The Two Faces of Reality

Hai Mặt Của Thực Tại

(A Discourse delivered to the Assembly of Monks after the recitation of the Patimokkha, the Monk's Disciplinary Code, at Wat Pah Pong during the Rains Retreat 1976)

(Dưới đây là thời Pháp do Ngài AJAHN CHAH thuyết giảng tại Wat Pah Pong, Thái Lan, trước một cử tọa gồm những vị tỳ khưu, sau khi đọc tụng Giới Bổn, Patimokkha).

In our lives we have two possibilities: indulging in the world or going beyond the world. The Buddha was someone who was able to free Himself from the world and thus realized spiritual Liberation

Trong đời sống của chúng ta, hai trường hợp có thể xảy ra: hoặc dể duôi lợi dưỡng trong những sự vật của thế gian, hoặc vươn ḿnh vượt qua khỏi thế gian. Đức Phật là người đă thoát ra khỏi thế gian, và do vậy Ngài chứng đắc Giải Thoát Tinh Thần.

In the same way, there are two types of knowledge — knowledge of the worldly realm and knowledge of the spiritual, or true wisdom. If we have not yet practiced and trained ourselves, no matter how much knowledge we have, it is still worldly, and thus cannot liberate us.

Cùng thế ấy, sự hiểu biết của chúng ta cũng có hai loại: hiểu biết về những sự vật trong thế gian, và hiểu biết có tính cách tinh thần đạo đức, hay trí tuệ thật sự. Nếu chúng ta chưa thực hành và chưa tự ḿnh rèn luyện th́ dầu có thâu đạt bao nhiêu kiến thức, những kiến thức ấy vẫn c̣n thuộc về thế gian, không đưa đến giải thoát.

Think and really look closely! The Buddha said that things of the world spin the world around. Following the world, the mind is entangled in the world, it defiles itself whether coming or going, never remaining content. Worldly people are those who are always looking for something — who can never find enough. Worldly knowledge is really ignorance; it isn't knowledge with clear understanding, therefore there is never an end to it. It revolves around the worldly goals of accumulating things, gaining status, seeking praise and pleasure; it's a mass of delusion which has us stuck fast.

Quư vị hăy suy tư và nh́n thật sự tận tường! Đức Phật dạy rằng những sự vật của thế gian quấn quít quây cuồng thế gian. Cái tâm đeo đuổi theo những sự vật của thế gian sẽ rối loạn vướng mắc trong thế gian, trầm ḿnh đắm ch́m trong ô trược, dầu đến hay đi, mà không bao giờ thỏa măn. Con người thế gian lúc nào cũng mong mỏi t́m một cái ǵ, nhưng không bao giờ t́m được đầy đủ như ư nguyện. Kiến thức trần gian thật sự là si mê, không phải là kiến thức bao gồm sự hiểu biết rơ ràng, do đó không bao giờ chấm dứt. Nó măi măi quây quần, chạy theo những mục tiêu của người thế gian, tích trữ tài sản, thâu đạt quyền thế, mưu t́m danh vọng và lạc thú. Đó là một khối ảo tưởng mà chúng ta đă lầm lạc bám chặt, dính kẹt vào.

Once we get something, there is jealousy, worry and selfishness. And when we feel threatened and can't ward it off physically, we use our minds to invent all sorts of devices, right up to weapons and even nuclear bombs, only to blow each other up. Why all this trouble and difficulty?

Mỗi khi chúng ta được thêm vật ǵ ắt có ganh tỵ, lo âu, và ích kỷ. Và khi cảm nghe bị đe dọa mà về phương diện vật chất ta không thể tự bảo vệ th́ chúng ta vận dụng trí năo để sáng tạo đủ loại phương kế và dụng cụ, đủ loại khí giới, chí đến khí giới hạt nhân, chỉ để tàn sát, phanh thây lẫn nhau. Tại sao có những phiền nhiễu và khó khăn như vậy?

This is the way of the world. The Buddha said that if one follows it around there is no reaching an end.

Đó là đường lối của thế gian. Đức Phật dạy rằng nếu ta quây cuồng chạy theo nó ắt không thể chấm dứt.

Come to practice for liberation! It isn't easy to live in accordance with true wisdom, but whoever earnestly seeks the Path and Fruit and aspires to Nibbana will be able to persevere and endure. Endure being contented and satisfied with little; eating little, sleeping little, speaking little and living in moderation. By doing this we can put an end to worldliness.

C̣n pháp môn thực hành để giải thoát! Không dễ ǵ sống điều hợp đúng theo trí tuệ thật sự, nhưng những ai thật sự khẩn thiết mong t́m Đạo và Quả và có nguyện vọng thành đạt Niết Bàn sẽ có thể kiên tŕ và nhẫn nại chuyên cần. Nhẫn nại là biết đủ và thỏa măn với chút ít: ít ăn, ít ngủ, ít nói và sống đạm bạc. Bằng cách làm như vậy ta có thể chấm dứt những ǵ thuộc về thế gian.

If the seed of worldliness has not yet been uprooted, then we are continually troubled and confused in a never-ending cycle. Even when you come to ordain, it continues to pull you away. It creates your views, your opinions, it colors and embellishes all your thoughts — that's the way it is.

Nếu mầm mống của những ǵ thuộc về thế gian chưa được bứng nhổ tận gốc rễ ắt chúng ta sẽ c̣n măi măi bị phiền lụy và rối loạn trong một ṿng lẩn quẩn vô cùng tận. Dầu quư Sư đă xuất gia, nó vẫn tiếp tục kéo lôi, sáng tạo cho quư Sư những quan kiến và những ư niệm, và nó sẽ nhuộm màu, tô điểm, làm đẹp đẽ thêm những suy tư của quư Sư. Nó là vậy.

People don't realize! They say that they will get things done in the world. It's always their hope to complete everything. Just like a new government minister who is eager to get started with his new administration. He thinks that he has all the answers, so he carts away everything of the old administration saying, "Look out! I'll do it all myself." That's all they do, cart things in and cart things out, never getting anything done. They try, but never reach any real completion.

Người ta không nhận thức! Người ta nói rằng ḿnh đă làm xong điều nầy hay việc nọ trong thế gian. Con người luôn luôn hy vọng hoàn thành mọi việc. Cũng giống như vị bộ trưởng của một chính phủ mới, hăng say bắt tay vào nhiệm vụ mới. Vị ấy nghĩ rằng ḿnh có đầy đủ những giải đáp thỏa đáng cho mọi vấn đề, rồi dẹp qua một bên những ǵ người trước đă làm. Ông ta nói, "Hăy nh́n xem! Chính tôi sẽ hoàn tất mọi việc". Đó là tất cả những ǵ mà người ta thực hiện: dẹp cái nầy đi, đem cái kia lại, dọn dẹp tới lui, mà không bao giờ hoàn tất điều ǵ. Họ có cố gắng, nhưng không bao giờ thật sự viên măn hoàn thành.

You can never do something which will please everyone — one person likes a little, another likes a lot; one like short and one likes long; some like salty and some like spicy. To get everyone together and in agreement just cannot be done.

Ta không thể làm điều ǵ vừa ḷng tất cả mọi người. Người thích ít, kẻ ưa nhiều, người nầy ưng ngắn, người nọ chịu dài, vài người đ̣i mặn trong khi ấy vài người khác lại muốn có nhiều gia vị. Làm cho mọi người hợp chung lại và đồng thuận, vừa ư với nhau là điều không thể được.

All of us want to accomplish something in our lives, but the world, with all of its complexities, makes it almost impossible to bring about any real completion. Even the Buddha, born with all the opportunities of a noble prince, found no completion in the worldly life.

