Teachers are listed below in roughly chronological order. For some notes on the names and titles of Thai monks, see the endnotes.[1]

Danh sách các giảng sư được liệt kê dưới đây theo thứ tự niên đại. Đối với một số ghi chú về tên và chức danh các Tăng sĩ Thái, xem phần ghi chú[1]

From the Kammathana[2] forest tradition:

Sao Kantasilo, Phra Ajaan (1861-1941)
Ajaan Sao and his student Ajaan Mun established the Kammatthana tradition. A true forest-dweller, Ajaan Sao left no written records of his teachings. Another of his students — Phra Ajaan Phut Thaniyo — did, however, record some of them in Ajaan Sao's Teaching: A Reminiscence of Phra Ajaan Sao Kantasilo, giving us a tantalizing glimpse into Ajaan Sao's terse but powerful teaching style.

Truyền thống lâm tăng Kammathana[2]

Ngài Sao Kantasilo, Phra Ajaan (1861-1941)
Ngài Ajaan Sao và vị đệ tử là Ngài Ajaan Mun đã lập lên truyền thống Kammatthana . Thật sự là người sống ẩn cư trong rừng, không có bài giảng nào của Ngài Ajaan Sao được lưu lại. Tuy nhiên, những người đệ tử của Ngài để lại một số bài giảng trong — Phra Ajaan Phut ThaniyoAjaan Sao's Teaching: A Reminiscence of Phra Ajaan Sao Kantasilo, cho chúng ta cái nhìn ngắn gọn nhưng mạnh mẽ trong phong cách giảng dạy của Ngài Ajaan Sao

Mun Bhuridatto, Phra Ajaan (1870-1949)
Ajaan Mun was born in 1870 in Baan Kham Bong, a farming village in Ubon Ratchathani province, northeastern Thailand. Ordained as a Buddhist monk in 1893, he spent the remainder of his life wandering through Thailand, Burma, and Laos, dwelling for the most part in the forest, engaged in the practice of meditation. He attracted an enormous following of students and, together with his teacher, Phra Ajaan Sao Kantasilo Mahathera (1861-1941), established the forest meditation tradition (the Kammatthana tradition) that subsequently spread throughout Thailand and to several countries abroad. He passed away in 1949 at Wat Suddhavasa, Sakon Nakhorn province.

— Adapted from A Heart Released.

A newly revised biography of Ajaan Mun, written by Ajaan Maha Boowa, is available from Wat Pah Baan Taad. For more about Ajaan Mun and the history of the Kammatthana tradition, see the essay "The Customs of the Noble Ones," by Thanissaro Bhikkhu.

Mun Bhuridatto, Phra Ajaan (1870-1949)
Ngài Ajaan Mun sinh năm 1870 tại Baan Kham Bong, một làng quê ở tỉnh Ubon Ratchathani, đông bắc Thailand. Thọ giới Tỳ kheo như một tu sĩ Phật giáo vào năm 1893, Ngài đã dành cả cuộc đời còn lại làm du Tăng qua Thailand, Miến Điện và Lào, hầu hết là ở trong rừng, tu tập thiền định. Ngài đã thu phục một số lớn các thiền sinh và cùng với sư phụ của mình Ngài Phra Ajaan Sao Kantasilo Mahathera (1861-1941), thành lập truyền phái lâm Tăng Kammatthana sau đó phát triển khắp nơi trên đất nước Thái Lan và nhiều quốc gia khác. Ngài viên tịch vào năm 1949 tại chùa Wat Suddhavasa, tỉnh Sak
on Nakhorn .

— Phỏng theo A Heart Released.

Một cuốn tiểu sử mới nhất được sửa đổi của Ngài Ajaan Mun, viết bởi Ngài Ajaan Maha Boowa, có giá trị xuất phát từ Wat Pah Baan Taad. Để biết thêm chi tiết về Ngài Ajaan Mun và lịch sử của truyền phái Kammatthana xem các bài tiểu luận "Phong thái của các vị Thánh," viết bởi Thanissaro Bhikkhu.

