happens in one who is heedful, ardent, & resolute.

MN 19

Chư Tỷ-kheo, đó là minh thứ ba. Ta đã chứng được cuối đêm canh thứ ba; vô minh được đoạn trừ, minh sanh khởi, bóng tối được đoạn trừ, ánh sáng sanh khởi, trong khi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.

MN 19

§ 2. As they were sitting to one side, the Kālāmas of Kesaputta said to the Blessed One, 'Venerable sir, there are some contemplatives & brahmans who come to Kesaputta. They expound & glorify their own doctrines, but as for the doctrines of others, they deprecate them, revile them, show contempt for them, & disparage them. And then other contemplatives & brahmans come to Kesaputta. They expound & glorify their own doctrines, but as for the doctrines of others, they deprecate them, revile them, show contempt for them, & disparage them. They leave us simply uncertain & doubtful: Which of these venerable contemplatives & brahmans are speaking the truth, and which ones are lying?'

Sau khi ngồi xuống một bên, các người Kàlàmà ở Kesaputta bạch Thế Tôn :
-" Có một số Sa-môn, Bà-la-môn, bạch Thế Tôn, đi đến Kesaputta. Họ làm sáng tỏ, làm chói sáng quan điểm của mình, nhưng họ bài xích quan điểm người khác, kinh miệt, chê bai. Bạch Thế Tôn, và một số Sa-môn, Bà-la-môn khác cũng đi đến Kesaputta, Họ làm sáng tỏ, làm chói sáng quan điểm của mình, nhưng họ bài xích quan điểm người khác, kinh miệt, chê bai, xuyên tạc. Đối với họ, bạch Thế Tôn, chúng con có những nghi ngờ phân vân : "Trong những Tôn giả Sa-môn này, ai nói sự thật, ai nói láo ?"

'Of course you're uncertain, Kālāmas. Of course you're doubtful. When there are reasons for doubt, uncertainty is born. So in this case, Kālāmas, don't go by reports, by legends, by traditions, by scripture, by conjecture, by inference, by analogies, by agreement through pondering views, by probability, or by the thought, "This contemplative is our teacher." When you know for yourselves that, "These qualities are unskillful; these qualities are blameworthy; these qualities are criticized by the wise; these qualities, when undertaken & carried out, lead to harm & to suffering" — then you should abandon them...

Đương nhiên, này các Kàlàmà, các Ông có những nghi ngờ ! Đương nhiên, này các Kàlàmà, các Ông có những phân vân ! Trong những trường hợp đáng nghi ngờ, các Ông đương nhiên khởi lên phân vân. Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe truyền thuyết ; chớ có tin vì nghe theo truyền thống ; chớ có tin vì nghe theo người ta nói ; chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng ; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình ; chớ có tin vì đúng theo một lập trường ; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện ; chớ có tin vì phù hợp với định kiến ; chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình. Nhưng này các Kàlàmà, khi nào tự mình biết rõ như sau : "Các pháp này là bất thiện - Các pháp này là có tội ; Các pháp này bị các người có trí chỉ trích ; Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau", thời này Kàlàmà, hãy từ bỏ chúng !

'What do you think, Kālāmas? When greed arises in a person, does it arise for welfare or for harm?'

'For harm, lord.'

-Các Ông nghĩ thế nào, này Kàlàmà ! Lòng tham khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh ?

- Bất hạnh, bạch Thế Tôn.

'And this greedy person, overcome by greed, his mind possessed by greed: Doesn't he kill living beings, take what is not given, go after another person's wife, tell lies, and induce others to do likewise, all of which is for long-term harm & suffering?'

'Yes, lord.'

- Người này có tham, này các Kàlàmà, bị tham chinh phục, tâm bị xâm chiếm, giết các sinh vật, lấy của không cho, đi đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có làm cho người ấy bất hạng đau khổ lâu dài hay không ?

- Thưa có, bạch Thế Tôn.

[Similarly for aversion & delusion.]

So what do you think, Kālāmas? Are these qualities skillful or unskillful?'

'Unskillful, lord.'

'Blameworthy or blameless?'

'Blameworthy, lord.'

'Criticized by the wise or praised by the wise?'

'Criticized by the wise, lord.'

'When undertaken & carried out, do they lead to harm & to suffering, or not?'

'When undertaken & carried out, they lead to harm & to suffering...'

-Các Ông nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, lòng sân khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh ?

- Bất hạnh, bạch Thế Tôn.

- Người này có sân, này các Kàlàmà, bị sân chinh phục, tâm bị xâm chiếm, giết các sinh vật, lấy của không cho, đi đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có làm cho người ấy bất hạng đau khổ lâu dài hay không ?

- Thua có, bạch Thế Tôn.

- Nếu được thực hiện, được chấp nhận, có đưa đến bất hạnh đau khổ không ? hay ở đây, là như thế nào ?

- Được thực hiện, được chấp nhận, bạch Thế Tôn, chúng đưa đến bất hạnh, đau khổ, ở đây, đối với chúng con là vậy.

'...Now, Kālāmas, don't go by reports, by legends, by traditions, by scripture, by conjecture, by inference, by analogies, by agreement through pondering views, by probability, or by the thought, "This contemplative is our teacher." When you know for yourselves that, "These qualities are skillful; these qualities are blameless; these qualities are praised by the wise; these qualities, when undertaken & carried out, lead to welfare & to happiness" — then you should enter & remain in them.

Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe truyền thuyết, chớ có tin vì nghe theo người ta nói ; chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng ; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình ; chớ có tin vì đúng theo một lập trường ; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện ; chớ có tin vì phù hợp với định kiến ; chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình. Nhưng này các Kàlàmà, khi nào tự mình biết rõ như sau : "Các pháp này là thiện - Các pháp này là không có tội ; Các pháp này không bị các người có trí chỉ trích ; Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến hạnh phúc an lạc", thời này Kàlàmà, hãy từ đạt đến và an trú !

'What do you think, Kālāmas? When lack of greed arises in a person, does it arise for welfare or for harm?'

'For welfare, lord.'

'And this ungreedy person, not overcome by greed, his mind not possessed by greed: He doesn't kill living beings, take what is not given, go after another person's wife, tell lies, or induce others to do likewise, all of which is for long-term welfare & happiness — right?'

'Yes, lord.'

[Similarly for lack of aversion & lack of delusion.]

So what do you think, Kālāmas? Are these qualities skillful or unskillful?'

'Skillful, lord.'

'Blameworthy or blameless?'

'Blameless, lord.'

'Criticized by the wise or praised by the wise?'

'Praised by the wise, lord.'

 'When undertaken & carried out, do they lead to welfare & to happiness, or not?'

'When undertaken & carried out, they lead to welfare & to happiness...'

AN 3.65

-Các Ông nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, không tham, khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy, đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh cho người ấy ?

- Hạnh phúc, bạch Thế Tôn.

- Người này không tham, này các Kàlàmà, không bị tham chinh phục, tâm không bị xâm chiếm, không giết các sinh vật, không lấy của không cho, không đi đến vợ người, không nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có làm cho người ấy hạnh phúc an lạc lâu dài hay không ?

- Thưa có, bạch Thế Tôn.

-Các Ông nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, các pháp này là thiện hay bất thiện ?

- Là thiện, bạch Thế Tôn.

- Các pháp này có tội hay không có tội ?

- Không có tội, bạch Thế Tôn.

- Bị người có trí quở trách hay được người có trí tán thán ?

- Được người trí tán thán, bạch Thế Tôn.

- Nếu được thực hiện, được chấp nhận, có đưa đến hạnh phúc an lạc không, hay ở đây, là như thế nào ?

- Được thực hiện, được chấp nhận, bạch Thế Tôn, chúng đưa đến hạnh phúc, an lạc. Ở đây, đối với chúng con là vậy.

AN 3.65

§ 3. Now what is unskillful? Taking life is unskillful, taking what is not given... sexual misconduct... lying... abusive speech... divisive tale-bearing... idle chatter is unskillful. Covetousness... ill will... wrong views are unskillful. These things are termed unskillful.

Và chư Hiền, thế nào là căn bổn bất thiện? Tham là căn bổn bất thiện, sân là căn bổn bất thiện, si là căn bổn bất thiện. Chư Hiền, như vậy gọi là căn bổn bất thiện.

And what are the roots of what is unskillful? Greed is a root of what is unskillful, aversion is a root of what is unskillful, delusion is a root of what is unskillful. These are termed the roots of what is unskillful.

Và chư Hiền, thế nào là căn bổn bất thiện? Tham là căn bổn bất thiện, sân là căn bổn bất thiện, si là căn bổn bất thiện. Chư Hiền, như vậy gọi là căn bổn bất thiện.

And what is skillful? Abstaining from taking life is skillful, abstaining from taking what is not given... from sexual misconduct... from lying... from abusive speech... from divisive tale-bearing... abstaining from idle chatter is skillful. Lack of covetousness... lack of ill will... right views are skillful. These things are termed skillful.

Và này chư Hiền, thế nào là thiện? Từ bỏ sát sanh là thiện, từ bỏ lấy của không cho là thiện, từ bỏ tà hạnh trong các dục là thiện, từ bỏ nói láo là thiện, từ bỏ nói hai lưỡi là thiện, từ bỏ ác khẩu là thiện, từ bỏ nói phù phiếm là thiện, không tham dục là thiện, không sân là thiện, chánh tri kiến là thiện. Chư Hiền, như vậy gọi là thiện.

And what are the roots of what is skillful? Lack of greed is a root of what is skillful, lack of aversion is a root of what is skillful, lack of delusion is a root of what is skillful. These are termed the roots of what is skillful.

MN 9

Chư Hiền, thế nào là căn bổn thiện? Không tham là căn bổn thiện, không sân là căn bổn thiện, không si là căn bổn thiện. Chư Hiền, như vậy gọi là căn bổn thiện.

MN 9

§ 4. The Tathāgata, the Worthy one, the Rightly Self-awakened One has two Dhamma discourses given in sequence. Which two? 'See evil as evil.' This is the first Dhamma discourse. 'Having seen evil as evil, become disenchanted there, dispassionate there, released.' This is the second Dhamma discourse...

...See evil Be dispassionate toward evil. Then, with a mind dispassionate you will put an end to suffering & stress.

Iti 39

§ 4. Có hai loại thuyết pháp của Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh-Đẳng Giác, cái này tiếp nối cái kia. Thế nào là hai? "Hãy thấy ác là ác", đây là thuyết pháp thứ nhất. Sau khi thấy ác là ác, ở đây, "Hãy nhàm chán, hãy từ bỏ, hãy thoát ly", đây là thuyết pháp thứ hai....

...Một là hãy nhìn rõ,
Pháp ác là pháp ác
Và chính tại ở đây,
Từ bỏ, không tham đắm.
Từ đây, không tham đắm,
Hãy làm cho an tịnh,
Mọi khổ đau phiền não.

Iti 39

§ 5. Abandon what is unskillful, monks. It is possible to abandon what is unskillful. If it were not possible to abandon what is unskillful, I would not say to you, 'Abandon what is unskillful.' But because it is possible to abandon what is unskillful, I say to you, 'Abandon what is unskillful.' If this abandoning of what is unskillful were conducive to harm and pain, I would not say to you, 'Abandon what is unskillful.' But because this abandoning of what is unskillful is conducive to benefit and pleasure, I say to you, 'Abandon what is unskillful.'

§ 5.Này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ bất thiện, này các Tỷ-kheo, từ bỏ bất thiện có thể làm được. Nếu từ bỏ bất thiện không thể làm được thời ta đã không nói như sau : "Này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ bất thiện". Vì rằng, này các Tỷ-kheo, từ bỏ bất thiện có thể làm được, do vậy Ta mới nói rằng : "Này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ bất thiện". Và nếu, này các Tỷ-kheo, từ bỏ bất thiện đưa đến bất hạnh, đau khổ, thời ta không nói như sau : "Này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ bất thiện". Và này các Tỷ-kheo, vì từ bỏ bất thiện đưa đến hạnh phúc, an lạc, nên Ta đã nói như sau : "Này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ bất thiện".

Develop what is skillful, monks. It is possible to develop what is skillful. If it were not possible to develop what is skillful, I would not say to you, 'Develop what is skillful.' But because it is possible to develop what is skillful, I say to you, 'Develop what is skillful.' If this development of what is skillful were conducive to harm and pain, I would not say to you, 'Develop what is skillful.' But because this development of what is skillful is conducive to benefit and pleasure, I say to you, 'Develop what is skillful.'

AN 2.19

Này các Tỷ-kheo, hãy tu tập thiện. Này các Tỷ-kheo, tu tập thiện có thể làm được. Nếu tu tập thiện không thể làm được thời ta đã không nói như sau : "Này các Tỷ-kheo, hãy tu tập thiện". Vì rằng, này các Tỷ-kheo, tu tập thiện có thể làm được, do vậy Ta mới nói rằng : "Này các Tỷ-kheo, hãy tu tập thiện". Và nếu, này các Tỷ-kheo, tu tập thiện đưa đến bất hạnh, đau khổ, thời ta không nói như sau : "Này các Tỷ-kheo, hãy tu tập thiện". Và này các Tỷ-kheo, vì tu tập thiện đưa đến hạnh phúc, an lạc, nên Ta đã nói như sau : "Này các Tỷ-kheo, hãy tu tập thiện".

AN 2.19

§ 6. The Buddha: What do you think, Rāhula: What is a mirror for?

Rāhula: For reflection, sir.

§ 6.Thế Tôn: Này Rāhula, Ông nghĩ thế nào ? Mục đích của cái gương là gì ?

Rahula: Bạch Thế Tôn, mục đích là để phản tỉnh.

The Buddha: In the same way, Rāhula, bodily actions, verbal actions, & mental actions are to be done with repeated reflection.

Thế Tôn: Cũng vậy, này Rahula, sau khi phản tỉnh nhiều lần, hãy hành thân nghiệp. Sau khi phản tỉnh nhiều lần, hãy hành khẩu nghiệp. Sau khi phản tỉnh nhiều lần, hãy hành ý nghiệp.

Whenever you want to perform a bodily action, you should reflect on it: 'This bodily action I want to perform — would it lead to self-affliction, to the affliction of others, or to both? Is it an unskillful bodily action with painful consequences, painful results?' If, on reflection, you know that it would lead to self-affliction, to the affliction of others, or to both; it would be an unskillful bodily action with painful consequences, painful results, then any bodily action of that sort is absolutely unfit for you to do. But if on reflection you know that it would not cause affliction... it would be a skillful bodily action with happy consequences, happy results, then any bodily action of that sort is fit for you to do.

[Similarly with verbal actions & mental actions.]