Tất cả chúng ta đều muốn hoàn thành một điều ǵ trong đời, nhưng thế gian vô cùng phức tạp nầy làm cho ta hầu như không thể hoàn tất điều ǵ một cách thật sự viên măn. Chí đến Đức Phật, sanh trưởng với tất cả mọi thuận lợi của một hoàng tử cao sang, vẫn không thể thật sự hoàn măn viên thành điều nào trong cuộc sống ở thế gian.

 

The Trap of the Senses

Cạm Bẫy Của Giác Quan

 

The Buddha talked about desire and the six things by which desire is gratified: sights, sounds, smells, tastes, touch and mind-objects. Desire and lust for happiness, for suffering, for good, for evil and so on, pervade everything!

Đức Phật đề cập đến sự ham muốn, hay ái dục, và sáu đối tượng làm thỏa măn ḷng ham muốn: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Ham muốn, khát khao mong cầu hạnh phúc và đau khổ, những ǵ tốt đẹp và những ǵ xấu xa v.v.. ḷng khát khao ham muốn lan tràn và ẩn sâu, thấm nhuần vào tất cả.

 

(Lời người dịch: "Mong cầu hạnh phúc và đau khổ". Đoạn nầy thoạt nghe h́nh như vô nghĩa. Người ta mong cầu hạnh phúc chớ bao giờ có ai mong cầu đau khổ. Nhưng theo pháp Thập Nhị Nhân Duyên, "Ái" phát sanh tùy thuộc nơi "Thọ". Đại khái, Thọ có ba loại là: thọ lạc, thọ khổ, và thọ vô kư. Không phải chỉ có thọ lạc, hay cảm giác hạnh phúc, mới tạo điều kiện cho Ái phát sanh. Ái cũng phát sanh do thọ khổ. Ái ở đây là thương mà cũng có nghĩa là ghét, v́ ghét là một h́nh thức của thương, theo chiều ngược lại. Thí dụ như trong cơn phiền năo con người thèm khát (Ái) được ra khỏi hoàn cảnh bất hạnh ấy và mong mỏi, nóng ḷng, ước muốn, được hạnh phúc an vui, hoàn cảnh ngược lại. Tóm tắt, người nghèo nàn thiếu thốn, người bệnh hoạn ương yếu, tật nguyền -- những người chịu thọ khổ -- khao khát mong cầu (Ái) được an toàn vui vẻ).

 

Sights... there isn't any sight that's quite the same as that of a woman. Isn't that so? Doesn't a really attractive woman make you want to look? One with a really attractive figure comes walking along, "sak, sek, sak, sek, sak, sek," — you can't help but stare! How about sounds? There's no sound that grips you more than that of a woman. It pierces your heart! Smell is the same; a woman's fragrance is the most alluring of all. There's no other smell that's quite the same. Taste — even the taste of the most delicious food cannot compare with that of a woman. Touch is similar; when you caress a woman you are stunned, intoxicated and sent pinning all around.

Sắc .. không có sắc nào như h́nh thể người phụ nữ. Có phải vậy không? Có phải chăng thân h́nh thật sự đẹp đẽ của một thiếu phụ làm cho ta muốn nh́n? Một bóng dáng mỹ miều xinh đẹp đi thoáng qua, "xẹp, xẹp, xẹp..." ta không thể đừng ngước mắt lên chăm chú nh́n! C̣n tiếng động (thinh) th́ sao? Không có âm thanh nào trói buộc ta chặt chẽ bằng tiếng nói của người phụ nữ. Nó đi thẳng vào, đâm xuyên qua tim! Mùi cũng vậy, mùi thơm của người phụ nữ có năng lực quả thật mănh liệt. Không có mùi nào như vậy. Rồi vị giác, không có thức ăn nào mà hương vị có thể sánh bằng hương vị của người đàn bà. Xúc giác cũng vậy, tâng tiu vỗ về một thiếu nữ làm cho ta tê tái, say mê và cuồng loạn.

 

There was once a famous master of magical spells from Taxila in ancient India. He taught his disciple all his knowledge of charms and incantations. When the disciple was well-versed and ready to fare on his own, he left with this final instruction from his teacher, "I have taught you all that I know of spells, incantations and protective verses. Creatures with sharp teeth, antlers or horns, and even big tusks, you have no need to fear. You will be guarded from all of these, I can guarantee that. However, there is only one thing that I cannot ensure protection against, and that is the charms of a woman.4 I can not help you here. There's no spell for protection against this one, you'll have to look after yourself."

Vào thời xưa tại Taxila, Ấn Độ, có một vị phù thủy nổi tiếng là đại tài. Ông có một đệ tử, và tận tụy hết ḷng dạy tṛ tất cả những bùa phép và thần chú. Khi người đệ tử đă tinh thông lăo luyện, đủ sức tự lực cánh sinh và sẵn sàng ra đi, th́ lời khuyên nhủ cuối cùng của vị thầy trứ danh là: "Thầy đă dạy con đầy đủ tất cả những phù phép và bùa chú mà thầy biết. Những con vật có răng nhọn hay những con có nanh vuốt dữ tợn, chí đến những con vật có ngà to lớn đi nữa con cũng không cần phải sợ. Con đă có đủ khả năng để tự bảo vệ, chống lại những con ác thú ấy, thầy có thể đoan chắc với con như vậy. Tuy nhiên, chỉ có một điều duy nhất mà thầy không thể chắc chắn bảo vệ được con, và đó là sắc đẹp kiều diễm của người phụ nữ [*]. Đến đây th́ thầy không thể giúp con. Không có bùa phép hay thần chú nào để bảo vệ con chống lại nó, mà chính con phải tự bảo vệ lấy con.

 

[*] Trong bản tiếng Thái, người phụ nữ được gọi là những con vật có sừng mềm ở ngực. Như vậy, những con vật có răng nhọn, có nanh, có ngà, th́ con không cần sợ, nhưng con phải sợ con vật có sừng mềm.

 

Mental objects arise in the mind. They are born out of desire: desire for valuable possessions, desire to be rich, and just restless seeking after things in general. This type of greed isn't all that deep or strong, it isn't enough to make you faint or lose control. However, when sexual desire arises, you're thrown off balance and lose your control. You would even forget those raised and brought you up — your own parents!

Pháp, tức đối tượng của tâm, khởi phát trong tâm do ḷng ham muốn: muốn tài sản quư giá, muốn giàu sang phú quư v.v... luôn luôn lo nghĩ và, nói một cách tổng quát, chạy theo những sự vật. Mặc dầu vậy loại thèm khát nầy không đến nỗi sâu hiểm hay mănh liệt lắm. Nó không đủ năng lực để làm cho ta mất trí hay làm cho ta không thể tự kiểm soát. Nhưng khi ḷng khát khao ham muốn đượm nhuần tính cách thiên về t́nh dục khởi phát th́ ta không c̣n có thể tự kiểm soát. Đến chừng ấy ta có thể quên tất cả, luôn cả những vị đă dày công sanh thành dưỡng dục -- chính cha mẹ ta!

 

The Buddha taught that the objects of our senses are a trap — a trap of Mara's.5 Mara should be understood as something which harms us. The trap is something which binds us, the same as a snare. It's a trap of Mara's, a hunter's snare, and the hunter is Mara.

Đức Phật dạy rằng đối tượng của giác quan là cạm bẫy, cạm bẫy của Ma Vương. Ma Vương phải được hiểu là những ǵ gây tai hại cho ta. cạm bẫy là cái ǵ trói buộc ta, giống như cái lưới rập. Đó là cạm bẫy của Ma Vương, cái lưới rập của người thợ săn, và người thợ săn là Ma Vương.