Dune Atulo, Phra Ajaan (1888-1983)
Ajaan Dune Atulo was born on October 4, 1888 in Praasaat Village in Muang District, Surin province. At the age of 22 he ordained in the provincial capital. Six years later, disillusioned with his life as an uneducated town monk, he left to study in Ubon Ratchathani, where he befriended Ajaan Singh Khantiyagamo and reordained in the Dhammayut sect. Shortly thereafter, he and Ajaan Singh met Ajaan Mun, who had just returned to the Northeast after many years of wandering. Impressed with Ajaan Mun's teachings and with his deportment, both monks abandoned their studies and took up the wandering meditation life under his guidance. They were thus his first two disciples. After wandering for 19 years through the forests and mountains of Thailand and Cambodia, Ajaan Dune received an order from his ecclesiastical superiors to head a combined study and practice monastery in Surin. It was thus that he took over the abbotship of Wat Burapha, in the middle of the town, in 1934. There he remained until his death in 1983.

— From Gifts He Left Behind.

Dune Atulo, Phra Ajaan (1888-1983)
Ajaan Dune Atulo sanh ngày 4 tháng 10, 1888 tại làng Praasaat huyện Muang, tỉnh Surin. Khi Ngài 22 tuổi Ngài thọ giới Tỳ Kheo tại thủ phủ của tỉnh. Sáu năm sau, Ngài thất vọng về cuộc sống của một vị tu sĩ thành phố không học, Ngài đến Ubon Ratchathani để tu học, nơi đây Ngài làm bạn với Ngài Ajaan Singh Khantiyagamo và thọ giới lại trong giáo phái Dhammayut. Ngay sau đó, Ngài và Ngài Ajaan Singh gặp Ngài Ajaan Mun, người vừa trở về phía Đông Bắc sau nhiều năm du Tăng. Ấn tượng với sự giảng dạy và phong thái Ngài Ajaan Mun, cả hai vị bị bỏ rơi sự nghiên cứu của họ và gia nhập đời sống thiền du tăng dưới sự hướng dẫn của Ngài Ajan Mun. Do vậy hai vị trở thành hai đệ tử đầu tiên của Ngài Ajan Mun. Sau khi làm du tăng trong 19 năm đi qua những khu rừng miền núi Thái Lan và Campuchia, Ngài được đề cử làm vị đứng đầu việc nghiên cứu và tu tập tại tu viện ở Surin. Vào năm 1934 Ngài Ajaan Dune trở thành vị Trụ Trì tu viện Burapha, nằm ngay trung điểm của . Đó là do đó mà ông nắm được abbotship của Wat Burapha, ở giữa thị trấn, trong năm 1934. Cho đến khi Ngài qua đời vào năm 1983.

— Trích dẫn từ Gifts He Left Behind.

Thate Desaransi, Phra Ajaan (1902-1994)
Ajaan Thate was internationally recognized as a master of meditation. In addition to his large following in Thailand, Ajaan Thate has trained many western disciples.

Thate Desaransi, Phra Ajaan (1902-1994)
Ngài Ajaan thate đã được quốc tế công nhận là một bậc thầy về thiền. Ngài có một số lớn người theo tại Thái Lan, Ngài Ajaan thate đã đào tạo được nhiều đệ tử phương Tây.

Lee Dhammadharo, Phra Ajaan (1907-1961)
Ajaan Lee was one of the foremost teachers in the Thai forest ascetic tradition of meditation founded at the turn of the century by his teacher, Phra Ajaan Mun Bhuridatta. His life was short but eventful. Known for his skill as a teacher and his mastery of supranatural powers, he was the first to bring the ascetic tradition out of the forests of the Mekhong basin and into the mainstream of Thai society in central Thailand.

— From The Autobiography of Phra Ajaan Lee.

Lee Dhammadharo, Phra Ajaan (1907-1961)
Ngài Ajaan Lee là một vị Thầy hàng đầu của Thái Lan trong truyền thống lâm tăng tu Thiền khổ hạnh thành lập vào đầu thế kỳ này bởi Sư Phụ của Ngài là Ngài Phra Ajaan Mun Bhuridatta. Đời sống của Ngài ngắn nhưng đầy sự kiện. Được biết đến với khả năng của mình như là một vị Thầy và là người đầu tiên mang truyền thống lâm tăng khổ hạnh trong rừng của lưu vực Mekhong và vào dòng chính của xã hội Thái Lan ở miền trung Thái Lan .

— Trích từ The Autobiography of Phra Ajaan Lee.

