Back in the days of the Buddha, nirvana (nibbana) had a verb of its own: nibbuti. It meant to "go out," like a flame. Because fire was thought to be in a state of entrapment as it burned — both clinging to and trapped by the fuel on which it fed — its going out was seen as an unbinding. To go out was to be unbound. Sometimes another verb was used — parinibbuti — with the "pari-" meaning total or all-around, to indicate that the person unbound, unlike fire unbound, would never again be trapped. |
Thời Đức Phật, từ vựng niết bàn (nibbana) có một động từ riêng của nó là: nibbuti. Có nghĩa là "sự làm dật tắt phiền não," như dập tắt ngọn lửa. Bởi vì lửa được cho là ở trong trạng thái quấn vào nhau khi nó cháy - cả hai bám vào và bị giữ lại bởi nhiên liệu mà nó nạp vào - việc dập tắt đi được coi là giải thoát. Đôi khi một động từ khác được sử dụng - parinibbuti nghĩa là chết mà không còn đi tái sanh ở đâu nữa, là nhập Niết bàn - với "pari-" có nghĩa là hoàn toàn, để chỉ ra rằng người không bị ràng buộc, không giống như ngọn lửa bị quấn vào nhau, sẽ không bao giờ bị mắc kẹt nữa. |
Now that nirvana has become an English word, it should have its own English verb to convey the sense of "being unbound" as well. At present, we say that a person "reaches" nirvana or "enters" nirvana, implying that nibbana is a place where you can go. But nirvana is most emphatically not a place. It's realized only when the mind stops defining itself in terms of place: of here, or there, or between the two. |
Ngày nay, từ vựng nirvana đã trở thành một từ tiếng Anh, nó cũng nên có động từ tiếng Anh riêng để truyền đạt ý nghĩa "được giải thoát". Hiện tại, chúng ta nói rằng một người "đạt đến" niết bàn hoặc "nhập" niết bàn, ngụ ý rằng nibbana là một nơi mà bạn có thể đến. Nhưng niết bàn rõ ràng không phải là một nơi. Nó chỉ được nhận ra khi tâm không định nghĩa bản thân về vị trí: ở đây, ở đó, hoặc giữa hai. |
This may seem like a word-chopper's problem — what can a verb or two do to your practice? — but the idea of nirvana as a place has created severe misunderstandings in the past, and it could easily create misunderstandings now. There was a time when some philosophers in India reasoned that if nirvana is one place and samsara another, then entering into nirvana leaves you stuck: you've limited your range of movement, for you can't get back to samsara. Thus to solve this problem they invented what they thought was a new kind of nirvana: an unestablished nirvana, in which one could be in both places — nirvana and samsara — at once. |
Điều này có vẻ giống như vấn đề của một người cắt từ - một hoặc hai động từ có thể làm gì cho việc tu tập của bạn? - nhưng, trong quá khứ ý tưởng về niết bàn như một nơi đã tạo ra những hiểu lầm nghiêm trọng, và nó có thể dễ dàng tạo ra những hiểu lầm thời bây giờ. Đã có lúc một số học giả ở Ấn Độ lý luận rằng nếu niết bàn là một nơi và luân hồi một nơi khác, thì việc nhập vào Niết-bàn khiến bạn bị mắc kẹt: bạn đã giới hạn phạm vi di chuyển của mình, vì bạn không thể quay lại vòng luân hồi. Do đó, để giải quyết vấn đề này, họ đã phát minh ra thứ mà họ nghĩ là một loại Niết-bàn mới: Niết-bàn không thể xác định, trong đó người ta có thể ở cả hai nơi - Niết bàn và luân hồi - cùng một lúc. |
However, these philosophers misunderstood two important points about the Buddha's teachings. The first was that neither samsara nor nirvana is a place. Samsara is a process of creating places, even whole worlds, (this is called becoming) and then wandering through them (this is called birth). Nirvana is the end of this process. You may be able to be in two places at once — or even develop a sense of self so infinite that you can occupy all places at once — but you can't feed a process and experience its end at the same time. You're either feeding samsara or you're not. If you feel the need to course freely through both samsara and nirvana, you're simply engaging in more samsara-ing and keeping yourself trapped. |
Tuy nhiên, những học giả này đã hiểu sai hai điểm quan trọng về lời dạy của Đức Phật. Đầu tiên là không phải luân hồi hay Niết- bàn là một nơi chốn. Luân hồi là một quá trình tạo ra các địa điểm, thậm chí toàn bộ thế giới, (điều này được gọi là tái sanh) và sau đó lang thang qua vòng luân hồi (được gọi là sinh). Niết-bàn là sự kết thúc của quá trình này. Bạn có thể ở hai nơi cùng một lúc - hoặc thậm chí phát triển ý thức về bản thân đến mức bạn có thể chiếm hết mọi nơi cùng một lúc - nhưng bạn không thể nuôi dưỡng một quá trình và trải nghiệm kết thúc của nó cùng một lúc. Bạn đang nuôi dưỡng sinh tử hoặc bạn không. Nếu bạn cảm thấy cần phải tự do đi qua cả luân hồi và Niết-bàn, bạn chỉ đơn giản là đang tham gia vào sinh tử nhiều hơn và giữ bản thân bị mắc kẹt. |
The second point is that nirvana, from the very beginning, was realized through unestablished consciousness — one that doesn't come or go or stay in place. There's no way that anything unestablished can get stuck anywhere at all, for it's not only non-localized but also undefined. |
Điểm thứ hai, Niết-bàn, ngay từ đầu, đã được nhận ra thông qua ý thức không được thiết lập - một ý thức không đến hay đi hay ở tại chỗ. Không có cách nào mà bất kỳ thứ gì chưa được xác định có thể bị mắc kẹt ở bất kỳ đâu, vì nó không chỉ không bản địa hóa mà còn không được xác định. |
The idea of a religious ideal as lying beyond space and definition is not exclusive to the Buddha's teachings, but issues of locality and definition, in the Buddha's eyes, had a specific psychological meaning. This is why the non-locality of nirvana is important to understand. |
Quan niệm về một lý tưởng tôn giáo như nằm ngoài không gian và sự xác định thì không chỉ có trong giáo lý của Đức Phật, nhưng các vấn đề về nơi chốn và sự xác định, trong mắt Đức Phật, có một ý nghĩa tâm lý cụ thể. Đây là lý do tại sao Niết-bàn không có nơi chốn là điều quan trọng cần hiểu. |
Just as all phenomena are rooted in desire, consciousness localizes itself through passion. Passion is what creates the "there" on which consciousness can land or get established, whether the "there" is a form, feeling, perception, thought-construct, or a type of consciousness itself. Once consciousness gets established on any of these aggregates, it becomes attached and then proliferates, feeding on everything around it and creating all sorts of havoc. Wherever there's attachment, that's where you get defined as a being. You create an identity there, and in so doing you're limited there. Even if the "there" is an infinite sense of awareness grounding, surrounding, or permeating everything else, it's still limited, for "grounding" and so forth are aspects of place. Wherever there's place, no matter how subtle, passion lies latent, looking for more food to feed on. |