Này Rahula, khi Ông muốn làm một thân nghiệp gì, hãy phản tỉnh thân nghiệp ấy như sau: "Thân nghiệp này của ta có thể đưa đến tự hại, có thể đưa đến hại người, có thể đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ". Này Rahula, nếu trong khi phản tỉnh, Ông biết: "Thân nghiệp này, ta muốn làm. Thân nghiệp này của ta có thể đưa đến tự hại, có thể đưa đến hại người, có thể đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ". Một thân nghiệp như vậy, này Rahula, Ông nhất định chớ có làm. Này Rahula, nếu sau khi phản tỉnh, ông biết: "Thân nghiệp này ta muốn làm. Thân nghiệp này của ta không có thể đưa đến tự hại, không có thể đưa đến hại người, không có thể đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp này là thiện, đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc". Một thân nghiệp như vậy, này Rahula, Ông nên làm.

While you are performing a bodily action, you should reflect on it: 'This bodily action I am doing — is it leading to self-affliction, to the affliction of others, or to both? Is it an unskillful bodily action, with painful consequences, painful results?' If, on reflection, you know that it is leading to self-affliction, to affliction of others, or both... you should give it up. But if on reflection you know that it is not... you may continue with it.

[Similarly with verbal actions & mental actions.]

Này Rahula, khi Ông đang làm một thân nghiệp, Ông cần phải phản tỉnh thân nghiệp ấy như sau: "Thân nghiệp này ta đang làm. Thân nghiệp này của ta đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ; đem đến quả báo đau khổ. Này Rahula, nếu trong khi phản tỉnh, Ông biết: "Thân nghiệp này ta đang làm. Thân nghiệp này của ta đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đưa đến quả báo đau khổ". Này Rahula, ông hãy từ bỏ một thân nghiệp như vậy. Nhưng nếu, này Rahula, trong khi phản tỉnh ông biết như sau: "Thân nghiệp này ta đang làm. Thân nghiệp này của ta không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp này là thiện, đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc". Thân nghiệp như vậy, này Rahula, Ông cần phải tiếp tục làm.

Having performed a bodily action, you should reflect on it... If, on reflection, you know that it led to self-affliction, to the affliction of others, or to both; it was an unskillful bodily action with painful consequences, painful results, then you should confess it, reveal it, lay it open to the Teacher or to a knowledgeable companion in the holy life. Having confessed it... you should exercise restraint in the future. But if on reflection you know that it did not lead to affliction... it was a skillful bodily action with happy consequences, happy results, then you should stay mentally refreshed & joyful, training day & night in skillful qualities.

[Similarly with verbal actions.]

Sau khi Ông làm xong một thân nghiệp, này Rahula, Ông cần phải phản tỉnh thân nghiệp ấy như sau: "Thân nghiệp này ta đã làm. Thân nghiệp này của ta đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ". Nếu trong khi phản tỉnh, này Rahula, Ông biết như sau: "Thân nghiệp này ta đã làm. Thân nghiệp này đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp này là bất thiện đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ". Một thân nghiệp như vậy, này Rahula, Ông cần phải thưa lên, cần phải tỏ lộ, cần phải trình bày trước các vị Đạo sư, hay trước các vị đồng Phạm hạnh có trí. Sau khi đã thưa lên, tỏ lộ, trình bày, cần phải phòng hộ trong tương lai. Nếu trong khi phản tỉnh, này Rahula Ông biết như sau: "Thân nghiệp này ta đã làm. Thân nghiệp này không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp này thiện, đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc". Do vậy, này Rahula, Ông phải an trú trong niềm hoan hỷ tự mình tiếp tục tu học ngày đêm trong các thiện pháp.

Này Rahula, khi Ông muốn làm một khẩu nghiệp gì

Having performed a mental action, you should reflect on it... If, on reflection, you know that it led to self-affliction, to the affliction of others, or to both; it was an unskillful mental action with painful consequences, painful results, then you should feel horrified, humiliated, & disgusted with it. Feeling horrified... you should exercise restraint in the future. But if on reflection you know that it did not lead to affliction... it was a skillful mental action with happy consequences, happy results, then you should stay mentally refreshed & joyful, training day & night in skillful qualities.

Này Rahula, khi Ông đang làm một khẩu nghiệp, Ông cần phải phản tỉnh khẩu nghiệp ấy như sau: "Khẩu nghiệp này ta đang làm. Khẩu nghiệp này của ta đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, thời khẩu nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ". Này Rahula nếu trong khi phản tỉnh, Ông biết: "Khẩu nghiệp này ta đang làm. Khẩu nghiệp này của ta đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời khẩu nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đưa đến quả báo đau khổ". Này Rahula, Ông hãy từ bỏ một khẩu nghiệp như vậy. Nhưng nếu này Rahula, khi phản tỉnh, Ông biết như sau: "Khẩu nghiệp này ta đang làm. Khẩu nghiệp này của ta không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai; thời khẩu nghiệp này là thiện, đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc". Khẩu nghiệp như vậy này Rahula, Ông cần phải tiếp tục làm.

Rāhula, all the contemplatives & brahmans in the course of the past who purified their bodily actions, verbal actions, & mental actions, did it through repeated reflection on their bodily actions, verbal actions, & mental actions in just this way.

Này Rahula, trong thời quá khứ, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào đã tịnh hóa thân nghiệp, đã tịnh hóa khẩu nghiệp, đã tịnh hóa ý nghiệp, tất cả những vị ấy, sau khi phản tỉnh như vậy nhiều lần đã tịnh hóa thân nghiệp, sau khi phản tỉnh như vậy nhiều lần, đã tịnh hóa khẩu nghiệp, sau khi phản tỉnh như vậy nhiều lần, đã tịnh hóa ý nghiệp.

All the contemplatives & brahmans in the course of the future... All the contemplatives & brahmans at present who purify their bodily actions, verbal actions, & mental actions, do it through repeated reflection on their bodily actions, verbal actions, & mental actions in just this way.

Này Rahula, trong thời vị lai, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào ... Này Rahula, trong thời hiện tại, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào tịnh hóa thân nghiệp, tịnh hóa khẩu nghiệp, tịnh hóa ý nghiệp, tất cả những vị ấy, sau khi phản tỉnh như vậy nhiều lần, tịnh hóa khẩu nghiệp; sau khi phản tỉnh như vậy nhiều lần, tịnh hóa ý nghiệp.

Therefore, Rāhula, you should train yourself: 'I will purify my bodily actions through repeated reflection. I will purify my verbal actions through repeated reflection. I will purify my mental actions through repeated reflection.' Thus you should train yourself.

That is what the Blessed One said. Glad at heart, Ven. Rāhula delighted in the Blessed One's words.

MN 61

Do vậy, này Rahula: "Sau khi phản tỉnh nhiều lần, tôi sẽ tịnh hóa thân nghiệp; sau khi phản tỉnh nhiều lần, tôi sẽ tịnh hóa khẩu nghiệp, sau khi phản tỉnh nhiều lần, tôi sẽ tịnh hóa ý nghiệp". Như vậy, này Rahula, Ông cần phải tu học.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Rahula, hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn giảng.

MN 61

§ 7.

The non-doing of any evil,
the performance of what's skillful,
the cleansing of one's own mind:
This is the Buddhas' teaching.
Not disparaging, not injuring,
restraint in line with the Pāṭimokkha,
moderation in food,
dwelling in seclusion,
commitment to the heightened mind:
This is the Buddhas' teaching.

DHP.183, 185

§ 7.

Không làm mọi điều ác,
Huân tu các hạnh lành,
Giữ tâm ý tịnh thanh:
Ấy huấn từ chư Phật .
Không ác khẩu, hung tàn,
Hộ trì giới căn bản ,
Tiết độ trong ăn uống ,
Sống trú xứ tịnh an,
Thường tu tăng thượng tâm

DHP.183, 185

B. Kamma & the Ending of Kamma  

The Buddha's doctrine of kamma takes the fact of skillful action, which can be observed on the ordinary sensory level, and gives it an importance that, for a person pursuing the Buddhist goal, must be accepted on faith. According to this doctrine, skillful action is not simply one factor out of many contributing to happiness: it is the primary factor. It does not lead simply to happiness within the dimensions of time and the present: if developed to the ultimate level of refinement, it can lead to an Awakening totally released from those dimensions. These assertions cannot be proven prior to an experience of that Awakening, but they must be accepted as working hypotheses in the effort to develop the skillfulness needed for Awakening. This paradox — which lies at the heart of the act of taking refuge in the Triple Gem explains why the serious pursuit of the Buddhist path is a sustained act of faith that can become truly firm and verified only with the first glimpse of Awakening, called stream-entry. It also explains why a strong desire to gain release from the stress and suffering inherent in conditioned existence is needed for such a pursuit, for without that desire it is very difficult to break through this paradox with the necessary leap of faith.

B. Nghiệp & Đoạn Diệt Nghiệp  

Lý thuyết về nghiệp của Đức Phật thực tế là hành động thiện, có thể được quan sát trên mức độ cảm giác bình thường, và cung cấp một tầm quan trọng đối với một người theo đuổi mục tiêu của Phật giáo, phải được chấp nhận về đức tin. Theo lý thuyết này, hành động thiện không chỉ đơn giản là một yếu tố trong số nhiều đóng góp cho hạnh phúc: đó là các yếu tố chính. Nó không chỉ đơn giản dẫn đến hạnh phúc trong chiều kích của thời gian và hiện tại: nếu phát triển đến mức độ cuối cùng của sự tinh tế, nó có thể dẫn đến Giác Ngộ hoàn toàn giải thoát khỏi những chiều kích đó. Những khẳng định này không thể được chứng minh trước khi có một kinh nghiệm của sự Giác Ngộ đó, nhưng họ phải chấp nhận như giả thuyết làm việc trong các nỗ lực để phát triển thiện pháp cần thiết cho sự Giác Ngộ. Nghịch lý này nằm ở tấm lòng của sự quy y Tam Bảo - giải thích lý do tại sao việc theo đuổi nghiêm trọng của con đường Phật giáo là một hành động bền vững của đức tin điều đó có thể thực sự trở nên vững chắc và chỉ xác nhận với cái nhìn đầu tiên của Giác Ngộ được gọi là quả vị "nhập lưu" (stream-entry). Nó cũng giải thích tại sao một mong muốn mạnh mẽ để đạt được giải thoát khỏi sự phiền não và đau khổ vốn có trong trạng thái sự sống là cần thiết cho một sự theo đuổi như vậy, với mục đích không mong muốn rằng nó rất khó khăn để vượt qua nghịch lý này với những bước nhảy vọt cần thiết của đức tin.

The basic context for the doctrine of kamma was provided by the first two insights on the night of the Buddha's Awakening — remembrance of previous lives, and insight into the death and rebirth of beings throughout the cosmos [§1]. This context was expressed in terms of personal narrative (the story of the Bodhisatta's own journey from life to life) and cosmology (general principles underlying the workings of the cosmos as a whole). The possibility of rebirth accounted for the way in which kamma could shape experiences in life, such as the situation into which a young child is born, for which no kammic cause in the present lifetime could be found. The pattern of death and rebirth for all beings, in which the quality of the state of rebirth depends on the moral quality of actions performed in previous lifetimes, presented the possibility that moral standards, instead of being mere social conventions, were intrinsic to the workings of any and all experience of the cosmos.

Nền tảng căn bản của chủ thuyết về nghiệp được dẫn chứng từ hai nhận thức đầu tiên trong đêm Giác Ngộ của Đức Phật – nhớ về những kiếp trước, và nhận thức về cái chết và sự tái sinh của chúng sanh trong vũ trụ [§1]. Nền tảng này được diễn giải cả trong câu chuyện tiền thân ( Câu chuyện cuộc hành trình của Đức Bồ Tát từ đời này qua đời khác) và lẫn trong vũ trụ học (những nguyên tác tổng quát cho tháy cách vận hành của vũ trụ là một nguyên khối). Sự khả hữu của viêc tái sinh chứng tỏ nghiệp có thể tạo thành những kiếp vận trong đời sống, chẳng hạn như tình trạng của một đứa bé chào đời, trong tình trạng này không có nghiệp duyên nào trong đời sống hiện tại có thể tìm ra. Mô hình của cái chết và sự tái sinh của chúng sanh, trong đó phẩm chất tình trạng của việc tái sinh tùy thuộc vào giá trị đức độ của các hành động thực hiện trong tiền kiếp, đã cho thấy sự khả hữu của tiêu chuẩn đạo đức liên quan trực tiếp tới hoạt động của bất kỳ và tất cả những trải nghiệm trong vũ trụ, thay vì chỉ đơn thuần là những thỏa thuận trong xã hội.

Essential to the Buddha's second insight was his realization of the mind's role in determining the moral quality of actions. His analysis of the process of developing a skill showed him that skillfulness depended not so much on the physical performance of an act as on the mental qualities of perception, attention, and intention that played a part in it. Of these three qualities, the intention formed the essence of the act [§10] — as it constituted the decision to act — while attention and perception informed it. Thus the skillfulness of these mental phenomena accounted for the act's kammic consequences. The less greed, aversion, and delusion motivating the act, the better its results. Unintentional acts would have kammic consequences only when they resulted from carelessness in areas where one would reasonably be held responsible. Intentional actions performed under the influence of right view — which on this level means conviction in the principle of kamma conviction in the principle of kamma [II/E; III/A; §106] — led inherently to pleasant states of rebirth, while those performed under the influence of wrong view led to unpleasant states. Thus the quality of the views on which one acts — i.e., the quality of the perception and attention informing the intention — is a major factor in shaping experience. This observation undercuts the radical distinction between mind and material reality that is taken for granted in our own culture and was also assumed by many of the Samana schools of the Buddha's time. From the Buddha's viewpoint, mental and physical phenomena are two sides of a single coin, with the mental side of prior importance [§8].

Căn bản nhận thức thứ hai của Đức Phật là sự nhận thức của Ngài về vai trò của tâm trong việc quyết định giá trị đạo đức của các hành. Sự phân tích về quá trình phát triển đã cho Ngài thấy rằng kỷ năng cao không tùy thuộc nhiều vào biểu hiện thế lực của hành động mà tùy thuộc nhiều vào giá trị tinh thần của ý niệm, chú tâm,và quyết chí mà giá trị tinh thần này đóng một vai trò trong đó. Trong ba giá trị này, sự quyết chí tạo thành bản chất của hành động [§10] -- trong khi sự chú tâm và ý niệm đã đưa tin đến cho nó. Do đó, kỷ năng tinh vi của những hiện tượng tinh thần hay chịu trách nhiệm về những hậu quả nghiệp báo của các hành động. Càng ít tham lam, sân hận, và mê muội trong các hành động, càng mang lại nhiều kết quả khả quan. Những hành vi vô minh sẽ mang lại những hậu quả nghiệp báo chỉ khi nào những hành vi này gây ra do sự cẩu thả trong những lãnh vực mà người tạo nghiệp sẽ chịu trách nhiệm một cách hợp lý. Những hành động có suy nghĩ thực hiện với chánh kiến -- Ở mức độ này có nghĩa là niềm tin trong nguyên tắc của nghiệp [II/E; III/A; §106] -- đưa đến sự tái sanh trong may mắn, trong khi những hành động thực hiện dưới ảnh hưởng của tà kiến được dẫn đến những tình trạng tái sanh trong bất hạnh. Do đó giá trị của những quan điểm mà chúng sinh dựa theo để hành xử – ví dụ như giá trị của quan điểm và chú tâm là để thông báo cho sự quyết chí -- là yếu tố chính trong việc hình thành của kiếp tái sanh. Sự quan sát này làm giảm đi sự khác biệt căn bản giữa tâm linh và thực chất đã được coi là lẽ đương nhiên trong văn hóa riêng của chúng ta và cũng được công nhận bởi nhiều trường phái Samana trong thời đại của Đức Phật. Từ quan điểm của Đức Phật hiện tượng tâm linh và thể chất là hai mặt của đồng xu, với mặt tâm linh có vai trò quan trọng ưu tiên [§8].