Khamdee Pabhaso, Phra Ajaan (1902-1984)

Ajaan Khamdee was born into a farming family in Khon Kaen province in northeastern Thailand. At the age of 22 he ordained at the local temple in line with Thai custom, but was dissatisfied with the type of practice customary at village temples. As a result, in 1928 he reordained in the Dhammayut sect, and in the following year became a student of Ajaan Singh Khantiyagamo, a senior disciple of Ajaan Mun. Taking up the life of a wandering monk, he sought out quiet places in various parts of northeastern Thailand until coming to Tham Phaa Puu (Grandfather Cliff Cave) in Loei province, near the Laotian border, in 1955. Finding it an ideal place to practice, he stayed there for most of the remainder of his life, moving down to the foot of the hill below the cave when he became too old to negotiate the climb.

Well-known as a teacher of strong character and gentle temperament, he attracted a large following of students, both lay and ordained. By the time of his death, a sizable monastery had grown up around him at the foot of Grandfather Cliff.

— From Making the Dhamma Your Own.

Khamdee Pabhaso, Phra Ajaan (1902-1984)

Ngài Ajaan Khamdee được sinh ra trong gia đình nông dân ở tỉnh Khon Kaen đông bắc Thái Lan. Ở tuổi 22, Ngài thọ giới xuất gia tại một ngôi chùa địa phương phù hợp với phong tục Thái, nhưng đã không hài lòng với các tập quán tại chùa làng. Kết quả là, vào năm 1928, Ngài thọ giới lại trong giáo phái Dhammayut, và năm sau trở thành một thiền sinh của Ngài Ajaan Singh Khantiyagamo, một đệ tử của Ngài Ajaan Mun. Trở thành cuộc sống của một tu sĩ du tăng, Ngài đã tìm ra nơi yên tĩnh ở các nơi khác nhau của đông bắc Thái Lan cho đến khi đến Tham Phaa Puu (hang động trong vách núi Grandfather) ở tỉnh Loei, gần biên giới Lào, vào năm 1955. Để tìm kiếm một nơi lý tưởng để tu tập , Ngài đã ở lại đó cho hầu hết các phần còn lại của cuộc đời, sau đó di chuyển xuống chân đồi bên dưới hang động khi Ngài trở thành quá già để leo lên..

Nổi tiếng là một Thiền Sư nhân vật mạnh mẽ và tính khí nhẹ nhàng, Ngài đã thu hút một lượng khổng lồ thiền sinh, hai giới cư sĩ và tu sĩ. Tài thời điểm của cái chết của Ngài, một tu viện khá lớn đã phát triển bên Ngài ngay dưới chân hang đá Grandfather .

— Dựa theo Making the Dhamma Your Own.

Sim Buddhacaro, Phra Ajaan (1909-1992)
Looang Boo Sim Buddhacaro was born on the 26th November 1909 in Sakhon Nakhon Province, North-East Thailand. His parents were farmers and dedicated supporters of the local monastery. At the age of 17 Looang Boo Sim took novice ordination and shortly afterwards became a disciple of the Ajaan Mun. Looang Boo Sim stayed with Ajaan Mun and various of his senior disciples for many years, taking full ordination at the age of 20 at Wat Sri Candaravasa, Khon Kaen.

In later years he was the Abbot of a number of monasteries in various parts of Thailand and was given the ecclesiastical title of Phra Khroo Santivaranana in 1959. In 1967 he established a monastery in the remote mountains of Chiang Dao in Chiang Mai province that remained his residence until his death in 1992.

— Adapted from Simply So.

Sim Buddhacaro, Phra Ajaan (1909-1992)
Ngài Looang Boo Sim Buddhacaro sinh ngày 26 Tháng 11 năm 1909 tại tỉnh Sakhon Nakhon, Đông Bắc Thái Lan. Cha mẹ ông là chủ nông trại và là người hộ trì cho tu viện địa phương. Ở tuổi 17 Ngài Looang Boo Sim thọ giới Sa di và ngay sau đó đã trở thành một đệ tử của Ngài Ajaan Mun. Ngài Looang Boo Sim ở lại với người Thầy của mình Ngài Ajaan Mun và những đệ tử lâu năm của ngài Ajaan Mun trong nhiều năm, năm 20 tuổi thọ giới tỳ kheo tại chùa Wat Sri Candaravasa, Khon Kaen.