Cũng giống như tất cả hiện tượng đều bắt nguồn từ dục ái, ý thức tự xác định vị trí bản thân thông qua dục ái. Dục ái là thứ tạo ra "ở đó" mà trên đó ý thức có thể bám vào hoặc tạo nên, cho dù "ở đó" là một trong các, sắc, thọ, tưởng, hành, thức hay là một loại ý thức về cái tôi. Một khi ý thức được thiết lập trên bất kỳ uẩn nào trong số này, nó trở nên gắn bó và sau đó sinh sôi nảy nở, và sự bồi dưỡng mọi thứ xung quanh nó, tạo ra đủ loại tàn phá. Bất cứ nơi nào có sự dính mắc, đó là nơi bạn được định nghĩa là một thực thể. Bạn tạo ra một đặc tính; "ở đó" và khi làm như vậy, bạn sẽ bị giới hạn ở đó. Ngay cả khi "ở đó" là một cảm giác nhận thức vô hạn nằm trên cái dính mắc vào, xung quanh hoặc xuyên qua mọi thứ khác, thì nó vẫn có giới hạn cho sư "dính mắc", v.v. là các khía cạnh của địa điểm. Bất cứ nơi đâu, dù tinh tế đến đâu, dục ái vẫn tiềm ẩn, tìm kiếm thêm sự trưởng dưỡng để sinh tồn. |
If, however, the passion can be removed, there's no more "there" there. One sutta illustrates this with a simile: the sun shining through the eastern wall of a house and landing on the western wall. If the western wall, the ground beneath it, and the waters beneath the ground were all removed, the sunlight wouldn't land. In the same way, if passion for form, etc., could be removed, consciousness would have no "where" to land, and so would become unestablished. This doesn't mean that consciousness would be annihilated, simply that — like the sunlight — it would now have no locality. With no locality, it would no longer be defined. |
Tuy nhiên, nếu niềm ái dục có thể bị loại bỏ, thì sẽ không còn "ở đó" nữa. Một bài kinh nói về điều này bằng một ẩn dụ: mặt trời chiếu qua bức tường phía đông của một ngôi nhà và chiếu xuống bức tường phía tây. Nếu bức tường phía tây, mặt đất bên dưới nó và nước bên dưới mặt đất đều không còn, thì ánh sáng mặt trời sẽ không chiếu chiếu vào đâu. Tương tự như vậy, nếu ái dục về sắc, v.v., có thể bị loại bỏ, ý thức sẽ không có "nơi" bám vào, và vì vậy sẽ trở nên không vững chắc. Điều này không có nghĩa là ý thức sẽ bị tiêu diệt, chỉ đơn giản là - giống như ánh sáng mặt trời - nó sẽ không còn vị trí. Không có vị trí, nó sẽ không còn được xác định. |
This is why the consciousness of nirvana is said to be "without surface" (anidassanam), for it doesn't land. Because the consciousness-aggregate covers only consciousness that is near or far, past, present, or future — i.e., in connection with space and time — consciousness without surface is not included in the aggregates. It's not eternal because eternity is a function of time. And because non-local also means undefined, the Buddha insisted that an awakened person — unlike ordinary people — can't be located or defined in any relation to the aggregates in this life; after death, he/she can't be described as existing, not existing, neither, or both, because descriptions can apply only to definable things. |
Đây là lý do tại sao ý thức về niết bàn được cho là "vô vi" (anidassanam), vì nó không hiện hữu. Bởi vì thức uẩn chỉ bao hàm ý thức ở gần hay xa, quá khứ, hiện tại hoặc tương lai - tức là liên hệ với không gian và thời gian - thức không có bề mặt không được bao gồm trong các uẩn. Nó không phải là vĩnh cửu bởi vì vĩnh cửu là của thời gian. Và bởi vì phi địa phương cũng có nghĩa là không xác định, Đức Phật nhấn mạnh một người thức tỉnh - không giống như người thường - không thể định vị hoặc xác định trong bất kỳ mối quan hệ nào với các uẩn trong cuộc sống này; sau khi chết, anh ấy / cô ấy không thể được mô tả là hiện hữu, không hiện hữu, hoặc cả hai, bởi vì sự mô tả chỉ có thể áp dụng cho những thứ có thể xác định được. |
The essential step toward this non-localized, undefined realization is to cut back on the proliferations of consciousness. This first involves contemplating the drawbacks of keeping consciousness trapped in the process of feeding. This contemplation gives urgency to the next steps: bringing the mind to oneness in concentration, gradually refining that oneness, and then dropping it to zero. The drawbacks of feeding are most graphically described in SN 12.63, A Son's Flesh. The process of gradually refining oneness is probably best described in MN 121, The Lesser Discourse on Emptiness, while the drop to zero is best described in the Buddha's famous instructions to Bahiya: "'In reference to the seen, there will be only the seen. In reference to the heard, only the heard. In reference to the sensed, only the sensed. In reference to the cognized, only the cognized.' That is how you should train yourself. When for you there will be only the seen in reference to the seen, only the heard in reference to the heard, only the sensed in reference to the sensed, only the cognized in reference to the cognized, then, Bahiya, there is no you in connection with that. When there is no you in connection with that, there is no you there. When there is no you there, you are neither here nor yonder nor between the two. This, just this, is the end of stress." |
Biện pháp cần thiết đối với không bản địa, không xác định này là cắt giảm sự gia tăng của ý thức. Điều này đầu tiên liên quan đến việc xem xét những hạn chế của việc giữ cho ý thức nằm yên trong quá trình tu thiền. Sự chiêm nghiệm này mang lại sự cấp bách cho các bước tiếp theo: đưa tâm về trạng thái nhất quán trong sự tập trung, dần dần điều chỉnh sự tập trung đó, và sau đó giảm nó xuống thành số không. Hạn chế thức thực được mô tả bằng hình ảnh nhiều nhất trong kinh SN 12.63, Thịt của A Sơn. Quá trình tu tập dần dần tính nhất thể có lẽ được mô tả rõ nhất trong MN 121,, Kinh Tiểu Không. Trong khi sự giảm xuống thành số không được mô tả rõ nhất trong lời dạy nổi tiếng của Đức Phật đối với Bahiya: "'Liên quan đến cái đã thấy, sẽ chỉ có cái được thấy . Liên quan đến cái đã nghe, chỉ cái được nghe. Liên quan đến cái được cảm nhận, chỉ cái được cảm nhận. Liên quan đến cái được nhận biết, chỉ cái được nhận biết. ' Đó là cách bạn nên tu tập. Khi đối với bạn, sẽ chỉ có cái nhìn thấy trong tham chiếu đến cái đã thấy, chỉ cái nghe được tham chiếu đến cái đã nghe, chỉ cái được cảm nhận liên quan đến cái được cảm nhận, chỉ cái được nhận biết liên quan đến cái được nhận biết, thế thì, Bahiya, không có bạn trong mối liên hệ với điều đó. Một khi không có bạn trong mối liên hệ với điều đó, không có bạn ở đó. Khi không có bạn ở đó, bạn không ở đây, cũng không phải ở giữa hai người. Điều này, chỉ đây, là sự kết thúc của phiền não. " |