 

If animals are caught in the hunter's trap, it's a sorrowful predicament. They are caught fast and held waiting for the owner of the trap. Have you ever snared birds? The snare springs and "boop" — caught by the neck! A good strong string now holds it fast. Wherever the bird flies, it cannot escape. It flies here and flies there, but it's held tight waiting for the owner of the snare. When the hunter comes along, that's it — the bird is struck with fear, there's no escape!

T́nh trạng của con vật mắc bẩy trong lưới rập quả thật là đáng thương. Nó bị quấn buộc chặt chẽ và nằm đó chờ người thợ săn đến bắt. Quư vị có bao giờ đi rập chim không? Cái rập nhanh chóng bật lên và "bụp!", cổ chim bị quấn chặt! Lúc bấy giờ sợi nhợ siết chắc cổ con chim. Dầu nó có vùng vẩy hay bay nhảy đi đâu cũng không thoát khỏi. Nó rán sức bay đầu nầy nhảy đầu kia nhưng cổ bị trói chắc. Chim chỉ c̣n chờ người chủ lưới rập. Khi người ấy đến, chim kinh hoàng sợ hăi -- không c̣n lối thoát.

 

The trap of sights, sounds, smells, tastes, touch and mind-objects is the same. They catch us and bind us fast. If you attach to the senses, you're the same as a fish caught on a hook. When the fisherman comes, struggle all you want, but you can't get loose. Actually, you're not caught like a fish, it's more like a frog — a frog gulps down the whole hook right to its guts, a fish just gets caught in its mouth.

Cạm bẫy của thinh, hương, vị, xúc, pháp, cũng dường thế ấy. Nó bắt chúng ta và trói buộc chặt chẽ. Nếu ta c̣n vương víu trong nhục dục ngũ trần, ắt cũng như con cá mắc lưỡi câu. Khi người thợ câu đến, dầu có vùng vẫy chiến đấu thế nào cá cũng không thể thoát thân. Đúng ra th́ lúc bấy giờ ta không giống hệt như cá, mà giống con ếch mắc câu hơn -- con ếch nuốt luôn lưỡi câu vào tận ruột. Cá chỉ mắc câu ở miệng.

 

Anyone attached to the senses is the same. Like a drunk whose liver is not yet destroyed — he doesn't know when he has had enough. He continues to indulge and drink carelessly. He's caught and later suffers illness and pain.

Người say mê ch́m đắm trong dục lạc của giác quan cũng vậy. Người ghiền rượu chẳng hạn, ngày nào mà lá gan của anh chưa bị tiêu diệt th́ anh ta vẫn c̣n chưa biết uống bao nhiêu là đủ. Anh măi mê buông lung rượu chè và say sưa vô độ. Anh đă mắc câu. Về sau anh phải khổ đau, bệnh hoạn.

 

A man comes walking along a road. He is very thirsty from his journey and is craving for a drink of water. The owner of the water says, "you can drink this water if you like; the color is good, the smell is good, the taste is good, but if you drink it you will become ill. I must tell you this beforehand, it'll make you sick enough to die or nearly die." The thirsty man does not listen. He's as thirsty as a person after an operation who has been denied water for seven days — he's crying for water!

Trong một cuộc hành tŕnh dài dẳng, người kia đi trên đường rất khát nước và hết ḷng mong mỏi được uống một bụm cho đỡ khát. Anh dừng lại bên đàng, vào nhà xin nước uống. Chủ nhà có sẵn nước, chỉ cho anh biết và nói, "Nước có sẵn kia! Nếu anh muốn th́ cứ uống đi. Màu nước trong veo đẹp đẽ, mùi thơm, vị ngọt, nhưng nếu uống vào anh sẽ lâm trọng bệnh. Tôi phải nói trước cho anh biết rơ như vậy. Uống nước nầy vào, anh sẽ bệnh nặng, nếu không chết th́ cũng gần chết." Khách đi đường v́ quá khát nước nên không nghe lời cảnh cáo. Anh khát khao thèm uống một chút nước, giống như người vừa bị giải phẫu, bị cấm không cho uống, kêu la đ̣i nước.

 

It's the same with a person thirsting after the senses. The Buddha taught that they are poisonous — sights, sounds, smells, tastes, touch and mind-objects are poison; they are a dangerous trap. But this man is thirsty and doesn't listen; because of his thirst he is in tears, crying, "Give me water, no matter how painful the consequences, let me drink!" So he dips out a bit and swallows it down finding it very tasty. He drinks his fill and gets so sick that he almost dies. He didn't listen because of his overpowering desire.

Người khát khao chạy theo nhục dục cũng dường thế ấy. Đức Phật dạy rằng đó là thuốc độc -- sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp là thuốc độc, là cạm bẫy vô cùng nguy hiểm. Nhưng người khát nước kia không nghe lời khuyên nhủ. V́ khát khao thèm muốn, anh vừa rơi lệ vừa kêu la: "Hăy cho tôi uống nước! Dầu có phải chịu hậu quả đớn đau thế nào tôi cũng sẽ cam chịu, miễn là được uống chút nước!" Và anh ta hớp một hớp nước, nuốt vào ngon lành -- thật là đă khát. Rồi anh uống, uống thêm nữa, uống đầy bụng ... và ngă bệnh gần chết. Anh không khứng nghe lời người chủ nhà v́ khát khao thèm uống cho được miếng nước. Ḷng khát khao ham muốn quá mănh liệt.

 

This is how it is for a person caught in the pleasures of the senses. He drinks in sights, sounds, smells, tastes, touch and mind-objects — they are all very delicious! So he drinks without stopping and there he remains, stuck fast until the day he dies.

Con người bị vướng mắc trong lạc thú của giác quan cũng dường thế ấy. Người ấy t́m giải khát trong sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp -- tất cả đều thơm ngon! Và người ấy măi mê thỏa măn ḷng khát khao, vui "uống" mà không ngừng, rồi bị dính kẹt, ngày càng kẹt cứng, cho đến ngày chết.

 

The Worldly Way and Liberation

Con Đường Của Thế Gian Và T́nh Trạng Giải Thoát

 

Some people die, some people almost die — that's how it is to be stuck in the way of the world. Worldly wisdom seeks after the senses and their objects. However wise it is, it's only wise in a worldly sense. No matter how appealing it is, it's only appealing in a worldly sense. However much happiness it is, it's only happiness in a worldly sense. It isn't the happiness of liberation; it won't free you from the world.

Vài người chết, vài người khác hầu như đă chết -- vướng mắc, dính kẹt trong đường lối của thế gian là vậy. Trí khôn của người thế gian đeo đuổi chạy theo nhục dục ngũ trần. Dầu có khôn ngoan sáng suốt đến đâu nó chỉ khôn ngoan theo ư nghĩa của người thế gian. Dầu có mănh lực quyến rũ đến độ nào, nó chỉ quyến rũ theo ư nghĩa của người thế gian. Dầu nó đem lại nhiều hạnh phúc đến đâu, đó chỉ là những hạnh phúc hiểu theo ư nghĩa của người thế gian, không phải là hạnh phúc giải thoát, không thể đưa ta vượt ra khỏi thế gian.

