Several months ago I went for a two-week retreat to a hermitage in the low country highly respected for the austere, meditative life of its monks. Each day a different group of dayakas (donors) comes to the monastery bringing almsfood, often from remote towns and villages. They arrive the previous evening, prepare an early breakfast which is sent up to the refectory, and then, in the forenoon, offer alms directly to the monks when they come down on alms round. After the other monks have collected their food and gone back up, one elder stays behind to give the Refuges and Precepts, preach a short sermon, and conduct the dedication of merit.

Mấy tháng trước tôi đến tham dự một khóa nhập thất tu khổ hạnh hai tuần ở một đất nước đời sống nghèo nhưng có sự tôn trọng cuộc sống khổ hạnh, thiền định của các tu sĩ. Mỗi ngày, một nhóm các thí chủ khác nhau mang đến tu viện thực phẩm cúng dường, thường từ các thị trấn và làng mạc xa xôi. Họ đến vào tối hôm trước, chuẩn bị bữa ăn sáng được gửi đến nhà ăn của tu viện, và sau đó, vào buổi trước ngọ, thực phẩm cúng dường đến các vị tu sĩ khi họ đi khất thực. Sau khi các nhà sư khác đã thu thập thức ăn của họ và quay trở lại, vị trưởng lão ở lại để làm lễ Quy Y và Giới Luật cho những người thí chủ, giảng một bài pháp ngắn, và thực hiện sự cống hiến công đức.

One day during my retreat I noticed some of the male dayakas behaving rather oddly near the abbot's quarters. I asked my friend, a German monk, about their strange behavior, and the explanation he gave me jolted my mind. "They were drunk," he told me. But that wasn't all. He continued: "The only thing unusual about yesterday's incident was that the men had gotten drunk early in the day. Usually they put on their best behavior until the formalities are done, then they break out the bottles."

Một ngày trong thời gian nhập thất của tôi, tôi nhận thấy một số nam thí chủ có hành vi khá lạ lùng gần khu nhà của vị trụ trì. Tôi hỏi bạn tôi, một nhà sư người Đức, về hành vi kỳ lạ của họ, và lời giải thích của vị Sư này làm tôi choáng váng. "Họ say rượu,". Nhưng đó không phải là tất cả. Sư tiếp tục: "Điều duy nhất bất thường về sự việc hôm qua là những người đàn ông đã say rượu sớm hơn trong ngày. Thường hành vi của họ tốt cho đến khi các nghi thức được làm xong, sau đó họ mới say túy lúy."

This stark revelation aroused in me both indignation and sorrow. Indignation, at the idea that people who consider themselves Buddhists should flaunt the most basic precepts even in the sacred precincts of a monastery — indeed one of the few in Sri Lanka where the flame of arduous striving still burns. Sorrow, because this was only the latest evidence I had seen of how deeply the disease of alcoholism has eaten into the entrails of this nation, whose Buddhist heritage goes back over two thousand years. But Sri Lanka is far from being the only Buddhist country to be engulfed by the spreading wave of alcohol consumption. The wave has already swept over far too much of the shrinking Buddhist world, with Thailand and Japan ranking especially high on the fatality list.

Sự tiết lộ khủng khiếp này đã dấy lên trong tôi cả sự phẫn nộ và buồn phiền. Phẫn nộ, vì với quan niệm rằng những người tự coi mình là Phật tử nên giữ giới cấm cơ bản nhất ngay trong các khu vực thiêng liêng của một tu viện - thực vậy là một trong số ít ở trong đất nước Sri Lanka, nơi ngọn lửa gian truân vẫn đang bừng cháy. Buồn phiền, bởi vì đây chỉ là bằng chứng mới nhất mà tôi đã thấy về căn bệnh nghiện rượu đã thâm nhập sâu vào ruột của quốc gia này, nơi mà di sản Phật giáo đã ăn sâu hơn hai nghìn năm. Nhưng Sri Lanka không phải là quốc gia Phật giáo duy nhất bị chìm sâu bởi làn sóng tiêu thụ rượu. Làn sóng đã lan tràn qua quá nhiều thế giới Phật giáo, với Thái Lan và Nhật Bản xếp hạng cao đặc biệt trong danh sách ảnh hưởng nguy hại.