With no here or there or between the two, you obviously can't use the verb "enter" or "reach" to describe this realization, even metaphorically. Maybe we should make the word nirvana into a verb itself: "When there is no you in connection with that, you nirvana." That way we can indicate that unbinding is an action unlike any other, and we can head off any mistaken notion about getting "stuck" in total freedom. |
Không có ở đây hoặc ở đó hoặc giữa hai, bạn rõ ràng không thể sử dụng động từ "nhập vào" hoặc "đạt tới" để mô tả nhận thức này, thậm chí là ẩn dụ. Có lẽ chúng ta nên biến từ nirvana thành một động từ chính nó: "Khi bạn không có mối ràng buộc nào với điều đó, bạn là niết bàn." Bằng cách đó, chúng ta có thể chỉ ra rằng hủy sự ràng buộc là một hành động không giống bất kỳ hành động nào khác và chúng ta có thể loại bỏ bất kỳ quan niệm sai lầm nào về việc bị "mắc kẹt" trong sự tự do hoàn toàn. |
Related Readings"All beings subsist on nutriment." [Khp 4] |
Những bài liên hệ"Tất cả chúng sanh tồn tại là do dinh dưỡng." [Khp 4] |
Then Ven. Radha went to the Blessed One and, on arrival, having bowed down to him sat to one side. As he was sitting there he said to the Blessed One: "'A being,' lord. 'A being,' it's said. To what extent is one said to be 'a being'?" |
Rồi Tôn giả Ràdha đi đến Thế Tôn, sau khi đến đãnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ràdha bạch Thế Tôn: - "Chúng sanh, chúng sanh", bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, được gọi là chúng sanh? |
"Any desire, passion, delight, or craving for form, Radha: when one is caught up (satta) there, tied up (visatta) there, one is said to be 'a being (satta).' |
Này Ràdha, dục nào (chanda), tham nào, hỷ nào, khát ái nào đối với sắc, triền phược ở đấy, triền miên ở đấy, do vậy gọi là chúng sanh (sattà). |
"Any desire, passion, delight, or craving for feeling... perception... fabrications... consciousness, Radha: when one is caught up there, tied up there, one is said to be 'a being.'" — SN 23.2 |
-Dục nào (chanda), tham nào, hỷ nào, khát ái nào đối với thọ... -...tưởng... -...các hành... Dục nào, tham nào, hỷ nào, khát ái nào đối với thức, triền phược ở đấy, triền miên ở đấy, do vậy gọi là chúng sanh. — SN 23.2 |
"If one stays obsessed with form, that's what one is measured (limited) by. Whatever one is measured by, that's how one is classified. |
Nếu thiên chấp sắc, bạch Thế Tôn, với sắc, người ta được đo lường. Với cái gì người ta được đo lường, với cái ấy, người ta được xưng danh. |
"If one stays obsessed with feeling... "If one stays obsessed with perception... "If one stays obsessed with fabrications... "If one stays obsessed with consciousness, that's what one is measured by. Whatever one is measured by, that's how one is classified. "But if one doesn't stay obsessed with form, that's not what one is measured by. Whatever one isn't measured by, that's not how one is classified. "If one doesn't stay obsessed with feeling... "If one doesn't stay obsessed with perception... "If one doesn't stay obsessed with fabrications... "If one doesn't stay obsessed with consciousness, that's not what one is measured by. Whatever one isn't measured by, that's not how one is classified." — SN 22.36 |
"Nếu thiên chấp thọ... "-Nếu thiên chấp tưởng...... "-Nếu thiên chấp hành...... "Nếu thiên chấp thức,với thức, người ta được đo lường. Với cái gì người ta được đo lường, với cái ấy, người ta được xưng danh. "But if one doesn't stay obsessed with form, that's not what one is measured by. Whatever one isn't measured by, that's not how one is classified. "If one doesn't stay obsessed with feeling... "If one doesn't stay obsessed with perception... "If one doesn't stay obsessed with fabrications... "If one doesn't stay obsessed with consciousness, that's not what one is measured by. Whatever one isn't measured by, that's not how one is classified." — SN 22.36 |
"If one stays obsessed with form, that's what one is measured (limited) by. |
Nếu một người tham luyến sắc, đó là những gì người đó được đo lường (giới hạn). |
"One attached is unreleased; one unattached is released. Should consciousness, when standing, stand attached to (a physical) form, supported by form (as its object), established on form, watered with delight, it would exhibit growth, increase, & proliferation. |
"Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh." |
[Similarly with feeling, perception, and fabrications.] |
[Tương tự với thọ, tưởng và hành.] |
"If a monk abandons passion for the property of form... feeling... perception... fabrications... consciousness, then owing to the abandonment of passion, the support is cut off, and there is no base for consciousness. Consciousness, thus unestablished, not proliferating, not performing any function, is released. Owing to its release, it is steady. Owing to its steadiness, it is contented. Owing to its contentment, it is not agitated. Not agitated, he (the monk) is totally unbound right within. He discerns that 'Birth is ended, the holy life fulfilled, the task done. There is nothing further for this world.'" — SN 22.53 |
-Này Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của sắc không hiện hữu. -Này Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... -Này Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với tưởng giới... -Này Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với hành giới...Đối với thức giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Không có chỗ y chỉ như vậy, thức không tăng thịnh, không có hành động, được giải thoát; do giải thoát nên được kiên trú; do kiên trú nên được tri túc; do tri túc nên không có ưu não; do không có ưu não nên tự mình cảm thấy tịch tịnh hoàn toàn. Vị ấy biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa". — SN 22.53 |