 

We have come to practice as monks in order to penetrate true wisdom, to rid ourselves of attachment. Practice to be free of attachment! Investigate the body, investigate everything around you until you become weary and fed up with it all and then dispassion will set in. Dispassion will not arise easily however, because you still don't see clearly

Chúng ta đến đây, sống đời tu sĩ và thực hành để đi sâu vào và thấm nhuần trí tuệ thật sự, để buông bỏ mọi bám níu. Hăy tinh tấn thực hành để vượt khỏi mọi bám níu! Hăy quán chiếu thân, quán chiếu mọi sự vật quanh ḿnh cho đến chừng nào trở nên mệt mỏi và chán chê tất cả. Đến chừng đó tâm buông bỏ sẽ phát sanh. Dầu sao đi nữa tâm buông bỏ, tâm không bám níu, không luyến ái, sẽ không phát sanh dễ dàng đâu, bởi v́ ta chưa thật sự thấy rơ ràng tường tận.

 

We come and ordain — we study, we read, we practice, we meditate. We determine to make our minds resolute but it's hard to do. We resolve to do a certain practice, we say that we'll practice in this way — only a day or two goes by, maybe just a few hours pass and we forget all about it. Then we remember and try to make our minds firm again, thinking, "This time I'll do it right!" Shortly after that we are pulled away by one of our senses and it all falls apart again, so we have to start all over again! This is how it is.

Chúng ta đến đây và thọ giới tỳ khưu. Chúng ta học hỏi, nghiên cứu, đọc kinh điển, chúng ta thực hành, chúng ta hành thiền. Và chúng ta nhất quyết tự tạo cho ḿnh một ư chí bất khuất. Nhưng điều nầy quả thật khó. Ta quyết tâm hành thiền theo một pháp môn nào. Ta tự nhủ là phải hành như vậy -- chỉ một ngày, hai ngày trôi qua, hoặc nữa, có thể chỉ một vài giờ trôi qua ta đă quên tất cả những ư định ấy. Rồi ta sực nhớ lại và cố gắng quyết định chắc chắn một lần nữa, "lần nầy ta quyết phải làm đúng như vậy!" Không bao lâu sau ta lại bị ảnh hưởng của một giác quan nào lôi cuốn, kéo rời xa mục tiêu. Một lần nữa, mọi cố gắng tan vỡ, và ta lại phải bắt đầu làm lại tất cả! Thông thường là như vậy.

 

Like a poorly built dam, our practice is weak. We are still unable to see and follow true practice. And it goes on like this until we arrive at true wisdom. Once we penetrate to the Truth, we are freed from everything. Only peace remains.

Cũng như con đê nhằm ngăn chận nước mà người ta đắp không vững chắc, pháp hành của ta c̣n non nớt. Ta chưa có đủ khả năng để thấy và chưa hành đúng theo pháp hành chân chánh. Và pháp hành của ta tiếp tục diễn tiến như vậy cho đến khi ta thành đạt trí tuệ thật sự. Một khi thấm nhuần, ăn sâu vào Chân Lư th́ ta thoát ra khỏi tất cả. Chỉ c̣n thanh b́nh an lạc.

 

Our minds aren't peaceful because of our old habits. We inherit these because of our past actions and thus they follow us around and constantly plague us. We struggle and search for a way out, but we're bound by them and they pull us back. These habits don't forget their old grounds. They grab onto all the old familiar things to use, to admire and to consume — that's how we live.

Sở dĩ tâm ta c̣n chưa được thanh b́nh an lạc là v́ nó vẫn c̣n chứa chấp những thói xưa tật cũ. Chúng ta thừa hưởng các thói quen xưa cũ ấy từ những hành động trong quá khứ. Nó theo dính liền và không ngừng quấy rầy ta. Ta chiến đấu, t́m lối thoát ra khỏi, nhưng nó đă trói buộc chặt chẽ và kéo lôi ta trở lại. Những thói quen ấy không quên vùng đất cũ xưa, phạm vi hoạt động của nó. Nó níu chắc, bám sát vào tất cả những sự vật quen thuộc từ thời xa xưa để xử dụng, để vui thích ngắm nh́n và tiêu thụ -- cuộc sống của chúng ta là vậy.

 

The sexes of man and woman — woman cause problems for men, men cause problems for women. That's the way it is, they are opposites. If men live together with men, then there's no trouble. If women live together with women, then there's no trouble. When a man sees a woman his heart pounds like a rice pounder, "deung, dung, deung, dung, deung, dung." What is this? What are those forces? It pulls and sucks you in — no one realizes that there's a price to pay!

Như t́nh yêu giữa nam và nữ. Người nữ tạo vấn đề khó khăn cho người nam. Người nam tạo vấn đề khó khăn cho người nữ. Thông thường là vậy, nam và nữ đối nghịch lẫn nhau. Nếu người nam sống chung với người nam ắt không có phiền toái. Nếu người nữ sống chung với người nữ ắt không có vấn đề. Khi một người nam nh́n thấy người nữ th́ tim đập "đùng, đùng", giống như chày giă gạo. Đó là ǵ? Những năng lực ấy là ǵ? Nó lôi cuốn và thu hút ta vào. Không ai nhận thức rằng có một giá nào mà ta phải trả!

 

It's the same in everything. No matter how hard you try to free yourself, until you see the value of freedom and the pain in bondage, you won't be able to let go. People usually just practice enduring hardships, keeping the discipline, following the form blindly and not in order to attain freedom or liberation. You must see the value in letting go of your desires before you can really practice; only then is true practice possible.

Tất cả mọi sự vật đều cùng thế ấy. Dầu ta cố gắng thế nào để vươn ḿnh vượt thoát, ngày nào c̣n chưa nhận thức được giá trị của trạng thái giải thoát và chưa nh́n thấy đau khổ trong ṿng trói buộc th́ ta vẫn c̣n chưa có thể buông bỏ. Thông thường người ta chỉ thực hành chịu đựng khổ nhọc, khép ḿnh vào kỷ cương của giới luật, mù quáng theo đúng những h́nh thức nghi lễ, mà không hướng về mục tiêu thành đạt tự do, hay giải thoát. Ta phải nhận thức giá trị của sự buông bỏ, không bám níu vào những dục vọng của ḿnh, trước khi có thể thật sự thực hành. Chí đến chừng ấy mới có thể thực hành thật sự.

 

Everything that you do must be done with clarity and awareness. When you see clearly, there will no longer be any need for enduring or forcing yourself. You have difficulties and are burdened because you miss this point! Peace comes from doing things completely with your whole body and mind. Whatever is left undone leaves you with a feeling of discontent. These things bind you with worry wherever you go. You want to complete everything, but it's impossible to get it all done.

Tất cả những ǵ ta làm, phải làm một cách sáng suốt, làm với chánh niệm, luôn luôn giác tỉnh. Khi nh́n thấy rơ ràng th́ ta sẽ không cần nhẫn nại chịu đựng hay cố gắng tự cưỡng ép ḿnh. Ta cảm nghe khó khăn nặng nhọc v́ không nhận thức điểm nầy. Trạng thái thanh b́nh an lạc khởi sanh từ những việc làm với toàn thể thân và tâm mà ta đă hoàn tất viên măn. Bất luận ǵ c̣n bỏ sót lại chưa thực hiện được sẽ làm cho quư vị cảm nghe bất toại nguyện. Những điều ấy sẽ trói buộc quư vị trong lo âu, dầu có đi đâu hay ở đâu. Quư vị muốn hoàn thành mọi việc, nhưng không thể làm được tất cả.

 

Take the case of the merchants who regularly come here to see me. They say, "Oh, when my debts are all paid and property in order, I'll come to ordain."

Thí dụ như thường có những vị thương gia đến đây viếng Sư. Họ nói, "để chúng tôi trang trải nợ nần và sắp xếp xong chuyện nhà đâu ra đó rồi sẽ đến xin xuất gia với Sư".