The reasons for this ominous trend vary widely. One is rising affluence, which for the rich makes of liquor (hi-grade imported) a visible symbol of newly acquired wealth and power. Another is a burgeoning middle class, which blindly imitates the social conventions of the West. Still another is poverty, which turns the bottle into an easy escape route from the grim face of everyday reality. But whatever the reason, it is more than our woes and worries that alcohol is dissolving. It is gnawing away at the delicate fabric of Buddhist values on every level — personal, family, and social.

Lý do cho xu hướng đáng ngại này rất khác nhau. Một là sự giàu có đang gia tăng, điều mà những người giàu với rượu nhập khẩu cao cấp là một biểu tượng có thể nhìn thấy của sự giàu có và quyền lực. Một lý do khác là tầng lớp trung lưu đang phát triển, mà bắt chước một cách mù quáng các thói thường của xã hội phương Tây. Một lý do khác nữa là sự nghèo đói, điều này khiến thói uống rượu thành một lối thoát dễ dàng khỏi khuôn mặt nghiệt ngã của thực tế hàng ngày. Nhưng bất kể lý do gì, nó còn hơn cả nỗi đau buồn và lo lắng của chúng tôi rằng rượu là giải quyết. Nó là sự ăn mòn công trình xây dựng tinh tế các giá trị Phật giáo trên mọi cấp độ - cá nhân, gia đình và xã hội.

For his lay followers the Buddha has prescribed five precepts as the minimal moral observance: abstinence from killing, stealing, sexual misconduct, false speech, and the use of intoxicants. He did not lay down these precepts arbitrarily or out of compliance with ancient customs, but because he understood, with his omniscient knowledge, which lines of conduct lead to our welfare and happiness and which lead to harm and suffering. The fifth precept, it should be stressed, is not a pledge merely to abstain from intoxication or from excessive consumption of liquor. It calls for nothing short of total abstinence. By this rule the Buddha shows that he has understood well the subtle, pernicious nature of addiction. Alcoholism rarely claims its victims in a sudden swoop. Usually it sets in gradually, beginning perhaps with the social icebreaker, the drink among friends, or the cocktail after a hard day's work. But it does not stop there: slowly it sinks its talons into its victims' hearts until they are reduced to its helpless prey.

Đức Phật đã ban hành ngũ giới cho những người Phật tử như là sự tuân thủ tối thiểu về đạo đức : không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh dục lạc, không nói dối, và không uống rượu và các chất say. Ngài không tự ý đặt ra những giới luật này hoặc ra ngoài tuân thủ các phong tục cổ xưa, với kiến ​​thức toàn diện của mình, Ngài thấy hiểu , những đường lối dẫn đến phúc lợi và hạnh phúc của chúng ta và những đường lối dẫn đến tổn hại và đau khổ. Giới luật thứ năm, cần được nhấn mạnh, không phải là một cam kết chỉ để tránh tình trạng say xỉn hoặc sự tàn phá quá mức của rượu. Nó không cần thiết phải tuyệt đối nhịn hẳn. Theo giới luật này, Đức Phật chỉ ra rằng Ngài đã hiểu rõ bản chất tinh tế, độc hại của nghiện ngập. Người nghiện rượu hiếm khi là nạn nhân của cơn đột ngột bất ngờ. Thông thường nó từ từ ngấm dần, có thể là bắt đầu với hình thức để bắt đầu một cuộc xã giao trong xã hội, thức uống giữa bạn bè, hoặc một ly rượu cocktail sau một ngày làm việc vất vả. Nhưng nó không dừng lại ở đó: từ từ nó chìm đắm vào trái tim của nạn nhân cho đến khi chúng làm yếu đi sự tự chủ của nạn nhân.

To dispel any doubt about his reasons for prescribing this precept, the Buddha has written the explanation into the rule itself: one is to refrain from the use of intoxicating drinks and drugs because they are the cause of heedlessness (pamada). Heedlessness means moral recklessness, disregard for the bounds between right and wrong. It is the loss of heedfulness (appamada), moral scrupulousness based on a keen perception of the dangers in unwholesome states. Heedfulness is the keynote of the Buddhist path, "the way to the Deathless," running through all three stages of the path: morality, concentration, and wisdom. To indulge in intoxicating drinks is to risk falling away from each stage. The use of alcohol blunts the sense of shame and moral dread and thus leads almost inevitably to a breach of the other precepts. One addicted to liquor will have little hesitation to lie or steal, will lose all sense of sexual decency, and may easily be provoked even to murder. Hard statistics clearly confirm the close connection between the use of alcohol and violent crime, not to speak of traffic accidents, occupational hazards, and disharmony within the home. Alcoholism is indeed a most costly burden on the whole society.