Most descriptions of the Buddha's teachings on kamma tend to stop here, but there are many passages on kamma in the Canon — and included in this section — that do not fit into the neat picture based merely the first two insights on the night of the Awakening. The only way to account for these passages is to note the simple fact that Buddha's teachings on kamma were shaped not only by these two insights, but also by the third insight and the resulting knowledge of Unbinding. The third insight explored the possibility of a fourth kind of kamma — in addition to good, bad, and a mixture of the two — that was skillful enough to bring about the ending of kamma [§§16-17]. At the same time, in the course of developing the level of skillfulness needed to bring kamma to an end, the Buddha learned a great deal about the nature of action that forced him to recast his understanding of kamma in much more subtle terms. The knowledge of Unbinding — which followed on the full development of this fourth type of kamma and the realizations that accompanied it — acted as proof that the understandings comprising the three insights were true. To explore these points will not only help give us a more complete understanding of the Buddha's teachings on kamma, but will also show why conviction in the principle of skillful kamma is essential to Buddhist practice.

Hầu hết các mô tả về những lời dạy của Đức Phật về nghiệp có xu hướng dừng lại ở đây, nhưng có nhiều chú giải về nghiệp trong các Kinh điển - bao gồm trong phần này - không phù hợp với hình ảnh dựa trên đơn thuần hai cái nhìn đầu tiên trong đêm Ngài Giác Ngộ. Cách duy nhất để giải thích cho những đoạn này là lưu ý một thực tế đơn giản rằng giáo lý của Đức Phật về nghiệp đã được định hình không chỉ bởi hai sự thấu hiểu này, mà còn bởi sự thấu triệt thứ ba và những kiến ​​thức kết quả của sự giải thoát. Nhận thức thứ ba khám phá khả năng của một loại thứ tư của nghiệp - ngoài thiện, bất thiện, và một hỗn hợp của hai - đó là đủ khéo léo để đoạn diệt nghiệp [§§16-17]. Đồng thời, trong quá trình phát triển mức độ thiện xảo cần thiết để đưa nghiệp đến một kết thúc, Đức Phật đã học được rất nhiều về bản chất của hành động đó buộc Ngài phải đúc kết lại sự hiểu biết của mình về nghiệp trong điều kiện nhiều tinh tế hơn. Các kiến ​​thức về sự giải thoát - mà theo sau sự phát triển đầy đủ loại thứ tư của nghiệp và những chứng ngộ đi kèm với nó - đã hành động như là bằng chứng rằng những hiểu biết gồm Ba nhận thức là sự thật. Để khám phá những điểm này sẽ không chỉ giúp cho chúng ta một sự hiểu biết đầy đủ hơn về lời dạy của Đức Phật về nghiệp, nhưng cũng sẽ thấy tại sao niềm tin vào nguyên tắc của thiện nghiệp là điều cần thiết để tu tập Phật giáo.

In his effort to master kamma in such a way as to bring kamma to an end, the Buddha discovered that he had to abandon the contexts of personal narrative and cosmology in which the issue of kamma first presented itself. Both these forms of understanding deal in categories of being and non-being, self and others, but the Buddha found that it was impossible to bring kamma to an end if one thought in such terms. For example, narrative and cosmological modes of thinking would lead one to ask whether the agent who performed an act of kamma was the same as the person experiencing the result, someone else, both, or neither. If one answered that it was the same person, then the person experiencing the result would have to identify not only with the actor, but also with the mode of action, and thus would not be able to gain release from it. If one answered that it was another person, both oneself and another, or neither, then the person experiencing the result would see no need to heighten the skill or understanding of his/her own kamma in the present, for the experience of pleasure and pain was not his or her own full responsibility. In either case, the development of the fourth type of kamma would be aborted [§§228-229].

Trong nỗ lực của Ngài để làm chủ nghiệp trong cách như vậy để đem đến sự đoạn diệt nghiệp, Đức Phật phát hiện Ngài đã phải từ bỏ các bối cảnh của cá nhân và vũ trụ học trong đó các vấn đề về nghiệp đầu tiên được trình bày chính nó. Cả hai hình thức của sự hiểu biết thỏa thuận trong các chuyên mục của hiện hữu và không hiện hữu, mình và người khác, nhưng Đức Phật thấy rằng nó đã không thể mang nghiệp đến sự đoạn diệt nếu có sự suy nghĩ trong điều kiện như vậy. Ví dụ, theo những điển tích và sự suy luận về quy luật tuần hoàn của vạn vật trong vũ trụ sẽ làm người ta hỏi rằng một chúng sinh mà đã tạo ra nghiệp sẽ là người nhận được quả báo, hay một người nào khác, hay là cả hai. Nếu ai trả lời rằng đó là cùng một người, sau đó người chịu quả của nghiệp sẽ phải xác định không chỉ với người làm, mà còn với các phương thức hành động, và do đó sẽ không thể đạt được giải thoát ra khỏi nghiệp quả. Nếu ai trả lời rằng đó là một người khác, cả hai chính mình và người khác, sau đó những người nhận nghiệp quả sẽ thấy không cần thiết phải tu tập hoặc hiểu biết về nghiệp riêng của mình trong hiện tại, cho những hành động niềm vui và nỗi đau không là trách nhiệm riêng của mình. Trong cả hai trường hợp, sự phát triển của các loại nghiệp quả thứ tư sẽ được hủy bỏ [§§228-229].

To avoid the drawbacks of the narrative and cosmological mind-sets, the Buddha pursued an entirely different tack — what he called "entry into emptiness," and what modern philosophy calls radical phenomenology: a focus on the events of present consciousness, in and of themselves, without reference to questions of whether there are any entities underlying those events. In the Buddha's case, he focused simply on the process of kammic cause and result as it played itself out in the immediate present, in the process of developing the skillfulness of the mind, without reference to who or what lay behind those processes. On the most basic level of this mode of awareness, there was no sense even of "existence" or "non-existence" [§186], but simply the events of stress, its origination, its cessation, and the path to its cessation, arising and passing away. Through this mode he was able to pursue the fourth type of kamma to its end, at the same time gaining heightened insight into the nature of action itself and its many implications, including questions of rebirth, the relationship of mental to physical events, and the way kamma constructs all experience of the cosmos.

Để tránh những điều không thuận tiện của sự xử dụng điển tích và quy luật tuần hoàn của vạn vật trong vũ trụ, Đức Phật theo đuổi một đường lối hoàn toàn khác - điều Ngài gọi là "nhập vào sự trống không", và những gì triết học hiện đại gọi là hiện tượng cực đoan:: một tập trung vào các sự kiện của ý thức hiện tại, trong và tự bản thân của mình, mà không cần tham chiếu đến câu hỏi liệu có bất kỳ thực thể tiềm ẩn những sự kiện. Trong trường hợp của Đức Phật,Ngà đã chỉ đơn giản tập trung về quá trình nguyên nhân và kết quả của nghiệp báo mà nó hành động ngay trong hiện tại , trong quá trình tu tập hành thiện của tâm, mà không tham chiếu đến ai hoặc những gì nằm phía sau những quy trình.Ở cấp độ phương thức cơ bản nhất của nhận thức, không có ý nghĩa ngay cả các "sự tồn tại" hay "không tồn tại" [§186], nhưng chỉ đơn giản là những sự kiện căng thẳng, ngồn gốc của nó, sự chấm dứt, và con đường dẫn đến sự chấm dứt , sanh và diệt. Thông qua phương thức này, Ngài đã có thể theo đuổi loại nghiệp thứ tư để đoạn diệt nó, đồng thời được sự hiểu biết cao về bản chất của hành động chính và nhiều ý nghĩa của nó, bao gồm cả những câu hỏi của sự tái sinh, mối quan hệ của tinh thần cho các sự kiện vật lý, và cách nghiệp xây dựng tất cả kinh nghiệm của vũ trụ.

Because the Buddha gained both understanding of and release from kamma by pursuing the phenomenological mode of attention, his full-dress systematic analysis of kamma is also expressed in that mode. This analysis is included in his teachings on this/that conditionality, dependent co-arising, and the four noble truths: the three levels of refinement in the type of right view without effluents that underlay his mastery of the fourth type of kamma. Here we will consider, in turn, how each of these teachings shaped the Buddha's teachings on kamma, how the knowledge of Unbinding confirmed those teachings, and how the success of the phenomenological mode of analysis shaped the Buddha's use of narrative and cosmological modes in instructing others. We will conclude with a discussion of how these points show the need for conviction in the principle of kamma as a working hypothesis for anyone who wants to gain release from suffering and stress.

Bởi vì Đức Phật đã đạt được cả hai sự hiểu biết và sự giải thoát khỏi nghiệp bằng phương thức hiện tượng học của sự chú ý, tổng diễn (tranh luận)phân tích hệ thống nghiệp còn được thể hiện trong phương thức đó. Phân tích này được bao gồm trong lời giảng dạy của Ngài trên điều kiện cái này có/ thì cái kia có, lý duyên khởi, và Tứ Diệu Đế: ba cấp độ của lập luận tế nhị trong kiểu mẫu của chánh kiến không cần phải tuôn ra đặt bên gưới sự thông thạo của Ngài về loại nghiệp thứ tư (4. Nghiệp không đen không trắng quả không đen không trắng, dẫn đến đoạn trừ nghiệp). Ở đây chúng ta hãy xem xét, những lời giảng dạy của Đức Phật như thế nào về nghiệp, sự nhận thức như thế nào về buông bỏ xác nhận những lời giảng dạy đó, và làm thế nào sự thành công của phương thức hiện tượng học của phân tích cách thức sử dụng điển tích và phương thức vũ trụ của Đức Phật trong hướng dẫn khác. Chúng tôi kết thúc cuộc thảo luận về cách thức các điểm cho thấy sự cần thiết của niềm tin vào nguyên tắc nghiệp như là một giả thuyết làm việc cho bất cứ ai muốn được giải thoát khỏi đau khổ và phiền não.

To begin with this/that conditionality: This principle accounts not only for the complexity of the kammic process, but also for its being regular without at the same time being rigidly deterministic. The non-linearity of this/that conditionality also accounts for the fact that the process can be successfully dismantled by radical attention to the present moment.

Để bắt đầu với thuyếy có cái này / thì có cái kia: Chính yếu tố cơ bản tầm quan trọng không chỉ đối với sự phức tạp của quá trình nghiệp báo, còn thường xuyên mà không đồng thời là một cách cứng nhắc xác định. Các phi tuyến tính của thuyết có cái này / thì có cái kia cũng chiếm một thực tế là quá trình có thể được tháo dỡ thành công bởi sự quan tâm triệt để giây phút hiện tại.

Unlike the theory of linear causality — which led the Vedists and Jains to see the relationship between an act and its result as predictable and tit-for-tat — the principle of this/that conditionality makes that relationship inherently complex. The results of kamma experienced at any one point in time come not only from past kamma, but also from present kamma. This means that, although there are general patterns relating habitual acts to corresponding results [§9], there is no set one-for-one, tit-for-tat, relationship between a particular action and its results. Instead, the results are determined by the context of the act, both in terms of actions that preceded or followed it [§11] and in terms one's state of mind at the time of acting or experiencing the result [§13]. As we noted in the Introduction, the feedback loops inherent in this/that conditionality mean that the working out of any particular cause-effect relationship can be very complex indeed. This explains why the Buddha says in §12 that the results of kamma are imponderable. Only a person who has developed the mental range of a Buddha — another imponderable itself — would be able to trace the intricacies of the kammic network. The basic premise of kamma is simple — that skillful intentions lead to favorable results, and unskillful ones to unfavorable results — but the process by which those results work themselves out is so intricate that it cannot be fully mapped. We can compare this with the Mandelbrot set (see the cover of this book), a mathematical set generated by a simple equation, but whose graph is so complex that it will probably never be completely explored.

Không giống như các lý thuyết nhân quả tuyến tính -Do đạo VedistsJains giảng dạy cho thấy mối quan hệ giữa một hành động và kết quả của nó như là có thể nói trước và tit-for-tat - nguyên tắc của cái này có / cái kia có làm cho mối quan hệ đó vốn đã phức tạp. Các kết quả của nghiệp có được tại bất kỳ một thời điểm trong thời gian tới không chỉ từ nghiệp quá khứ, nhưng cũng từ nghiệp hiện tại. Điều này có nghĩa rằng, mặc dù có những mô hình chung liên quan hành vi thói quen mang lại quả [§9] tương ứng, không có thiết lập từng cái một, tit-for-tat, mối quan hệ giữa một hành động cụ thể và nghiệp của nó. Thay vào đó, các nghiệp được xác định bởi bối cảnh của hành động, cả về hành động trước hoặc sau nó [§11] và trong các điều khoản của một trạng thái của tâm tại thời điểm hành động hay trải qua kết quả [§13]. Như chúng tôi đã nói trong phần giới thiệu, các vòng phản hồi vốn có trong thuyết cái này /thì có cái kia có nghĩa là làm việc trong bất kỳ mối quan hệ nhân quả cụ thể có thể được thực sự rất phức tạp. Điều này giải thích lý do tại sao Đức Phật nói trong §12 rằng kết quả của nghiệp là rất nhẹ. Chỉ có một người hoàn thiện hơn trong phạm vi tinh thần của một vị Phật - một vật không thể đo lường được chính nó - sẽ có thể theo dõi những phức tạp của mạng nghiệp báo. Những tiền đề cơ bản của nghiệp là đơn giản - đó là ý nghiệp thiện dẫn đến quả nghiệp lành, và những người ý nghiệp bất thiện dẫn đến quả nghiệp không lành - nhưng quá trình những quả nghiệp cho ra là phức tạp, nó không thể được sắp xếp hoàn toành. Chúng ta có thể so sánh điều này với các tập Mandelbrot ((không gian Mandelbrot) (là một tập hợp các điểm nằm trong mặt phẳng phức, với tập hợp bổ sung của nó có dạng phân dạng:fractal.), một tập toán học được tạo ra bởi một phương trình đơn giản, nhưng có đồ thị rất phức tạp và nó có thể sẽ không bao giờ được khám phá hoàn toàn.