Trong những năm sau đó, Ngài là Viện trưởng của một số tu viện ở các thành phố khác nhau của Thái Lan và đã được trao danh hiệu Phra Khroo Santivaranana vào năm 1959. Năm 1967, Ngài thành lập một tu viện ở vùng núi xa xôi của Chiang Dao ở tỉnh Chiang Mai và ở đó cho đến khi Ngài qua đời vào năm 1992.

— phỏng theo Simply So.

Maha Boowa Ñanasampanno, Phra Ajaan (1913-2011)
Venerable Ajaan Maha Boowa was born in Udorn-thani, North-east Thailand in 1913. He became a monk in the customary way at a local monastery and went on to study the Pali language and texts. At this time he also started to meditate but had not yet found a suitable Teacher. Then he caught sight of the Ven. Ajaan Mun and immediately felt that this was someone really special, someone who obviously had achieved something from his Dhamma practice.

After finishing his Grade Three Pali studies he therefore left the study monastery and followed Ven. Ajaan Mun into the forests of N.E. Thailand. When he caught up with Ven. Ajaan Mun, he was told to put his academic knowledge to one side and concentrate on meditation. And that was what he did. He often went into solitary retreat in the mountains and jungle but always returned for help and advice from Ven. Ajaan Mun. He stayed with Ven. Ajaan Mun for seven years, right until the Ven. Ajaan's passing away.

The vigor and uncompromising determination of his Dhamma practice attracted other monks dedicated to meditation and this eventually resulted in the founding of Wat Pa Bahn Tahd, in some forest near the village where he was born. This enabled his mother to come and live as a nun at the monastery.

Ven. Ajaan Maha Boowa is well known for the fluency and skill of his Dhamma talks, and their direct and dynamic approach. They obviously reflect his own attitude and the way he personally practiced Dhamma. This is best exemplified in the Dhamma talks he gives to those who go to meditate at Wat Pa Bahn Tahd. Such talks usually take place in the cool of the evening, with lamps lit and the only sound being the insects and cicadas in the surrounding jungle. He often begins the Dhamma talk with a few moments of stillness — this is the most preparation he needs — and then quietly begins the Dhamma exposition. As the theme naturally develops, the pace quickens and those listening increasingly feel its strength and depth.

The formal Dhamma talk might last from thirty-five to sixty minutes. Then, after a more general talk, the listeners would all go back to their solitary huts in the jungle to continue the practice, to try to find the Dhamma they had been listening about — inside themselves.

— From To the Last Breath.

Maha Boowa Ñanasampanno, Phra Ajaan (1913-2011)
Ngài Ajaan Maha Boowa sinh tại Udorn-thani, Đông Bắc Thái Lan vào năm 1913. Ngài trở thành một tu sĩ theo cách thông thường tại một tu viện địa phương và tiếp tục theo học ngôn ngữ Pali và văn bản. Tại thời điểm này, Ngài cũng bắt đầu thiền định nhưng vẫn chưa tìm thấy vị thiền sư phù hợp. Sau đó, Ngài gặp Thiền Sư Ajaan Mun và ngay lập tức cảm thấy rằng đây là một vị thầy thực sự đặc biệt, một người rõ ràng đã đạt được một cái gì đó từ thực hành giáo pháp của mình.

Sau khi hoàn thành phần học Pali cấp ba Ngài rời tu viện và theo Ngài Ven. Ajaan Mun đi vào khu rừng đông bắc Thái Lan. Khi đã theo kịp với Ven. Ajaan Mun, Ngài được cho biết nên để kiến thức học tập của mình sang một bên và tập trung vào thiền định.

Và Ngài đã thực hành như vậy. Ngài thường nhập thất đơn độc ở vùng núi và rừng rậm nhưng luôn luôn quay trở lại để nhờ sự giúp đỡ và tư vấn của Ven. Ajaan Mun. Ngài ở lại với Ven. Ajaan Mun trong bảy năm, cho đến khi Ven. Ajaan viên tịch.

Sức mạnh và sự quyết tâm kiên quyết thực hành giáo pháp của Ngài đã thu hút các vị tu sĩ tập trú vào tu thiền và điều này dẫn đến sự ra đời của tu viện Wat Pa Bahn Tahd, ở một số khu rừng gần ngôi làng nơi ông sinh ra. Điều này cho phép mẹ Ngài đến và sống như một nữ tu ở tu viện.