Để xua tan bất kỳ nghi ngờ nào về lý do Ngài ban hành giới luật này, Đức Phật đã ghi lời giải thích vào trong quy luật tự nó: Người kiêng không sử dụng đồ uống có chất say và chất gây nghiện vì chúng là nguyên nhân của sự không tự chủ(pamada). Không tự chủ có nghĩa là sự thiếu thận trọng về đạo đức, bỏ qua những giới hạn giữa đúng và sai. Đó là sự mất mát của tính cẩn trọng (appamada), nguyên tắc đạo đức dựa trên nhận thức sâu sắc về những nguy hiểm ở những trạng thái bất thiện. Sự tự chủ là then chốt của con đường tu tập Phật giáo, "con đường dẫn đến bất tử," xuyên qua cả ba giai đoạn của con đường tu tập: đạo đức (Giới), sự tập trung (Định) và trí tuệ (Tuệ). Xử dụng các thức uống có chất say là nguy cơ rơi khỏi từng giai đoạn. Việc sử dụng rượu có chất cần sa là cảm giác xấu hổ và là không có đạo đức và do đó sẽ dẫn đến gần như chắc chắn để vi phạm các giới luật khác.Người nghiện rượu không do dự khi nói dối hoặc ăn cắp, mất tất cả ý thức về tình dục, và có thể dễ dàng bị kích động ngay cả để giết người. Số liệu thống kê xác nhận rất rõ mối liên hệ chặt chẽ giữa việc sử dụng rượu và tội phạm bạo lực, không nói về tai nạn giao thông, nguy hiểm nghề nghiệp và bất hòa trong nhà. Nghiện rượu thực sự là một gánh nặng tốn kém nhất trên toàn xã hội.

When the use of intoxicants eats away at even the most basic moral scruples, little need be said about its corrosive influence on the two higher stages of the path. A mind besotted by drink will lack the alertness required for meditative training and certainly won't be able to make the fine distinctions between good and bad mental qualities needed to develop wisdom. The Buddhist path in its entirety is a discipline of sobriety, a discipline which demands the courage and honesty to take a long, hard, utterly sober look at the sobering truths about existence. Such courage and honesty will hardly be possible for one who must escape from truth into the glittering but fragile fantasyland opened up by drink and drugs.

Khi sử dụng chất say ngay cả những đạo đức cơ bản nhất cũng biến mất, cần nói một ít về ảnh hưởng ăn mòn của nó trên hai giai đoạn cao hơn của con đường tu tập. Một tâm trí bị bao vây bởi rượu sẽ thiếu sự tỉnh táo cần thiết cho tu tập thiền định và chắc chắn sẽ không thể tạo ra sự khác biệt tốt giữa phẩm chất tinh thần tốt và xấu để cần thiết phát triển trí tuệ. Con đường tu tập Phật giáo toàn bộ là một kỷ luật của sự điềm đạm, một kỷ luật đòi hỏi sự can đảm và trung thực để có một đoạn đường dài, tinh tấn, hoàn toàn tỉnh táo về những sự thật nghiêm túc về sự hiện hữu. Sự can đảm và trung thực như vậy sẽ khó có thể cho một người phải thoát ra khỏi sự thật đắm chìm vào ánh sáng lung linh nhưng mỏng manh dễ vỡ được mở ra bởi rượu và ma túy.

It may well be that a mature, reasonably well-adjusted person can enjoy a few drinks with friends without turning into a drunkard or a murderous fiend. But there is another factor to consider: namely, that this life is not the only life we lead. Our stream of consciousness does not terminate with death but continues on in other forms, and the form it takes is determined by our habits, propensities, and actions in this present life. The possibilities of rebirth are boundless, yet the road to the lower realms is wide and smooth, the road upward steep and narrow. If we were ordered to walk along a narrow ledge overlooking a sharp precipice, we certainly would not want to put ourselves at risk by first enjoying a few drinks. We would be too keenly aware that nothing less than our life is at stake. If we only had eyes to see, we would realize that this is a perfect metaphor for the human condition, as the Buddha himself, the One with Vision, confirms (see SN 56:42). As human beings we walk along a narrow ledge, and if our moral sense is dulled we can easily topple over the edge, down to the plane of misery, from which it is extremely difficult to re-emerge.