Although the precise working out of the kammic process is somewhat unpredictable, it is not chaotic. The relationship between kammic causes and their effects is entirely regular: when an action is of the sort that it will be felt in such and such a way, that is how its result will be experienced [§13]. Skillful intentions lead to favorable results, unskillful ones to unfavorable results. Thus, when one participates in the kammic process, one is at the mercy of a pattern that one's actions put into motion but that is not entirely under one's present control. Despite the power of the mind, one cannot reshape the basic laws of cosmic causality at whim. These laws include the physical laws, within which one's kamma must ripen and work itself out. This is the point of passage §14, in which the Buddha explains that present pain can be explained not only by past kamma but also by a host of other factors; the list of alternative factors he gives comes straight from the various causes for pain that were recognized in the medical treatises of his time. If we compare this list with his definition of old kamma in §15, we see that many if not all of the alternative causes are actually the result of past actions. The point here is that old kamma does not override other causal factors operating in the universe — such as those recognized by the physical sciences — but instead finds its expression within them.

Mặc dù sự chính xác trong quá trình tạo nghiệp báo có phần không thể đoán trước, nó không phải là hỗn loạn. Mối tương quan giữa nguyên nhân và kết quả của nghiệp báo là hoàn toàn bình thường: khi một hành động trong một cách cảm nhận như vậy và một cách như vậy, đó là kết quả của nghiệp được tạo nên như thế [§13. Ý nghiệp thiện dẫn đến quả nghiệp lành, những người ý nghiệp bất thiện đưa đến quả nghiệp không lành. Vì vậy, khi một người dự vào quá trình nghiệp báo, người đó nhận nghiệp quả do mình đã hành động nhưng đó không phải dưới sự kiểm soát của một người hoàn toàn trong hiện tại. Không kể sức mạnh của ý, người ta không thể thay đổi định luật cơ bản của thuyết nhân quả vũ trụ. Thuyết nhân quả bao gồm các định luật vật lý, trong đó nghiệp của con người phải chín mùi và phải tự giải thoát ra khỏi nó. Đây là điểm của đoạn §14, trong đó Đức Phật giải thích rằng nỗi khổ đau hiện tại có thể được giải thích không chỉ do nghiệp quá khứ mà còn bởi một loạt các yếu tố khác; danh sách các yếu tố xen nhau Ngài cho biết từ những nguyên nhân khác nhau từ nỗi khổ đau đã được ghi nhận trong quá trình thiền định của Ngài. Nếu chúng ta so sánh danh sách này với định nghĩa của Ngài về nghiệp cũ ở trong đoạn §15, chúng ta thấy rằng rất nhiều, nếu không phải tất cả những nguyên nhân khác thực sự là kết quả của những hành động trong quá khứ. Vấn đề ở đây là nghiệp cũ không thể nào che lấp được những nguyên nhân vận hành trong vũ trụ - chẳng hạn như những nguyên nhân chấp nhận bởi các khoa học - nhưng thay vì thế tìm thấy những giải thích của nó ở phía trong khoa học.

However, the fact that the kammic process relies on input from the present moment means that it is not totally deterministic. Input from the past may place restrictions on what can be done and known in any particular moment, but the allowance for new input from the present provides some room for free will. This allowance also opens the possibility for escape from the cycle of kamma altogether by means of the fourth type of kamma: the development of heightened skillfulness through the pursuit of the seven factors for Awakening and the noble eightfold path — and, by extension, all of the Wings to Awakening [§§16-17].

Tuy nhiên, thực tế là quá trình nghiệp báo dựa vào sự việc từ thời điểm hiện tại có nghĩa nó không hoàn toàn cố định. Những việc trong quá khứ có thể hạn chế về những gì được thực hiện và được biết đến ở bất kỳ thời điểm cụ thể, nhưng sự cho phép chấp nhận những dữ kiện mới trong hiện tại tạo ra một khoảng không gian cho ý tưởng tự do. Sự công nhận điều này cũng có khả năng thoát khỏi chu kỳ của nghiệp hoàn toàn bằng phương tiện của loại thứ tư của nghiệp ( Nghiệp không đen không trắng quả không đen không trắng, dẫn đến đoạn trừ nghiệp): sự phát triển cao nhất của thiện pháp là tu tập bảy yếu tố cho sự Giác Ngộ và Bát Thánh Đạo - và nói rộng ra, tất cả các Yếu Tố Cần Thiết Để Giác Ngộ (Wings to Awakening) [§§16-17].

The non-linearity of this/that conditionality explains why heightened skillfulness, when focused on the present moment, can succeed in leading to the end of the kamma that has formed the experience of the entire cosmos. All non-linear processes exhibit what is called scale invariance, which means that the behavior of the process on any one scale is similar to its behavior on smaller or larger scales. To understand, say, the large-scale pattern of a particular non-linear process, one need only focus on its behavior on a smaller scale that is easier to observe, and one will see the same pattern at work. In the case of kamma, one need only focus on the process of kamma in the immediate present, in the course of developing heightened skillfulness, and the large-scale issues over the expanses of space and time will become clear as one gains release from them.

Các phi tuyến tính của thuyết có cái này có / nên cái kia có giải thích lý do tại sao thiện pháp cao, khi tập trung vào thời điểm hiện tại, có thể thành công trong việc dẫn đến sự kết thúc của nghiệp đã hình thành các trải nghiệm của toàn bộ vũ trụ. Tất cả quá trình đưa ra phi tuyến tính những gì được gọi là quy mô bất biến, có nghĩa các hành vi của các quá trình trên bất kỳ quy mô một là tương tự như hành vi của nó trên quy mô nhỏ hơn hoặc lớn hơn. Để hiểu, nói rằng, mô hình quy mô lớn của một quá trình phi tuyến tính cụ thể, ta chỉ cần tập trung vào hành vi của nó trên một quy mô nhỏ hơn đó là dễ dàng hơn để quan sát, và người ta sẽ thấy các mô hình tương tự tại nơi làm việc. Trong trường hợp của nghiệp, ta chỉ cần tập trung vào các quy trình về nghiệp trong hiện tại trước mắt, trong quá trình phát triển thiện pháp tinh tế hơn, và các vấn đề quy mô lớn hơn của không gian và thời gian sẽ trở nên rõ ràng là một trong những lợi ích giải thoát từ chúng .

The teaching on dependent co-arising helps to provide more detailed instructions on this point, showing precisely where the cycle of kamma provides openings for more skillful present input. In doing so, it both explains the importance of the act of attention in developing the fourth type of kamma, and acts as a guide for focusing attention on present experience in appropriate ways [III/H/iii].

Bài giảng về giáo lý duyên khởi giúp cung cấp những hướng dẫn chi tiết hơn về điểm này, chỉ ra chính xác nơi các chu kỳ của nghiệp là sự mở cửa đón nhận cho hiện tại nhiều thiện pháp hơn. Khi làm như vậy, nó vừa giải thích tầm quan trọng của hành động sự chú ý trong việc phát triển các loại thứ tư của nghiệp ( Nghiệp không đen không trắng, quả không đen không trắng, dẫn đến đoạn trừ nghiệp) và hoạt động như một hướng dẫn cho việc tập trung sự chú ý vào kinh nghiệm trong những cách thích hợp [III/H/iii].

Dependent co-arising shows how the cosmos, when viewed in the context of how it is directly experienced by a person developing skillfulness, is subsumed entirely under factors that are immediately present to awareness: the five aggregates of form, feeling, perception, mental fabrication, and consciousness, and the six sense media [§§212-213]. Included in this description is the Buddha's ultimate analysis of kamma and rebirth. The nexus of kamma, clinging, becoming, and birth accounts for the realm in which birth takes place [§220], whereas the nexus of name-and-form with consciousness accounts for the arising and survival of the kammically active organism within that realm [§231]. Also included in dependent co-arising is a detailed analysis of the way in which kamma can — but does not necessarily have to — lead to bondage to the cycle of rebirth. Unlike the Jains, the Buddha taught that this bondage was mental rather than physical. It was caused not by sticky substances created by the physical violence of an act, but by the fact that, when there is ignorance of the four noble truths [III/H/i] (a subtle form of delusion, the most basic root of unskillfulness), the feeling that results from kamma gives rise to craving (a subtle form of greed and aversion), clinging, and becoming; and these, in turn, form the conditions for further kamma.

Khi được nhìn dưới khía cạnh làm thế nào thuyết duyên khởi có thể trực tiếp ảnh hưởng đến sự phát triển thiện nghiệp của một người, thuyết duyên khởi cho thấy như thế nào toàn thể vũ trụ được vận hành dưới những yếu tố được nhận thức ngay tức thời: ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và ý thức và ý nghĩa của sáu căn.[§§212-213]. Bao gồm trong sự diễn giải này là sự phân tích thâm sâu của Đức Phật về nghiệp và tái sinh. Mối quan hệ của nghiệp, bám víu, hữu (thành hình), và sinh sôi là căn nguyên của lãnh vực trong đó [§220],sinh sản diễn ra, trong khi đó mối quan hệ của danh và sắc với sự nhận thức là căn nguyên của sự phát sinh và tồn tại của chủng tử nghiệp nằm trong lãnh vực đó. [§231]Ngoài ra bao gồm trong thuyết duyên khởi còn có một phân tích chi tiết về cách thức trong đó nghiệp có thể-nhưng không nhất thiết là phải có-dẫn đến sự ràng buộc vào luân hồi (chu kỳ của tái sanh). . Không giống như người Kỳ Na Giáo, Đức Phật dạy rằng sự ràng buột này là về tinh thần chớ không phải là về vật chất. Nó được tạo ra không phải do vật chất dính mắc nhau bởi bạo lực của một hành động, nhưng do thực tế là, khi thiếu hiểu biết về Tứ Diệu Đế [III/H/i] (một hình thức vi tế của si mê, nguồn gốc căn bản nhất của bất thiện nghiệp), cảm nhận rằng kết quả của nghiệp phát sinh tham ái (một hình thức vi tế của sự tham lam và sân hận), dính mắc, và hữu (tạo thành); nhưng điều này, lại tiếp tục tạo thêm nghiệp.

Thus the results of action, in the presence of ignorance, breed the conditions for more action, creating feedback loops that keep the kammic processes in motion. For this reason, the Buddha defined the effluents as clinging — expressed in some lists as sensuality, in others as sensuality and views — together with becoming and the ignorance that underlies them all. If ignorance of the four truths can be ended, however, feeling does not form a condition for craving or clinging, and thus there is no becoming to provide a realm for further kamma. Thus the mastery of the fourth type of kamma requires discernment of the four noble truths.

Vì vậy kết quả của hành động, với sự vô minh, dã sinh ra mầm mống cho nhiều nghiệp nữa, tạo ra những chu kỳ phản hồi làm cho tiến trình nghiệp báo cứ tiếp diễn. Vì lý do này, Đức Phật gọi những nghiệp báo được tạo ra là dính mắc -- thể hiện trong một số danh mục là nhục dục, trong một số khác là tham dục và tà kiến -- với hữu (sự trở thành) và sự vô minh là nền tảng cho tất cả. Tuy nhiên, nếu thiếu hiểu biết về Tứ Diệu Đế có thể chấm dứt, cảm xúc sẽ không tạo ra điều kiện cho thèm khát và dính mắc, và như vậy sẽ không có hữu cung cấp cho lãnh vực của những nghiệp tiếp theo. Vì vậy thấu hiểu về nghiệp thứ tư này đòi hỏi sự phân biệt đúng sai về Tứ Diệu Đế.

It is important to note that dependent co-arising makes no statements as to the existence or lack of existence of any entity to which these events pertain or to whom they belong [§230]. As we noted above, such terms of analysis as "being," "non-being," "self," or "other," pertain properly to the modes of cosmology and personal narrative, and have no place in a radically phenomenological analysis. Questions and terms that derive from the conventions of narrative and the construction of a worldview have no place in the direct awareness of experience in and of itself. This is one reason why people who have not mastered the path of practice and who thus function primarily in terms of a worldview or a sense of their own personal story, find the teaching of dependent co-arising so inscrutable. Even though the Buddha's phenomenological approach answered his questions as to the nature of kamma, it also reshaped his questions so that they had little in common with the questions that most people bring to the practice. As with all insights gained on the phenomenological level, dependent co-arising is expressed in terms closest to the actual experience of events. Only when a person has become thoroughly familiar with that level of experience is the analysis fully intelligible. Thus, although the detailed nature of dependent co-arising is one of its strengths, it is also one of its weaknesses as a teaching tool, for the subtlety and complexity of the analysis can be intimidating even to advanced practitioners.

Điều quan trọng cần lưu ý là lý duyên khởi không nói lên sự hiện hữu hoặc không hiện hữu của bất kỳ thực thể nào trong các sự kiện liên quan đến thực thể đó hay người thuộc về thực thể đó [§230].. Như chúng tôi đã lưu ý ở trên, những ngữ thuật phân tích như “hiện hữu”, “không hiện hữu”, “tôi”, hoặc “người khác” thích đáng thuộc về những hình thái của vũ trụ và của đời người, và không có chổ đứng trong một phân tích triệt để về hiện tượng học. Những câu hỏi và thuật ngữ xuất phát từ những quy ước của điển tích và của kiến trúc về quan diểm thế giới không có chổ đứng trong việc trực tiếp nhận thức kinh nghiệm trong chính sự phân tích này và của chính sự phân tích này. Đây là một lý do tại sao người ta không làm chủ được con đường tu tập và vì vậy người ta hành xử thiên về ý nghĩa của quan điểm thế giới hoặc thiên về cảm nghỉ của câu chuyện cá nhân của chính họ; những người này thấy bài giảng về lý duyên khởi thật quá khó hiểu. Mặc dù cách hướng dẫn của Đức Phật theo hiện tượng học đã trả lời câu hỏi của Ngài về bản chất của nghiệp, cách hướng dẫn này cũng đã chỉnh lại những câu hỏi của Ngài để những câu hỏi này không lẫn lộn với những câu hỏi mà nhiều người đưa ra trong lúc tu tập. Như với tất cả những kiến thức thu nhặt được ở trình độ hiện tượng học, lý duyên khởi được giảng giải theo ý nghĩa gần nhất với kinh nghiệm thực của những diễn biến. Chỉ khi nào một người thấu hiểu được mức kinh nghiệm đó, thì sự phân tích mới được hiểu trọn vẹn. Vì vậy, mặc dù tính chất chi tiết của lý duyên khởi là một trong những ưu điểm của nó, nó cũng lại là một trong những khuyết điểm của nó khi được dùng là một dụng cụ giảng dạy, vì sự vi tế và phức tạp trong việc phân tích có thể làm chùn bước (tạo ra e dè) cho ngay cả những người tu tập uyên bác.

For this reason, the Buddha most often expressed the right view underlying the fourth type of kamma in terms of the four noble truths. These truths provide a more congenial entry point into the phenomenological mode of awareness for they focus the analysis of kamma directly on the question of stress and suffering: issues that tie in immediately with the narratives that people make of their own life experiences. As the Buddha noted in his second insight, his memory of previous lives included his experience of pleasure and pain in each life, and most people — when recounting their own lives — tend to focus on these issues as well. The four truths, however, do not stop simply with tales about stress: they approach it from the problem-solving perspective of a person engaged in developing a skill. What this means for the meditator trying to master the fourth type of kamma is that these truths cannot be fully comprehended by passive observation. Only by participating sensitively in the process of developing skillfulness and gaining a practical feel for the relationship of cause and effect among the mental factors that shape that process, can one eradicate the effluents that obstruct the ending of kamma [II/B; III/E; III/H]. This point is underscored by a fact noted above: the ignorance and craving that are needed to keep the cycle of kamma in motion are subtle forms of the roots of unskillfulness. Thus, only through developing skillfulness to the ultimate degree can the cycle be brought to equilibrium and, as a result, disband.