 

They talk like that but will they ever finish and get it all in order? There's no end to it. They pay up their debts with another loan, they pay off that one and do it all again.

Họ nói vậy, nhưng mọi việc sẽ được hoàn tất chăng? Họ có thể sắp xếp việc nhà đâu đó xong xuôi chăng? Đó là những việc không bao giờ chấm dứt. Họ chỉ vay món nợ nầy để trả món nợ kia.

 

A merchant thinks that if he frees himself from debt he will be happy, but there's no end to paying things off. That's the way worldliness fools us — we go around and around like this never realizing our predicament.

Họ nghĩ rằng nếu rảnh rang nợ nần sẽ an vui hạnh phúc, nhưng họ không bao giờ dứt nợ. Đó là đường lối giả dối của thế gian, nó phỉnh gạt lừa đảo ta -- chúng ta đi quanh quẩn ṿng ṿng mà không bao giờ nhận thức mối hiểm hoạ.

 

Constant Practice

Liên Tục Thực Hành

 

In our practice we just look directly at the mind. Whenever our practice begins to slacken off, we see it and make it firm — then shortly after, it goes again. That's the way it pulls you around. But the person with good mindfulness takes a firm hold and constantly re-establishes himself, pulling himself back, training, practicing and developing himself in this way.

Trong pháp hành chúng ta chỉ nh́n vào tâm. Bất cứ lúc nào mà công tŕnh thực hành bắt đầu tŕ chậm, ta nhận thấy liền và tinh tấn củng cố, làm cho nó trở nên vững chắc trở lại. Không bao lâu sau ta sẽ thực hành điều hoà, tốt đẹp như trước. Thông thường đó là cách thức mà chúng ta bị lôi kéo quanh quẩn. Nhưng người có tâm niệm chân chánh sẽ nắm vững pháp hành của ḿnh và luôn luôn kéo tâm trở về đề mục tu tập và tự ḿnh phát triển.

 

The person with poor mindfulness just lets it all fall apart, he strays off and gets side-tracked again and again. He's not strong and firmly rooted in practice. Thus he's continuously pulled away by his worldly desires — something pulls him here, something pulls him there. He lives following his whims and desires, never putting an end to this worldly cycle.

Người mà tâm niệm c̣n non nớt chỉ để cho tất cả tan vỡ, tâm phóng đi đầu nầy đầu kia và trở đi trở lại. Người ấy không dũng mănh bám sát và vững chắc an trú trong pháp hành, mà luôn luôn bị ḷng tham dục trần tục lôi cuốn -- khi kéo theo chiều nầy, lúc đẩy tới hướng nọ. Họ chỉ sống theo bẩm tánh ham muốn bất thường và ḷng khao khát chạy theo những sự vật trong thế gian của họ, không bao giờ chấm dứt ṿng quanh triền miên tiếp diễn.

 

Coming to ordain is not so easy. You must determine to make your mind firm. You should be confident in the practice, confident enough to continue practicing until you become fed up with both your like and dislikes and see in accordance with Truth. Usually, you are dissatisfied with only your dislike, if you like something then you aren't ready to give it up. You have to become fed up with both your dislike and your likes, your suffering and your happiness.

Đến đây xuất gia không phải là điều dễ làm. Quư Sư đă phải nhất quyết lập tâm vững chắc. Hăy đặt trọn niềm tin nơi pháp hành nầy. Hăy có đủ đức tin để tiếp tục thực hành cho đến chừng nào chán nản cả hai, ưa thích và ghét bỏ, và thấy sự vật đúng theo Chân Lư. Thông thường ta chỉ bất măn với những ǵ ḿnh ghét. Điều ưa thích, ta sẽ không sẵn sàng buông bỏ, khước từ. Quư Sư phải biết nhàm chán cả hai, những ǵ ḿnh ghét bỏ và những ǵ ḿnh ưa thích. Phải biết buông bỏ đau khổ cũng như không bám níu vào hạnh phúc.

 

You don't see that this is the very essence of the Dhamma! The Dhamma of the Buddha is profound and refined. It isn't easy to comprehend. If true wisdom has not yet arisen, then you can't see it. You don't look forward and you don't look back. When you experience happiness, you think that there will only be happiness. Whenever there is suffering, you think that there will only be suffering. You don't see that wherever there is big, there is small; wherever there is small, there is big. You don't see it that way. You see only one side and thus it's never-ending.

Quư Sư không thấy rằng chính đó là tinh chất chánh yếu, là ṇng cốt của Giáo Pháp! Giáo Huấn của Đức Phật quả thật là sâu sắc và tinh vi tế nhị, không dễ ǵ lănh hội. Nếu trí tuệ thật sự chưa phát sanh ắt không thể thấy được. Quư Sư không nh́n tới và quư Sư không nh́n lui. Khi chứng nghiệm hạnh phúc, quư Sư nghĩ rằng chỉ có hạnh phúc. Khi bị đau khổ, quư Sư nghĩ rằng chỉ có đau khổ. Quư Sư không thấy rằng khi có lớn là có nhỏ. Mỗi khi có nhỏ tức có lớn. Quư Sư không nh́n sự vật như vậy mà chỉ thấy có một bề, chỉ nh́n một cách phiến diện, và do vậy không bao giờ chấm dứt.

 

There are two sides to everything; you must see both sides. Then, when happiness arises, you don't get lost; when suffering arises, you don't get lost. When happiness arises, you don't forget the suffering, because you see that they are interdependent.

Mỗi việc ǵ đều có hai mặt, ta phải thấy cả hai. Chừng ấy, khi hạnh phúc đến, ta không bị lạc lối; khi đau khổ phát sanh ta không bị bơ vơ, bởi v́ ta biết rằng hạnh phúc và đau khổ tương quan lẫn nhau.

 

In a similar way, food is beneficial to all beings for the maintenance of the body. But actually, food can also be harmful, for example when it causes various stomach upsets. When you see the advantages of something, you must perceive the disadvantages also, and vice versa. When you feel hatred and aversion, you should contemplate love and understanding. In this way, you become more balanced and your mind becomes more settled.

Cùng thế ấy, vật thực hữu ích cho tất cả chúng sanh v́ nó bảo tŕ cơ thể. Nhưng trong thực tế, vật thực cũng có thể là một nguyên nhân gây tổn hại, như một món ăn làm cho ta đau bụng. Thấy điểm lợi ích của vật ǵ, ta phải nhận thức những bất lợi của nó, và trái lại. Khi cảm nghe sân hận và bất măn khởi phát ta nên niệm tâm Từ, và nên hiểu biết. Làm như vậy tâm ta sẽ trở nên quân b́nh và sẽ ổn định vững vàng.

 

The Empty Flag

Lá Cờ Rỗng Không

 

I once read a book about Zen. In Zen, you know, they don't teach with a lot of explanation. For instance, if a monk is falling asleep during meditation, they come with a stick and "whack!" they give him a hit on the back. When the erring disciple is hit, he shows his gratitude by thanking the attendant. In Zen practice one is taught to be thankful for all the feelings which give one the opportunity to develop.

Có lần Sư đọc một quyển sách về Thiền Tông. Quư Sư biết rằng trong pháp hành của tông phái nầy, vị Thiền Sư không giảng giải dông dài. Thí dụ như trong thời thiền tọa mà một thiền sinh ngủ gục, vị Thầy cầm thiền trượng trong tay đi ngang qua và "Quắc!", cây trượng đập ngay vào lưng. Người thiền sinh lầm lỗi bị đập liền cảm tạ Thầy để bày tỏ ḷng tri ân sâu xa của ḿnh. Trong pháp hành thiền nầy thiền sinh được dạy phải biết ơn tất cả những ǵ tạo cho ḿnh những cảm giác khả dĩ là cơ hội để phát triển.