Một người trưởng thành, người tinh thần và tình cảm ổn định có thể thưởng thức một vài ly rượu với bạn bè mà không biến thành một kẻ say rượu hoặc một kẻ giết người. Nhưng có một yếu tố khác cần quan tâm: đó là, cuộc sống này không phải là cuộc sống duy nhất chúng ta trải qua. Dòng ý thức của chúng ta không chấm dứt khi chết mà vẫn tiếp tục trong các hình thức khác, và hình thức của nó đã được định rõ bởi thói quen, khuynh hướng và hành động của chúng ta trong cuộc sống hiện tại này. Khả năng tái sinh là bất tận, nhưng con đường dẫn đến các cõi thấp rộng và mịn, con đường đi lên dốc và hẹp. Nếu chúng ta bắt buộc phải đi bộ dọc theo mỏm đá nhỏ hẹp quan sát từ trên cao trông xuống vách đá sắc nhọn, chúng ta chắc chắn sẽ không muốn đặt mình vào nguy hiểm với một vài ly rượu. Chúng ta cũng sẽ ý thức rằng có nhiều điều làm cuộc sống của chúng ta đang bị đe dọa. Nếu như chúng ta chỉ cần có sự sáng suốt để nhận ra, chúng ta sẽ thấy ra rằng đây là một phép ẩn dụ hoàn hảo cho kiếp sống con người, như chính Đức Phật, Đấng Giác Ngộ, đã xác nhận (xem kinh Vực Thẳm SN 56:42). Khi loài người chúng ta đi bộ dọc theo mỏm đá hẹp, và nếu chiều hướng đạo đức của chúng ta bị mờ đục, chúng ta có thể dễ dàng ngã đổ bên đỉnh bờ vực, rơi vào cõi khổ, từ đó cực kỳ khó trở lại .

But it is not for our own sakes alone, nor even for the wider benefit of our family and friends, that we should heed the Buddha's injunction to abstain from intoxicants. To do so is also part of our personal responsibility for preserving the Buddha's Sasana. The Teaching can survive only as long as its followers uphold it, and in the present day one of the most insidious corruptions eating away at the entrails of Buddhism is the extensive spread of the drinking habit among those same followers. If we truly want the Dhamma to endure long, to keep the path to deliverance open for all the world, then we must remain heedful. If the current trend continues and more and more Buddhists succumb to the lure of intoxicating drinks, we can be sure that the Teaching will perish in all but name. At this very moment of history when its message has become most urgent, the sacred Dhamma of the Buddha will be irreparably lost, drowned out by the clinking of glasses and our rounds of merry toasts.

Nhưng nó không phải lợi ích của chúng ta, mà ngay cả cũng không đem lại lợi ích lớn cho gia đình và bạn bè của chúng ta, do vậy chúng ta nên tuân thủ giới cấm của Phật là kiêng các chất say. Để làm như vậy cũng là một phần trách nhiệm cá nhân của chúng ta trong việc bảo tồn Pháp của Đức Phật. Giáo Pháp của Đức Phật có thể tồn tại chỉ miễn là những người Phật tử gìn giữ nó, và ngày nay một trong những sự mục nát đang âm thầm hủy hoại nền tảng của Phật giáo là sự lây lan rộng rãi thói quen uống rượu của những người Phật tử. Nếu chúng ta thực sự muốn Giáo Pháp tồn tại lâu dài, để bảo hộ con đường giải thoát mở ra cho tất cả thế giới, thì chúng ta phải lưu tâm. Nếu xu hướng hiện tại tiếp tục và ngày càng nhiều Phật tử không chịu nổi sự hấp dẫn của rượu, chúng ta có thể chắc chắn rằng Giáo Lý sẽ tàn lụi trong tất cả hầu như tiếng tăm. Tại thời điểm lịch sử này khi thông điệp của nó đã trở thành rất cấp thiết, Giáo Pháp thiêng liêng của Đức Phật sẽ bị mất đi mà không có gì thay thế được, bị say mèm vì những ly rượu và lần hồ hỡi nâng ly của chúng ta.

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

  Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại phamdang0308@gmail.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu ngày 1 tháng 12, 2018

Kỹ thuật trình bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

 | | trở về đầu trang | Home page |