Vì lý do này, thường khi Đức Phật giảng dạy chánh kiến đã đề cập nhiều đến loại nghiệp thứ tư qua ý nghĩa của Tứ Diệu Đế. Tứ Diệu Đế đưa ra một điểm khởi hành thích hợp hơn để đi sâu vào cách nhận thức theo hiện tượng học, vì Tứ Diệu Đế nhắm trực tiếp vào sự phân tích về nghiệp qua câu hỏi về phiền não và đau khổ: những vấn đề gắn liền với những mẫu chuyện mà người ta kể ra dựa theo những trãi nghiệm trong cuộc sống của riêng họ. Như Đức Phật đã ghi nhận trong giác ngộ thứ hai, ký ức về những kiếp trước của Ngài bao gồm kinh nghiệm vui sướng và đau đớn của Ngài trong mỗi kiếp, và hầu hết mọi người - khi kể lại những kiếp sống của họ - cũng đều có xu hướng tập trung vào những vấn đề này. Tuy nhiên Tứ Diệu Đế không chỉ đơn giản dừng lại với những mẫu chuyện về phiền não: Người ta tìm tới Tứ Diệu Đế từ quan điểm giải quyết khó khăn của một người đang bận rộn trong việc phát triển một kỹ năng. Việc này, đối với một người hành thiền đang cố gắng thấu hiểu loại nghiệp thứ tư, có nghĩa là những Chân Đế này không thể nào hiểu được thấu đáo nếu chỉ dựa vào sự quan sát thụ động. Chỉ có cách tham gia nồng nhiệt vào tiến trình phát triển kỹ năng và đạt được một cảm quan thực dụng về sự tương quan của nhân quả giữa những yếu tố tinh thần tạo ra tiến trình, người ta mới có thể loại trừ được những hậu quả cản trở sự kết thúc của nghiệp [II/B; III/E; III/H]. Điểm này được nhấn mạnh qua một dự kiến đã ghi nhận ở trên: vô minh và ái dục là những thứ giữ cho chu kỳ của nghiệp cứ tiếp diễn, đó là những hình thức hủ bại trong gốc rễ của sự thiếu kỷ năng. Vì vậy, chỉ có sự phát triển kỷ năng tới mức độ cực cao mới có thể đem chu kỳ của nghiệp tới mức quân bình, và kết quả là nghiệp được đoạn trừ

The truth of the Buddha's understanding of the processes of kamma — as informed by this/that conditionality, dependent co-arising, and the four noble truths — was proven by the knowledge of Unbinding that followed immediately on his mastery of the fourth type of kamma. He found that when skillfulness is intentionally brought to a point of full consummation, as expressed in the direct awareness of this/that conditionality, it leads to a state of non-action, or non-fashioning, that forms the threshold to a level of consciousness in which all experience of the cosmos has fallen away. When one's experience of the cosmos resumes after the experience of Awakening, one sees clearly that it is composed entirely of the results of old kamma; with no new kamma being added to the process, all experience of the cosmos will eventually run out — or, in the words of the texts [§225], "will grow cold right here." This discovery proved the basic premise that kamma not only plays a role in shaping experience of the cosmos, it plays the primary role. If this were not so, then even when kamma was ended there would still remain the types of experience that came from other sources. But because no experience of the cosmos remained when all present kamma disbanded, and none would resume after all old kamma ran out, kamma would have to be the necessary factor accounting for all such experience. This fact implies that even the limiting factors that one encounters in terms of sights, sounds, etc., are actually the fruit of past kamma in thought, word, and deed — committed not only in this, but also in many preceding lifetimes. Thus, even though the Buddha's development of the fourth type of kamma focused on the present moment, the resulting Awakening gave insights that encompassed not only the present but also all of time.

Hiểu biết về các tiến trình của nghiệp qua chân đế của Đức Phật -- như đã được trình bày qua thuyết có cái này/nên mới có cái kia, giáo lý Duyên Khởi, và Tứ Diệu Đế -- đã được chứng tỏ bằng việc buông xã ngay sau khi lãnh hội hiểu được loại nghiệp thứ tư của Ngài. Ngài thấy rằng khi kỷ năng cố đạt đến mức hoàn thành viên mãn, như đã diễn tả trong nhận thức trực tiếp của thuyết có cái này tất phải có cái kia, nó dẫn đến trạng thái thụ động, hoặc lỗi thời, việc này tạo thành mức chịu đựng tới một mức nhận thức mà trong đó tất cả trải nghiệm trong vủ trụ bị tan rả. Khi trải nghiệm trong vủ trụ của một người hiểu về sau khi đạt đến Giác ngộ, người đó thấy rỏ ràng rằng trải nghiệm trong vủ trụ được bao gồm trọn vẹn bởi kết quả của các nghiệp quá khứ; nếu không có nghiệp mới nào được thêm vào trong tiến trình này, tất cả trải nghiệm trong vủ trụ sẽ từ từ biến mất --- hoặc, theo lời của văn bản [§225], “sẽ nguội lạnh ngay đây. Khám phá này chứng minh tiền đề căn bản là nghiệp không chỉ đóng vai trò trong việc hình thành trải nghiệm của cõi đời, nó còn đóng một vai trò chính. Nếu việc này không đúng, sau đó ngay cả khi nghiệp đã kết thúc vẫn sẽ còn lưu lại những loại trải nghiệm gây ra do những nguồn gốc khác. Nhưng vì không có trải nghiệm nào của cõi đời được lưu lại khi tất cả các nghiệp hiện thời đã tan biến, và không có trải nghiệm nào sẽ quay lại sau khi tất cả các nghiệp quá khứ đã không còn, nghiệp phải là yếu tố cần thiết tạo ra tất cả những trải nghiệm như vậy. Thực tế này ngụ ý rằng ngay cả những yếu tố giới hạn mà người ta gặp phải như những hình ảnh, những âm thanh, v.v…. Thật ra đều là kết quả của nghiệp đã tạo ra trong tư tưởng, ngôn ngữ, và hành động – những nghiệp này đã phạm phải không những chỉ ở kiếp này, mà còn ngay cả ở trong nhiều kiếp trước. Như vậy, mặc dù Đức Phật diễn giảng loại nghiệp thứ tư đặt trọng tâm vào đời này, nhưng kết quả giác ngộ đã soi sáng không những chỉ trong hiện tại mà còn bao trùm cả mọi thời gian.

Having used the phenomenological mode to solve the problem of kamma and reach Unbinding, however, the Buddha was not limited to that mode. After his Awakening, he was free to return at will to the narrative and cosmological modes of thought and speech, without being caught up in their presuppositions [DN 9]. For most people, he found, even the four noble truths were too alien to form an entry point into the teaching. Thus he had to use the narrative and cosmological modes of discourse to bring such people, step by step, to the point where they were ready to comprehend those truths. What he had learned in the final stage of his Awakening did not negate the validity of the first and second insights into kamma and rebirth; instead, it perfected them. The main change that the experience of Awakening made in his view of personal narrative and cosmology is that it opened them both to the dimension of release. The drama of kamma in the cosmos is not a closed cycle; the principles of kamma can be mastered to the point where they open to the way out, just as the gravity of the sun and earth could bring the moon to a point of resonance where it is freed from their power. The narrative of a person's course through the cosmos is not doomed to aimless and endlessly repeated death and rebirth; the person can tread the path of practice to Unbinding and so bring the narrative to an end.

Phương cách Hiện Tượng Học được dùng để giải trừ trở ngại của NGHIỆP và đạt được GIẢI THOÁT, tuy nhiên, Đức Phật không chỉ giới hạn trong phương cách đó. Sau khi Giác ngộ, Ngài tự do tự tại bất cứ lúc nào cũng có thể quay lại những phương thức suy tư và pháp thoại về cõi người và cõi trời, mà không bị ràng buộc với những giả định của các phương thức này [DN 9]. Đối với hầu hết mọi nguời, Ngài đã nhận thấy, ngay cả Tứ Diệu Đế cũng quá khó khăn, xa lạ để dùng làm khởi điểm cho việc giảng dạy. Vì vậy Ngài đã dùng phương thức giảng dạy qua điển tích và qua hiện tượng thiên nhiên để từng bước một đưa con người tới điểm mà họ sẵn sàng nhận hiểu những sự thật đó. Việc mà Ngài đã đạt được trong giai đoạn cuối cùng của Giác Ngộ đã không phủ nhận giá trị của thấu hiều lần thứ nhất và thứ nhì về nghiệp và tái sinh; hơn nữa nó còn làm những hiểu biết trước được toàn thiện hơn. Sự thay đổi chính là kinh nghiệm của Giác Ngộ thực hiện theo quan điểm của Ngài về câu chuyện tiền sanh và vũ trụ học khai triển cả với kích thước của sự giải thoát. Lý thuyết về nghiệp trong vũ trụ không phải là một chu trình khép kín; các nguyên tắc của nghiệp có thể được chủ yếu chỉ ra nơi chúng khởi sanh và sự thoát ra, như trọng lực của mặt trời và trái đất có thể đem mặt trăng để một điểm cộng hưởng, nơi nó được giải thoát khỏi lực của chúng. Các ảnh hưởng của một người tất nhiên thông qua vũ trụ không phải chịu số phận bi đát và sự chết và tái sinh lặp đi lặp lại không ngừng; người ta có thể đi trên con đường tu tập để giải thoát và do đó mang câu chuyện đến điểm kết thúc

Thus the Buddha used narrative and cosmological explanations to persuade his listeners to explore the phenomenology of skillful action so that they too might gain release; his descriptions of the role of action in shaping the vast expanses of space, time, and existence was designed to focus the listener's attention on the liberating potential of what he/she was doing in the here and now. Some of his most poignant teachings are narratives devoted to just this purpose:

Do đó, Đức Phật đã xử dụng điển tích và giải thích quy luật tuần hoàn của vạn vật trong vũ trụ thuyết phục người nghe để khám phá những hiện tượng của hành động thiện để họ cũng có thể làm theo; sự mô tả của Ngài về vai trò của hành động trong việc định hình rộng lớn của không gian, thời gian, và sự tồn tại đã được thiết kế để tập trung sự chú ý của người nghe về tiềm năng giải thoát khỏi những gì người đó đang làm ở đây và bây giờ. Một số lời dạy sâu sắc nhất của Ngài là những điển tích dành cho chỉ mục đích này:

What do you think, monks? Which is greater, the tears you have shed while transmigrating & wandering this long time — crying & weeping from being joined with what is displeasing, from being separated from what is pleasing — or the water in the four great oceans?... This is the greater: The tears you have shed... Why is that? From an inconceivable beginning, monks, comes transmigration. A beginning point is not evident, although beings hindered by ignorance and fettered by craving are transmigrating & wandering on. Long have you thus experienced stress, experienced pain, experienced loss, swelling the cemeteries — long enough to become disenchanted with all fabrications, enough to become dispassionate, enough to be released.

SN 15.3

Trong một thời gian dài, này các Tỷ-kheo, các Ông chịu đựng tai họa của bệnh tật. Cái này là nhiều hơn, là dòng nước mắt tuôn chảy do các Ông than van, khóc lóc, phải hội ngộ với những gì mình không ưa, phải biệt ly với những gì mình thích, khi các Ông phải chịu đựng tai họa, bệnh tật chớ không phải nước trong bốn biển. Vì sao? Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo , khởi điểm không thể nêu rõ đối với sự lưu chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc. Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, là vừa đủ để các Ông nhàm chán, là vừa đủ để các Ông từ bỏ, là vừa đủ để các Ông giải thoát đối với tất cả các hành.

SN 15.3

The cosmological discourses — such as DN 26, DN 27, MN 129, and MN 130 — are aimed at a similar point. DN 26 describes how the evolution and devolution of the cosmos derive from the skillful and unskillful kamma of the beings who inhabit it, and ends with the admonition that one should make an island for oneself, safe from the process of the ups and downs of the cosmos. This island is nothing other than the practice of the four frames of reference, which, as we will see in II/B, are precisely the training aimed at familiarizing oneself with the phenomenology of skillful action. DN 27 shows how kamma accounts for the evolution of human society, ending with the statement that the most exalted member of society is the Arahant who has gained release through highest discernment. MN 129 and MN 130 give graphic descriptions of the levels of heaven and hell into which beings may be reborn after death through the power of good and bad kamma, MN 130 ending with a verse on the need to practice the path to non-clinging to escape the dangers of birth and death entirely.

^^^^

Thus the experience of his Awakening gave a new purpose to narrative and cosmology in the Buddha's eyes: they became tools for persuading his listeners to adopt the training that would lead them to the phenomenological mode. This accounts for the ad hoc and fragmentary nature of the narratives and cosmological sketches in his teachings. They are not meant to be analyzed in a systematic way. It is a mistake to tease out their implications to see what they may say about such metaphysical questions as the existence or lack of existence of entities or identities underlying the process of kamma and rebirth, the relationship between the laws of kamma and the laws of the physical sciences, or the nature of the mechanism by which kamma makes its results felt over time [see the discussion of appropriate questions in II/G]. The search for systematic answers to such issues is not only invalid or irrelevant from the Buddhist point of view, it is actually counterproductive in that it blocks one from entering the path to release. And, we should note, none of the modes of discourse — narrative, cosmological, or phenomenological — is capable of describing or even framing proper questions about what happens after Awakening, for such issues, which lie beyond the conditions of time and the present, cannot be properly expressed by the conventions of language and analysis, which are bound by those conditions. Only a person who has mastered the skill of release has the mental skills needed to comprehend such matters [AN 4.174 , MFU pp. 31-32]. The Buddha reserved his systematic explanations for the particular phenomenological mode to be used in viewing the process of kamma in its own terms, as it is being mastered, so that the actual problem of kamma and its retribution (as opposed to the theoretical questions about them) will be solved. The right way to listen to the narratives and cosmological sketches, then, is to see what they imply about one's own need to master the kammic process on the level of awareness in and of itself.

^^^^

From these points it should become clear why kamma, as an article of faith, is a necessary factor in the path of Buddhist practice. The teaching on kamma, in its narrative and cosmological forms, provides the context for the practice, giving it direction and urgency. Because the cosmos is governed by the laws of kamma, those laws provide the only mechanism by which happiness can be found. But because good and bad kamma, consisting of good and bad intentions, simply perpetuate the ups and downs of experience in the cosmos, a way must be found out of the mechanism of kamma by mastering it in a way that allows it to disband in an attentive state of non-intention. And, because there is no telling what sudden surprises the results of one's past kamma may still hold in store, one should try to develop that mastery as quickly as possible.