"What one intends, what one arranges, and what one obsesses about: This is a support for the stationing of consciousness. There being a support, there is a landing of consciousness. When that consciousness lands and grows, there is the production of renewed becoming in the future. When there is the production of renewed becoming in the future, there is future birth, aging & death, sorrow, lamentation, pain, distress, & despair. Such is the origination of this entire mass of suffering & stress. |
-"Này các Tỷ-kheo, cái chúng ta tư niệm, tư lường, có thầm ý, cái ấy trở thành sở duyên cho thức an trú. Khi nào sở duyên có mặt thời thức có an trú. Do thức ấy an trú, tăng trưởng, nên trong tương lai, tái hữu sanh khởi. Do sanh khởi tái hữu có mặt trong tương lai, nên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não sanh khởi. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này." |
"If one doesn't intend and doesn't arrange, but one still obsesses [about something], this is a support for the stationing of consciousness. There being a support, there is a landing of consciousness. When that consciousness lands and grows, there is the production of renewed becoming in the future. When there is the production of renewed becoming in the future, there is future birth, aging & death, sorrow, lamentation, pain, distress, & despair. Such [too] is the origination of this entire mass of suffering & stress. |
Này các Tỷ-kheo, nếu không có tư niệm, không có tư lường nhưng nếu có thầm ý, (canuseti), cái ấy trở thành sở duyên cho thức an trú. Khi nào sở duyên có mặt thời thức có an trú. Do thức ấy an trú, tăng trưởng, nên trong tương lai, tái hữu sanh khởi. Do sanh khởi tái hữu có mặt trong tương lai, nên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não sanh khởi. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này. |
"But when one doesn't intend, arrange, or obsess [about anything], there is no support for the stationing of consciousness. There being no support, there is no landing of consciousness. When that consciousness doesn't land & grow, there is no production of renewed becoming in the future. When there is no production of renewed becoming in the future, there is no future birth, aging & death, sorrow, lamentation, pain, distress, or despair. Such is the cessation of this entire mass of suffering & stress." — SN 12.38 |
Này các Tỷ-kheo, nếu chúng ta không có tư niệm, không có tư lường, không có thầm ý, thời không có sở duyên cho thức an trú. Khi nào sở duyên không có mặt thời thức không an trú. Do thức ấy không an trú và không tăng trưởng, nên trong tương lai tái hữu không sanh khởi. Do sanh khởi tái hữu không có mặt trong tương lai, nên sanh, già chết, sầu, bi, ưu, não được đoạn diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này. — SN 12.38 |
"There are these four nutriments for the maintenance of beings who have come into being or for the support of those in search of a place to be born. Which four? Physical food, gross or refined; contact as the second, intellectual intention the third, and consciousness the fourth. These are the four nutriments for the maintenance of beings who have come into being or for the support of those in search of a place to be born. |
"There are these four nutriments for the maintenance of beings who have come into being or for the support of those in search of a place to be born. Which four? -Physical food, gross or refined; -Contact as the second, -Intellectual intention the third, -And consciousness the fourth. These are the four nutriments for the maintenance of beings who have come into being or for the support of those in search of a place to be born. |
"Where there is passion, delight, & craving for the nutriment of physical food, consciousness lands there and grows. Where consciousness lands and grows, name-&-form alights. Where name-&-form alights, there is the growth of fabrications. Where there is the growth of fabrications, there is the production of renewed becoming in the future. Where there is the production of renewed becoming in the future, there is future birth, aging, & death, together, I tell you, with sorrow, affliction, & despair. |
này các Tỷ-kheo, nếu đối với đoàn thực, có tham, có hỷ, có ái, thời có thức an trú, tăng trưởng. Chỗ nào có thức an trú, tăng trưởng chỗ ấy có danh sắc sanh. Chỗ nào có danh sắc sanh, chỗ ấy có các hành tăng trưởng. Chỗ nào có các hành tăng trưởng, chỗ ấy có hữu tái sanh trong tương lai. Chỗ nào có hữu tái sanh trong tương lai, chỗ ấy có sanh, già chết trong tương lai. Chỗ nào có sanh, già chết trong tương lai, Ta nói chỗ ấy có sầu, có khổ, có não. |
[Similarly with the nutriment of contact, intellectual intention, and consciousness.] |
[Tương tự như vậy với nếu đối với xúc thực.., nếu đối với tư niệm thực...] |
"Just as — when there is dye, lac, yellow orpiment, indigo, or crimson — a dyer or painter would paint the picture of a woman or a man, complete in all its parts, on a well-polished panel or wall, or on a piece of cloth; in the same way, where there is passion, delight, & craving for the nutriment of physical food... contact... intellectual intention... consciousness, consciousness lands there and grows. Where consciousness lands and grows, name-&-form alights. Where name-&-form alights, there is the growth of fabrications. Where there is the growth of fabrications, there is the production of renewed becoming in the future. Where there is the production of renewed becoming in the future, there is future birth, aging, & death, together, I tell you, with sorrow, affliction, & despair. |
-Ví như, này các Tỷ-kheo, một người thợ nhuộm hay một người thợ vẽ. Nếu có thuốc nhuộm hay sơn màu nghệ, màu xanh, hay màu đỏ, có một tấm bảng khéo đánh bóng, một bức tường hay tấm vải, có thể phác họa hình người đàn bà hay người đàn ông có đầy đủ chân tay. -Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, nếu đối với đoàn thực, có tham, có hỷ, có ái, thời có thức an trú, tăng trưởng. Chỗ nào có thức an trú, tăng trưởng chỗ ấy có danh sắc sanh. Chỗ nào có danh sắc sanh, chỗ ấy có các hành tăng trưởng. Chỗ nào có các hành tăng trưởng, chỗ ấy có hữu tái sanh trong tương lai. Chỗ nào có hữu tái sanh trong tương lai, chỗ ấy có sanh, già chết trong tương lai. Chỗ nào có sanh, già chết trong tương lai, Ta nói chỗ ấy có sầu, có khổ, có não. |