Ven. Ajaan Maha Boowa được biết đến với sự lưu loát và kỹ năng thuyết giảng Phật pháp của Ngài, và cách tiếp cận trực tiếp và năng động. Những điều đó là phản ánh thái độ của chínhNgài và cách cá nhân Ngài đã thực hành giáo pháp. Điều này được minh chứng tốt nhất trong các cuộc thuyết giảng giáo pháp Ngài ban cho những ai đến tu thiền tại tu viện Wat Pa Bahn Tahd. Cuộc thuyết giảng như vậy thường diễn ra trong buổi tối mát mẻ, đèn thắp sáng và âm thanh duy nhất là các loài côn trùng và ve sầu trong rừng xung quanh. Ngài thường bắt đầu nói chuyện Phật pháp với vài phút tĩnh lặng - đây là sự tĩnh tâm mà Ngài cần - và sau đó Ngài bắt đầu phần trình bày Giáo Pháp. Đúng như chủ đề tự nhiên phát triển, tốc độ cực hơn và những người nghe càng cảm thấy sức mạnh và chiều sâu của Pháp.

Cuộc Pháp thoại chính có thể kéo dài 35-60 phút. Sau đó, là nói chuyện tổng quát hơn, sau buổi pháp thoại các thiền sinh trở về cốc riêng biệt mình trong khu rừng già để tiếp tục thực hành, để cố gắng tìm Giáo Pháp mà họ đã được nghe - với chính nội tâm của họ.

— Theo To the Last Breath.

Fuang Jotiko, Phra Ajaan (1915-1986)
Ajaan Fuang was one of Ajaan Lee's most devoted students, spending some 24 rains retreats in the company of his renowned teacher. After Ajaan Lee's death, Ajaan Fuang continued on at Wat Asokaram, Ajaan Lee's bustling monastery near Bangkok. A true forest monk at heart, Ajaan Fuang left Wat Asokaram in 1965 in search of greater solitude more conducive to meditation, and ultimately ended up at Wat Dhammasathit in Rayong province, where he lived as abbot until his death in 1986.

— Adapted from Awareness Itself.

Fuang Jotiko, Phra Ajaan (1915-1986)
Ajaan Fuang là một trong những thiền sinh thiền sinh tinh tấn nhất của Ngài Ajaan Lee, ông đã an cư khoảng 24 mùa mưa tại tu viện của người Thầy của mình. Sau khi Ngài Ajaan Lee viên tịch, Ajaan Fuang tiếp tục tu tập tại Wat Asokaram, một tu viện nhộn nhịp của Ngài Ajaan Lee gần Bangkok. Từ trong tâm ông muốn trở thành một vị tu sĩ lâm tăng thật sự , Ajaan Fuang rời tu viện Wat Asokaram vào năm 1965 để tìm kiếm nơi tĩnh lặng để thiền định, và cuối cùng ông đến tu iện Wat Dhammasathit tại tỉnh Rayong, nơi ông đã sống và làm như trụ trì cho đến khi ông qua đời vào năm 1986..

— Dựa theo Awareness Itself.

Chah Subhaddo, Phra Ajaan (1918-1992)

Ajaan Chah was born in 1918 in a village in the northeastern part of Thailand. He became a novice at a young age and received higher ordination at the age of twenty. He followed the austere Forest Tradition for years, living in forests and begging for almsfood as he wandered about on mendicant pilgrimage. He practiced meditation under a number of masters, including Ajaan Mun, who had an indelible influence on Ajaan Chah, giving his meditation the direction and clarity that it lacked. Ajaan Chah later became an accomplished meditation teacher in his own right, sharing his realization of the Dhamma with those who sought it. The essence of the teaching was rather simple: be mindful, don't hang on to anything, let go and surrender to the way things are.

Ajaan Chah's simple yet profound teaching style had a special appeal to Westerners, and in 1975 he established Wat Pah Nanachat, a special training monastery for the growing number of Westerners who sought to practice with him. In 1979 the first of several branch monasteries in Europe was established in Sussex, England by his senior Western disciples (among them Ajaan Sumedho, who is presently senior incumbent at the Amaravati Buddhist Monastery, England). Today there are ten branch monasteries in Europe, Australia, and New Zealand.

Ajaan Chah passed away in January, 1992 following a long illness.

— Adapted from A Tree in a Forest (Chungli, Taiwan: Dhamma Garden, 1994) and Bodhinyana.

