Contents

Mục Lục

§51 Verses of the Arahat Ratthapala  

His family tried to snare him, with the bait of his former wives and good food, into returning to the household life, at which he said:

"Behold a puppet here pranked out,
A body built up out of sores,
Sick, and much object for concern,
Where no stability abides.
Behold a figure here pranked out
With jewelry and earrings too,
A skeleton wrapped up in skin,
Made creditable by its clothes.
Its feet adorned with henna dye
And powder smeared upon its face,
It may beguile a fool, but not
A seeker of the Further Shore.
Its hair is dressed in eightfold plaits
And unguent smeared upon its eyes.
It may beguile a fool, but not
A seeker of the Further Shore.
A filthy body decked without
Like a new-painted unguent pot,
It may beguile a fool, but not
A seeker of the Further Shore.
The deer-hunter sets well the snare
But the deer springs not the trap;
We eat the bait, and we depart,
Leaving the hunters to lament."

— M. 82, trans. Ven. Ñanamoli

§51 Thơ của A-la-hán Ratthapala  

Gia đình của ông tìm cách dụ dỗ ông, với mồi là những người vợ cũ và thức ăn ngon, để trở về đời sống gia đình, ông đã nói rằng:

"Nhìn một con rối ở đây bởn cợt,
Thân được dựng nên bởi ung nhọt,
Bệnh tật, và nhiều điều phải quan tâm,
Nơi sự ổn định không trú ngụ
Nhìn một thân hình ở đây bởn cợt,
Với vòng vàng bông tai trang sức,
Một bộ xương được bọc trong da,
Gợi chiêm ngưỡng bởi y phục của nó.
Chân nó tô điểm bằng thuốc nhuộm henna
Và phấn bôi trên khuôn mặt của nó.
Nó có thể quyến rũ người ngu, chứ không phải
Người đi tìm Bến Giác.
Tóc của nó chải bện thành tám bím
Và dầu bôi trên mắt nó.
Nó có thể quyến rũ người ngu, chứ không phải
Người đi tìm Bến Giác.
Một thân thể dơ bẩn được trang điểm hào nhoáng
Như chiếc bình mới sơn bóng loáng
Nó có thể quyến rũ người ngu, chứ không phải
Người đi tìm Bến Giác.
Người thợ săn đặt bẫy khéo
Nhưng con nai không mắc bẫy;
Chúng ta ăn mồi, và chúng ta ra đi,
Để người thợ săn than thở."

— M. 82, chuyển dịch: HT. Ñanamoli

§52

The vast array of "beauty products," for both male and female, should make people think. If it is so necessary to beautify the body what is it really like?

§52

Có hàng loạt "mỹ phẩm" cho cả nam và nữ khiến người ta phải suy nghĩ. Nếu rất cần thiết để làm đẹp thân thì nó thật sự giống như thế nào?

§53

This impure body
like a wave that rises suddenly,
breaks and disperses.
This impure body
like a speck of dust
in a desert land
where mirages are seen.

— Wijayasiri Amaratunga

§53

Thân bất tịnh này
giống như làn sóng dâng đột ngột,
vỡ và tan rã.
Thân bất tịnh này
giống như đốm bụi
trong sa mạc
nơi ảo ảnh được nhìn thấy.

— Wijayasiri Amaratunga

§54

The body is like a leaky barrel, oozing all the time. But a barrel can be bunged up, while the body must continue oozing its whole life.

§54

Thân này giống như cái thùng bị rò rỉ, rỉ ra mọi lúc. Nhưng cái thùng có thể được bịt lại, trong khi thân phải tiếp tục rỉ ra suốt đời nó.

§55

A drum has four characteristics — it is round in section, covered by hide, is beaten frequently, and emits sound. In the same way the body has four characteristics: it is round in section or fairly much so, it also is covered by hide, it is beaten by the many sorts of physical and mental dukkha, and emits sound — that is, the sounds indicating pleasure which is unreliable and impermanent, and those which accompany sufferings such as weeping and lamentation. And who is the beater? His name is Craving.

§55

Cái trống có bốn đặc tính — thân hình tròn, che bằng da thú, bị đánh thường xuyên, và phát ra âm thanh. Trong cùng một cách, thân có bốn đặc tính: thân hình tròn hay hay gần như vậy, nó cũng được che bởi da, nó bị đánh bởi nhiều loại đau khổ thể chất và tinh thần, và phát ra âm thanh — đúng vậy, âm thanh biểu lộ niềm vui vốn không đáng tin cậy và vô thường, và âm thanh đi cùng với nỗi khổ như khóc lóc và than thở. Và ai là người đánh? Tên của hắn là Ham muốn.

§56

The Buddha said:

"Birth is dukkha,[13] disease is dukkha, decay is dukkha, death is dukkha" — all this is dukkha related to this body. It is interesting that each sort of dukkha has special institutions in Western society to screen it off from the generality of people, who are "in between" these events so to speak. Birth takes place in maternity wards and nursing homes. Other parts of the same hospital take care of "disease." For "decay" we have old peoples' homes and the geriatric wards, while "death" may occur in all such places, the corpse then going on to the undertakers' chapels, and to religious rites. Things hidden away are unhealthy. Look at the dukkha! Look at it!

§56

Đức Phật nói:

"Sinh là khổ,[13] bệnh là khổ, già yếu là khổ, chết là khổ" — tất cả điều này là khổ liên quan đến thân. Đáng chú ý là mỗi loại khổ đều có thể chế đặc biệt trong xã hội Tây phương để sàng lọc nó ra khỏi đa số quần chúng, đại để là những người ở giữa các sự kiện này. Sinh xảy ra ở khu hộ sinh và nhà điều dưỡng. Các bộ phận khác của bệnh viện chăm sóc "bệnh tật." Còn "già yếu" thì chúng ta có nhà dưỡng lão và khu chăm sóc bệnh già, trong khi "chết" có thể xảy ra trong mọi nơi như thế, thì xác chết được mang đến phòng tang lễ của nhà quàng, và cho nghi lễ tôn giáo. Những điều che dấu là không lành mạnh. Hảy nhìn vào khổ! Nhìn vào nó!

§57

When one considers how many things afflict this body, it is a wonder that it keeps going so well and for so long!

Many, many kinds of dukkha!

§57

Khi ta xem xét có bao nhiêu thứ gây đau khổ cho thân này, điều ngạc nhiên là nó cứ tiến triễn tốt và quá lâu!

Nhiều, rất nhiều loại khổ!

§58

There is so much dukkha connected with this body, which people never notice due to shifting around from one position to another. When tired of walking or standing, they sit down; when tired of sitting, they stand or lie down; when they have enough of lying down, they get up. Walking an unexpectedly long distance is dukkha. Standing long in queue is dukkha. Sitting in even a comfortable chair for hours is dukkha. Lying in a hospital bed for days or weeks is dukkha. By changing position we evade the dukkha, or make it less obvious. But when someone starts to meditate, spending hours on walking meditation, hours on sitting meditation — then this bodily dukkha can be felt and investigated.

§58

Có rất nhiều khổ liên kết với thân này, mà người ta không bao giờ nhận thấy do chuyển dịch từ vị trí này sang vị trí khác. Khi cảm thấy mệt vì đi hay đứng, họ ngồi xuống; khi chán ngồi, họ đứng lên hay nằm xuống; khi họ nằm đủ rồi thì họ đứng dậy. Đi bộ một đoạn đường dài bất ngờ là khổ. Đứng lâu trong hàng đợi là khổ. Thậm chí ngồi trong một chiếc ghế thoải mái hàng giờ là khổ. Nằm trong bệnh viện nhiều ngày hay vài tuần là khổ. Bằng cách thay đổi vị trí chúng ta tránh né khổ, hay làm cho nó bớt lộ liểu hơn. Nhưng khi ai đó bắt đầu thiền định, dành hàng giờ cho việc đi hành thiền, ngồi thiền — thì khổ thân này có thể được cảm nhận và quan sát.

§59 Pain and the Body  

"The uninstructed ordinary person, bhikkhu, has a saying: 'There is a bottomless abyss in the great ocean.' But the uninstructed ordinary person speaks of what does not exist, of what cannot be found, that is that there is a bottomless abyss in the great ocean. A designation for painful bodily feeling, bhikkhus, is this term 'bottomless abyss.' When an uninstructed ordinary person experiences painful bodily feeling, he grieves, is afflicted laments, beats his breast, cries out loud and becomes distraught. So it is said, bhikkhus, the uninstructed ordinary person has not emerged from the bottomless abyss, has not obtained a firm foothold.

"But, bhikkhus, when an instructed Noble Disciple experiences painful bodily feeling he does not grieve, is not afflicted, does not lament, nor beat his breast, nor cry out loud, nor become distraught. So it is said, bhikkhus, the instructed Noble Disciple has emerged from the bottomless abyss and has obtained a firm foothold."

— S. XXXVI, 4, trans. Ven. Nyanaponika

§59 Đau và Thân  

Này chư tỳ khưu, một người xuất gia bình thường và không đa văn, nói rằng: 'có vực sâu thăm thẳm trong đại dương.' Nhưng người xuất gia bình thường và không đa văn nói về cái không tồn tại, không thể tìm thấy, đó là có vực sâu thăm thẳm trong đại dương. Tên đặt cho cảm giác khổ thân, này chư tỳ khưu, là từ ngữ 'vực sâu thăm thẳm' này. Khi một người xuất gia bình thường và không đa văn, trải nghiệm cảm giác khổ thân, ông ta đau đớn, buồn bã, than thở, đấm ngực, khóc lóc và trở nên quẫn trí. Này chư tỳ khưu, vì vậy người ta nói rằng, người xuất gia bình thường và không đa văn đã không nổi lên từ vực sâu thăm thẳm, đã không có được chỗ đứng vững chắc.

"Nhưng, này chư tỳ khưu, khi bậc đa văn Thánh Đệ tử trải nghiệm cảm giác khổ thân, ông ấy không đau đớn, không buồn bã, không than thở, cũng không đấm ngực, cũng không khóc lóc, cũng không trở nên quẫn trí. Này chư tỳ khưu, vì vậy người ta nói rằng, vị đa văn Thánh Đệ tử đã nổi lên từ vực sâu thăm thẳm và đã có được chỗ đứng vững chắc."

— S. XXXVI, 4, chuyển dịch: HT. Nyanaponika

§60 This "form" (=body)  

"Why does one say 'form' (rupa)? It is deformed (ruppati), that is why it is called 'form.' Deformed by what? By cold and heat and hunger and thirst, by contact with mosquitoes, flies, wind, sunburn, and creeping things."

— S. XII, 79, trans. Ven. Ñanamoli

§60 "Hình dạng" (=thân) này  

"Tại sao người ta nói 'hình dạng' (rupa)? Nó bị biến dạng (ruppati), đó là lý do tại sao nó được gọi là 'hình dạng.' Biến dạng bởi cái gì? Bởi lạnh và nóng và đói và khát, bởi tiếp xúc với muỗi, ruồi, gió, cháy nắng, và những thứ đáng ghét."

— S. XII, 79, chuyển dịch: HT. Ñanamoli

§61

One could play similar word games in English: Why is it called a body? Because it is one's abode, therefore it is a body; or again because it bodes no good, therefore it is a body — though this is rather pessimistic perhaps. To balance up one could etymologize thus: It is called a body since depending on it bodhi is discovered.

§61

Người ta có thể chơi trò chơi chữ tương tự bằng Anh ngữ: Tại sao nó được gọi là body? Bởi vì nó là abode (chỗ ở) của người ta, do đó nó là body; lại nữa đó là vì nó bodes no good (báo trước điềm xấu), do đó nó là body — tuy nhiên điều này có lẻ khá bi quan. Để cân bằng người ta có thể giữ nguyên từ, do đó: Nó được gọi là body (thân) bởi vì dựa vào nó bodhi (bồ đề) được phát hiện.