Where there is no passion for the nutriment of physical food, where there is no delight, no craving, then consciousness does not land there or grow. Where consciousness does not land or grow, name-&-form does not alight. Where name-&-form does not alight, there is no growth of fabrications. Where there is no growth of fabrications, there is no production of renewed becoming in the future. Where there is no production of renewed becoming in the future, there is no future birth, aging, & death. That, I tell you, has no sorrow, affliction, or despair. |
-Này các Tỷ-kheo, nếu đối với đoàn thực không có tham, không có hỷ, không có ái, thời không có thức an trú, tăng trưởng. Chỗ nào không có thức an trú, tăng trưởng, chỗ ấy không có danh sắc sanh. Chỗ nào không có danh sắc sanh, chỗ ấy không có các hành tăng trưởng. Chỗ nào không có các hành tăng trưởng, chỗ ấy không có hữu tái sanh trong tương lai. Chỗ nào không có hữu tái sanh trong tương lai, chỗ ấy không có sanh, già, chết trong tương lai. Chỗ nào không có sanh, già, chết trong tương lai, Ta nói rằng chỗ ấy không có sầu, không có khổ, không có não. |
Where there is no passion for the nutriment of consciousness, where there is no delight, no craving, then consciousness does not land there or grow. Where consciousness does not land or grow, name-&-form does not alight. Where name-&-form does not alight, there is no growth of fabrications. Where there is no growth of fabrications, there is no production of renewed becoming in the future. Where there is no production of renewed becoming in the future, there is no future birth, aging, & death. That, I tell you, has no sorrow, affliction, or despair.. |
Này các Tỷ-kheo, nếu đối với thức thực, không có tham, không có hỷ, không có ái, thời không có thức an trú, tăng trưởng. Chỗ nào không có thức an trú, tăng trưởng, chỗ ấy không có danh sắc sanh. Chỗ nào không có danh sắc sanh, chỗ ấy không có các hành tăng trưởng. Chỗ nào không có các hành tăng trưởng, chỗ ấy không có hữu tái sanh trong tương lai. Chỗ nào không có hữu tái sanh trong tương lai, chỗ ấy không có sanh, già chết trong tương lai. Chỗ nào không có sanh, già chết trong tương lai, Ta nói rằng chỗ ấy không có sầu, không có khổ, không có não. |
[Similarly with the nutriment of contact, intellectual intention, and consciousness.] |
[Tương tự như vậy, đoàn thực với xúc, tưởng và thức.] |
"Just as if there were a roofed house or a roofed hall having windows on the north, the south, or the east. When the sun rises, and a ray has entered by way of the window, where does it land?" |
Ví như, này các Tỷ-kheo, một ngôi nhà có mái hay một dãy hành lang có mái, có cửa sổ phía Bắc, phía Nam, hay phía Đông. Khi mặt trời mọc lên, ánh sáng ngang qua cửa sổ chiếu vào, thời chiếu vào chỗ nào? |
"On the western wall, lord." |
"Bạch Thế Tôn, chiếu vào tường phía Tây." |
"And if there is no western wall, where does it land?" |
-"Này các Tỷ-kheo, nếu không có tường phía Tây, thời chiếu vào chỗ nào?" |
"On the ground, lord." |
-" Bạch Thế Tôn, chiếu trên đất." |
"And if there is no ground, where does it land?" |
-"Này các Tỷ-kheo, nếu không có đất, thời chiếu vào chỗ nào?" |
"On the water, lord." |
-" Bạch Thế Tôn, chiếu trên nước." |
"And if there is no water, where does it land?" |
-"Này các Tỷ-kheo, nếu không có nước, thời chiếu vào chỗ nào?" |
"It does not land, lord." |
Bạch Thế Tôn, không có chiếu ở đâu cả." |
"In the same way, where there is no passion for the nutriment of physical food... contact... intellectual intention... consciousness, where there is no delight, no craving, then consciousness does not land there or grow. Where consciousness does not land or grow, name-&-form does not alight. Where name-&-form does not alight, there is no growth of fabrications. Where there is no growth of fabrications, there is no production of renewed becoming in the future. Where there is no production of renewed becoming in the future, there is no future birth, aging, & death. That, I tell you, has no sorrow, affliction, or despair." — SN 12.64 |
-Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, nếu đối với đoàn thực không có tham, không có hỷ, không có ái. .. -Này các Tỷ-kheo, nếu đối với xúc thực... -Này các Tỷ-kheo, nếu đối với tư niệm thực... -Này các Tỷ-kheo, nếu đối với thức thực, không có tham, không có hỷ, không có ái, thời không có thức an trú. Chỗ nào không có thức an trú, chỗ ấy không có danh sắc sanh. Chỗ nào không có danh sắc sanh, chỗ ấy không có các hành tăng trưởng. Chỗ nào không có các hành tăng trưởng, chỗ ấy không có hữu tái sanh trong tương lai. Chỗ nào không có hữu tái sanh trong tương lai, chỗ ấy không có sanh, già chết trong tương lai. Chỗ nào không có sanh, già chết trong tương lai, Ta nói rằng chỗ ấy không có sầu, không có khổ, không có não. SN 12.64 |
"One neither fabricates nor mentally fashions for the sake of becoming or un-becoming. This being the case, one is not sustained by anything in the world (doesn't cling to anything in the world). Unsustained, one is not agitated. Unagitated, one is totally unbound right within. One discerns that 'Birth is ended, the holy life fulfilled, the task done. There is nothing further for this world.' |
Do không tác thành, không suy tưởng đến hữu hay phi hữu, vị ấy không chấp thủ một sự vật gì ở đời; chấp thủ không quấy rối vị ấy; do chấp thủ không quấy rối vị ấy, vị ấy tự chứng Niết-bàn, và vị ấy tuệ tri: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những điều nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái như thế này nữa". |
"Sensing a feeling of pleasure, one discerns that it is fleeting, not grasped at, not relished. Sensing a feeling of pain... Sensing a feeling of neither pleasure nor pain, one discerns that it is fleeting, not grasped at, not relished. Sensing a feeling of pleasure, one senses it disjoined from it. Sensing a feeling of pain... Sensing a feeling of neither pleasure nor pain, one senses it disjoined from it." — MN 140 |
Nếu vị ấy cảm giác lạc thọ, vị ấy tuệ tri: "Thọ ấy là vô thường"; vị ấy tuệ tri: "Không nên đắm trước"; vị ấy tuệ tri: "Không phải là đối tượng để hoan hỷ". Nếu vị ấy cảm giác khổ thọ, vi ấy tuệ tri: "Thọ ấy là vô thường"; vị ấy tuệ tri: "Không nên đắm trước"; vị ấy tuệ tri: "Không phải là đối tượng để hoan hỷ". Nếu vị ấy cảm giác bất khổ bất lạc thọ, vị ấy tuệ tri: "Thọ ấy là vô thường"; vị ấy tuệ tri: "Không nên đắm trước"; vị ấy tuệ tri: "Không phải là đối tượng để hoan hỷ". — MN 140 |