Chah Subhaddo, Phra Ajaan (1918-1992)

Ngài Ajahn Chah sinh năm 1918 tại một ngôi làng ở đông bắc Thái Lan. Ngài xuất gia làm sadi ở tuổi còn và thọ giới tỳ kheo ở tuổi hai mươi. Ngài tu theo truyền thống lâm tăng khổ hạnh trong nhiều năm, sống trong rừng và đi khất thực như một vị khất sĩ. Ngài tu tập với một số thiền sư, bao gồm Ngài Ajaan Mun, người đã có một ảnh hưởng không thể xóa nhòa Ajaan Chah, cho thiền định hướng và rõ ràng rằng nó thiếu. Ajaan Chah sau này trở thành một thiền sư tài năng trong cách riêng của mình, chia sẻ nhận thức của ngài về Giáo Pháp với những người đến học. Cách của việc giảng dạy khá đơn giản: hãy chú ý, không dính mắc vào bất cứ điều gì, hãy buông bỏ các sự vật.

Phomg các giảng dạy đơn giản nhưng sâu sắc Ajaan Chah đã có một sức hấp dẫn đặc biệt với người phương Tây, và trong năm 1975, Ngài thành lập tu viện Wat Pah Nanachat, một tu viện đào tạo đặc biệt cho số lượng ngày càng tăng của người Phương Tây đã tìm đến tu tập với Ngài. Vào năm 1979, lần đầu tiên của một số tu viện chi nhánh ở châu Âu được thành lập tại Sussex, Anh bởi các đệ tử phương Tây cao cấp của Ngài (trong đó Ajaan Sumedho, là người đương nhiệm cấp cao hiện tại tu việnAmaravati Buddhist Monastery, England). Ngày hôm nay có các tu viện chi nhánh tại Âu Châu, Úc, và Tân Tây Lan.

Ajaan Chah viên tịch tháng 1, 1992 sau một thời gian bị bịnh.

— Dựa theo A Tree in a Forest (Chungli, Taiwan: Dhamma Garden, 1994) và Bodhinyana.

Suwat Suvaco, Phra Ajaan (1919-2002)
Born on August 29, 1919, Ajaan Suwat ordained at the age of 20 and became a student of Ajaan Funn Acaro two or three years later. He also studied briefly with Ajaan Mun. Following Ajaan Funn's death in 1977, Ajaan Suwat stayed on at the monastery to supervise his teacher's royal funeral and the construction of a monument and museum in Ajaan Funn's honor. In the 1980's Ajaan Suwat came to the United States, where he established four monasteries: one near Seattle, Washington; two near Los Angeles; and one in the hills of San Diego County (Metta Forest Monastery). He returned to Thailand in 1996, and died in Buriram on April 5, 2002 after a long illness.

Suwat Suvaco, Phra Ajaan (1919-2002)
Ajaan Suwat sinh ngày 29 tháng 8 1919, khi 20 tuổi ông thọ giới tỳ kheo và trở thành một thiền sinh củaNgài Ajaan Funn Acaro hai hoặc ba năm sau đó. Ông cũng tu tập một thời gian ngắn với Ngài Ajaan Mun. Sau khi Ngài Ajaan Funn viên tịch vào năm 1977, Ajaan Suwat ở lại tu viện để thọ tang thầy theo phong cách của hoàng gia và xây dựng một đài tưởng niệm và bảo tàng tưởng niệm Ngài Ajaan Funn. Trong năm 1980 Ajaan Suwat đã đến Hoa Kỳ, nơi đây ông thành lập bốn tu viện: một ở gần thành phố Seattle, Washington; hai gần Los Angeles; và một trong những ngọn đồi của Diego County San (Tu viện Metta Forest). Ông trở về Thái Lan vào năm 1996, và chết ở Buriram vào ngày 05 Tháng 4 năm 2002 sau một cơn bệnh dài.

From other Thai traditions:

Kee Nanayon, Upasika (Kor Khao-suan-luang) (1901-1979)
Upasika Kee Nanayon, who wrote under the penname, K. Khao-suan-luang, was one of the foremost woman teachers of Dhamma in modern Thailand. Born in 1901, she started a practice center for women in 1945 on a hill in the province of Rajburi, to the west of Bangkok, where she lived until her death in 1979. Known for the simplicity of her way of life, and for the direct, uncompromising style of her teaching, she had a way with words evident not only in her talks, which attracted listeners from all over Thailand, but also in her poetry, which was widely published.