^^^^

In its phenomenological mode, the teaching on kamma accounts for the focus and the terms of analysis used in the practice. It also accounts for the mental qualities needed to attain and maintain that level of focus and analysis. In terms of focus, the principle of scale invariance at work in the complexities of kamma means that their essential processes can be mastered by focusing total attention on them right at the mind in the immediate present. This focus accounts for the practice of frames-of-reference meditation [II/B], in which attention is directed at present phenomena in and of themselves. These phenomena are then analyzed in terms of the four noble truths, the phenomenological terms in which appropriate attention and discernment direct and observe the experience of developing the qualities of skillful action.

^^^^

The most immediate skillful kamma that can be observed on this level is the mastery of the very same mental qualities that are supporting this refined level of focus and analysis: mindfulness, concentration, and discernment, together with the more basic qualities on which they are based. Thus, these mental qualities act not only as supports to the focus and analysis, but also as their object. Ultimately, discernment becomes so refined that the focus and analysis take as their object the act of focusing and analyzing, in and of themselves. The cycle of action then short-circuits as it reaches culmination, and Unbinding occurs. These elements of focus, analysis, and mental qualities, together with the dynamic of their development to a point of culmination, are covered by the teachings on the Wings to Awakening discussed in detail in Parts II and III. Thus the Wings can be viewed as a direct expression of the role of skillful kamma in the path to release.

^^^^

It is entirely possible that a person with no firm conviction in the principle of kamma can follow parts of the Buddhist path, including mindfulness and concentration practices, and gain positive results from them. For instance, one can pursue mindfulness practice for the sense of balance, equanimity, and peace it gives to one's daily life, or for the sake of bringing the mind to the present for the purpose of spontaneity and "going with the flow." The full practice of the path, however, is a skillful diverting of the flow of the mind from its habitual kammic streams to the stream of Unbinding. As the Buddha said, this practice requires a willingness to "develop and abandon" to an extreme degree [AN 4.28]. The developing requires a supreme effort aimed at full and conscious mastery of mindfulness, concentration, and discernment to the point of non-fashioning and on to release. A lack of conviction in the principle of kamma would undercut the patience and commitment, the desire, persistence, intent, and refined powers of discrimination [II/D] needed to pursue concentration and discernment to the most heightened levels, beyond what is needed for a general sense of peace or spontaneity. The abandoning involves uprooting the most deeply buried forms of clinging and attachment that keep one bound to the cycle of rebirth. Some of these forms of clinging — such as views and theories about self-identity — are so entrenched in the narrative and cosmological modes in which most people function that only firm conviction in the benefits to be had by abandoning them will be able to pry them loose. This is why the Buddha insisted repeatedly — and we will have occasion to return to this theme at several points in this book [II/E; III/A] — that conviction in the fact of his Awakening necessarily involves conviction in the principle of kamma, and that both forms of conviction are needed for the full mastery of the kamma of heightened skillfulness leading to release.

^^^^

The Canon contains many well-known passages where the Buddha asks his listeners not to accept his teachings simply on faith, but these remarks were directed to people just beginning the practice. Such people need only accept the general principles of skillful action on a trial basis, focusing on the input of their actions into the causal system at the present moment, and exploring the connection between skillful intentions and favorable results. The more complex issues of kamma come into play at this level only in forcing one to be patient with the practice. Many times skillful intentions do not produce their favorable results immediately, aside from the sense of well-being — sometimes clearly perceptible, sometimes barely — that comes with acting skillfully. Were it not for this delay, the principle of kamma would be self-evident, no one would dare act on unskillful intentions, and there would be no need to take the principle on faith. As we noted in the Introduction, the complexity of this/that conditionality is the major cause for the confusion and lack of skill with which most people live their lives. The ability to master this process takes time.

^^^^

As one progresses further on the path, however — and as the process of developing skillfulness in and of itself comes more and more to take center stage in one's awareness — the actual results of developing skillfulness should give greater and greater reason for conviction in the principle of kamma. Except in cases where people fall into the trap of heedlessness or complacency, these results can spur and inspire one to hold to the principle of kamma with the increasing levels of firmness, focus, and refinement needed for Awakening.

^^^^

Passages from the Pali canon  

§ 8.

Phenomena are preceded by the heart,
ruled by the heart,
made of the heart.
If you speak or act with a corrupted heart,
then suffering follows you —
as the wheel of the cart,
the track of the ox
that pulls it.

Phenomena are preceded by the heart,
ruled by the heart,
made of the heart.
If you speak or act with a calm, bright heart,
then happiness follows you,
like a shadow
that never leaves.

DHP.1-2

Những đoạn kinh từ kinh điển Pali   

§ 8.

Ý dẫn đầu các pháp
Ý chủ trì, tạo tác
Nếu ngôn từ, hành động
Với tâm ý nhiễm ác
Khổ theo tựa bánh xe
Đi sau dấu chân bò

Ý dẫn đầu các pháp,
Ý chủ trì, tạo tác
Nếu ngôn từ, hành động
Với tâm ý trong sáng
An lạc sẽ theo sau
Như bóng không rời hình

DHP.1-2

§ 9. Beings are owners of kamma, heir to kamma, born of kamma, related through kamma, and have kamma as their arbitrator. Kamma is what creates distinctions among beings in terms of coarseness & refinement...

§ 9.. Các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình; nghĩa là có liệt, có ưu.

There is the case where a certain woman or man is one who takes life — brutal, bloody-handed, violent, cruel, merciless to living beings. From performing & undertaking such kamma, then on the breakup of the body, after death, this person re-appears in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell. Or, if he/she does not reappear in the plane of deprivation... in hell, but instead returns to the human state, then wherever he/she is reborn, he/she is short-lived. This is the way leading to short life, namely being one who takes life...

Ở đây, có người đàn bà hay người đàn ông, sát sanh, tàn nhẫn, tay lấm máu, tâm chuyên sát hại đả thương, tâm không từ bi đối với các loại chúng sanh. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, nếu được đi đến loài Người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy phải đoản mạng. Con đường ấy đưa đến đoản mạng, tức là sát sanh, tàn nhẫn, tay lấm máu, tâm chuyên sát hại đả thương, tâm không từ bi đối với các loài hữu tình.

But there is the case where a certain woman or man, abandoning the taking of life, abstains from the taking of life, dwelling with rod laid down, knife laid down, scrupulous, merciful, compassionate for the welfare of all living beings. From performing & undertaking such kamma, then on the breakup of the body, after death, this person re-appears in the good destinations, in the heavenly world. Or, if he/she does not reappear... in the heavenly world, but instead returns to the human state, then wherever he/she is reborn, he/she is long-lived. This is the way leading to long life, namely being one who, abandoning the taking of life, abstains from the taking of life...

Nhưng ở đây, có người đàn bà hay đàn ông, từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sanh vào thiện thú, Thiên giới, ở đời. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào thiện thú, Thiên giới, ở đời, nếu người ấy đi đến loài Người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy được trường thọ. Con đường ấy đưa đến trường thọ, tức là từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình.

Furthermore, there is the case where a certain woman or man has a tendency to injure living beings with the hand, with a clod, with a stick, or with a knife... On the breakup of the body, after death, this person re-appears in the plane of deprivation... in hell. Or, if he/she... instead returns to the human state, then wherever he/she is reborn, he/she is sickly. This is the way leading to being sickly, namely being one who has a tendency to injure living beings...

Ở đây, có người đàn bà hay người đàn ông, tánh hay não hại các loài hữu tình, với tay, hay với cục đất, hay với cây gậy, hay với cây đao. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, nếu người ấy đi đến loài Người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy phải bị nhiều bệnh hoạn. Con đường ấy đưa đến nhiều bệnh hoạn, tức là tánh hay não hại các loài hữu tình với tay, hay với cục đất, hay với cây gậy, hay với cây đao.

But there is the case where a certain woman or man does not have a tendency to injure living beings... This is the way leading to being healthy...

Nhưng ở đây, có người đàn bà hay người đàn ông, tánh không hay não hại các loài hữu tình... Con đường ấy đưa đến ít bệnh hoạn, tức là tánh không não hại các loài hữu tình với tay, hay với cục đất, hay với cây gậy, hay với cây đao.

Furthermore, there is the case where a certain woman or man has an angry & irritable nature. Even when lightly criticized, he/she gets offended, provoked, hostile, & resentful, and displays annoyance, aversion, & bitterness... This is the way leading to being ugly...

Ở đây, có người đàn bà hay người đàn ông, phẫn nộ, nhiều phật ý, bị nói đến một chút thời bất bình, phẫn nộ, sân hận, chống đối, và tỏ lộ phẩn nộ, sân hận, bất mãn. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, nếu được đi đến loài Người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy phải xấu sắc. Con đường ấy đưa đến xấu sắc, tức là phẫn nộ, nhiều phật ý, bị nói đến một chút thời bất bình, phẫn nộ, sân hận, chống đối, và tỏ lộ phẩn nộ, sân hận, bất mãn.

But there is the case where a certain woman or man does not have an angry & irritable nature. Even when heavily criticized, he/she does not get offended, provoked, hostile, or resentful, and displays no annoyance, aversion, or bitterness... This is the way leading to being beautiful...

Ở đây, có người đàn bà hay người đàn ông, không phẫn nộ, không nhiều phật ý, dầu cho bị nói đến nhiều, cũng không bất bình, phẫn nộ, sân hận, chống đối, và không tỏ lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sanh vào thiện thú, Thiên giới, ở đời. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào thiện thú, Thiên giới, ở đời, nếu người ấy đi đến loài Người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy được đẹp sắc (pasadika: hoan hỷ) Con đường ấy đưa đến đẹp sắc, tức là không phẫn nộ, không nhiều phật ý, dầu cho bị nói đến nhiều, cũng không bất bình, phẫn nộ, sân hận, chống đối, và không tỏ lộ phẫn nộ, sân hận, không bất mãn.

Furthermore, there is the case where a certain woman or man has an envious nature — envying, resenting, & begrudging the fortune, honor, respect, reverence, salutations, & veneration received by others... This is the way leading to having little authority...

Ở đây, có người đàn bà hay người đàn ông, tật đố, đối với người khác được quyền lợi, được tôn trọng, cung kính, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường, sanh tật đố, sanh tâm, ôm ấp tâm tật đố. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, nếu được đi đến loài Người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy phải quyền thế nhỏ. Con đường ấy đưa đến quyền thế nhỏ tức là tật đố, đối với người khác được quyền lợi, được tôn trọng, cung kính, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường, sanh tật đố, sanh tâm, ôm ấp tâm tật đố.

But there is the case where a certain woman or man does not have an envious nature — neither envying, resenting, nor begrudging the fortune, honor, respect, reverence, salutations, & veneration received by others... This is the way leading to having great authority...

Nhưng ở đây, có người đàn bà hay người đàn ông, không có tật đố, đối với những người khác được quyền lợi, được tôn trọng, cung kính, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường, không sanh tật đố, sanh tâm, ôm ấp tâm tật đố. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sanh vào thiện thú, Thiên giới, ở đời. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào thiện thú, Thiên giới, ở đời, nếu người ấy đi đến loài Người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy được quyền thế lớn. Con đường ấy đưa đến quyền thế lớn, tức là không tật đố, đối với những người khác được quyền lợi, được tôn trọng, cung kính, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường, không sanh tật đố, không sanh tâm, không ôm ấp tật đố.

Furthermore, there is the case where a certain woman or man does not give food, drink, clothing, vehicles, garlands, scents, ointments, beds, dwellings, or lamps to contemplatives or brahmans... This is the way leading to being poor...

Ở đây, có người đàn bà hay người đàn ông, không bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn, đồ ăn uống, y phục, xe cộ, vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, ngọa cụ, nhà cửa, đèn đuốc. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, nếu được đi đến loài Người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy phải tài sản nhỏ. Con đường đưa đến tài sản nhỏ, tức là không bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn, đồ ăn uống, y phục, xe cộ, vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, ngọa cụ, nhà cửa, đèn đuốc.

But there is the case where a certain woman or man gives food, drink, clothing, vehicles, garlands, scents, ointments, beds, dwellings, & lamps to contemplatives & brahmans... This is the way leading to being wealthy...

Nhưng ở đây, có người đàn bà hay người đàn ông có bố thí cho Sa-môn hay cho Bà-la-môn các đồ ăn uống, y phục, xe cộ, vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, ngọa cụ, nhà cửa, đèn đuốc . Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sanh vào thiện thú, Thiên giới, ở đời. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào thiện thú, Thiên giới, ở đời, nếu người ấy đi đến loài Người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy được nhiều tài sản. Con đường đưa đến nhiều tài sản, tức là có bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn, đồ ăn uống, y phục, xe cộ, vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, ngọa cụ, nhà cửa, đèn đuốc.

Furthermore, there is the case where a certain woman or man is obstinate & arrogant, not paying homage to those who deserve homage, not rising up for those in whose presence one should rise up, not offering a seat to those who deserve a seat, not making way for those for whom one should make way, not honoring, respecting, revering, or venerating those who should be honored... venerated. This is the way leading to being reborn in a low birth...

Ở đây, có người đàn bà hay người đàn ông ngạo nghễ, kiêu mạn, không đảnh lễ những người đáng đảnh lễ, không đứng dậy đối với người đáng đứng dậy, không mời ngồi những người đáng mời ngồi, không nhường chỗ đi cho những người đáng được nhường chỗ đi, không tôn trọng những người đáng tôn trọng, không cung kính những người đáng cung kính, không đảnh lễ những người đáng đảnh lễ, không cúng dường những người đáng cúng dường. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, nếu được đi đến loài Người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy phải thuộc gia đình hạ liệt. Con đường đưa đến gia đình hạ liệt, tức là ngạo nghễ, kiêu mạn, không đảnh lễ những người đáng đảnh lễ, không đứng dậy đối với người đáng đứng dậy, không mời ngồi những người đáng mời ngồi, không nhường chỗ đi cho những người đáng được nhường chỗ đi, không tôn trọng những người đáng tôn trọng, không cung kính những người đáng cung kính, không đảnh lễ những người đáng đảnh lễ, không cúng dường những người đáng cúng dường.

But there is the case where a certain woman or man is not obstinate or arrogant, who pays homage to those who deserve homage, rises up for those in whose presence one should rise up, offers a seat to those who deserve a seat, makes way for those for whom one should make way, honors, respects, reveres, & venerates those who should be honored... venerated. This is the way leading to being reborn in a high birth...