§62 The Body's Needs as the Buddha Summarized Them  

Clothing to cover it,
food to sustain it,
shelter to keep it from harm,
and medicine to cure it.
Buddhist monks recollect these four "supports" every day.
A way of cutting down greed:
Few and simple clothes cover it,
enough wholesome food sustains it,
a small shelter keeps it from harm,
and appropriate medicine cures it.
How many sets of clothes can you wear at once?
How many different dishes do you need to eat?
How much room does this body fill?
How may pills and powders to keep in health?

§62 Nhu Cầu của Thân như Đức Phật Tóm Tắt về Chúng  

Y phục để che phủ nó,
thức ăn để duy trì nó,
nơi trú ẩn để giữ cho nó không bị hại,
và thuốc men để chữa trị nó.
Tu sĩ Phật giáo ghi nhớ bốn điều "chủ yếu" này mỗi ngày.
Một cách để cắt giảm lòng tham:
Chút ít y phục đơn giản để che phủ nó
vừa đủ thức ăn lành mạnh để duy trì nó,
một nơi trú ẩn nhỏ để giữ cho nó không bị hại,
và thuốc men thích hợp để chữa trị nó.
Bạn có thể mặc bao nhiêu bộ y phục cùng một lúc?
Bạn cần ăn bao nhiêu món khác nhau?
Thân này lấp đầy bao nhiêu phòng?
Thuốc viên và bột có thể giữ gìn sức khỏe như thế nào?

§63 Greed and the Body  

There's a wardrobe with lots of clothes to cover your body. Are they all needed? (There are some clothes-less poor in this world.)

There is a pantry (a refrigerator and a freezer?), stacked with food. Is all that variety and quantity needed? (There are people starving in this world.)

There's the house one lives in with its furnishings. Is it too large or too luxurious? (There are house-less people in this world.)

There's that medicine chest of pills and creams and whatnot. Can you use them all? Are they all needed? (How many people have no medicine in this world?)

§63 Tham và Thân  

Một cái tủ với rất nhiều quần áo để che thân bạn. Tất cả những thứ này có cần thiết không? (Có một số người nghèo thiếu quần áo trong thế giới này.)

Một cái phòng chứa thức ăn (tủ lạnh và tủ đá?), chất đầy thực phẩm. Đủ mọi loại phẩm và lượng như thế có cần thiết không? (Có người đói trong thế giới này.)

Một cái nhà với nhiều đồ trang trí nội thất. Nó có quá lớn hay quá xa xỉ không? (Có người vô gia cư trong thế giới này.)

Một cái tủ thuốc với thuốc viên và kem và những thứ tương tự. Bạn có thể dùng tất cả chúng không? Hết mọi thứ đó có cần thiết không? (Có bao nhiêu người không có thuốc men trong thế giới này?)

§64 Overeating? Gluttony?  

Then read these verses:

The food and drink so greatly prized —
The crisp to chew, the soft to suck —
Go in all by a single door,
But by nine doors[14] come oozing out.
The food and drink so greatly prized —
The crisp to chew, the soft to suck —
Men like to eat in company,
But to excrete in secrecy.
The food and drink so greatly prized —
The crisp to chew, the soft to suck —
These a man eats with high delight,
And then excretes in dumb disgust.
The food and drink so greatly prized —
The crisp to chew, the soft to suck —
A single night will be enough
To bring them to putridity.

The Path of Purification, Ch. XI, para. 23

(Remember while eating!)

§64 Ăn Quá Độ? Ham Ăn?  

Vậy thì đọc những câu này:

Thức ăn và nước uống rất được yêu thích —
Giòn để nhai, mềm để hút —
Tất cả đi vào bằng một cửa duy nhất, —
Nhưng đi ra bằng chín cửa.
Thức ăn và nước uống rất được yêu thích —
Giòn để nhai, mềm để hút —
Đàn ông thích có bạn khi ăn uống,
Nhưng bài tiết trong âm thầm lặng lẽ.
Thức ăn và nước uống rất được yêu thích —
Giòn để nhai, mềm để hút —
Người ta ăn vào một cách thú vị,
Và sau đó bài tiết trong trì độn gớm ghiếc.
Thức ăn và nước uống rất được yêu thích —
Giòn để nhai, mềm để hút —
Chỉ một tối là sẽ đủ
làm cho chúng bị hôi thối.

Con Đường Thanh Tịnh, Chương XI, đoạn 23

(Ghi nhớ khi ăn!)

§65 Reflections on a Loo  

Earth and water elements inside
press to get out,
all that solid food, and drink
ingested, must be in time extruded.
No polished "sanitary ware"
adorns my forest loo
all natural
a wooden platform raised upon a pit.
Where I walk up and down
pacing steadily to still the mad mind,
at the end surrounded by trees —
my lovely loo.
Trees with asbestos sheeting broken up
nailed to the trunks — for privacy,
where only trees can watch
bored — but nourished — by this necessity.
To climb up to my toilet
six feet up swaying with the trunks
of trees, two logs are driven in the ground
as steps up to the throne.

A platform with a hole
through which one can look down
ten feet to the papered pit below
and watch the great black dung-
beetles at work burying the mess,
hygienic from our point of view
but what a birth to get,
perhaps for perverters and pornographers?
Anyway, I squat lordly far above
while water and earth elements within
join water and earth elements without.
when within I call them "mine";
when in the pit they're not me —
where does the change take place?
Strange mind which loves this stinking form
But loathes the stink down there.
Rejoicing in fine flavors,
Detesting stench and excrement:
"I" am made up of all this
rejoicing and detesting.

— 'Pansa' (Vassa, the Rains) 2515/1972

§65 Quán Chiếu Nhà Vệ Sinh  

Yếu tố đất và nước bên trong
ép để tống ra,
tất cả thức ăn, và nước uống
đã nuốt vào, phải được đẩy ra đúng lúc.
Không có thuốc chùi rửa vệ sinh nào
tô điểm nhà vệ sinh rừng rú của tôi
chỉ là thiên nhiên
một tấm ván đặt trên cái hố.
Nơi tôi đi lên và xuống
đều đặn cất bước cho tĩnh lặng cái tâm điên cuồng,
với hàng cây bao bọc phía sau —
nhà vệ sinh đáng yêu của tôi.
Cây với tấm tôn rách nát
đóng vào thân cây — cho kín đáo,
nơi mà chỉ có cây mới có thể xem
nhàm chán — nhưng dinh dưỡng — bởi nhu cầu thiết yếu này.
Để leo lên nhà cầu vệ sinh của tôi
bước sáu feet trên thân cây lắc lư
hai khúc gỗ đóng xuống đất
như bước lên ngai vàng.

Một tấm ván có khoét lỗ
qua đó người ta có thể nhìn xuống
hố giấy sâu mười feet
và nhìn thấy những con bọ hung
miệt mài chôn mớ hỗn tạp,
hợp vệ sinh theo quan điểm của chúng ta
nhưng sinh ra như thế,
có lẽ cho những kẻ biến thái và săn ảnh khiêu dâm?
Dù sao đi nữa, tôi ngồi xổm chểm chệ tuốt bên trên
trong khi yếu tố đất và nước bên trong
kết hợp với yếu tố đất và nước bên ngoài.
khi ở bên trong tôi gọi chúng là "của tôi";
khi ở trong hố chúng không phải là tôi —
sự thay đổi diễn ra ở đâu?
Lạ lùng thay tâm ưa thích hình hài hôi thối này
Nhưng ghê tởm mùi hôi thối dưới kia.
Ưa thích hương vị thơm ngon,
Ghê tởm mùi hôi và phân bài tiết:
"Tôi" được làm ra từ tất cả những điều này
ưa thích và ghê tởm.

— 'Pansa' (Vassa, Mùa Mưa) 2515/1972

§66

Food arranged nicely on plates is attractive to the eyes and nose. "It looks good!" — "It smells goods!" — people say. When it reaches the mouth it is attractive to the tongue and touch. They say "How good it tastes!" or "Real crunchy!" (crackly, creamy, or whatever). But just spit it out — attractive to the eyes now or not? Greed can only arise if conditions are right for it. And how attractive is the same food spewed up after a few hours in the belly? It becomes even less desirable when after a day or two its remains are expelled. Three stages for contemplation!

§66

Thức ăn xếp đặt đẹp đẽ trên dĩa gợi hấp dẫn cho mắt và mũi. "Nó trông ngon quá!" — "Nó thơm quá!" — người ta nói. Khi vào miệng nó gợi hấp dẫn cho lưỡi và xúc giác. Họ nói "Nó có vị ngon quá!" hay là "Thật giòn!" (giòn tan, béo ngậy, v.v.) Nhưng khi nhổ nó ra — còn hấp dẫn đôi mắt nữa không? Ham muốn chỉ có thể phát sinh nếu gặp điều kiện thích hợp. Và khi thức ăn đó bị ói ra sau vài giờ trong bụng có còn hấp dẫn không? Nó thậm chí trở nên kém hấp dẫn hơn khi phần còn lại của nó bị tống ra sau một hay hai ngày. Ba giai đoạn để quán chiếu!

§67

As the meditator finds out, without food the body becomes weak, with much food it is heavy and disturbed: two kinds of dukkha. The only way is to know moderation in food, neither altogether abstaining, which can easily become the extreme of self-mortification; nor overeating, which is just the other extreme of sensual pleasure.

§67

Như hành giả nhận ra rằng, không có thức ăn thân trở nên yếu đuối, với nhiều thức ăn nó nặng nề và khó chịu: hai loại khổ. Cách duy nhất là biết điều độ trong việc ăn uống, không hoàn toàn kiêng ăn, vì có thể dễ dàng trở thành cực đoan của việc tự hành xác; cũng không ăn quá độ, vì đó chỉ là cực đoan của khoái cảm.

§68 Remind Yourself:  

"This requisite that accrued to me —
it's just mere various elements,
that is, these clothes
and the person using them —
just elements,
not a person,
not a being,
just void.

"This requisite that accrued to me —
it's just mere various elements,
that is, this shelter
and the person using it —
just elements,
not a person,
not a being,
just void.

"This requisite that accrued to me —
it's just mere various elements,
that is, this food
and the person using it —
just elements,
not a person,
not a being,
just void.

"This requisite that accrued to me —
it's just mere various elements,
that is, this medicine
and the person using it —
just elements,
not a person,
not a being,
just void."

— Translated from a traditional Pali recollection, "Yatha paccayam..."

§68 Nhắc Nhở Bản Thân:  

"Nhu cầu thiết yếu này tích lũy trong tôi —
nó chỉ là các yếu tố khác nhau,
đúng vậy, những y phục này
và người sử dụng chúng —
chỉ là các yếu tố,
không phải là người,
không phải là chúng sinh,
chỉ trống không.

"Nhu cầu thiết yếu này tích lũy trong tôi —
nó chỉ là các yếu tố khác nhau,
đúng vậy, nơi trú ẩn này
và người sử dụng nó —
chỉ là các yếu tố,
không phải là người,
không phải là chúng sinh,
chỉ trống không.

"Nhu cầu thiết yếu này tích lũy trong tôi —
nó chỉ là các yếu tố khác nhau,
đúng vậy, thức ăn này
và người sử dụng nó —
chỉ là các yếu tố,
không phải là người,
không phải là chúng sinh,
chỉ trống không.

"Nhu cầu thiết yếu này tích lũy trong tôi —
nó chỉ là các yếu tố khác nhau,
đúng vậy, thuốc men này
và người sử dụng nó —
chỉ là các yếu tố,
không phải là người,
không phải là chúng sinh,
chỉ trống không."