Các truyền thống Phật giáo khác của Thái Lan:

Kee Nanayon, Upasika (Kor Khao-suan-luang) (1901-1979)
Upasika Kee Nanayon, là người viết dưới bút danh K. Khao-suan-Luông, một trong những thiền sư người nữ quan trọng nhất của Phật giáo tại Thái Lan vào thời hiện đại. Sinh năm 1901, bà thành lập một trung tâm tu tập cho phụ nữ vào năm 1945 trên một ngọn đồi ở tỉnh Rajburi, về phía tây của thành phố Bangkok, nơi bà đã sống cho đến khi bà qua đời vào năm 1979. Bà sống đơn giản, và ngay thẳng, phong cách nghiêm nghị trong cách của giáo huấn của mình, bà đã có một cách nào đó trong lời giảng dạy không chỉ trong các cuộc thuyết giản của mình, mà còn thu hút thính giả từ khắp Thái Lan, trong những bài thơ của bà, được công bố rộng rãi khắp nơi.

Nararatana Rajamanit, Chao Khun (Tryk Dhammavitakko) (1898-1971)
Prior to his ordination, Chao Khun Nararatana was a member of King Rama VI's personal staff, and was so trusted by the king that he was given the rank of Chao Phraya — the highest Thai rank of conferred nobility — when he was only 25. After the king's death in 1926, he ordained at Wat Thepsirin in Bangkok, and remained a monk until passing away from cancer in 1971. From the year 1936 until his death, he never left the wat compound. Even though the wat was one of the most lavishly endowed temples in Bangkok, Chao Khun Nararatana lived a life of exemplary austerity and was well known for his meditative powers. He left no personal students, however, and very few writings.

— From An Iridescence on the Water.

Nararatana Rajamanit, Chao Khun (Tryk Dhammavitakko) (1898-1971)
Trước khi thọ giới, Ngài Chao Khun Nararatana là một thành viên của đội ngũ nhân viên của Vua Rama VI, và đã được nhà vua tin cậy và ban cho thứ hạng của Chao Phraya - thứ hạng cao nhất của Thái Lan trong giới quý tộc khi Ngài mới 25 tuổi. Sau khi nhà vua băng hà vào năm 1926, Ngài xuất gia tại chùa Wat Thepsirin ở Bangkok, và vẫn còn là một tu sĩ cho đến khi qua đời vì bệnh ung thư vào năm 1971. từ năm 1936 cho đến khi qua đời Ngà không bao giờ rời khỏi tu viện Thepsirin. tu viện Thepsirin là một trong những ngôi chùa lộng lẫy nhất ở Bangkok, Ngài Chao Khun Nararatana sống một cuộc sống khắc khổ mẫu mực và cũng được biết đến với sức mạnh thiền định của mình. Tuy nhiên, ông không có học viên nào, và rất ít tác phẩm để lại.

— Từ An Iridescence on the Water.

Notes

1.

The long names and titles of Buddhist monks sometimes bewilder Westerners who are new to these teachings. Once the basic principles and customs are understood, however, the names of Thai monks are easily grasped.

Phra:
"Venerable." An honorific that refers to a monk of any rank or seniority. In informal situations Than ("reverend" or "venerable") is used.
Ajaan, Ajarn, Ajahn, etc.:
"Teacher" or "mentor" (derived from the Pali acariya, "teacher"). This title may be applied to monks and laypeople, alike.
Chao Khun:
One of several ecclesiastical titles conferred upon senior monks selected by the King.
Maha:
A prefix given to a monk who has passed the third level of the standard Pali exams.
Looang Boo, Luang Pu:
"Venerable grandfather". A term of respectful affection applied to a senior monk.
Luang Phaw:
"Venerable father." A term of respectful affection applied to a senior monk.
Upasika:
A female lay-follower of the Buddha. Upasaka is the corresponding term for a male.

If the title "Mahathera" is applied to a monk's name, then the terminal vowel in his name changes. For example: Ajaan Mun Bhuridatto or Ajaan Mun Bhuridatta Mahathera; Ajaan Sao Kantasilo or Ajaan Sao Kantasila Mahathera; etc.