Nhưng ở đây, có người đàn bà hay người đàn ông, không có ngạo nghễ quá mạn, đảnh lễ những người đáng đảnh lễ,đứng dậy đối với người đáng đứng dậy, mời ngồi những người đáng mời ngồi, nhường chỗ đi cho những người đáng được nhường chỗ đi, tôn trọng những người đáng tôn trọng, cung kính những người đáng cung kính, đảnh lễ những người đáng đảnh lễ, cúng dường những người đáng cúng dường. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sanh vào thiện thú, Thiên giới, ở đời. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào thiện thú, Thiên giới, ở đời, nếu người ấy đi đến loài Người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy được vào gia đình cao quý. Con đường đưa đến gia đình cao quý, tức là ngạo nghễ, kiêu mạn, đảnh lễ những người đáng đảnh lễ, đứng dậy đối với người đáng đứng dậy, mời ngồi những người đáng mời ngồi, nhường chỗ đi cho những người đáng được nhường chỗ đi, tôn trọng những người đáng tôn trọng, cung kính những người đáng cung kính, không đảnh lễ những người đáng đảnh lễ, cúng dường những người đáng cúng dường.

Furthermore, there is the case where a certain woman or man, having approached a contemplative or brahman, does not ask, "What, venerable sir, is skillful? What is unskillful? What is blameworthy? What is blameless? What is to be cultivated? What is not to be cultivated? What kind of action will lead to my long-term harm & suffering? What kind of action will lead to my long-term welfare & happiness?"... This is the way leading to having weak discernment...

Ở đây, có người đàn bà hay người đàn ông, sau khi đi đến Sa-môn hay Bà-la-môn, không hỏi : "Thưa Tôn giả, thế nào là thiện ? Thế nào là bất thiện ? Thế nào là phạm tội ? Thế nào là không phạm tội ? Thế nào là cần phải thực hành ? Thế nào là không cần phải thực hành ? Tôi đã làm gì để phải không lợi ích và đau khổ lâu dài ? Hay tôi đã làm gì để được lợi ích và an lạc lâu dài ? Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, nếu được đi đến loài Người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy phải trí tuệ yếu kém. Con đường đưa đến trí tuệ yếu kém, tức là sau khi đi đến Sa-môn hay Bà-la-môn, không hỏi : "Thưa Tôn giả, thế nào là thiện ? Thế nào là bất thiện ? Thế nào là phạm tội ? Thế nào là không phạm tội ? Thế nào là cần phải thực hành ? Thế nào là không cần phải thực hành ? Tôi đã làm gì để phải không lợi ích và đau khổ lâu dài ? Hay tôi đã làm gì để được lợi ích và an lạc lâu dài ?

But there is the case where a certain woman or man, having approached a contemplative or brahman, asks, "What, venerable sir, is skillful? What is unskillful? What is blameworthy? What is blameless? What is to be cultivated? What is not to be cultivated? What kind of action will lead to my long-term harm & suffering? What kind of action will lead to my long-term welfare & happiness?"... This is the way leading to having great discernment...

Nhưng ở đây, có người đàn bà hay người đàn ông, sau khi đến Sa-môn hay Bà-la-môn, có hỏi : "Thưa Tôn giả, thế nào là thiện ? Thế nào là bất thiện, Thế nào là phạm tội ? Thế nào là không phạm tội ? Thế nào là cần phải thực hành ? Thế nào là không cần phải thực hành ? Tôi đã làm gì để lợi ích, an lạc lâu dài ? Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sanh vào thiện thú, Thiên giới, ở đời. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào thiện thú, Thiên giới, ở đời, nếu người ấy đi đến loài Người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy được đầy đủ trí tuệ. Con đường đưa đến đầy đủ trí tuệ, tức là sau khi đi đến Sa-môn hay Bà-la-môn, không hỏi : "Thưa Tôn giả, thế nào là thiện ? Thế nào là bất thiện ? Thế nào là phạm tội ? Thế nào là không phạm tội ? Thế nào là cần phải thực hành ? Thế nào là không cần phải thực hành ? Tôi đã làm gì để phải không lợi ích và đau khổ lâu dài ? Hay tôi đã làm gì để được lợi ích và an lạc lâu dài ?

Beings are owners of kamma, heir to kamma, born of kamma, related through kamma, and have kamma as their arbitrator. Kamma is what creates distinctions among beings in terms of coarseness & refinement.

MN 135

Các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình; nghĩa là có liệt, có ưu.

MN 135

§ 10. 'Kamma should be known. The cause by which kamma comes into play should be known. The diversity in kamma should be known. The result of kamma should be known. The cessation of kamma should be known. The path of practice leading to the cessation of kamma should be known.' Thus it has been said. Why was it said?

Intention, I tell you, is kamma. Intending, one does kamma by way of body, speech, & intellect.

And what is the cause by which kamma comes into play? Contact...

§ 10.. Này các Tỷ-kheo, cần phải biết các nghiệp như vậy, rằng biết các nghiệp sanh khởi như vậy, rằng biết các nghiệp sai biệt như vậy, rằng biết các nghiệp dị thục như vậy, rằng biết các nghiệp như vậy, cần phải biết con đường đưa đến các nghiệp đoạn diệt, đã được nói như vậy. Do duyên gì đã được nói như vậy?

Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng suy tư l nghiệp ; sau khi suy tư, tạo nghiệp về thân, về lời, về ý .

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các nghiệp sanh khởi ? Này các Tỷ-kheo, xc là các nghiệp sanh khởi.

And what is the diversity in kamma? There is kamma to be experienced in hell, kamma to be experienced in the realm of common animals, kamma to be experienced in the realm of the hungry shades, kamma to be experienced in the human world, kamma to be experienced in the heavenly worlds. [In Buddhist cosmology, sojourns in hell or in heaven, as in the other realms, are not eternal. After the force of one's kamma leading to rebirth in those levels has worn out, one is reborn elsewhere.]...

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các nghiệp sai biệt ? Này các Tỷ-kheo, các nghiệp đưa đến cảm thọ ở địa ngục, các nghiệp đưa đến cảm thọ loài bàng sanh, các nghiệp đưa đến cảm thọ cõi ngạ quỷ, cá nghiệp đưa đến cảm thọ thế giới loài Người, các nghiệp đưa đến cảm thọ thế giới chư Thiên. [Theo vũ trụ học của Đạo Phật, sự lưu trú ở địa ngục hay các tầng trời, cũng như ở các cảnh giới khác, đều không phải là vĩnh viễn. Sau khi nghiệp lực của chúng sanh dẫn đến sự tái sanh ở các cảnh giới đã hết hiệu lực, chúng sanh đó sẽ tái sanh vô cảnh giới khác.]...

And what is the result of kamma? The result of kamma is of three sorts, I tell you: that which arises right here & now, that which arises later [in this lifetime], and that which arises following that...

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các nghiệp dị thục ? Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng có ba loại nghiệp dị thục : Ở ngay đời hiện tại, hay ở đời sau, hay ở một đời sau nữa. Này các Tỷ-kheo, đây là các nghiệp dị thục.

And what is the cessation of kamma? From the cessation of contact is the cessation of kamma; and just this noble eightfold path — right view, right resolve, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness, right concentration — is the path of practice leading to the cessation of kamma.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp đoạn diệt ? , này càc Tỷ-kheo, là nghiệp đoạn diệt. Đây là Thánh đạo tám ngành, con đường đưa đến các nghiệp đoạn diệt. Đó là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.

Now when a disciple of the noble ones discerns kamma in this way, the cause by which kamma comes into play in this way, the diversity of kamma in this way, the result of kamma in this way, the cessation of kamma in this way, & the path of practice leading to the cessation of kamma in this way, then he discerns this penetrative holy life as the cessation of kamma.

Khi nào, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử rõ biết các nghiệp như vậy, rõ biết các nghiệp sanh khởi như vậy, rõ biết các nghiệp sai biệt như vậy, rõ biết các nghiệp dị thục như vậy, rõ biết các nghiệp đoạn diệt như vậy, rõ biết con đường đưa đến các nghiệp đoạn diệt như vậy, khi ấy, vị ấy rõ biết Phạm hạnh thể nhập này như là các nghiệp đoạn diệt.

'Kamma should be known. The cause by which kamma comes into play... The diversity in kamma... The result of kamma... The cessation of kamma... The path of practice for the cessation of kamma should be known.' Thus it has been said, and this is why it was said.

AN 6.63

Này các Tỷ-kheo, cần phải biết các nghiệp sanh khởi như vậy, cần phải biết các nghiệp sai biệt như vậy, rõ biết các nghiệp như vậy, cần phải biết các nghiệp như vậy ,cần phải biết con đường đưa đến các nghiệp đoạn diệt, đã được nói như vậy. Chính do duyên này đã được nói như vậy.

AN 6.63

§ 11. There are four kinds of persons to be found in the world. Which four? There is the case where a certain person takes life, takes what is not given [steals], engages in illicit sex, lies, speaks divisively, speaks harshly, engages in idle chatter; is covetous, has a hostile mind, & holds wrong views. On the breakup of the body, after death, he reappears in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell.

§ 11.Này Ananda, có bốn loại người này có mặt ở đời. Thế nào là bốn ? Ở đây, này Ananda, có người sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời ác khẩu, nói lời phù phiếm, có tham dục, có sân tâm, có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

But there is also the case where a certain person takes life... holds wrong views, (yet) on the breakup of the body, after death, he reappears in the good destinations, in the heavenly world.

Nhưng ở đây, này Ananda, có người sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời ác khẩu, nói lời phù phiếm, có tham dục, có sân tâm, có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.

And there is the case where a certain person abstains from taking life, abstains from taking what is not given... is not covetous, does not have a hostile mind, & holds right views. On the breakup of the body, after death, he reappears in the good destinations, in the heavenly world.

Ở đây, này Ananda, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói ác khẩu, từ bỏ nói lời phù phiếm, từ bỏ tham dục, từ bỏ sân tâm, có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.

But there is also the case where a certain person abstains from taking life, abstains from taking what is not given... is not covetous, does not have a hostile mind, & holds right views, (yet) on the breakup of the body, after death, he reappears in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell...

Nhưng ở đây, này Ananda, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói ác khẩu, từ bỏ nói lời phù phiếm, từ bỏ tham dục, từ bỏ sân tâm, có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

In the case of the person who takes life... (yet) on the breakup of the body, after death, reappears in the good destinations, in the heavenly world: either earlier he performed fine kamma that is to be felt as pleasant, or later he performed fine kamma that is to be felt as pleasant, or at the time of death he acquired & adopted right views. Because of that, on the breakup of the body, after death, he reappears in the good destinations, in the heavenly world. But as for the results of taking life... holding wrong views, he will feel them either right here & now, or later [in this lifetime], or following that...

Trong trường hợp có người sát sanh ... về sau khi thân hoại mệnh chung, sau khi chết, tái sanh ở những cảnh giới tốt, trong thiên giới :Hoặc là một thiện nghiệp đưa đến cảm giác lạc thọ do người ấy làm từ trước, hay một thiện nghiệp đưa đến cảm giác lạc thọ do người ấy làm về sau, hay trong khi mệnh chung, một chánh kiến được người ấy chấp nhận và chấp chặt. Do vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này..- Và ai ở đây sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời ác khẩu, nói lời phù phiếm, có tham dục, có sân tâm, có tà kiến, người ấy phải lãnh thọ quả báo được khởi lên ngay hiện tại hay trong một đời khác.

In the case of the person who abstains from taking life... (yet) on the breakup of the body, after death, reappears in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell: either earlier he performed evil kamma that is to be felt as painful, or later he performed evil kamma that is to be felt as painful, or at the time of death he acquired & adopted wrong views. Because of that, on the breakup of the body, after death, he reappears in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell. But as for the results of abstaining from taking life... holding right views, he will feel them either right here & now, or later [in this lifetime], or following that...

MN 136

--Ở đây, này Ananda, người nào từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói ác khẩu, từ bỏ nói lời phù phiếm, từ bỏ tham dục, từ bỏ sân tâm, có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy bị sanh vào cói dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. -Hoặc là một ác nghiệp đưa đến cảm giác khổ thọ do người ấy làm từ trước, hay một ác nghiệp đưa đến cảm giác khổ thọ do người ấy làm về sau, hay trong khi mệnh chung, một tà kiến được người ấy chấp nhận và chấp chặt. Do vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

MN 136

§ 12. These four imponderables are not to be speculated about. Whoever speculates about them would go mad & experience vexation. Which four? The Buddha-range of the Buddhas [i.e., the range of powers a Buddha develops as a result of becoming a Buddha]... The jhāna-range of one absorbed in jhāna [i.e., the range of powers that one may obtain while absorbed in jhāna]... The results of kamma... Speculation about [the first moment, purpose, etc., of] the cosmos is an imponderable that is not to be speculated about. Whoever speculates about these things would go mad & experience vexation.

AN 4.77

Có bốn điều này không thể nghĩ đến được, này các Tỷ-kheo, nếu nghĩ đến, thời người suy nghĩ có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ. Thế nào là bốn ? Phật giới của các đức Phật, này các Tỷ-kheo, không thể nghĩ đến được, nếu nghĩ đến, thời người suy nghĩ có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ.Thiền giới của người ngồi Thiền, này các Tỷ-kheo, không thể nghĩ được, nếu nghĩ đến thời có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ.Quả dị thục của nghiệp, này các Tỷ-kheo, không thể nghĩ đến được, nếu nghĩ đến thời có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ. Tâm tư thế giới, này các Tỷ-kheo, không thể nghĩ đến được, nếu nghĩ đến thời có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ.

AN 4.77

§ 13. The Buddha: 'For anyone who says, "In whatever way a person makes kamma, that is how it is experienced," there is no living of the holy life, there is no opportunity for the right ending of stress. But for anyone who says, "When a person makes kamma to be felt in such & such a way, that is how its result is experienced," there is the living of the holy life, there is the opportunity for the right ending of stress.

§ 13 Đức Phật: 'Ai nói như sau, "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy". Nếu sự kiện là vậy, này các Tỷ-kheo, thời không có đời sống Phạm hạnh, không có cơ hội để nêu rõ đau khổ được chơn chánh đoạn diệt. Và này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Người này làm nghiệp được cảm thọ như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ quả dị thục như vậy, như vậy". Nếu sự kiện là vậy, này các Tỷ-kheo, thời có đời sống Phạm hạnh, có cơ hội để nêu rõ đau khổ được chơn chánh đoạn diệt."

'There is the case where a trifling evil act done by a certain individual takes him to hell. There is the case where the very same sort of trifling act done by another individual is experienced in the here & now, and for the most part barely appears for a moment.

"Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người làm nghiệp ác nhỏ mọn, và nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa ngục. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tợ, và nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút ít cũng không thấy được

'Now, a trifling evil act done by what sort of individual takes him to hell? There is the case where a certain individual is undeveloped in the body [i.e., pleasant feelings can invade the mind and stay there — see MN 36], undeveloped in virtue, undeveloped in mind [i.e., painful feelings can invade the mind and stay there], undeveloped in discernment: restricted, small-hearted, dwelling with suffering. A trifling evil act done by this sort of individual takes him to hell.

Hạng người như thế nào, này các Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn, và nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa ngục ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập, hạn hẹp, tự ngã nhỏ nhen, sống chịu khổ ít oi. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, làm nghiệp ác nhỏ mọn, và nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa ngục.