— Chuyển dịch từ một bài sưu tầm cổ ngữ Pali "Yatha paccayam..."

§69 A Fleck of Foam  

At one time the Lord was staying at Ayojjhaya on the bank of the river Ganges. There the Lord addressed the bhikkhus as follows: "Suppose, bhikkhus, a large fleck of foam were floating on this river Ganges and a clear-sighted man were to see it, observe it and properly examine it. Having done this it would appear to him to be empty, insubstantial, without essence — for what essence could there be in a fleck of foam?

"In the same way, bhikkhus, whatever body, past, future, or present, in oneself or external, gross or subtle, inferior or superior, far or near, that a bhikkhu sees, observes and properly examines... It would appear to him to be empty, insubstantial, without essence — for what essence could there be in a body?..."

The Kinsman of the Sun made clear:

Form compared to a fleck of foam,
Feeling to a bubble compared,[15]
And perception to a mirage,
Thoughts compared to a plantain-tree[16]
And consciousness to a magical trick.

— from S. XXII, 95

§69 Bọt Nước  

Có lần Thế Tôn ngụ tại Ayojjhaya bên bờ sông Hằng. Ở đó Thế Tôn nói với các tỳ khưu như sau: "Giả sử, này các tỳ khưu, một đám bọt lớn nổi trên sông Hằng này và một người sáng suốt đã nhìn thấy nó, quan sát nó và xem xét nó đúng đắn. Khi làm điều này, ông thấy nó như là trống rỗng, mong manh, không có phẩm chất — vì phẩm chất nào có thể có trong đám bọt?

"Tương tự như vậy, này các tỳ khưu, bất cứ cái thân nào, quá khứ, tương lai, hay hiện tại, trong chính mình hay bên ngoài, thô thiển hay tinh tế, kém cỏi hay thượng đẳng, xa hay gần, mà một tỳ khưu nhìn thấy, quan sát và xem xét đúng đắn... Ông thấy nó như là trống rỗng, mong manh, không có phẩm chất — vì phẩm chất nào có thể có trong cái thân?..."

Đấng bà con mặt trời đã giảng rõ:

Sắc ví với đám bọt,
Thọ ví với bong bóng,[15]
Tưởng ví với ảo ảnh,
Hành ví với cây chuối[16]
Và thức ví với ảo thuật.

— S. XXII, 95

§70

"My" body, but mosquitoes like to suck its blood.
"My" body, but fleas and bugs find on it a feeding place.
"My" body, nits and lice enjoy it too.
"My" body, which makes a cattle-tick a meal.
"My" body, where worms live happily.
"My" body, attacked by microscopic foes.
"My" body, sure it gets sick without permission.
"My" body, which is not well though I want it so.
"My" body, getting old from day to day.
"My" body, though I want youth, ever ages.
"My" body, goes and dies against my cries.
"My" body, buried or burned to elements turned.
"My" body — how come?
"My" ? Who's the owner here?

§70

Thân "của tôi", nhưng muỗi thích hút máu nó.
Thân "của tôi", nhưng ruồi bọ xem nó là nơi ăn uống.
Thân "của tôi", họ hàng nhà chí cũng thích nó.
Thân "của tôi", là thức ăn của bọ gia súc.
Thân "của tôi", nơi côn trùng sống vui vẻ.
Thân "của tôi", bị tấn công bởi kẻ thù siêu vi.
Thân "của tôi", chắc chắn là nó bị đau mà không cần xin phép.
Thân "của tôi", không mạnh khỏe dù tôi muốn như vậy.
Thân "của tôi", mỗi ngày một già đi.
Thân "của tôi", dù tôi muốn trẻ, cứ già mãi.
Thân "của tôi", ra đi và chết bỏ mặc tôi khóc.
Thân "của tôi", bị chôn hay thiêu đốt thành các yếu tố.
Thân "của tôi" — tại sao vậy?
"Của tôi" ? Ai là chủ nhân ở đây?

§71 A Rationalist and a Buddhist  

B. Whose is that body?

R. It's mine, of course!

B. Better be careful with that "of course." Anyway, how do you know it's your body?

R. Well, I see it — every day for years.

B. So it's yours because you see it?

R. Yes. Besides, I feel it's mine.

B. O.K. So that's another reason why it belongs to you. You feel it — right?

R. Sure! It feels like me.

B. Any other evidence that it's yours? What about the other senses?

R. I suppose you could say that I hear it too. My guts gurgle and my feet thump the deck. Of course it smells like me too. Taste? Oh I don't think that helps identify it very much. So that's all the senses, and they tell me that it is mine.

B. You've left out the most important sense — the mind. That tells you "this is my body" all the time...

R. Yes, if you want to call mind a sense. Yes, it identifies what is mine and what is not.

B. Well, I don't think it is so easy to tell what is one's own and what is not.

R. Oh, that's easy. I have power over what is mine — like my own bank-account. I can do what I like with it.

B. I see that you have a bandaged finger. Show me how much power you have over it by healing it instantly!

R. Can't do that, you know. It's not natural!

B. Well now, what is natural? And does power over a thing signify ownership? For instance, that bit of dead wood over there. Is it myself?

R. Oh, come on... of course not!

B. But it's quite natural, and one can do nothing about making it live again. When it lived, that life was conditioned by many factors, now it's dead because of those factors' change. Yet you say "my body"!

T. It is mine! It has belonged to me since I was born!

B. Righto! Then "your" body, which you can't heal — at least you know when it is going to die?

R. No... (faltering) I've no idea... but...

B. But it's your body, and you can't cure it, can't stop it getting old, can't stop it dying, you don't even know when that body's going to die. But still it's your body. How much yours?

(Silence)

B. And who is the owner anyway?

(Silence)

§71 Một Lý Luận Gia và một Phật Tử  

P. Thân đó là của ai?

L. Tất nhiên nó là của tôi!

P. Tốt hơn hảy cẩn thận với từ ngữ "tất nhiên" đó. Mà này, làm sao ông biết nó là thân của ông?

L. Thì tôi nhìn thấy nó — mỗi ngày hàng bao nhiêu năm.

P. Vậy nó là của ông vì ông nhìn thấy nó?

L. Đúng vậy. Bên cạnh đó, tôi cảm thấy nó là của tôi.

P. Được rồi. Vậy đó là một lý do khác tại sao nó thuộc về ông. Ông cảm thấy nó — đúng không?

L. Chắc chắn rồi! Nó cảm thấy như tôi.

P. Có bằng chứng nào khác cho thấy nó là của ông? Còn các giác quan khác thì sao?

L. Tôi cho rằng ông có thể nói là tôi cũng nghe nó. Bụng tôi kêu ọc ạch và chân tôi nện trên sàng. Tất nhiên nó cũng ngửi giống như tôi. Nếm? Ồ tôi không nghĩ điều đó giúp nhận ra nó mấy. Đó là tất cả các giác quan, và chúng nói với tôi rằng nó là của tôi.

P. Ông chừa lại giác quan quan trọng nhất — tâm. Cái đó nói với ông "đây là thân của tôi" khắp mọi lúc...

L. Vâng, nếu ông muốn gọi tâm là một giác quan. Vâng, nó xác định cái gì là của tôi và cái gì không.

P. Chà, tôi không nghĩ dễ dàng để nói cái gì của mình và cái gì không.

L. Ồ, dễ chứ. Tôi có quyền lực đối với cái gì là của tôi — như tài khoản ngân hàng của tôi. Tôi có thể làm những gì tôi thích với nó.

P. Tôi thấy ông có một ngón tay bị băng bó. Chỉ cho tôi thấy ông có bao nhiêu quyền lực đối với nó bằng cách chữa lành nó ngay lập tức!

L. Không thể làm được điều đó, ông biết mà. Nó không tự nhiên!

P. Vậy thì, cái gì là tự nhiên? Và việc có quyền lực đối với một thứ nào có biểu thị quyền sở hữu không? Ví dụ, mảnh gỗ mục ở đằng kia. Nó có phải là bản thân tôi không?

L. Ồ, thôi mà... tất nhiên là không!

P. Nhưng nó khá tự nhiên, và người ta không thể làm gì để cho nó sống lại. Khi nó sống, cuộc sống đó tùy thuộc vào nhiều yếu tố, bây giờ nó chết vì sự thay đổi của các yếu tố đó. Thế mà ông nói "thân của tôi"!

L. Nó là của tôi! Nó thuộc về tôi từ khi tôi sinh ra đời!

P. Đồng ý! Vậy thì thân "của ông", mà ông không thể chữa lành — ít nhất ông biết khi nào nó sẽ chết chứ?

L. Không... (ngập ngừng) tôi không biết... nhưng...

P. Nhưng nó là thân của ông, và ông không thể chữa lành nó, không thể ngăn nó già đi, không thể làm cho nó không chết, ông thậm chí không biết khi nào cái thân đó sẽ chết. Nhưng nó vẫn là thân của ông. Bao nhiêu là của ông?

(Yên lặng)

P. Và ai là chủ nhân đây?

(Yên lặng)

§72 Not Yours  

"This body, bhikkhus, is not yours nor is it others'. It should be seen as produced by past kamma, volitions, and feelings. Regarding this, the learned noble disciple thoroughly and systematically attends to dependent origination: This being, that is; from the arising of this, that arises; this not being, that is not; from the cessation of this, that ceases. That is to say: Unknowing conditions kamma-formations..."

— S. II. 37

§72 Không Phải Của Ông  

"Này các tỳ khưu, thân này không phải của ông hay của ai khác. Nó nên được xem như tạo ra bởi nghiệp, ý chí, và cảm giác trong quá khứ. Về điều này, bậc đa văn thánh đệ tử chú ý đến lý nhân duyên một cách triệt để và có hệ thống: Cái này như vậy, thì có cái kia; do sự phát sinh của cái này, cái kia phát sinh; cái này không hiện hữu, cái kia không; do sự chấm dứt của cái này, cái kia chấm dứt. Điều đó có nghĩa là: Nghiệp hình thành phụ thuộc vào các điều kiện không rõ (Nghiệp hình thành do duyên khởi)..."

— S. II. 37

§73

The brain proclaimed: "I'm the boss here. Get up instantly, lazy bones!"

Groans from the bones: "I'm broken! I'm smashed! Who are you ordering around anyway? Yeah, who is he? Garn! We boss the lot, unless we are whole the contraption can't stand!"

Outcry from the tendons: "You bones'll stand up by yourselves, will yer? Won't do without us! Just fall to bits, a right skelington!"

A howl from the heart: "What are you all quarreling about? No one gets anywhere without me, Old Brain least of all!"

A grunt from the guts: "Now don't you get superior, heart! Where you goin-a-be without us workers sending you food?"

Clamor from the kidneys: "Fine mess you'll be in without us!"

Loud laugh from the lungs: " 'Ere, wotcha gonna do without us twin windbags? Won't get very far, will yer?"

Shriek from the skin: "Shudup the lot of you! I wrap you all up so that you don't look like a butcher's shop!"

And so the debate went on but no master could be found.

§73

Não tuyên bố: "Tôi là chủ ở đây. Đứng dậy ngay lập tức, đám xương lười biếng!"

Xương rên rĩ: "Tôi bị gãy! Tôi bị dập! Chớ ông là ai mà ra lệnh ở đây? Đúng rồi, ông ta là ai? Hừ! Chúng ta là chủ lô, trừ khi chúng ta là cả bộ máy không thể đứng được!"

Gân la lối: "Này xương, chắc các ông sẽ tự mình đứng lên được à? Sẽ không làm được nếu không có chúng tôi! Chỉ té ngã tan tành!"

Tim tru tréo: "Các ông cải cọ gì vậy? Không ai đi đến đâu nếu không có tôi, nhất là bộ não!"