 

One day there was an assembly of monks gathered for a meeting. Outside the hall a flag was blowing in the wind. There arose a dispute between two monks as to how the flag was actually blowing in the wind. One of the monks claimed that it was because of the wind while the other argued that it was because of the flag. Thus they quarreled because of their narrow views and couldn't come to any kind of agreement. They would have argued like this until the day they died.

Ngày kia một nhóm tỳ khưu tụ hội trong giảng đường. Ngoài sân chùa một lá cờ bay phất phới trước gió, làm đầu đề bàn thảo giữa hai nhà sư: V́ sao lá cờ thật sự bay phất phơ trong gió. Một thầy cho rằng v́ gió. Thầy kia căi lại, nói là v́ cờ. Hai thầy tranh luận, cố bênh vực quan kiến hẹp ḥi của ḿnh và không thể đồng ư với nhau. Cứ thế họ có thể bàn căi đến chết.

 

However, their Teacher intervened and said, "Neither of you is right. The correct understanding is that there is no flag and there is no wind."

Nhưng vị Thiền Sư can thiệp và dạy: "Cả hai chúng con đều sai. Lối hiểu biết đúng là không có cờ, và không có gió".

 

This is the practice, not to have anything, not to have the flag and not to have the wind. If there is a flag, then there is a wind; if there is a wind, then there is a flag.

Đó là pháp hành. Ta thực hành không phải để được bất cứ ǵ, không phải để có cờ, và không phải để có gió. Nếu có một lá cờ ắt có một luồng gió, nếu có một ngọn gió ắt có một lá cờ.

 

You should contemplate and reflect on this thoroughly until you see in accordance with Truth. If considered well, then there will remain nothing. It's empty — void; empty of the flag and empty of the wind. In the great Void there is no flag and there is no wind. There is no birth, no old age, no sickness or death. Our conventional understanding of flag and wind is only a concept. In reality there is nothing. That's all! There is nothing more than empty labels.

Quư Sư phải quán tưởng và suy niệm tận tường cho đến khi cái thấy của ḿnh điều hợp, đúng theo Chân Lư. Quán suy cặn kẽ sẽ thấy rằng không có ǵ c̣n lại. Nó là rỗng không -- hư vô. Rỗng không, không có cờ. Rỗng không, không có gió. Trong Hư Vô to lớn không có cờ và không có gió. Không sanh, không già, không bệnh, không chết. Sự hiểu biết có tính chất quy ước của chúng ta về lá cờ và ngọn gió chỉ là khái niệm. Trong thực tế không có ǵ. Thế thôi! Không có ǵ khác hơn là nhăn hiệu rỗng không.

 

If we practice in this way, we will come to see completeness and all of our problems will come to an end. In the great Void the King of Death will never find you. There is nothing for old age, sickness and death to follow. When we see and understand in accordance with Truth, that is, with Right Understanding, then there is only this great emptiness. It's here that there is no more "we," no "they," no "self" at all.

Nếu thực hành theo đường lối nầy chúng ta sẽ đạt đến mức độ có thể thấy trọn vẹn toàn bộ, và tất cả những vấn đề khó khăn của chúng ta sẽ chấm dứt. Trong cái Hư Vô to lớn ấy Thần Chết không bao giờ t́m thấy ta; không có ǵ để lăo, bệnh, tử, bám đeo dính theo. Khi chúng ta thấy và hiểu biết điều ḥa, hợp đúng với Chân Lư -- tức có chánh kiến -- th́ chỉ c̣n trạng thái rỗng không to lớn. Đây là nơi mà không c̣n "chúng ta", không c̣n "chúng nó", không c̣n "tự ngă", không có ǵ hết.

 

The Forest of the Senses

Khu Rừng Giác Quan

 

The world with its never-ending ways goes on and on. If we try to understand it all, it leads us only to chaos and confusion. However, if we contemplate the world clearly, then true wisdom will arise. The Buddha Himself was one who was well-versed in the ways of the world. He had great ability to influence and lead because of His abundance of worldly knowledge. Through the transformation of his worldly mundane wisdom, He penetrated and attained to supermundane wisdom, making Him a truly superior being.

Thế gian và đường lối vô cùng tận của thế gian triền miên diễn tiến. Nếu chúng ta cố t́m hiểu nó, công phu ấy chỉ đưa ta đến hỗn loạn và rối trí. Tuy nhiên, nếu ta sáng suốt quán chiếu thế gian một cách rơ ràng th́ trí tuệ thật sự phát sanh. Chính Đức Phật đă thấu hiểu đường lối của thế gian. Ngài có khả năng điều ngự và hướng dẫn rộng lớn vô biên v́ kiến thức về trần thế của Ngài rất dồi dào phong phú. Xuyên qua giai đoạn chuyển tánh, từ trí thông minh sáng suốt tại thế có tính cách phàm tục, Ngài đă thấm nhuần, ăn sâu vào và đạt đến trí tuệ siêu thế, phi trần tục, và sự biến đổi nầy làm cho Ngài là Vô Thượng Sĩ, bậc thượng sĩ không ai sánh bằng.

 

So, if we work with this Teaching, turning it inwards for contemplation, we will attain to an understanding on an entirely new level. When we see an object, there is no object. When we hear a sound, the is no sound. In smelling, we can say that there is no smell. All of the senses are manifest, but they are void of anything stable. They are just sensations that arise and then pass away.

Như vậy, nếu hành tŕ đúng theo Giáo Huấn của Đức Phật, hướng tâm quán chiếu trở lại vào bên trong chính ḿnh, ta sẽ tiến đạt đến một mức độ hiểu biết hoàn toàn mới mẻ. Khi ta thấy một vật, không có vật ǵ. Khi ta nghe một âm thanh, không có tiếng động nào. Trong khi hửi ta có thể nói là không có mùi. Tất cả những giác quan hiển nhiên là có hiện hữu, nhưng tất cả đều là không, không chứa đựng ǵ là ổn định. Nó chỉ là những tri giác, phát sanh rồi hoại diệt, sanh rồi diệt.

 

If we understand according to this reality, then the senses cease to be substantial. They are just sensations which come and go. In Truth there isn't any "thing." If there isn't any "thing," then there is no "we" and no "they." If there is no "we" as a person, then there is nothing belonging to "us." It's in this way that suffering is extinguished. There isn't anybody to acquire suffering, so who is it who suffers?

Nếu ta thấu hiểu sự vật đúng với thực tại th́ giác quan không có ǵ là thực chất mà chỉ là những tri giác, đến rồi đi. Trong thực tế không có "một cái ǵ". Nếu không có "một cái ǵ" tức nhiên không có "chúng ta" và "chúng nó". Nếu không có "chúng ta" xem như một con người, ắt không có ǵ "của ta". Đó là phương cách để chấm dứt đau khổ. Không có bất luận ai để thâu nhận sự khổ th́ ai đau khổ?

 

When suffering arises, we attach to the suffering and thereby must really suffer. In the same way, when happiness arises, we attach to the happiness and consequently experience pleasure. Attachment to these feelings gives rise to the concept of "self" or "ego" and thoughts of "we" and "they" continually manifest. Nah!! Here is where it all begins and then carries us around in its never-ending cycle.