For more on the use of personal titles in Thailand, see "Glossary, Part I: Personal Titles" in The Autobiography of Phra Ajaan Lee.

2.
Kammatthana: Literally, "basis of work" or "place of work." The word refers to the "occupation" of a meditating monk: namely, the contemplation of certain meditation themes by which the forces of defilement (kilesa), craving (tanha), and ignorance (avijja) may be uprooted from the mind. Although every meditator who practices meditation in line with the Buddha's teachings engages in kammatthana, the term is most often used specifically to identify the forest tradition lineage founded by Phra Ajaans Mun and Sao. See the Glossary for more about the general meaning of the word.

For an introduction to the history of the Kammatthana tradition, see the essay "The Customs of the Noble Ones," by Thanissaro Bhikkhu.

See also: "Legends of Somdet Toh," by Thanissaro Bhikkhu.

Chú Thích

1.

Các tên dài và chức danh của nhà sư Phật giáo đôi khi làm người phương Tây những người mới đến với những giáo lý này bối rối. Tuy nhiên, một khi các nguyên tắc và phong tục cơ bản được hiểu, tên của nhà sư Thái có thể dễ dàng nắm bắt.

Phra:
"Hòa thượng." Một danh từ kính cẩn được đề cập đến một vị tu sĩ của bất kỳ cấp bậc hay thâm niên. Trong những tình huống thân mật hơn ("tôn trọng" hoặc "đáng kính") được sử dụng.
Ajaan, Ajarn, Ajahn, etc.:
"Thầy" hay "cố vấn" (trong tiếng Pali acariya, "giáo viên"). Danh từ này có thể được áp dụng cho các tu sĩ và giáo dân, như nhau.
Chao Khun:
Một trong số chức danh giáo hội đã ban cho các tu sĩ cao cấp được lựa chọn của nhà vua.
Maha:
Một tước vị được đặt cho một vị tỳ kheo sau khi đạt thành quả cuộc thi cấp bậc thứ ba ngôn ngữ Pali.
Looang Boo, Luang Pu:
"Venerable grandfather". Một cụm từ dành cho sự kính trọng một vị trưởng lão.
Luang Phaw:
"Venerable father." Cụm từ chỉ cho tình cảm tôn trọng đến một vị trưởng lão.
Upasika:
Cận sự nữ chỉ cho một người nữ cư sĩ - một đệ tử của Đức Phật
Upasaka Cận sự nam chỉ cho một người nam cư sĩ .

Dù tước vị "Trưởng lão" được áp dụng cho tên của một nhà sư, lại được đặt phía cuối. Ví dụ: Ajaan Mun Bhuridatto hoặc Ajaan Mun Bhuridatta Mahathera; Ajaan Sao Kantasilo hoặc Ajaan Sao Kantasila Mahathera; vv

Còn nhiều từ vựng dùng chỉ các chức phận trong Phật giáo Thái Lan, xin vào "Tự Điển Thuật ngữ, Phần I:"Các chức vị" trong bài The Autobiography of Phra Ajaan Lee.

2.
Kammatthana - Nghiệp xứ hay đối tượng tu tập: Nghĩa là "cơ sở của việc tu tập" hoặc "địa điểm của việc tu tập." Cụm từ chỉ về "đề mục thiền" của một nhà sư tu tập thiền định: cụ thể là, sự suy ngẫm về các chủ đề thiền định nhất định mà theo đó các hiền não (kilesa), tham ái (taṇhā), và vô minh (avijja) có thể được bứng ra khỏi tâm. Mặc dù mỗi hành giả thực hành thiền định, phù hợp với lời dạy của đức Phật thuyết giảng trong kammatthana, thuật ngữ này thường được sử dụng đặc biệt để xác định dòng truyền thừa truyền thống lâm tăng được thành lập bởi Phra Ajaans Mun và Sao. Xem Bảng thuật ngữ để biết thêm về ý nghĩa chung của từ. Glossary để biết thêm ý nghĩa của từ này.

Để biết thêm về đề mục thiền Kammatthana hãy đọc bài "The Customs of the Noble Ones," by Thanissaro Bhikkhu.

và coi: "Legends of Somdet Toh," by Thanissaro Bhikkhu.

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

  Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại phamdang0308@gmail.com
Cập nhập ngày: Thứ Tư 16-12-2015

Kỹ thuật trình bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

 | | trở về đầu trang | Home page |