Bụng càu nhàu: "Này tim, ông đừng ra vẻ hống hách! Ông sẽ đi đến đâu nếu không có chúng tôi làm việc để mang thức ăn cho ông?"

Thận la hét: "Ông sẽ là mớ hỗn tạp nếu không có chúng tôi!"

Phổi lớn tiếng cười: "Á à, ông làm được gì nếu không có cặp túi gió chúng tôi? Sẽ chẳng cầm cự được lâu, đúng không?"

Da rít lên:'Các ông im đi! Nhờ tôi bao bọc tất cả lại mà các ông trông không giống như gian hàng thịt!"

Và thế là cuộc tranh luận cứ tiếp tục nhưng không thể tìm thấy chủ nhân.

§74 Holes and holiness  

Unfillable hole
this whole body
look at it — hollow
holes for food in
and holes for muck out
holes for air both in and out
down to hollow lungs,
below is a hole of a belly
and yards of hollow tubes
a big hole of a bladder
holes everywhere;
some senses lurk in hollows —
eye-holes, ear-holes too,
the tongue in its hollow mouth
the air-holes holding smell;
one great big hole, hollow
the whole of this body
wholly empty
wholly void
all holes
wholly insubstantial
hollow..........hollow
the way to holiness.

§74 Cái Lỗ và sự Trống Rỗng  

Cái lỗ không thể lấp
toàn thân này
xem kìa — trống rỗng
lỗ cho thức ăn vào
và lỗ cho chất bẩn ra
lỗ cho không khí ra vào
qua hai lá phổi rỗng,
dưới là hố bao tử
và hàng thước ống rỗng
một bồ bọng đái
lỗ ở khắp nơi;
có người cảm thấy chỗ ẩn núp trong hốc —
hốc mắt, lỗ tai nữa,
lưỡi trong cái miệng rỗng của nó
lỗ chân lông giữ mùi;
một lỗ rất lớn, trống rỗng
nguyên cả thân này
hoàn toàn trống rỗng
hoàn toàn không
tất cả các lỗ
hoàn toàn không có phẩm chất
trống rỗng..........trống rỗng
đường đến sự trống rỗng.

§75

We take a bag to go shopping, and it gets filled up with what we want, if we pay the price.

In the same way this skin bag gets filled up, according to our desires. And we pay the price: old age and death.

§75

Chúng ta lấy cái túi đi mua sắm, và nó được lấp đầy với những gì chúng ta muốn, nếu chúng ta trả giá.

Tương tự như vậy, túi da này được lấp đầy, theo mong muốn của chúng ta. Và chúng ta trả giá: tuổi già và cái chết.

§76 The Discourses on the Arrow  

The Buddha:

Here life's for mortals, wretched and brief, unknown its end; incalculable and 'tis to dukkha joined.

That those who are born will never die no means are there indeed!

Having reached decay there's death, thus is the law for beings.

As for fruit that is ripe there's always fear of falling so for mortals who are born there's always fear of death.

Just as vessels made of clay by a maker of pots all end by being broken, so death is (the end) of life.

The young and those who're great in age, the fools together with the wise, all go under the sway of death, for all death is the goal.

Those who are overcome by death and going to another world, the father cannot protect his son, nor relatives their kin.

While relatives are watching, weeping and lamenting, see mortal beings one by one led as an ox to slaughter.

As the world is thus afflicted by death and by decay, therefore the wise grieve not knowing the nature of the world.

Their path you do not know by which they come, by which they go.

Neither end is seen by you, useless your lament!

If then by lamenting benefits were obtained then the wise would do so, a fool just hurts himself.

Not by crying nor by grief the mind attains to peace but still more dukkha is produced, the body as well is harmed.

One becomes both pale and thin — one merely hurts oneself, not thus are the dead protected, it's useless to lament!

By not forsaking grief one goes to greater dukkha, bewailing those who've died, one's in the sway of grief.

See other men who go along, go according to kamma, so beings tremble here with fear come under the sway of death.

However they conceive it, it's quite other than that, just so is separation — see the nature of the world!

Though one lived for hundred years or even more, such a man is separated from his kin and here he leaves his life.

So having heard the arahats, give up your lamentation.

Seeing the corpse (one should think): "He'll not be met by me again."

As a burning house with water should be extinguished,[17] so one wise and steadfast, a man who's wise in wholesomeness quickly is rid of arisen grief as wind a tuft of down.

One who desires his own happiness: let him pull out his own arrow — lamentations and longings, the grief that's in himself.

Arrow withdrawn, unattached, the mind attains to peace, passed beyond all grief, griefless and extinguished.

— Salla Suttas, Sutta-nipata, verses 574-593

§76 Kinh Mũi Tên  

Đức Phật:

Đây là đời sống cho loài người, khốn khổ và ngắn ngủi, không biết kết cuộc; vô định và ràng buộc với khổ.

Rằng những ai sinh ra sẽ không bao giờ chết quả thật là điều vô lý!

Sau khi già là chết, đó là luật an bài cho chúng sinh.

Như quả chín muồi thì luôn sợ bị rụng vì thế những ai sinh ra ở đó luôn sợ chết.

Như mọi bình sứ tạo bởi thợ làm đồ gốm đều đi đến kết thúc là bị vỡ, thì cũng vậy chết là (sự kết thúc) của cuộc sống.

Người trẻ và già, ngu cũng như khôn, đều bị chết chi phối, vì cuối cùng cũng chết.

Những ai qua đời và đi đến thế giới khác, cha không thể bảo vệ con trai mình, hay bà con cứu nhau.

Khi người thân đứng xem, khóc lóc và thương tiếc, thấy từng người đi đến chết như bò bị mang đi giết.

Vì thế giới bị chi phối bởi chết và già, người khôn không buồn vì biết đời là thế.

Con đường của họ ông không biết họ đến như thế nào, và đi về đâu.

Không thấy cả hai ngã, ông than khóc cũng vô ích!

Nếu than khóc mà có lợi thì người khôn sẽ làm như vậy, kẻ ngu chỉ làm tổn thương chính mình.

Không phải vì khóc lóc hay than thở mà tâm được bình yên ngược lại chỉ tích lũy thêm đau khổ, thân cũng bị tổn hại.

Người ta trở nên xanh xao và gầy ốm — họ chỉ làm tổn thương mình, mà người chết cũng không được bảo vệ, than thở vô ích!

Do không ngừng than khóc người ta thêm đau khổ, tiếc thương người đã chết, họ bị chi phối bởi nỗi đau buồn.

Hảy xem người khác thuận theo nghiệp báo, chúng sinh run rẩy sợ hãi là bị chi phối bởi thần chết.

Cho dù họ nghĩ về nó như thế nào, nó thật khác như thế, chỉ là phân ly — thấy bản chất của đời!

Mặc dù một người sống hàng trăm năm hay hơn nữa, rồi họ cũng tách biệt người thân và giã từ cuộc đời.

Vì vậy sau khi nghe bậc A-la-hán thuyết giảng, hảy từ bỏ than thở.

Nhìn thấy xác chết (người ta nên nghĩ rằng): Người ấy sẽ không được gặp lại tôi nữa."

Như một căn nhà cháy nhờ nước mà lửa bị dập tắt,[17] cũng vậy người khôn ngoan và kiên định, người có trí tuệ thiện xảo sẽ nhanh chóng nhiếp phục đau buồn như gió thổi bay cụm lông.

Người mong muốn hạnh phúc của chính mình: hảy để ông ta rút mũi tên của mình ra — than thở và tiếc nuối, nỗi đau buồn đó là trong chính ông ta.

Mũi tên được rút ra, không ràng buộc, tâm đạt được bình an, vượt qua mọi ưu sầu, tâm không sầu và tịch tịnh.

— Salla Suttas, Sutta-nipata, câu 574-593

§77 The Discourse on Old Age.[18]  

[The Buddha:]

Short indeed is this life —
within a hundred years one dies,
and if anyone lives longer
then he dies of decay.
People grieve for what is "mine":
indeed possessions are not permanent
and this is subject to destruction —
see this and homeless dwell!
In death it is abandoned
yet man thinks "it is mine."
Knowing this, the wise man devoted to me
should not stoop down to making "his own."
As a man awake sees not
the things he met in sleep,
so too the one beloved is not seen
having departed and done his time.
People now are seen and heard
and thus are called by name,
but alone shall the name remain
for the departed to be spoken of.
The greedy in "mine"-making do not give up
sorrow, lamentation, avarice
therefore sages leaving possessions
have wandered about, Seers of the Secure.

For a bhikkhu practicing seclusion,
keeping company with the secluded mind,
all are agreed and say of him
"He should not show himself again in becoming!"
The sage is unsupported in all circumstances,
nothing he makes dear nor what is not dear,
sorrow and avarice stain him not,
just as water stays not upon a leaf.
As a water-drop upon a lotus plant,
as water does not stain a lotus flower,
even so the sage is never stained
by what has been seen, heard and sensed by him.
Certainly the wise man does not conceive
by what has been seen, heard and sensed,
nor through another does he wish for purity
for he is not attached nor yet is he displeased.

— Jara Sutta, Sutta-nipata, verses 804-813

§77 Kinh Già.[18]  

Đức Phật

Đời sống thật ngắn ngủi —
trong trăm năm rồi chết,
và nếu ai sống lâu hơn
thì họ chết vì già.
Người ta đau buồn vì cái là "của tôi":
Thật sự vật sở hữu không vĩnh cửu
và tất bị hủy hoại —
thấy điều này và sống đời không nhà!
Khi chết nó bị bỏ rơi
nhưng người ta vẫn nghĩ "nó là của tôi."
Biết vậy, kẻ trí lắng nghe tôi
không nên hướng đến việc "chấp thủ".
Như người thức tỉnh không thấy
những gì trong chiêm bao,
cũng vậy, người thương không được thấy
đã giã biệt và xong đời sống này.
Người ta giờ được thấy và nghe
và họ được gọi tên,
nhưng chỉ còn tên ở lại
khi nhắc đến người ra đi.
Kẻ tham đắm "cái của tôi" không ngừng
buồn khổ, than van, tham vọng
do đó bậc thánh hiền từ bỏ sở hữu
sống đời tự do, thấy được sự An ổn.

Đối với tỳ khưu thực hành sống ẩn dật,
luôn giữ tâm cô tịch,
mọi người đồng ý và nói rằng
"Ông ấy không nên thể hiện bản ngã nữa trong đời sống!"
Bậc thánh hiền không lệ thuộc trong mọi hoàn cảnh,
ông không yêu thương và cũng không ghét bỏ,
buồn khổ và tham vọng không làm dơ ông,
như nước không đọng trên chiếc lá.
Như giọt nước trên cành sen,
nước không làm vấy bẩn hoa sen,
cũng vậy thánh hiền không bao giờ bị vấy bẩn
bởi những gì ông thấy, nghe và cảm nhận.
Chắc chắn là thánh hiền không suy tư đến
những gì được thấy, nghe và cảm nhận,
cũng không dựa vào gì khác mà mong muốn thanh tịnh
vì ông không luyến ái và cũng không ghét bỏ.

— Jara Sutta, Sutta-nipata, câu 804-813

§78 Contemplation of Death  

Uncertain is life:
Certain is death.
Inevitable is death for me.
My life has death at its end.
Life is indeed unsure,
But death is sure,
Death is sure.

— From the Dhammapada commentary story of the Weavers' daughter

§78 Quán Niệm Chết  

Sống thì bất định:
Chết thì chắc chắn.
Tôi không thể tránh khỏi chết.
Đời sống của tôi có cái chết ở cuối đường của nó.
Đời sống quả thật bất định,
Nhưng cái chết thì chắc chắn,
Chết là chắc chắn.