Khi đau khổ phát sanh, ta bám níu vào trạng thái đau khổ và do đó, phải thật sự chịu đau khổ. Cùng thế ấy, khi hạnh phúc phát sanh ta bám níu vào hạnh phúc và do đó, chứng nghiệm lạc thú. Bám níu vào những cảm giác như vậy làm khơi dậy khái niệm về "một cái ta", về "tự ngă" và những tư tưởng về "chúng ta", "chúng nó" liên tục phát hiện. Đây là đầu dây mối nhợ cho tất cả, bắt đầu mang ta đi trong một ṿng lẩn quẩn vô cùng tận.

 

So, we come to practice meditation and live according to the Dhamma. We leave our homes to come and live in the forest and absorb the peace of mind it gives us. We have fled in order to contend with ourselves and not through fear or escapism. But people who come and live in the forest become attached to living in it; just as people who live in the city become attached to the city. They lose their way in the forest and they lose their way in the city.

Do vậy, chúng ta đến đây hành thiền và sống điều ḥa, hợp theo Giáo Pháp. Chúng ta ly gia cắt ái, xa ĺa nhà cửa để sống giữa rừng, tâm đượm nhuần trạng thái thanh b́nh. Chúng ta ra đi để sống an lạc với chúng ta chớ không phải v́ sợ sệt, cũng không phải là đào tẩu. Tuy nhiên, có người vào rừng sống rồi lại bám níu vào cảnh rừng núi, đâm ra luyến ái cuộc sống trong rừng; giống như người quen sống ở thành thị bám níu vào cuộc sống đô thị. Họ lạc lối trong rừng và họ lạc lối trong thành phố.

 

The Buddha praised living in the forest because the physical and mental solitude that it gives us is conducive to the practice for liberation. However, He didn't want us to become dependent upon living in the forest or get stuck in its peace and tranquillity. We come to practice in order for wisdom to arise. Here in the forest we can sow and cultivate the seeds of wisdom.

Đức Phật ca ngợi cuộc sống giữa rừng sâu bởi v́ trạng thái đơn độc của thân và tâm thích hợp thuận lợi cho pháp hành nhằm giải thoát. Nhưng Ngài không muốn cho ta phải tùy thuộc vào lối sống trong rừng hay phải dính mắc, kẹt cứng trong trạng thái vắng lặng thanh b́nh. Chúng ta đến đây thực hành để khai triển trí tuệ. Nơi đây, giữa rừng sâu, ta có thể gieo trồng và vun quén đắp bồi hột giống trí tuệ.

 

Living amongst chaos and turmoil these seeds have difficulty in growing, but once we have learned to live in the forest, we can return and contend with the city and all the stimulation of the senses that it brings us. Learning to live in the forest means to allow wisdom to grow and develop. We can then apply this wisdom no matter where we go.

Sống trong cảnh hỗn loạn và phiền nhiễu, những hột giống ấy khó mà sanh sôi nảy nở, nhưng một khi đă học làm quen với lối sống trong rừng ta có thể trở lại sống an vui với thành phố, cùng với tất cả những khuấy động của chốn phồn hoa đô thị. Học sống trong rừng có nghĩa là khơi động, phát triển, làm cho trí tuệ tăng trưởng. Trí tuệ ấy, ta có thể áp dụng vào bất cứ nơi nào.

 

When our senses are stimulated, we become agitated and the senses become our antagonists. They antagonize us because we are still foolish and don't have the wisdom to deal with them. In reality they are our teachers, but, because of our ignorance, we don't see it that way. When we lived in the city we never thought that our senses could teach us anything. As long as true wisdom has not yet manifested, we continue to see the senses and their objects as enemies. Once true wisdom arises, they are no longer our enemies but become the doorway to insight and clear understanding.

Khi giác quan của chúng ta bị khuấy động ta bị kích thích, bồn chồn, và giác quan trở thành kẻ thù nghịch. Nó thù nghịch với ta bởi v́ chúng ta c̣n điên cuồng. Chúng ta không có trí tuệ để đối phó với nó. Đúng ra nó là thầy của ta, nhưng v́ ta c̣n si mê nên không thấy như vậy. Ta quen sống trong thành phố và không bao giờ nghĩ rằng giác quan của ḿnh có thể dạy ḿnh. Ngày nào mà trí tuệ chưa thật sự phát sanh chúng ta vẫn c̣n thấy giác quan và những đối tượng của nó (tức lục căn và lục trần) là kẻ thù. Một khi trí tuệ phát hiện, lục căn và trần cảnh không c̣n là thù nghịch nữa mà trở thành con đường chính, đưa ta vào tuệ minh sát và Chánh Kiến.

 

A good example is the wild chickens here in the forest. We all know how much they are afraid of humans. However, since I have lived here in the forest I have been able to teach them and learn from them as well. At one time I began throwing out rice for them to eat. At first they were very frightened and wouldn't go near the rice. However, after a long time they got used to it and even began to expect it. You see, there is something to be learned here — they originally thought that there was danger in the rice, that the rice was an enemy. In truth there was no danger in the rice, but they didn't know that the rice was food and so were afraid. When they finally saw for themselves that there was nothing to fear, they could come and eat without any danger

Một thí dụ hiển hiện là mấy con gà rừng ở quanh đây. Tất cả quư vị đều biết rằng gà rừng rất sợ người ta. Vậy mà từ ngày Sư về đây, ở trong rừng nầy Sư có thể dạy chúng nó học và Sư cũng học của chúng nữa. Lần nọ Sư rải lúa cho chúng nó ăn. Thoạt tiên chúng nó rất nhút nhát và không dám đến gần mấy hột lúa. Tuy nhiên, sau một thời gian, chúng nó quen đến t́m ăn và c̣n trông chờ Sư cho ăn là khác. Quư Sư thấy không? Có một vài điều ở đây mà ta có thể học hỏi. Lúc ban đầu mấy con gà rừng e sợ v́ nhận thấy có sự hiểm nguy trong những hột lúa, chúng xem lúa là kẻ thù. Trong thực tế, không có hiểm họa trong lúa, nhưng chúng nó không biết rằng lúa chỉ là vật thực, và chúng nó sợ. Khi cuối cùng, tự ḿnh thấy rằng không có ǵ phải sợ, chúng có thể đến ăn mà không có ǵ hại.

 

The chickens learn naturally in this way. Living here in the forest we learn in a similar way. Formerly we thought that our senses were a problem, and because of our ignorance in the proper use of them, they caused us a lot trouble. However, by experience in practice we learn to see them in accordance with Truth. We learn to make use of them just as the chickens could use the rice. Then they are no longer opposed to us and problems disappear.

Những con gà rừng học hỏi như vậy một cách tự nhiên. Sống ở đây, trong khu rừng này, ta cũng học hỏi cùng một thế ấy. Lúc ban sơ, ta nghĩ rằng giác quan của ta là vấn đề tạo khó khăn, và bởi v́ không biết xử dụng nó một cách thích nghi nên ta gặp rất nhiều phiền toái. Tuy nhiên, nhờ kinh nghiệm của pháp hành, ta học được lối nh́n chúng nó thích ứng với Chân Lư. Chúng ta học cách xử dụng giác quan giống như mấy con gà xử dụng hột lúa. Chừng đó giác quan không c̣n là thù nghịch với ta nữa, và bao nhiêu vấn đề khó khăn đều tan biến.

 

As long as we think, investigate and understand wrongly, these things will oppose us. But as soon as we begin to investigate properly, that which we experience will bring us to wisdom and clear understanding, just as the chickens came to their understanding. In this way, we can say that they practiced "Vipassana." They know in accordance with Truth, it's their insight.