Nandaka: "Just as if a skilled butcher or butcher's apprentice, having killed a cow, were to carve it up with a sharp carving knife so that — without damaging the substance of the inner flesh, without damaging the substance of the outer hide — he would cut, sever, & detach only the skin muscles, connective tissues, & attachments in between. Having cut, severed, & detached the outer skin, and then covering the cow again with that very skin, if he were to say that the cow was joined to the skin just as it had been: would he be speaking rightly?" |
Ví như, này các Hiền tỷ, một người đồ tể giết bò thiện xảo hay người đệ tử; sau khi giết con bò, cắt con bò với con dao sắc bén của người đồ tể giết bò, mà không hư hại phần thịt ở trong, không hư hại phần da ngoài, rồi với con dao sắc bén của người đồ tể giết bò, cắt đứt, cắt đoạn, cắt tiệt mọi dây thịt phía trong; dây gân phía trong, dây khớp xương phía trong; sau khi cắt đứt, cắt đoạn, cắt tiệt và sau khi lột da ngoài, lại bao trùm con bò ấy với chính da bò ấy rồi nói : "Con bò này đã được dính liền với da này như trước"; này các Hiền tỷ, nói như vậy có nói một cách chơn chánh không ? " |
"No, venerable sir. Why is that? Because if the skilled butcher or butcher's apprentice, having killed a cow, were to... cut, sever, & detach only the skin muscles, connective tissues, & attachments in between; and... having covered the cow again with that very skin, then no matter how much he might say that the cow was joined to the skin just as it had been, the cow would still be disjoined from the skin." |
– Thưa không, thưa Tôn giả. Vì sao vậy ? Dầu cho, thưa Tôn giả, người đồ tể giết bò thiện xảo ấy hay người đệ tử sau khi giết con bò, cắt con bò với con dao sắc bén của người đồ tể giết bò, mà không hư hại phần thịt ở trong, không hư hại phần da ngoài, rồi với con dao sắc bén của người đồ tể giết bò, cắt đứt, cắt đoạn, cắt tiệt mọi dây thịt phía trong; dây gân phía trong, dây khớp xương phía trong; sau khi cắt đứt, cắt đoạn, cắt tiệt và sau khi lột da ngoài, lại bao trùm con bò ấy với chính da bò ấy lại có thể nói như sau : "Con bò này đã được dính liền với da này như trước, " dầu con bò này đã bị lột ra khỏi da ấy. |
"This simile, sisters, I have given to convey a message. The message is this: The substance of the inner flesh stands for the six internal media; the substance of the outer hide, for the six external media. The skin muscles, connective tissues, & attachments in between stand for passion & delight. And the sharp knife stands for noble discernment — the noble discernment that cuts, severs, & detaches the defilements, fetters, & bonds in between." — MN 146 |
Ta làm ví dụ này, này các Hiền tỷ, là để nêu rõ ý nghĩa. Ở đây, ý nghĩa này như sau : -Chư Hiền tỷ, thịt ở trong là đồng nghĩa với sáu nội xứ. -Chư Hiền tỷ, da ở ngoài là đồng nghĩa với sáu ngoại xứ, -Chư Hiền tỷ, dây thịt phía trong, dây gân phía trong, dây khớp xương phía trong là đồng nghĩa với dục hỷ và tham. -Chư Hiền tỷ, con dao đồ tể giết bò sắc bén là đồng nghĩa với Thánh trí tuệ. Với Thánh trí tuệ này cắt đứt, cắt đoạn, cắt tiệt nội phiền não, nội kiết sử, nội triền phược. — MN 146 |
Gone to the beyond of becoming,
you let go of in front, let go of behind, let go of between. With a heart everywhere let-go, you don't come again to birth & aging. — Dhp 348 |
Buông quá, hiện, tương lai |
Then the Blessed One went with a large number of monks to the Black Rock on the slope of Isigili. From afar he saw Ven. Vakkali lying dead on a couch. Now at that time a smokiness, a darkness was moving to the east, moved to the west, moved to the north, the south, above, below, moved to the intermediate directions. The Blessed One said, "Monks, do you see that smokiness, that darkness...?" "Yes, Lord." |
) Lúc bấy giờ, một đám khói đen, một luồng ám khí đi về phía Ðông, đi về phía Tây, đi về phía Bắc, đi về phía Nam, đi về phía trên, đi về phía dưới, đi về phía bốn góc. 38) Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: -- Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy đám khói đen ấy, .... - Thưa có, bạch Thế Tôn |
"That is Mara, the Evil One. He is searching for the consciousness of Vakkali the clansman: "Where is the consciousness of Vakkali the clansman established?" But, monks, it is through unestablished consciousness that Vakkali the clansman has become totally unbound." — SN 22.87 |
- Ðó là Ác ma, này các Tỷ-kheo, đang đi tìm thức của Thiện nam tử Vakkali và nói: "thức của Thiện nam tử Vakkali an trú tại chỗ nào?" Nhưng này các Tỷ-kheo, với thức không an trú tại một chỗ nào, Thiện nam tử Vakkali đã nhập Niết-bàn một cách hoàn toàn! SN 22.87 |
Upasiva: He who has reached the end: Does he not exist, or is he for eternity free from dis-ease? Please, sage, declare this to me as this phenomenon (dhamma) has been known by you. The Buddha: One who has reached the end has no criterion (limit) by which anyone would say that — for him it doesn't exist. When all phenomena (dhamma) are done away with, all means of speaking are done away with as well. — Sn 5.6 |
Upasiva: Vị đi đến tận cùng, Có phải không hiện hữu, Hay vị ấy thường hằng, Ðạt được sự không bệnh, Lành thay, bậc ẩn sĩ, Hãy trả lời cho con, Có vậy, con hiểu được, Pháp như thật Ngài giảng. The Buddha: Thế Tôn nói như sau: Hỡi U-pa-si-va, Người đi đến tận cùng, Không thể còn ước lượng, Với gì, nói đến nó, Không còn có cái ấy, Khi tất cả các pháp, Ðã được nhổ hẳn lên, Mọi con đường nói phô, Ðược nhổ lên sạch hết. — Sn 5.6 |
"What do you think, Anuradha: Do you regard form as the Tathagata?" "No, lord." "Do you regard feeling as the Tathagata?" "No, lord." "Do you regard perception as the Tathagata?" "No, lord." "Do you regard fabrications as the Tathagata?" "No, lord." "Do you regard consciousness as the Tathagata?" "No, lord." |
"Ông nghĩ thế nào, này Anuràdha, Ông có quán: "Sắc là Như Lai không?"" - "Thưa không, bạch Thế Tôn." "Ông nghĩ thế nào, này Anuràdha, Ông có quán: "- Thọ là Như Lai không?"" - "Thưa không, bạch Thế Tôn." -"Ông nghĩ thế nào, này Anuràdha, Ông có quán: "Sắc là Như Lai không?"" - "Thưa không, bạch Thế Tôn." -"Ông nghĩ thế nào, này Anuràdha, Ông có quán: "Sắc là Như Lai không?"" - "Thưa không, bạch Thế Tôn." "-Ông nghĩ thế nào, này Anuràdha, Ông có quán: thức là Như Lai không?" -" Thưa không, bạch Thế Tôn." |
"What do you think, Anuradha: Do you regard the Tathagata as being in form?... Elsewhere than form?... In feeling?... Elsewhere than feeling?... In perception?... Elsewhere than perception?... In fabrications?... Elsewhere than fabrications?... In consciousness?... Elsewhere than consciousness?" "No, lord." |