— Kinh Pháp Cú, phần bình luận về con gái của Weavers

§79

"As soon as evening comes, or when the night vanishes and day is breaking, a bhikkhu reflects in this way: "Truly there are many possibilities for me to die — I may be bitten by a snake, or stung by scorpion or centipede — and thereby lose my life. But this would be an obstacle for me. Or I may stumble and fall down, or food eaten may not agree with me. Or bile, phlegm and piercing bodily "winds" may upset me — and thereby I may lose my life. Then men or ghosts may attack me — and thereby I may lose my life. But this would be an obstacle for me.' Then the bhikkhu should consider thus: 'Are there still found in me unsubdued evil unwholesome factors which, if I should die this day or night, might lead me to dukkha?' Now, if he understands that this is the case, he should use his utmost resolution, energy, effort, endeavor, steadfastness, attentiveness, and clear-mindedness to overcome these evil unwholesome factors."

— A. VIII. 74, trans. after Ven. Nyanatiloka in Buddhist Dictionary, P.98

§79

"Khi hoàng hôn đến, hay khi màng đêm tan biến và bình minh ló dạng, một tỳ khưu quán chiếu như thế này: 'Thật sự là có nhiều khả năng khiến tôi chết — tôi có thể bị rắn cắn, hay bị bọ cạp hay rết chích — và kết quả là mất mạng sống. Nhưng điều này sẽ là một trở ngại cho tôi. Hay tôi có thể vấp ngã và té xuống, hay thực phẩm ăn vào có thể không hợp với tôi. Hay mật, đờm và khí huyết bị xáo trộn có thể làm tôi khó chịu — và do đó tôi có thể mất mạng sống. Thế rồi người hay ma có thể tấn công tôi — và do đó tôi có thể mất mạng sống. Nhưng điều này sẽ là một trở ngại cho tôi.' Sau đó vị tỳ khưu nên xem xét như vậy" 'Phải chăng trong tôi có những yếu tố không lành mạnh xấu xa mà, nếu tôi phải chết ngày hôm nay hay đêm nay, có thể dẫn tôi đến khổ?' Bây giờ, nếu ông ấy hiểu rằng đây là trường hợp, ông ấy nên hết sức sử dụng sự quyết tâm, năng lực, nỗ lực, kiên trì, chú ý, và sáng suốt của mình để vượt qua những yếu tố bất thiện này."

— A. VIII. 74, dịch theo HT. Nyanatiloka trong Buddhist Dictionary, P.98

§80 The Arahat Ratthapala Thera's Verses Addressed To The Aged King Koravya  

I see men wealthy in the world, who yet
Give not, from ignorance, their gatheren riches;
But greedily will hoard away their wealth,
Through longing for still further sensual pleasures.
A king who has by force conquered the earth
And even lords the land the ocean bounds
Is yet unsated with the sea's near shore
And hungers for its further shore as well.
Most men as well, not just a king,
Encounter death with craving unabated;
With plans still incomplete they leave the corpse;
Desires remain unsated in the world.
His relatives lament him, rend their hair,
Crying "Ah me! Alas! Our love is dead!",
Then bear away the body wrapped in shrouds
To place it on a pyre and burn it there
Clad in a single shroud, he leaves behind
His property, and prodded with stakes he burns,
And as he died, no relative or kin
Or friends could offer refuge to him here.
The while his heirs annex his wealth, this being
Must now pass on according to his kammas;
And as he dies no thing can follow him:
Nor child nor wife nor wealth nor royal estate.

Longevity is not acquired with wealth
Nor can prosperity banish old age;
Short is this life, as all the sages say,
Eternity it knows not, only change.
The rich man and the poor man both shall feel
(Death's) touch, as do the fool and sage alike;
But while the fool lie stricken by his folly,
No sage will ever tremble at the touch.
Better is understanding, then, whereby
The goal can here be gained, than any wealth;
For men through different lives in ignorance
Do evil, while they fail to reach the goal.
As one goes to the womb and the next world,
Renewing the successive round, so another
With no more understanding, trusting him,
Goes also to the womb and the next world.
Just as robber caught in burglary
By his own kamma's marked a miscreant,
So people after death, in the next world
By their own kammas marked are they as miscreants.
For sense-desires so mind-alluring, sweet.
In many a different way disturb the mind;
Seeing the danger in these sense-desires
So I went forth to homelessness, O king.

— From Middle Length Discourses No. 82, trans. Ven. Ñanamoli Thera

§80 Thơ của A-la-hán Ratthapala Thera Nói với Vua Già Koravya  

Tôi thấy người giàu trên thế gian, vẫn chưa
Cho đi, do vô minh, của cải của họ;
Nhưng tham lam sẽ khiến họ tích lũy tài sản,
Và khao khát thêm nhiều khoái cảm.
Vua chinh phục trái đất bằng bạo lực
Và thậm chí cai trị lảnh thổ đến tận đại dương
Chưa thuần hóa hết bờ biển gần
Lại thèm khát thêm bến bờ xa.
Hầu hết đàn ông, không chỉ là vua,
Chạm trán tử thần mà thèm khát không suy giảm;
Với những kế hoạch chưa hoàn tất họ rời thân xác;
Để lại niềm mong muốn dở dang trên thế gian.
Thân quyến thương tiếc họ, vò đầu bức tóc,
Khóc lóc "Than ôi! Người thân yêu của chúng ta đã chết!",
Rồi mang thân xác bọc trong vải liệm
Đặt lên giàn gỗ và hỏa thiêu nó ở đó
Phủ trong tấm vải liệm, ông ta để lại
Tài sản của mình, bị đóng cọc thân ông cháy,
Và khi ông chết, không có họ hàng hay thân nhân nào
Hay bạn bè có thể cung cấp nơi trú ẩn cho ông ở đây.
Trong khi những kẻ thừa kế phân chia tài sản,
Còn người thì phải đi theo nghiệp của mình;
Và khi chết không gì có thể đi theo ông:
Không con hay vợ hay của cải hay lãnh thổ.

Trường thọ không mua được bằng sự giàu có
Và sự giàu có không thể xua đuổi được tuổi già;
Đời sống ngắn ngủi, như hiền nhân nói,
Không thấy vĩnh cửu, chỉ có thay đổi.
Cả người giàu lẫn nghèo đều cảm nhận
Lưỡi hái của Tử Thần, cũng như là người ngu và khôn;
Nhưng khi người ngu bị đánh ngã bởi sự ngu xuẩn của mình,
Không người khôn nào run sợ khi cảm xúc.
Tốt hơn là hiểu biết, nhờ đó
Mục tiêu có thể đạt được ở đây, thay vì sự giàu có;
Đối với những người qua các kiếp sống trong vô minh
Làm điều ác, trong khi không đạt được mục tiêu.
Người ấy nhập thai và sanh vào cõi kế tiếp,
Lập lại vòng luân hồi, khiến người khác
Không hiểu biết hơn, tin tưởng ông ta,
Cũng nhập thai và sanh vào cõi kế tiếp.
Giống như kẻ cướp bị bắt khi ăn trộm
Bởi nghiệp của riêng mình với dấu ấn hư hỏng,
Vì vậy người ta sau khi chết, vào cõi kế tiếp
Bởi nghiệp của riêng họ với dấu ấn hư hỏng.
Những dục vọng làm mê mẫn tâm, ngọt ngào quyến rũ.
Quấy rối tâm bằng nhiều cách khác nhau;
Nhìn thấy nguy hiểm trong những dục vọng này
Nên tôi đã xuất gia, tâu Đại vương.

— Trung Bộ Kinh, phẩm 82, chuyển dịch: HT. Ñanamoli Thera

§81

"Short indeed is this life of men, limited, fleeting, full of woe and torment; it is just like a dewdrop that vanishes as soon as the sun rises; like a water-bubble; like a line drawn on water; like a torrent dragging everything along and never standing still; like cattle for slaughter that every moment look death in the face."

— A. VII. 70, condensed trans. after Ven. Nyanatiloka in Buddhist Dictionary, p.99

§81

"Đời sống con người quả thật ngắn ngủi, giới hạn, mong manh, đầy tai ương và khốn khổ; giống như giọt sương tan khi mặt trời mọc; như bọt nước; như đường vẽ trên mặt nước; như cơn lũ kéo theo mọi thứ và không bao giờ đứng yên; như trâu bò nuôi để lấy thịt lúc nào cũng có nỗi sợ chết trên khuôn mặt."

— A. VII. 70, dịch tóm lược ý của HT. Nyanatiloka trong Buddhist Dictionary, p.99

§82

If "I am dying when this Bag of Bones packs up, then the pain is terrible indeed; but if it's just this bag of bones packing up.........then?

§82

Nếu tôi chết khi Túi Xương này ngưng làm việc, thì cơn đau thật sự khủng khiếp; nhưng nếu chỉ là túi xương này ngưng làm việc.........thì sao?

§83

A. What's going to die?

B. I am going to die!

A. Nonsense!

B. What do you mean?

A. The body is going to die. It's only you dying if you identify the body as yourself.

B. That's a good thought. Then I am not going to die. I shall live for ever!

A. Can do, if that's what you want! But think of the sufferings, born and dying, again and again.

B. How do I get out of it?

A. Just as you don't identify with the body, so you try not identifying with the mind.

B. Wow! How come! Impossible! I don't identify with my mind. There's only one me.

A. Suppose you see no me, suppose there is just emptiness, and no me perceiving it, what then?

B. Oh!

§83

A. Cái gì sắp chết?

B. Tôi sắp chết!

A. Vô lý!

B. Ý ông là gì?

A. Thân sẽ chết. Chỉ là ông chết nếu ông xem thân như chính mình.

B. Ý hay. Thế thì tôi sẽ không chết. Tôi sẽ sống mãi!

A. Có thể làm được, nếu đó là điều ông muốn! Nhưng hảy nghĩ về những đau khổ, sinh và tử, lập đi lập lại.

B. Làm thế nào để tôi thoát khỏi nó?

A. Cũng giống như ông không xem mình với thân là một, đừng cố gắng xem mình với tâm là một.

B. Ồ! Sao được! Không thể nào! Tôi không kết hợp với tâm của tôi. Chỉ có một cái tôi.

A. Giả sử ông không thấy cái tôi, giả sử chỉ có tánh không, và không có cái tôi nhận ra nó, thì thế nào?

B. Ồ!

§84

Interesting that religions (all of them) concern themselves so much with the dead bodies. Ceremonies of various sorts are all conducted round the lifeless lumps of decaying flesh. Yet each religion is concerned really with whatever is thought of as continuing. It shows that attachment to the body as the person' is very strong.

And in English we talk of "the dead" as opposed to "the living." But for a Buddhist there are no dead people, only decaying bodies. Paradoxically, a person, while not rid of the concept of personality, never dies.

§84

Điều thú vị là các tôn giáo (tất cả) đều quan tâm rất nhiều với xác chết. Đủ loại nghi lễ được tiến hành quanh khối thịt thối rữa. Thế nhưng mỗi tôn giáo thật sự quan tâm đến những gì được cho là vẫn tiếp tục. Nó cho thấy rằng sự gắn bó với thân như của một người rất là mạnh mẽ.

Và trong Anh ngữ chúng ta nói về "người chết" như trái với "người sống." Nhưng đối với Phật tử thì không có người chết, chỉ có xác thân thối rữa. Nghịch lý thay, một người, khi chưa bỏ được khái niệm cá nhân, thì không bao giờ chết.