Giờ phút nào mà chúng ta c̣n suy tư, quán xét, và hiểu biết lầm lạc th́ những sự vật ấy c̣n là thù nghịch với ta. Nhưng khi ta bắt đầu quán xét chân chánh th́ những ǵ kinh nghiệm sẽ đưa ta đến trí tuệ và hiểu biết chân chánh -- giống như mấy con gà cuối cùng hiểu biết chân chánh. Theo đường lối nầy ta có thể nói rằng mấy con gà thực hành "thiền minh sát". Chúng nó hiểu biết thích ứng với Chân Lư, đó là tuệ minh sát của chúng.

 

In our practice, we have our senses as tools which, when rightly used, enable us to become enlightened to the Dhamma. This is something which all meditator should contemplate. When we don't see this clearly, we remain in perpetual conflict.

Trong pháp hành nầy lục căn: nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ư, là những công cụ mà nếu xử dụng thích nghi, sẽ soi sáng Giáo Pháp cho chúng ta. Đó là điều mà tất cả những ai hành thiền phải quán niệm. Nếu không nhận thức rơ ràng, chúng ta vẫn c̣n sống măi trong t́nh trạng mâu thuẫn và xung đột.

 

So, as we live in the quietude of the forest, we continue to develop subtle feelings and prepare the ground for cultivating wisdom. Don't think that when you have gained some peace of mind living here in the quiet forest that that's enough. Don't settle for just that! Remember that we have to cultivate and grow the seeds of wisdom.

Như vậy, đă sống trong cảnh tĩnh mịch của rừng thiêng chúng ta nên tiếp tục phát triển những cảm giác vi tế và chuẩn bị dọn đất nhằm canh tác trí tuệ. Quư Sư đừng nghĩ rằng ḿnh đă thâu hoạch một vài trạng thái tâm thanh b́nh an lạc giữa khu rừng vắng, và như thế là đủ. Chớ nên yên trí ngừng nghỉ chỉ v́ đă hưởng được bao nhiêu đó! Quư Sư hăy ghi nhớ nằm ḷng rằng chúng ta đến đây để gieo trồng và vun quén hột giống trí tuệ.

 

As wisdom matures and we begin to understand in accordance with the Truth, we will no longer be dragged up and down. Usually, if we have a pleasant mood, we behave one way; and if we have an unpleasant mood, we are another way. We like something and we are up; we dislike something and we are down. In this way we are still in conflict with enemies.

Khi trí tuệ chín mùi và chúng ta bắt đầu hiểu biết thích ứng với Chân Lư, ta sẽ không c̣n bị lôi kéo lên xuống nữa. Thông thường, khi vui ta xử sự khác và khi buồn chúng ta có một lối cư xử khác. Ưa thích, chúng ta phấn khởi, lên tinh thần. Ghét bỏ, chúng ta bực dọc, buồn phiền, giảm suy ư chí. Theo cung cách ấy chúng ta vẫn c̣n xung đột với kẻ thù.

 

When these things no longer oppose us, they become stabilized and balance out. There are no longer ups and downs or highs and lows. We understand these things of the world and know that that's just the way it is. It's just "worldly dhamma."

Khi sự vật không c̣n đối nghịch với ta nó sẽ trở thành ổn định và quân b́nh. Sẽ không c̣n lên xuống hoặc thấp cao. Chúng ta thấu triệt những sự vật của thế gian và hiểu biết rằng đường lối của chúng là vậy. Nó chỉ là thế gian pháp (atthalokadhamma, tám pháp thế gian: được và thua, danh thơm và tiếng xấu, ca tụng và khiển trách, hạnh phúc và đau khổ).

 

"Worldly dhamma"6 changes to become the "Path".7 "Worldly dhamma" has eight ways; the "Path" has eight ways. Wherever "worldly dhamma" exists, the "Path" is to be found also. When we live with clarity, all of our worldly experience becomes the practicing of the "Eightfold Path." Without clarity, "worldly dhamma" predominates and we are turned away from the "Path." When Right Understanding arises, liberation from suffering lies right here before us. You will not find liberation by running around looking elsewhere!

"Thế gian pháp" biến thành "Con Đường" -- tức Bát Chánh Đạo. "Thế gian pháp" có tám. "Con Đường" có tám. Nơi nào có "thế gian pháp" cũng có "Con Đường". Khi chúng ta sống một cách sáng suốt rơ ràng tất cả những kinh nghiệm tại thế của ta trở thành pháp hành "Bát Chánh Đạo". Nếu không sáng suốt rơ ràng, "thế gian pháp" sẽ lấn áp trội lên và chúng ta tách rời, ĺa xa "Con Đường". Khi Chánh Kiến phát sanh, trạng thái giải thoát ra khỏi mọi đau khổ hiện khởi ngay tại đây, trước mắt ta. Quư Sư sẽ không t́m được giải thoát bằng cách chạy rong chạy rỗi nh́n quanh nơi nào khác!

 

So don't be in a hurry and try to push or rush your practice. Do your meditation gently and gradually step by step. In regard to peacefulness, if you want to become peaceful, then accept it; if you don't become peaceful, then accept that also. That's the nature of the mind. We must find our own practice and persistently keep at it.

Như vậy không nên gấp rút và quá sức cố gắng hoặc thực hành hấp tấp. Hăy để cho công phu hành thiền của ḿnh diễn tiến thong thả, nhẹ nhàng, và đều đặn tiến dần từ bước một. C̣n về trạng thái an lạc, nếu cảm nghe an lạc, hăy chấp nhận như vậy. Đó là bản chất của tâm. Phải t́m pháp hành của ta và kiên tŕ giữ vững.

 

Perhaps wisdom does not arise! I used to think, about my practice, that when there is no wisdom, I could force myself to have it. But it didn't work, things remained the same. Then, after careful consideration, I saw that to contemplate things that we don't have cannot be done. So what's the best thing to do? It's better just to practice with equanimity. If there is nothing to cause us concern, then there's nothing to remedy. If there's no problem, then we don't have to try to solve it. When there is a problem, that's when you must solve it, right there!

Có thể trí tuệ không phát sanh! Trước kia Sư thường suy tư về pháp hành, và khi trí tuệ không phát sanh Sư cố ép cho nó đến. Nhưng làm như vậy không có kết quả, không có ǵ thay đổi. Lúc ấy, sau khi thận trọng suy xét, Sư nhận thức rằng không thể quán chiếu cái ǵ mà chính ḿnh không có. Vậy th́ tốt hơn phải làm thế nào? Tốt hơn hết, chỉ thản nhiên chăm chú hành thiền, hành thiền với tâm xả. Nếu không có ǵ làm cho ta lo âu th́ không có ǵ để ta cứu chữa. Nếu không có vấn đề th́ không có ǵ để ta cố gắng giải quyết. Khi có vấn đề, đó chính là lúc mà ta phải giải quyết, ngay vào lúc ấy!

 

There's no need to go searching for anything special, just live normally. But know what your mind is! Live mindfully and clearly comprehending. Let wisdom be your guide; don't live indulging in your moods. Be heedful and alert!

Không cần phải đi đâu t́m kiếm cái ǵ đặc biệt, chỉ sống b́nh thường, nhưng hiểu biết tâm ta ở đâu! Sống với Chánh Niệm và hiểu biết rơ ràng. Hăy để cho trí tuệ hướng dẫn ta, không nên dể duôi chểnh mảng, hờ hững lăn trôi theo những cơn buồn vui tùy hứng. Hăy chuyên cần và giác tỉnh!

 

If there is nothing, that's fine; when something arises, then investigate and contemplate it.

Nếu không có ǵ. Tốt! Khi có ǵ xảy diễn, hăy quán chiếu và suy niệm.

Trang trước    Trang kế