Ông nghĩ thế nào, này Anuràdha: -Ông có quán: "Như Lai ở trong sắc không?" - Thưa không, bạch Thế Tôn. - Ông có quán: "Như Lai ở ngoài sắc không"? - Thưa không, bạch Thế Tôn. - Ông có quán: "Như lai ở trong thọ... ở ngoài thọ... - Thưa không, bạch Thế Tôn. - Ông có quán: "Như lai ở trong tưởng... ở ngoài tưởng... - Thưa không, bạch Thế Tôn. - Ông có quán: "Như lai ở trong các hành... ở ngoài các hành... - Thưa không, bạch Thế Tôn. - Ông có quán: "Như lai ở trong thức không"? - Thưa không, bạch Thế Tôn. - Ông có quán: "Như Lai ở ngoài thức không"? - Thưa không, bạch Thế Tôn. |
"What do you think, Anuradha: Do you regard the Tathagata as form-feeling-perception-fabrications-consciousness?" "No, lord." |
- Ông nghĩ thế nào, này Anuràdha, Ông có quán: "Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là Như Lai không"? - "Thưa không, bạch Thế Tôn." |
"Do you regard the Tathagata as that which is without form, without feeling, without perception, without fabrications, without consciousness?" "No, lord." |
-Ông nghĩ thế nào, này Anuràdha, Ông có quán: "Cái phi sắc, phi thọ, phi tưởng, phi hành, phi thức là Như Lai không"? - Thưa không, bạch Thế Tôn. |
"And so, Anuradha — when you can't pin down the Tathagata as a truth or reality even in the present life — is it proper for you to declare, 'Friends, the Tathagata — the supreme man, the superlative man, attainer of the superlative attainment — being described, is described otherwise than with these four positions: The Tathagata exists after death, does not exist after death, both does & does not exist after death, neither exists nor does not exist after death'?" "No, lord." |
Và ở đây, này Anuràdha, ngay trong hiện tại không tìm được một Như Lai thường còn, thường trú, thời có hợp lý chăng khi Ông trả lời: "Này chư Hiền, vị Như Lai nào là bậc Tối thượng nhân, Tối thắng nhân, đã đạt được quả Tối thắng, bậc Như Lai ấy được xem là đã tuyên bố ra ngoài bốn trường hợp như sau: ‘Như Lai tồn tại sau khi chết; Như Lai không tồn tại sau khi chết; Như Lai tồn tại và không tồn tại sau khi chết; Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết’ "? -" Thưa không, bạch Thế Tôn." |
"Very good, Anuradha. Very good. Both formerly & now, it is only stress that I describe, and the cessation of stress." — SN 22.86 |
Lành thay, lành thay, này Anuràdha! Trước kia và nay, này Anuràdha, Ta chỉ tuyên bố khổ và đoạn diệt khổ. — SN 22.86 |
"But, Master Gotama, the monk whose mind is thus released: Where does he reappear?" "'Reappear,' Vaccha, doesn't apply." "In that case, Master Gotama, he does not reappear." "'Does not reappear,' Vaccha, doesn't apply." "...both does & does not reappear." "...doesn't apply." "...neither does nor does not reappear." "...doesn't apply." |
-- Thưa Tôn giả Gotama, một Tỷ-kheo được tâm giải thoát như vậy sanh khởi chỗ nào? -- Sanh khởi, này Vaccha, không có áp dụng. -- Như vậy, Tôn giả Gotama, vị ấy không sanh khởi? -- Không sanh khởi, này Vaccha, không có áp dụng. -- Như vậy, Tôn giả Gotama, vị ấy sanh khởi và không sanh khởi? -- Sanh khởi và không sanh khởi, này Vaccha, không có áp dụng. -- Như vậy, Tôn giả Gotama, vị ấy không sanh khởi và không không sanh khởi? -- Không sanh khởi và không không sanh khởi, này Vaccha, không có áp dụng. |
"How is it, Master Gotama, when Master Gotama is asked if the monk reappears... does not reappear... both does & does not reappear... neither does nor does not reappear, he says, '... doesn't apply' in each case. At this point, Master Gotama, I am befuddled; at this point, confused. The modicum of clarity coming to me from your earlier conversation is now obscured." |
Khi được hỏi: "Tôn giả Gotama, vị Tỷ-kheo được tâm giải thoát như vậy sanh khởi tại chỗ nào?", Tôn giả đáp: "Sanh khởi, này Vaccha, không có áp dụng". Khi được hỏi: "Như vậy, Tôn giả Gotama, vị ấy không sanh khởi?" Tôn giả đáp: "Không sanh khởi, này Vaccha, không có áp dụng". Khi được hỏi: "Như vậy, Tôn giả Gotama, vị ấy sanh khởi và không sanh khởi?", Tôn giả đáp: "Sanh khởi và không sanh khởi, này Vaccha, không có áp dụng". Khi được hỏi: "Như vậy, Tôn giả Gotama, vị ấy không sanh khởi và không không sanh khởi?", Tôn giả đáp: "Không sanh khởi và không không sanh khởi, này Vaccha, không có áp dụng". Thưa Tôn giả Gotama, tôi trở thành vô tri về điểm này, tôi trở thành mê mờ về điểm này, và một số tin tưởng tôi đã có đối với Tôn giả Gotama do các cuộc đàm thoại lúc trước đem lại, nay đã biến mất nơi tôi. |
"Of course you're befuddled, Vaccha. Of course you're confused. Deep, Vaccha, is this phenomenon, hard to see, hard to realize, tranquil, refined, beyond the scope of conjecture, subtle, to-be-experienced by the wise. For those with other views, other practices, other satisfactions, other aims, other teachers, it is difficult to know. That being the case, I will now put some questions to you. Answer as you see fit. How do you construe this, Vaccha: If a fire were burning in front of you, would you know that, 'This fire is burning in front of me'?" "...yes..." |
-- Này Vaccha, thôi vừa rồi, vô tri của Ông! Thôi vừa rồi, mê mờ (của Ông)! Này Vaccha, sâu kín là pháp này, khó thấy, khó giác ngộ, an tịnh, thù thắng, không thể luận bàn, tế nhị, chỉ bậc trí mới hiểu. Thật rất khó cho Ông có thể hiểu được, khi Ông thuộc tri kiến khác, kham nhẫn khác, lý tưởng khác, hành trì khác, đạo sư khác. Và này Vaccha, nay Ta trở lại hỏi Ông. Hãy trả lời nếu Ông kham nhẫn. Này Vaccha, Ông nghĩ thế nào? Nếu một ngọn lửa cháy đỏ trước mặt Ông, Ông có biết: "Ngọn lửa này cháy đỏ trước mặt tôi?" -- Tôn giả Gotama, nếu một ngọn lửa cháy đỏ trước mặt tôi, tôi có biết: "Ngọn lửa này cháy đỏ trước mặt tôi"? |
"And suppose someone were to ask you, Vaccha, 'This fire burning in front of you, dependent on what is it burning?' Thus asked, how would you reply?" |
-- Nhưng nếu, này Vaccha, có người hỏi Ông như sau: "Ngọn lửa này cháy đỏ trước mặt Ông, ngọn lửa này do duyên gì mà cháy đỏ?", nếu được hỏi vậy, này Vaccha, Ông trả lời như thế nào? |
"...I would reply, 'This fire burning in front of me is burning dependent on grass & timber as its sustenance.'" |
-- Thưa Tôn giả Gotama, nếu có người hỏi tôi như sau: "Ngọn lửa này cháy đỏ trước mặt Ông, ngọn lửa này do duyên gì mà cháy đỏ?" |
"If the fire burning in front of you were to go out, would you know that, 'This fire burning in front of me has gone out'?" "...yes..." |