§85

Villagers in Buddhist countries are often better schooled in the body and its end than are educated Westerners. The former have plenty of chances to go to the local temple, or to see the nearest meditation teacher. And what do they hear? Again and again they hear the sound of ANICCA, DUKKHA, ANATTA [19] of all parts of the human being, mind and body. By hearing frequently it sinks in, so that even if people never penetrate these Three Marks of Existence in themselves, at least they have an attitude of accepting them to some extent. It helps with decay, disease, and death. And they see friends and kin cremated, not in a posh chapel with soft music, solemn colors and concealed oven, but on top of a pile of logs in the forest. That's the body burning — there's that smell of meat...and this body too will go the same way.

These things are good to see. They are healthy, wholesome. There is no false solemnity, things are just the way they are. Undisguised.

§85

Dân làng ở các quốc gia Phật giáo thường được giảng dạy về thân thể và kết cuộc của nó tốt hơn là người Tây phương có học thức. Họ có nhiều cơ hội đến chùa, hay gặp thiền sư ở gần. Và họ nghe những gì? Họ nghe đi nghe lại âm thanh ANICCA, DUKKHA, ANATTA [19] của tất cả các phần của con người, tâm và thân. Do nghe thường xuyên nên nó thấm vào, vì vậy ngay cả khi người ta không bao giờ hiểu thấu Ba Đặc Tính của Đời Sống trong chính họ, ít nhất họ có khuynh hướng chấp nhận chúng phần nào. Nó giúp họ đối diện với già yếu, bệnh tật, và cái chết. Và họ nhìn thấy bạn bè và thân nhân hỏa táng, không phải trong nhà nguyện sang trọng với nhạc êm dịu, màu sắc trang nghiêm và hỏa lò kín đáo, mà là trên dàn gỗ trong rừng. Đó là đốt cháy thân xác — có mùi thịt cháy... và thân này cũng sẽ đi theo cùng một cách.

Những điều này tốt để xem. Chúng sạch sẻ, lành mạnh. Không có tính trang nghiêm giả tạo, mọi thứ chỉ là theo thật tánh của chúng. Không che dấu.

§86

People in Buddhist lands who have so often heard teaching about ANICCA, impermanence, are more ready to accept the common end than a great many Westerners. Old age, disease and death are better accepted by Buddhists as just as natural a part of life as birth. One does not bewail the birth of a child — though painful enough for both mother and child — so why bewail the naturally succeeding events? Buddhists who know the Dhamma well talk naturally and calmly about their old age and death as they have contemplated as ANICCA everything in this (and any other) world.

§86

Dân chúng ở những vùng đất Phật giáo thường xuyên nghe giảng về ANICCA, vô thường, sẵn sàng chấp nhận kết cuộc thông thường hơn nhiều người Tây phương. Tuổi già, bệnh tật và cái chết dễ được chấp nhận bởi các Phật tử như một phần tự nhiên của đời sống giống như việc sinh ra. Người ta không ta thán về việc sinh ra một đứa con — mặc dù đau đớn cho cả mẹ và con — vậy tại sao lại ta thán về những sự kiện tự nhiên kế tiếp? Phật tử hiểu rõ Pháp nói một cách tự nhiên và bình tĩnh về tuổi già và cái chết của họ như họ quán chiếu về ANICCA mọi thứ trong thế giới này (và bất cứ thế giới nào khác).

§87

There is nothing like living in a little hut in the tropical forest to make one realize how vulnerable this body is to all sorts of attack. How very small creatures can make life difficult if not precarious for this body. A city-dweller misses most of this and may easily get a false sense of security. (All those neat little suburban houses in regular rows...)

Another thing which life in the wilds makes really necessary is mindfulness. Mindfulness where one puts one's feet, specially in the dark. And then one cannot get on without loving-kindness too, since all sorts of other beings are so near to oneself, near to this body which one fears for. Loving-kindness rids one of such fears and hatreds.

§87

Không gì giống như sống trong một túp lều nhỏ trong rừng nhiệt đới để làm cho người ta nhận ra rằng thân này dễ bị tổn thương như thế nào bởi đủ loại rủi ro. Làm thế nào mà các sinh vật rất nhỏ có thể khiến cho đời sống khó khăn nếu không muốn nói là bấp bênh cho thân này. Người dân thành phố không gặp điều này và có thể dễ dàng có khái niệm sai lầm về an toàn. (Tất cả những căn nhà nhỏ gọn và xếp đặt theo hàng lối ở ngoại ô... )

Một điều khác mà đời sống trong hoang dã làm cho thật sự cần thiết là chánh niệm. Chánh niệm khi họ đặt bước chân, nhất là trong bóng tối. Và người ta cũng không thể sống mà không có tâm từ, vì mọi loại sinh vật khác sống rất gần với con người, gần với thân này khiến họ lo sợ. Lòng từ bi khiến người ta không còn nỗi sợ và ghét đó.

§88

We have so many fears — all things out there — ghosts, darkness, unknown people, loneliness, and so on. The really fearful things, this mind-and-body's precarious state, we never see.

§88

Chúng ta có rất nhiều nỗi sợ — tất cả mọi thứ ngoài đó — ma, bóng tối, người lạ, cô đơn, v.v. Điều thật sự đáng sợ, trạng thái bấp bênh của tâm-và-thân này, chúng ta không bao giờ thấy.

§89

The body has a side which most of us don't want to see and know. We wish to hush up its dirt, stinks, belches and farts, to disregard and overlook them. Yet finally when laid low and near to death, these stenches and filths can be disguised no longer.

§89

Thân có một mặt mà hầu hết chúng ta không muốn thấy và biết. Chúng ta muốn che dấu cáu bẩn, mùi hôi, ợ hơi và rắm của nó, không để ý và phớt lờ chúng. Thế nhưng cuối cùng khi nằm xuống và gần chết, những hôi thối và dơ bẩn này không thể che đậy được nữa.

§90

It is a salutary lesson, if one gets the chance, to go to an autopsy and watch the doctors and nurses pulling a body to pieces. One's eyes are not prepared for this sight even if one has watched a butcher chopping up meat. And one's nose can well be assaulted too by the overpowering stench of decay if the corpse is just a few days old. To see this is to experience for oneself some Dhamma: how the body is just conditioned and decaying bits and pieces. "As this body is, so that body was; as that body is, so this body will be."

§90

Đó là bài học hửu ích, nếu ai có cơ hội, nên đến phòng khám nghiệm tử thi và xem các bác sĩ và y tá kéo thân thể ra từng mảnh. Mắt người ta không được chuẩn bị cho cảnh tượng này ngay cả khi họ nhìn một người bán thịt chặt thịt. Và mũi người ta cũng có thể bị khó chịu bởi mùi hôi nồng nặc của sự thối rữa nếu xác chết để vài ngày. Nhìn thấy điều này là tự mình học hỏi được vài Pháp: Thân bị ảnh hưởng và phân rã từng mảnh như thế nào. "Vì thân này như vậy, nên thân kia là vậy; vì thân kia là vậy, nên thân này sẽ như vậy."

§91

Lists like the following ten stages of the body's decay are often illustrated in traditional Buddhist art, in ancient books and on temple walls, as often seen in Thailand. These are like special prescriptions for the disease of lust:

  • a bloated corpse (cures attachment to shapeliness)
  • a discolored corpse (cures attachment to color and complexion)
  • a festering corpse (cures attachment to bodily smell and fine perfumes)
  • a gnawn-by-animals corpse (cures attachment to greed for fleshy protuberances)
  • a scattered corpse (cures attachment to gracefulness of limbs)
  • a bleeding corpse (cures attachment to decoration of the body with ornaments)
  • a worm-infested corpse (cures attachment to body as one's own)
  • a skeleton held together by sinews (cures attachment to fine bone structure)
  • scattered bones (cures attachment to body as "one thing")
  • rotting and powdered bones (cures attachment to the body as permanent)

§91

Danh sách như mười giai đoạn của sự phân rã của thân liệt kê dưới đây thường được minh họa trong nghệ thuật Phật giáo truyền thống, trong các sách cổ và trên các bức tường đền thờ, như thường thấy ở Thái Lan. Đây là những toa thuốc đặc biệt cho bệnh ham muốn:

  • xác chết xưng phù (chữa bệnh ham muốn thân hình hấp dẫn)
  • xác chết đổi màu (chữa bệnh ham muốn màu sắc và nước da)
  • xác chết thối rữa (chữa bệnh ham muốn mùi thân thể và nước hoa)
  • xác chết bị gặm nhấm bởi thú vật (chữa bệnh ham muốn da thịt uốn lượn)
  • xác chết có thân hình đứt đoạn (chữa bệnh ham muốn tay chân nuột nà duyên dáng)
  • xác chết rỉ máu (chữa bệnh ham muốn thân thể trang điểm với vòng vàng trang sức)
  • xác chết bị nhiễm trùng (chữa bệnh xem thân như của chính mình)
  • bộ xương được kết nối bởi dây gân (chữa bệnh ưa thích cấu trúc xương đẹp đẽ)
  • xương vương vãi khắp nơi (chữa bệnh xem thân như là "một khối")
  • xương thối rữa và mục nát (chữa bệnh xem thân là vĩnh cửu)

§92 This Body...  

This body lying in decay
To worms and flies unconscious prey,
Bereft of mind and animation
Portrays man's final situation.
Engendered in a human womb,
A fabric wrought upon the loom
Of sensual lust and will-to-be,
It grew in stature like a tree,
But mind-informed, with fresh desires
Raging within like hungry fires,
Fed by the senses' ample fuel
In an eternal self-renewal.
Self-renewed and self-consumed,
A turbulence forever doomed
To futile striving, hopes and fears,
Alternating through the years:
Childhood, youth, maturity,
Seeking in vain security,
Seeking in vain to quench the fire
By satisfaction of desire.
And day by day with every breath,
Every heart-beat a little death,
Stole from the body's falling source
A fraction of its vital force.
The body undermined by stealth,
Then knew the pangs of failing health.

— Francis Story, from The Buddhist Outlook

§92 Thân Này...  

Thân này nằm thối rữa
Là mồi vô tri giác cho côn trùng và ruồi.
Thiếu tâm trí và linh hoạt
Miêu tả tình trạng cuối của con người.
Đưa đến bào thai trong bụng mẹ,
Tấm vải được dệt trên khung
Của ham muốn nhục dục và ý muốn,
Nó lớn lên như cái cây,
Nhưng tâm thông báo, với những mong muốn mới lạ
Cuồng nộ bên trong như ngọn lửa đói,
Nuôi bởi nguyên liệu dồi dào của các giác quan
Trong sự tự đổi mới mãi mãi.
Tự đổi mới và tự tiêu thụ,
Sự hổn loạn mãi mãi phải chịu đựng rủi ro
Phấn đấu, hy vọng và sợ hãi vô ích,
Tuần tự qua bao năm:
Trẻ thơ, niên thiếu, trưởng thành,
Tìm kiếm an toàn trong vô vọng,
Tìm cách dập tắt lửa trong vô vọng
Bằng sự thỏa mãn ham muốn.
Và từng ngày với mỗi hơi thở,
Mỗi nhịp tim cái chết dần mòn,
Cướp từ nguồn rơi rụng của thân
Một phần nhỏ năng lực sống của nó.
Thân bị hao mòn bởi sự âm thầm gặm nhấm,
Nên biết nỗi thống khổ của sức khỏe suy sụp.

— Francis Story, từ The Buddhist Outlook

§93 Verses of the Arahat Kulla Thera on seeing a corpse  

Having gone to the charnel-ground
I saw cast there a woman's corpse,
discarded in the cemetery,
being gnawn and full of worms.
A rotten congeries, Kulla, see —
diseased it is, impure,
oozing and trickling here and there
wherein fools find delight.
This body I inspected —
inane within and without —
taking the Dhamma's looking-glass
to Knowing and Seeing attained.
As this body is, so that body was;
as that body is, so will this body be.
As foul it is above so foul it is below,
and as it is above so it is below.
As it is by day, so it is by night;
as night, so day the same.
There's no such pleasure even from
a quintet's music as there is
from rightly Dhamma seeing
with singleness mind.