'Now, a trifling evil act done by what sort of individual is experienced in the here & now, and for the most part barely appears for a moment? There is the case where a certain individual is developed in the body [i.e., pleasant feelings cannot invade the mind and stay there], developed in virtue, developed in mind [i.e., painful feelings cannot invade the mind and stay there], developed in discernment: unrestricted, large-hearted, dwelling with the unlimited. A trifling evil act done by this sort of individual is experienced in the here & now, and for the most part barely appears for a moment.

Hạng người như thế nào, này các Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tợ, và nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút ít cũng không thấy được (trong đời sau), nói gì là nhiều ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người thân được tu tập, giới được tu tập, tâm được tu tập, tuệ được tu tập, hạn hẹp, tự ngã to lớn, sống đời vô lượng. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tợ, và nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút ít cũng không thấy được (trong đời sau), nói gì là nhiều.

'Suppose that a man were to drop a salt crystal into a small amount of water in a cup. What do you think? Would the water in the cup become salty because of the salt crystal, and unfit to drink?'

'Yes, lord...'

-"Ví như, này các Tỷ-kheo, có người bỏ một nắm muối vào trong một chén nước nhỏ. Các Thầy nghĩ như thế nào, này các Tỷ-kheo, nước trong chén ấy có vì nắm muối trở thành mặn và không uống được phải không ?"

"Thưa đúng vậy, bạch Thế Tôn"

'Now suppose that a man were to drop a salt crystal into the River Ganges. What do you think? Would the water in the River Ganges become salty because of the salt crystal, and unfit to drink?'

'No, lord...'

" Ví như, này các Tỷ-kheo, có người bỏ một nắm muối vào sông Hằng. Các Thầy nghĩ như thế nào, này các Tỷ-kheo, sông Hằng có vì nắm muối trở thành mặn và không uống được phải không

'In the same way, there is the case where a trifling evil act done by one individual [the first] takes him to hell; and there is the case where the very same sort of trifling act done by the other individual is experienced in the here & now, and for the most part barely appears for a moment.'

AN 3.99

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây, có người làm nghiệp ác nhỏ mọn, và nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa ngục. Ở đây, có người làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tợ, và nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút ít cũng không thấy được (trong đời sau), nói gì là nhiều.

AN 3.99

§ 14. Moḷiyasīvaka: There are some contemplatives & brahmans who are of this doctrine, this view: 'Whatever an individual feels — pleasure, pain, neither-pleasure-nor-pain — is entirely caused by what was done before.' Now what does Master Gotama say to that?

§ 14. Moḷiyasīvaka thưa với Thế Tôn: -"Thưa Tôn giả Gotama, có một số Sa-môn, Bà-la-môn thuyết như sau, thấy như sau: "Con người cảm thọ cảm giác gì, lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ; tất cả thọ ấy đều do nhân đã làm trong quá khứ". Ở đây, Tôn giả Gotama nói như thế nào?"

The Buddha: There are cases where some feelings arise based on bile [i.e., diseases and pains that come from a malfunctioning gall bladder]. You yourself should know how some feelings arise based on bile. Even the world is agreed on how some feelings arise based on bile. So any contemplatives & brahmans who are of the doctrine & view that whatever an individual feels — pleasure, pain, neither-pleasure-nor-pain — is entirely caused by what was done before — slip past what they themselves know, slip past what is agreed on by the world. Therefore I say that those contemplatives & brahmans are wrong.

Đức Phật: Này Sìvaka, ở đây, một số cảm thọ khởi lên, phát sanh từ mật (semhà). Này Siivaka, hoặc là Ông phải tự mình (sàma) biết rằng: "Ở đây, một số cảm thọ khởi lên, phát sanh từ mật". Hay là, này Siivaka, thế giới chấp nhận là đúng sự thật rằng: "Ở đây, một số cảm thọ khởi lên phát sanh từ mật". Ở đây, này Siivaka, những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào thuyết như sau, thấy như sau: "Con người cảm thọ cảm giác gì, lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ; tất cả thọ đều do nhân đã làm trong quá khứ"; nếu do họ tự mình biết, họ thật sự đi quá xa; nếu được thế giới chấp nhận là đúng sự thật, họ cũng đi quá xa. Do vậy, Ta tuyên bố rằng các Sa-môn, Bà-la-môn ấy thuộc về tà.

There are cases where some feelings arise based on phlegm...
based on internal winds...
based on a combination of bodily humors...
from the change of the seasons...
from uneven ['out-of-tune'] care of the body...
from attacks...
from the result of kamma.
You yourself should know how some feelings arise from the result of kamma. Even the world is agreed on how some feelings arise from the result of kamma. So any contemplatives & brahmans who are of the doctrine & view that whatever an individual feels — pleasure, pain, neither pleasure-nor-pain — is entirely caused by what was done before — slip past what they themselves know, slip past what is agreed on by the world. Therefore I say that those contemplatives & brahmans are wrong.

SN 36.21

Này Siivaka, ở đây, một số cảm thọ khởi lên, phát sanh từ đàm (niêm dịch)...
Này Siivaka... khởi lên, phát sanh từ gió...
Này Siivaka... khởi lên, phát sanh từ sự gặp gỡ các... nước trong thân thể (sannipitikàni).
Này Siivaka... khởi lên, phát sanh từ sự gặp gỡ các thời tiết...
Này Siivaka... khởi lên, phát sanh từ sự gặp gỡ các nghịch vận...
Này Siivaka... khởi lên, phát sanh từ các công kích thình lình từ bên ngoài vào...
Này Siivaka... khởi lên, phát sanh từ quả dị thục của nghiệp...
Do quả dị thục của nghiệp, này Siivaka, ở đây, một số cảm thọ được khởi lên. Này Siivaka, hoặc là Ông phải tự mình biết rằng: "Ở đây, một số cảm thọ khởi lên vì kết quả dị thục của nghiệp". Hay là, này Siivaka, thế giới chấp nhận là đúng sự thật rằng: "Ở đây, một số cảm thọ khởi lên vì kết quả dị thục của nghiệp". Ở đây, này Siivaka, những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào thuyết như sau, thấy như sau: "Con người cảm thọ cảm giác gì, lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ; tất cả thọ đều do nhân đã làm trong quá khứ"; nếu do họ tự mình biết, họ thật sự đi quá xa; nếu được thế giới chấp nhận là đúng sự thật, họ cũng đi quá xa. Do vậy, Ta tuyên bố rằng các Sa-môn, Bà-la-môn ấy thuộc về tà.

SN 36.21

§ 15. What, monks, is old kamma?
The eye is to be seen as old kamma, fabricated & willed, capable of being felt.
The ear...
The nose...
The tongue...
The body...
The intellect is to be seen as old kamma, fabricated & willed, capable of being felt. This is called old kamma.

Này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp cũ?
-Mắt, này các Tỷ-kheo, cần phải quán là nghiệp cũ, được tác thành, được tư niệm, được cảm thọ.
-Tai...
-Mũi...
-Lưỡi...
-Thân...
-Ý cần phải quán là nghiệp cũ, được tác thành, được tư niệm, được cảm thọ.

And what is new kamma? Whatever kamma one does now with the body, with speech, or with the intellect. This is called new kamma.

And what is the cessation of kamma? Whoever touches the release that comes from the cessation of bodily kamma, verbal kamma, & mental kamma. That is called the cessation of kamma.

And what is the path of practice leading to the cessation of kamma? Just this noble eightfold path... This is called the path of practice leading to the cessation of kamma.

SN 35.145

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp mới? Này các Tỷ-kheo, hiện tại phàm làm việc gì với thân, với lời nói, hay với ý. Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là nghiệp mới.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp đoạn diệt? Sự đoạn diệt thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệp, nhờ vậy cảm thấy giải thoát. Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là nghiệp đoạn diệt.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con đường đưa đến nghiệp đoạn diệt? Đây là con đường Thánh đạo tám ngành, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là con đường đưa đến nghiệp đoạn diệt.

SN 35.145

§ 16. These four types of kamma have been understood, realized, & made known by me. Which four? There is kamma that is black with black result; kamma that is white with white result; kamma that is black & white with black & white result; and kamma that is neither black nor white with neither black nor white result, leading to the ending of kamma.

§ 16.Có bốn nghiệp này, này các Tỷ-kheo, đã được Ta chứng ngộ với thắng trí và thuyết giảng. Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo, có nghiệp đen quả đen; này các , có nghiệp trắng quả trắng; có nghiệp đen trắng, quả đen trắng, có nghiệp không đen không trắng, quả không đen không trắng, nghiệp đưa đến đoạn diệt.

And what is kamma that is black with black result? There is the case where a certain person fabricates an injurious bodily fabrication... an injurious verbal fabrication... an injurious mental fabrication... He rearises in an injurious world where he is touched by injurious contacts... He experiences feelings that are exclusively painful, like those of the beings in hell. This is called kamma that is black with black result.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp đen quả đen? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người làm thân hành có tổn hại, làm khẩu hành có tổn hại, làm ý hành có tổn hại. Người ấy, do làm thân hành có tổn hại, do làm khẩu hành có tổn hại, do làm ý hành có tổn hại, sanh ra ở thế giới có tổn hại. Do người ấy sanh ra ở thế giới có tổn hại, các cảm xúc có tổn hại được cảm xúc. Người ấy được cảm xúc với những cảm xúc có tổn hại, nên cảm thọ những cảm thọ có tổn hại, thuần nhất khổ, như những chúng sanh trong địa ngục. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là nghiệp đen quả đen.

And what is kamma that is white with white result? There is the case where a certain person fabricates an uninjurious bodily fabrication... an uninjurious verbal fabrication... an uninjurious mental fabrication... He rearises in an uninjurious world where he is touched by uninjurious contacts... He experiences feelings that are exclusively pleasant, like those of the Ever-radiant Devas. This is called kamma that is white with white result.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp trắng quả trắng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người làm thân hành không có tổn hại, làm khẩu hành không có tổn hại, làm ý hành không có tổn hại. Người ấy, do làm thân hành không có tổn hại, do làm khẩu hành không có tổn hại, do làm ý hành không có tổn hại, sanh ra ở thế giới không có tổn hại. Do người ấy sanh ra ở thế giới không có tổn hại, các cảm xúc không có tổn hại được cảm xúc. Người ấy được cảm xúc với những cảm xúc không có tổn hại, nên cảm thọ những cảm thọ không có tổn hại, thuần nhất lạc, như chư Thiên ở Biến Tịnh Thiên. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là nghiệp trắng quả trắng.

And what is kamma that is black & white with black & white result? There is the case where a certain person fabricates a bodily fabrication that is injurious & uninjurious... a verbal fabrication that is injurious & uninjurious... a mental fabrication that is injurious & uninjurious... He rearises in an injurious & uninjurious world where he is touched by injurious & uninjurious contacts... He experiences injurious & uninjurious feelings, pleasure mingled with pain, like those of human beings, some devas, and some beings in the lower realms. This is called kamma that is black & white with black & white result.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp đen trắng quả đen trắng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người làm thân hành có tổn hại và không tổn hại, làm khẩu hành có tổn hại và không tổn hại, làm ý hành có tổn hại và không tổn hại. Người ấy, do làm thân hành có tổn hại và không tổn hại, do làm khẩu hành có tổn hại và không tổn hại, do làm ý hành có tổn hại và không tổn hại, sanh ra ở thế giới có tổn hại và không tổn hại. Do người ấy sanh ra ở thế giới có tổn hại và không tổn hại, các cảm xúc có tổn hại và không tổn hại được cảm xúc. Người ấy được cảm xúc với những cảm xúc có tổn hại và không tổn hại, nên cảm thọ những cảm thọ có tổn hại và không tổn hại, xen lẫn, pha trộn lạc và khổ. Ví như một số người và chư Thiên, một số chúng sanh ở các đọa xứ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là nghiệp đen trắng quả đen trắng.

And what is kamma that is neither black nor white with neither black nor white result, leading to the ending of kamma? The intention right there to abandon this kamma that is black with black result, the intention right there to abandon this kamma that is white with white result, the intention right there to abandon this kamma that is black & white with black & white result. This is called kamma that is neither black nor white with neither black nor white result, leading to the ending of kamma.

AN 4.232

5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp không đen không trắng quả không đen không trắng, nghiệp đưa đến đoạn diệt? Tại đấy, này các Tỷ-kheo, phàm có tư tâm sở nào để đoạn tận nghiệp đen quả đen này; phàm có tư tâm sở nào để đoạn tận nghiệp trắng quả trắng này; phàm có tư tâm sở nào để đoạn tận nghiệp đen trắng quả đen trắng này; này các Tỷ-kheo, đây được gọi là nghiệp không đen không trắng quả không đen không trắng, nghiệp đưa đến đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, có bốn nghiệp này đã được Ta chứng ngộ với thắng trí và thuyết giảng.

AN 4.232

[A related discourse repeats most of the above, defining black kamma with black result with the following example: "There is the case of a certain person who kills living beings, steals what is not given, engages in illicit sex, tells lies, and drinks fermented & distilled liquors that are the basis for heedlessness,"
and white kamma with white result with the following example: "There is the case of a certain person who abstains from killing living beings, abstains from stealing what is not given, abstains from engaging in illicit sex, abstains from telling lies, and abstains from drinking fermented & distilled liquors that are the basis for heedlessness."]

AN 4.234

7. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp đen quả đen? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người đoạt mạng sống của mẹ, đoạt mạng sống của cha, đoạt mạng sống của vị A-la-hán, với ác tâm làm Như Lai chảy máu, phá hòa hợp Tăng. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là nghiệp đen quả đen.
8. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp quả trắng quả trắng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ lời thô ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, từ bỏ tham, từ bỏ sân, có chánh kiến. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là nghiệp trắng quả trắng.

AN 4.234

§ 17. And what is kamma that is neither black nor white with neither black nor white result, leading to the ending of kamma? Right view, right resolve, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness, right concentration.

AN 4.235

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp không đen không trắng quả không đen không trắng, nghiệp đưa đến đoạn diệt ? Đây là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Đây là nghiệp không đen trắng, quả không đen trắng, nghiệp đưa đến đoạn diệt.

AN 4.235

[The discourse immediately following this is identical to this except that it replaces the above factors of the noble eightfold path with the following seven factors for Awakening: mindfulness as a factor for Awakening, analysis of qualities... persistence... rapture... serenity... concentration... equanimity as a factor for Awakening.]

AN 4.238

bài giảng liền ngay sau đây tương tự như việc này ngoại trừ nó sẽ thay thế các yếu tố Bát chánh đạo phía trên với bảy yếu tố Gíác Ngộ sau đây: Chánh Miệm là một yếu tố Giác Ngộ, sự phân tích các phẩm chất (Chánh Tư Duy) ... sự kiên trì (Chánh Tinh Tấn)... hỉ lạc ... sự tĩnh lặng ... Chánh Định ... sự trầm tỉnh như một yếu tố cho Giác Ngộ.

AN 4.238

^^^^

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

  Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại phamdang0308@gmail.com
Cập nhập ngày: Thứ Năm 24-9-2015

Kỹ thuật trình bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

Trang Trước | Trang Kế| trở về đầu trang | Home page |