nếu được hỏi vậy, thưa Tôn giả Gotama, tôi sẽ trả lời như sau: "Ngọn lửa cháy đỏ trước mặt tôi, ngọn lửa này cháy đỏ do duyên nhiên liệu cỏ và củi" |
"And suppose someone were to ask you, 'This fire that has gone out in front of you, in which direction from here has it gone? East? West? North? Or south?' Thus asked, how would you reply?" |
-- Này Vaccha, nếu có người hỏi Ông như sau: "Ngọn lửa này đã tắt trước mặt Ông, ngọn lửa ấy từ đây đã đi về phương hướng nào, phương Ðông, phương Tây, phương Bắc, hay phương Nam?", được hỏi vậy, này Vaccha, Ông trả lời thế nào?. |
"That doesn't apply, Master Gotama. Any fire burning dependent on a sustenance of grass & timber, being unnourished — from having consumed that sustenance and not being offered any other — is classified simply as 'out' (unbound)." |
-- Không có thể áp dụng ở đây, Tôn giả Gotama. Vì rằng, này Tôn giả Gotama, ngọn lửa ấy đã cháy vì duyên nhiên liệu cỏ và củi. Khi cỏ và củi ấy hết và vì không có nhiên liệu khác, nên được xem là không có nhiên liệu, đã bị tắt. |
"Even so, Vaccha, any physical form by which one describing the Tathagata would describe him: That the Tathagata has abandoned, its root destroyed, made like a palmyra stump, deprived of the conditions of development, not destined for future arising. Freed from the classification of form, Vaccha, the Tathagata is deep, boundless, hard to fathom, like the sea. 'Reappears' doesn't apply. 'Does not reappear' doesn't apply. 'Both does & does not reappear' doesn't apply. 'Neither reappears nor does not reappear' doesn't apply. |
- Cũng vậy, này Vaccha, do sắc pháp này, nhờ đó mà một người nhận biết Như Lai có thể nhận biết được, sắc pháp ấy đã được Như Lai đoạn diệt, cắt tận gốc rễ, làm cho như thân cây tala không được tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai. Giải thoát khỏi cái gọi là sắc, này Vaccha, là Như Lai, thâm sâu, vô lượng, khó dò đến đáy như đại dương. Khởi lên không có áp dụng, không khởi lên không có áp dụng, khởi lên và không khởi lên không có áp dụng, không khởi lên và không không khởi lên không có áp dụng. |
"Any feeling... Any perception... Any mental fabrication... |
Do tưởng này, nhờ đó mà một người nhận biết Như Lai có thể nhận biết được, tưởng ấy đã được Như Lai đoạn diệt, cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây tala không được tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai. Giải thoát cái gọi là tưởng, này Vaccha, là Như Lai, thâm sâu, vô lượng, khó dò đến đáy đại dương, khởi lên không có áp dụng, không khởi lên không có áp dụng, khởi lên và không khởi lên không có áp dụng, không khởi lên và không không khởi lên không có áp dụng. Do những hành này, nhờ đó mà một người nhận biết Như Lai có thể nhận biết được, các hành ấy đã được Như Lai đoạn diệt, cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây tala không được tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai. Giải thoát những cái gọi là hành, này Vaccha, là Như Lai, thâm sâu, vô lượng khó dò đến đáy đại dương, khởi lên không có áp dụng, không khởi lên không có áp dụng, khởi lên và không khởi lên không có áp dụng, không khởi lên và không không khởi lên, không có áp dụng. |
"Any consciousness by which one describing the Tathagata would describe him: That the Tathagata has abandoned, its root destroyed, made like a palmyra stump, deprived of the conditions of development, not destined for future arising. Freed from the classification of consciousness, Vaccha, the Tathagata is deep, boundless, hard to fathom, like the sea. 'Reappears' doesn't apply. 'Does not reappear' doesn't apply. 'Both does & does not reappear' doesn't apply. 'Neither reappears nor does not reappear' doesn't apply." — MN 72 |
Do thức này, nhờ đó mà một người nhận biết Như Lai có thể nhận biết được, cái thức ấy đã được Như Lai đoạn diệt, cắt đứt được tận gốc rễ, làm cho như thân cây tala không được tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai. Giải thoát cái gọi là thức, này Vaccha, là Như Lai, thâm sâu, vô lượng, khó dò đến đáy như đại dương, khởi lên không có áp dụng, không khởi lên không có áp dụng, khởi lên và không khởi lên không có áp dụng, không khởi lên và không không khởi lên không có áp dụng. — MN 72 |
"Consciousness without surface, without end, luminous all around, does not partake of the solidity of earth, the liquidity of water, the radiance of fire, the windiness of wind, the divinity of devas [and so on through a list of the various levels of godhood to] the allness of the All." — MN 49 |
"Thức là phi sở kiến, không biên tế, chói sáng tất cả , nếu không thể lãnh thọ địa đại ngang qua địa tánh, không thể lãnh thọ thủy đại ngang qua thủy tánh, không thể lãnh thọ hỏa đại ngang qua hỏa tánh, không thể lãnh thọ phong đại ngang qua phong tánh, không thể lãnh thọ chúng sanh ngang qua chúng sanh tánh, không thể lãnh thọ chư Thiên ngang qua chư Thiên tánh [và như vậy thông qua danh sách các các cấp độ của vị thần đến] sự đồng nhất của Tất cả. " — MN 49 |
Consciousness without surface,
without end, luminous all around: Here water, earth, fire, & wind have no footing. Here long & short coarse & fine fair & foul name & form are all brought to an end. With the cessation of [the aggregate of] consciousness each is here brought to an end. — DN 11 |
"Thức là không thể thấy,
vô biên, biến thông hết thảy xứ. Ở đây, địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại không có chân đứng. Ở đây, cũng vậy dài, ngắn, tế, thô, tịnh và bất tịnh. Ở đây danh và sắc tiêu diệt hoàn toàn. Khi thức diệt, ở đây mọi thứ đều diệt tận". — DN 11 |
Not hoarding,
having comprehended food,
their pasture — emptiness
& freedom without sign:
their trail,
like that of birds through space,
can't be traced.
Effluents ended,
independent of nutriment,
their pasture — emptiness
& freedom without sign:
their trail,
like that of birds through space,
can't be traced.
|
Không tích tập tài sản
Ẩm thực chánh tư niệm Tự tại trong hành xứ Không, vô tướng, giải thoát Như chim trên tầng không Hướng đi khó đo đạt Bậc lậu tận đã dứt đâu tham cầu ẩm thực Tự tại trong hành xứ Không, vô tướng, giải thoát Như chim trên tầng không Hướng đi khó đo lường |
Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng. Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại phamdang0308@gmail.com |
Cập nhập ngày:
Thứ Ba 01-12-2020 webmasters: Minh Hạnh & Thiện Pháp, Thủy Tú & Phạm Cương |
| | trở về đầu trang | Home page | |