— Verses of the Elders Bhikkhus, 393-398

The "Knowing and Seeing" — insight (vipassana) — that this thera saw in himself is first:

Seeing no difference between the living and the dead bodies — only time makes a difference.

Then seeing the dead body as totally foul — not attracted to this (=greed) or repelled by that (=hatred), and applying this to his own body.

Then seeing that all the time, day or night, the body has the same qualities — not that it is desirable at some times but not at others.

The enjoyments that most get from senses-pleasures — here the example of a quintet is given — this thera has found far more abundantly in seeing Dhamma rightly.

§93 Thơ của A-la-hán Kulla Thera khi nhìn thấy xác chết  

Khi đi đến bãi tha ma
tôi nhìn thấy xác chết của một phụ nữ ở đó,
liệng bỏ trong nghĩa địa,
bị gặm nhấm và lổn nhổn những côn trùng.
Một đống bầy nhầy thối rữa, Kulla, nhìn thấy —
nó bệnh hoạn, bất tịnh,
rỉ nước và nhỏ giọt đây đó
trong khi kẻ ngu lấy làm thích thú.
Thân này tôi xem xét —
vô tri cả trong lẫn ngoài —
lấy lăng kính của Pháp
để Biết và Thấy được.
Vì thân này như vậy, nên thân kia là vậy;
vì thân kia là vậy, nên thân này sẽ như vậy.
Vì nó hôi ở trên nên nó hôi ở dưới,
và vì nó ở trên nên nó ở dưới.
Vì nó qua ban ngày, nên nó qua ban đêm;
như ban đêm, nên ban ngày cũng vậy.
Không có niềm vui như vậy ngay cả từ
nhạc ngũ âm khi đó là
từ việc thấy Pháp một cách đúng đắn
với tâm chuyên chú.

— Thơ của Trưởng Lão Tỳ khưu, 393-398

"Biết và Thấy"— minh sát tuệ (vipassana) — mà vị trưởng lão nhìn thấy trong chính mình trước tiên là:

Không thấy sự khác biệt giữa thân xác sống và chết — chỉ có thời gian tạo nên sự khác biệt.

Sau đó thấy xác chết hoàn toàn hôi thối — không hấp dẫn đối với cái này (=ham muốn) hay khước từ bởi cái kia (=ghét bỏ), và áp dụng điều này cho thân của chính mình.

Rồi thấy rằng suốt mọi thời gian, ngày hay đêm, thân có cùng đặc tính — không phải là đôi khi nó được ưa thích nhưng đôi khi không.

Niềm vui mà đa số có được từ cảm giác khoái lạc — thí dụ về nhạc ngũ âm được đưa ra ở đây — vị trưởng lão này đã thấy được rất nhiều trong việc nhìn Pháp một cách đúng đắn.

§94

Spiritual objector:

"All this pondering over corpses and looking into the body's parts is just morbid. One should look at the body as a pure temple of the spirit."

Practical Upasaka:[20]

"It goes against the grain to gaze at the bits and pieces in this body and see that they have nothing attractive about them. But this way lies Liberation. To glorify the body is to be bound by craving for it."

§94

Người bất đồng quan điểm:

"Tất cả những suy ngẫm về xác chết và nhìn vào các phần của thân chỉ là bệnh hoạn. Người ta nên nhìn vào thân như một ngôi đền thanh tịnh của tâm linh."

Practical Upasaka:[20]

"Nó ngược với lẽ thường tình khi nhìn chằm chằm vào thân này và thấy rằng chúng không có gì hấp dẫn. Nhưng cách này hàm chứa sự Giải thoát. Tôn vinh thân là bị ràng buộc với niềm ham muốn nó."

§95

Doctor:

I cannot understand you when you say that the body is unbeautiful; to me it is such a wonderful machine!

Bhikkhu:

The trouble with that view of the "wonderfulness of the body" is that it is near delight (nandi) and delighting in the body is another name for craving, the root of dukkha. Seeing the body's unattractiveness is opposed to craving.

§95

Y sĩ:

Tôi không thể hiểu ông khi ông nói rằng thân không đẹp; với tôi thì nó là một bộ máy tuyệt vời!

Tỳ khưu:

Trở ngại của quan điểm "sự tuyệt vời của thân" là nó đến gần khoái lạc (nandi) và khoái lạc trong thân là một cái tên khác cho ham muốn, gốc rễ của đau khổ. Nhìn thấy sự không hấp dẫn của thân là chống lại ham muốn

§96

"You're wrong, man, sex is just natural, like breathing — just something you've got to do. Just like eating. It's a beautiful natural function!"

"Not true! Your comparisons are not apt."

"How come? You mean it's not natural?"

"Yes, sex is natural for people with desire, that means sex-desire or lust, in their hearts. But lust is a hindrance to the development of mental-emotional purity. But your comparisons to breathing and eating don't stand examination. Breathing is an automatic body function. No kamma, good or bad, is made because no intention is needed to decide to breathe!

"Eating is different because, though necessary for the body's life, it is connected with intention, so kamma is made. When greed for food is present, bad kamma is made which will fruit as suffering. But when food is eaten mindfully and just to keep the body going, then good kamma is made — of mindful reflection.

"Sex is different from both these. No sex takes place without desire or lust: this is among the unwholesome mental factors — it can never be karmically wholesome — so unwholesome kamma is made which has the nature to limit the mind to sensual things."

"That's painting sex too black!"

"No, that's being realistic. Of course, states of mind will vary while one has sex — more or less lust and more or less of loving-kindness. More lust (as when sex is commercial) means more bad kamma. More loving-kindness, as between two people deeply attached to each other, less bad kamma and more good kamma. In the latter case it is called kamma which is dark and bright, with a dark and bright result."

§96

"Ông sai rồi, với người ta, tình dục chỉ là tự nhiên, giống như hơi thở — chỉ là điều phải làm. Giống như ăn. Nó là một chức năng đẹp và tự nhiên!"

"Không đúng! So sánh của ông không thích hợp."

"Tại sao không? Ý ông là nó không tự nhiên?"

"Vâng, tình dục là tự nhiên đối với người có ham muốn, điều đó có nghĩa là ham muốn tình dục hay dục vọng, trong tim họ. Nhưng dục vọng là một trở ngại cho sự phát triễn tâm thanh tịnh. Nhưng sự so sánh với việc thở hay ăn của ông không hợp tiêu chuẩn. Thở là một chức năng tự động của thân. Không có nghiệp, tốt hay xấu, được tạo ra vì không cần chủ ý để quyết định thở!

"Ăn thì khác bởi vì, mặc dù cần thiết cho sự sống của thân, nó liên hệ với chủ ý, vì vậy nghiệp hình thành. Khi sự tham ăn hiện diện, nghiệp xấu hình thành mà quả là đau khổ. Nhưng khi thức ăn được ăn một cách chánh niệm và chỉ để giữ cho thân vận hành, thì nghiệp tốt được làm bởi — sự quán chiếu chánh niệm.

"Tình dục thì khác với hai điều này. Không tình dục nào xảy ra mà không có ham muốn hay dục vọng: đây là một trong những yếu tố tinh thần không lành mạnh — nó không bao giờ có thể là nghiệp thiện — vì vậy nghiệp xấu được hình thành, nó có tính ràng buộc tâm vào những thứ gợi cảm."

"Đó là bức tranh tình dục quá đen tối!"

"Không, đó là thực tế. Dĩ nhiên, trạng thái tâm sẽ thay đổi khi người ta có quan hệ tình dục — nhiều hay ít dục vọng và nhiều hay ít tình thương yêu. Nhiều dục vọng (như khi tình dục bị thương mại hóa) có nghĩa là nhiều nghiệp xấu. Nhiều tình thương yêu, như giữa hai người yêu nhau sâu đậm, thì ít nghiệp xấu và nhiều nghiệp tốt. Trong trường hợp thứ nhì nó được gọi là nghiệp với mặt tối và sáng, dẫn đến quả tối và sáng."

§97 A Manichee and a Buddhist  

M. It's all the work of Satan — this foul body. We agree with you Buddhists about that.

B. Well, the body is certainly not pleasant when examined, but we do not say that it has been created, by Satan.

M. But all matter is evil, foul, dragging the soul into darkness, as our Mani says.

B. That's not what the Buddha says, though. Matter is just earth, water, fire, and air elements which are quite neutral, neither good nor evil. They form bodies due to kamma made by beings; good or evil kammas both lead to the formation of bodies.

M. You must admit, though, that your body is a hindrance to the attainment of spiritual states. You have to feed it and rest it, dose it with medicine when it gets sick. Because of its wretchedness the soul is weighed down.

B. No, I do not admit that. The body is the basis and vehicle for practice so one should take care of it without pampering it. Though it has to eat, sleep, excrete, and it gets sick too, at these times we should be mindful, which is possible at all times when not asleep. Even the difficulties of the body can be used in Dhamma-practice. And what is this about a soul being weighed down?

M. Well, that is the pure aspirations, the pure thoughts, the still states of contemplation — that is the beginning of discovering the soul.

B. Oh, then the impure aspirations, thoughts and confused states of mind must be not soul! You should investigate all mental states, pure and impure, calm and distracted, and find out whether any of them are substantial or permanent. What would you find, do you think?

M. All right, they're changing. But behind them all is the pure tranquil soul, eternally unchanging.

B. But have you experienced this or are you just telling me some dogma or belief?

M. Yes, I think I have experienced it. Then one is free from the trammels of this body.

B. Really you need to examine all mental states, as I mentioned before, and the body too, in the same light. They're all Anicca, Dukkha, Anatta...

M. What...?

B. Sorry! I get so used to using those words that they have slipped off my tongue, unmindfully I am afraid! They mean impermanent, unsatisfactory, and no self. When you look at them like this you neither love the soul nor hate the body. That is, put in a Buddhist way, you don't cling to pure tranquility and identify it as your soul or self, neither do you reject this body. Don't lay the blame on this poor old body! It's not to blame.

M. But Mani says that it is.

B. Well then, I shall ask you a question. What makes decisions and choices, is it the body or the mind?

M. The mind decides, of course.

B. Then how can the body be blamed? It is not evil, nor is matter darkness. Poor old body just gets dragged along by the decisions the mind makes.

M. But you Buddhists practice contemplation of the body as foul. I have read about it.

B. Yes, but that does not mean it is evil. That kind of meditation is just to break up the attachment to the beauty of bodies. It is the attachment in one's own mind, not any Satan or evil creator, that is responsible for keeping the mind tied down to sensual pleasures. Look inside for the evil creator — his name is attachment, greed, desire, lust — and he is put out of business by contemplating the unattractive. The good creator is in there too, the mind that creates pure mental states, the experience of jhana and so on. But all this creating keeps one in the round of rebirth, you know!

§97 Một môn đệ của Mani và một Phật Tử  

M. Đó là công việc của Satan — thân dơ bẩn này. Chúng tôi đồng ý với Phật tử các ông về điều này.

P. Vâng, thân chắc chắn là không thú vị khi xem xét, nhưng chúng tôi không nói rằng nó được tạo ra bởi Satan.

M. Nhưng mọi thể chất đều xấu xa, bẩn thỉu, kéo linh hồn vào bóng tối, như giáo chủ Mani của chúng tôi nói.

P. Song le, đó không phải là những gì Đức Phật nói. Thể chất chỉ là các yếu tố đất, nước, lửa và gió vốn trung tính, không tốt cũng không xấu. Chúng hình thành thân do nghiệp tạo ra bởi chúng sinh; nghiệp tốt hay xấu đều dẫn đến sự hình thành thân.

M. Tuy nhiên, ông phải thừa nhận rằng thân của ông là một trở ngại cho sự chứng đạt của các trạng thái tâm linh. Ông phải nuôi nó và cho nó nghỉ ngơi, cho nó uống thuốc khi nó đau. Vì sự khốn khổ của nó mà linh hồn bị đè nặng.

P. Không, tôi không thừa nhận điều đó. Thân là căn bản và phương tiện cho việc thực hành cho nên người ta cần chăm sóc nó nhưng không nuông chiều nó. Mặc dù nó phải ăn, ngủ, bài tiết, và nó cũng bị đau, vào những lúc đó chúng ta nên chánh niệm, vốn khả thi khắp mọi lúc khi không ngủ. Thậm chí những khó khăn của thân có thể được sử dụng trong Pháp-hành. Và linh hồn bị đè nặng có nghĩa là gì?

M. À. đó là khát vọng thuần khiết, tư tưởng thuần khiết, trạng thái tĩnh lặng của sự quán chiếu — đó là khởi đầu của việc khám phá linh hồn.

P. Ồ, thế thì những khát vọng không tinh khiết, tư tưởng và trạng thái hoang mang của tâm không phải là linh hồn! Ông nên quan sát tất cả các trạng thái tinh thần, thanh tịnh và bất tịnh, bình tĩnh và bối rối, và tìm xem liệu bất cứ trạng thái nào trong số đó là trọng yếu hay vĩnh cửu. Ông sẽ tìm thấy gì, ông nghĩ sao?

M. Được rồi, chúng thay đổi. Nhưng đằng sau tất cả bọn chúng là linh hồn thanh tịnh bình an, mãi mãi không thay đổi.

P. Nhưng ông có kinh nghiệm điều này hay là ông chỉ nói cho tôi biết một số giáo lý hay niềm tin?

M. Vâng, tôi nghĩ là tôi đã trải nghiệm nó. Vì thế người ta không bị ràng buộc bởi thân này.

P. Ông thật sự cần xem xét mọi trạng thái tinh thần, như tôi đã đề cập, và cả thân nữa, trong cùng quan điểm. Chúng đều là Anicca, Dukkha, Anatta...

M. Cái gì...?

P. Xin lỗi! Tôi quen sử dụng những chữ đó nên đã buột miệng nói mà không để ý. Chúng có nghĩa là vô thường, không hài lòng, và vô ngã. Khi ông nhìn vào chúng như vậy ông không yêu thương linh hồn hay ghét bỏ thân. Nghĩa là, theo Phật giáo, ông không bám vào sự tĩnh lặng thuần khiết và xem nó như là linh hồn hay bản ngã của ông, cũng không loại bỏ thân này. Đừng đổ lỗi cho cái thân già yếu này! Nó không đáng bị khiển trách.

M. Nhưng Mani nói là vậy.

P. Vậy thì, tôi xin hỏi ông một câu. Cái gì đưa ra quyết định và chọn lựa, thân hay tâm?

M. Dĩ nhiên là tâm quyết định.

P. Vậy tại sao thân lại bị khiển trách? Nó không ác, cũng không đen tối. Thân già yếu chỉ bị kéo theo bởi những quyết định mà tâm tạo ra.

M. Nhưng Phật tử các ông thực hành quán chiếu thân là dơ bẩn. Tôi đã đọc về nó.

P. Vâng, nhưng đó không có nghĩa là nó ác. Loại thiền định đó chỉ để phá vỡ sự luyến ái vẻ đẹp của thân. Nó là sự luyến ái trong tâm của người ta, không có Satan hay kẻ sáng tạo ác nào, chịu trách nhiệm trong việc cột tâm vào cảm giác dục lạc. Hảy tìm kẻ sáng tạo ác ở bên trong — tên của hắn là luyến ái, tham lam, ham muốn, dục vọng — và hắn bị loại bỏ bằng việc quán chiếu sự không hấp dẫn. Đấng sáng tạo thiện cũng ở trong đó, cái tâm mà tạo ra những trạng thái tinh thần thuần khiết, kinh nghiệm thiền và v.v. Nhưng mọi sáng tạo này giữ người ta trong vòng tái sinh, ông biết chứ!

   (Ghi chú theo Wikipedia: Manichee là những người tin theo chủ nghĩa Manichaeism khởi xướng bởi Mani, gốc người Iran thuộc vùng Mesopotamia, sinh năm 216. Giáo phái Manichae dạy một vũ trụ hai chiều phức tạp mô tả cuộc đấu tranh giữa thế giới tâm linh trong sáng, tốt đẹp và thế giới vật chất tăm tối, xấu xa. Qua quá trình tiến triễn của nhân loại, ánh sáng dần dần bị loại bỏ khỏi thế giới vật chất và trở về thế giới ánh sáng nguyên thủy của nó.)

§98

A. Hey, man! Why you cut your hair and beard? Hair's natural to have but you monks cut it off. We should keep it; it's natural, it's beautiful.

Bhikkhu: It's cut off for two reasons. First, it decorates this body. You people like decoration. That's what lay life is all about. But bhikkhus like the body plain, without distractions, so that they can see what it's really like.

A. Well, what's it really like?

B. If you like it as it is, "naturally," you should try not washing, not brushing the teeth or cleaning the nails, not combing the hair — and so on. Body and its parts are only beautiful if washing is also "natural."

A. So, you said that hair decorates, what's your other reason?

B. It's a disguise, that beard and moustache — it's something to hide behind, a mask. When you have no hair on the head and face you have no mask behind which to retire. Is it natural or beautiful to hide things? Isn't it better to open up? Who solves problems by hiding them away? Shaving hair and beard is also an outer token of the shaving off of conceit and pride which has to be done steadily and carefully over years of practice.

§98

A. Này ông bạn! Tại sao ông cắt tóc và râu? Có tóc là điều tự nhiên nhưng nhà sư các ông lại cắt nó đi. Chúng ta nên giữ nó; nó tự nhiên, nó đẹp.

Tỳ khưu: Cắt đi là vì hai lý do. Trước hết, nó trang điểm thân này. Người thường các ông thích trang điểm. Đời sống thế tục là như vậy. Nhưng tỳ khưu thích thân giản dị, không rắc rối, để họ có thể thấy nó thật sự như thế nào.

A. Thế nó thật sự là gì?

T. Nếu ông thích nó như nó là, "tự nhiên," ông nên thử không tắm rửa, không đánh răng hay lau chùi móng tay, không chải tóc và v.v.. Thân và các phần của nó chỉ đẹp nếu tắm rửa cũng là "tự nhiên."

A. Vậy thì, ông nói rằng tóc để trang điểm, lý do khác của ông là gì?

T. Đó là ngụy trang, râu và ria mép — đó là che đậy cái gì đó, mặt nạ. Khi ông không có râu tóc trên đầu và mặt, ông không có mặt nạ để ẩn náu. Có tự nhiên hay đẹp khi che dấu mọi thứ? Có phải tốt hơn là mở ra? Ai giải quyết vấn đề bằng cách dấu chúng đi? Cạo tóc và râu cũng là một biểu hiệu bên ngoài của việc cạo bỏ tánh tự phụ và kiêu ngạo vốn cần phải làm đều đặn và cẩn thận qua nhiều năm thực hành.

§99 Futility  

Mad for pleasure
for fleeting pleasant feelings
clinging to impermanence.

two pulsing bags
clinging together
how pitiful!

clinging to what can't be clung
clinging to changefulness
a fistful of water.

few moments of happiness
found in sex
for which the world is mad.

he burns, on fire inside
for another,
how come he feels no pain?

pain to be assuaged
so he supposes
by making two fires one.

one fire is not enough,
when with another joined
how much more scorching?

scorched and aflame
beings run
from on fire to another.

another fire, another,
as though the fire
by fire could be extinguished.

extinguished, fire gone out
cool peace
no one wants it.

stoke up the furnaces
pile high the blaze
the world's way.

ways to hells and animals
furious fires of desire
burning endlessly.

why do we never tire
of being burnt?
"Hot but sweet" they say.

pleasure like a leper's,
picking his scabs
a small relief from pain.

pain, painfulness
how pain-filled indeed
entire Samsara —

filled with pleasure-loving beings
not wanting pain
whose pleasures drive to Dukkha.

§99 Phù Phiếm  

Đam mê dục lạc
vì cảm giác vui sướng ngắn ngủi
bám vào vô thường.

hai túi rung động
bám vào nhau
thật đáng thương!

bám vào cái mà không thể bám víu được
bám vào sự hay thay đổi
một nắm nước.

vài giây phút vui sướng
tìm thấy trong tình dục
mà thế giới điên cuồng.

ông cháy bỏng, lửa cháy bên trong
vì người khác,
sao ông ấy không cảm thấy đau?

đau là làm dịu dần
nên ông cho là thật
bằng cách sát nhập hai ngọn lửa.

một ngọn lửa chưa đủ,
khi liên kết với ngọn kia
thiêu đốt thêm bao nhiêu?

thiêu đốt và bốc cháy
chúng sinh chạy
từ ngọn lửa này qua ngọn lửa khác.

ngọn lửa khác, khác nữa,
như thể lửa
chạm với lửa có thể dập tắt được.

dập tắt, lửa không còn
bình yên mát mẻ
không ai muốn nó

chất đầy hỏa lò
lửa bùng cháy lên cao
cách của thế giới.

cách đến địa ngục và cõi thú
lửa dục vọng hoành hành
cháy vô tận.

tại sao chúng ta không bao giờ mệt mỏi
vì bị cháy?
"Nóng nhưng ngọt ngào" họ nói.

sướng như một người cùi,
cậy lớp vẩy ghẻ
tìm chút đỉnh dễ chịu từ cơn đau.

đau, đau đớn
quả thật là đau chất đầy
toàn thể luân hồi sinh tử —

chứa đầy chúng sinh yêu thích dục lạc
không muốn đau đớn
mà niềm vui dẫn đến Dukkha - Khổ.

§100 The Silent Shrine  

Where silence reigns the Buddha sits,
He dwells alone, the only face
Has He that one should ever look upon
Deep within the shrine that always is,
The center of this house —
Where is it found?
Flesh the walls and bones the beams
With windows five to look upon the world,
While wandering, a witless idiot
Roams through the empty rooms;
How slow is he to come upon that shrine,
How faltering his steps unsure!
Distractedly, confused
He fumbles for the door —
Hinges rusty, locked for long, unused,
Swollen wood and jammed the door decayed.
When will he look, this witless one,
When will he see the ancient face of peace?
When will he worship at the shrine?
When will he know the Way and Fruit?
When will he find the silence?
Where the Buddha sits?

§100 Ngôi Đền Yên Tĩnh  

Nơi sự yên tĩnh ngự trị Đức Phật ngồi,
Ngài ở một mình, khuôn mặt duy nhất
Có phải Ngài là người nên suy niệm
Sâu vào trong ngôi đền mà luôn là,
Trung tâm của căn nhà này —
Nó được tìm thấy ở đâu?
Da thịt là tường và xương là rường cột
Với năm cửa sổ để nhìn ra thế giới,
Khi đi lang thang, một kẻ ngu dốt
đi dạo qua các phòng trống;
Ông ta đi đến đền thờ đó chậm chạp làm sao,
Bước chân ông ngập ngừng lưởng lự làm sao!
Phân tâm, bối rối
Ông lúng túng tìm cách mở cửa —
Bản lề rỉ sét, bị khóa vì đã lâu không dùng,
Gỗ phồng lên và cửa mục nát, mắc kẹt.
Khi nào ông sẽ nhìn, kẻ ngu dốt này,
Khi nào ông sẽ nhìn thấy khuôn mặt cổ xưa của bình an?
Khi nào ông sẽ tỏ lòng tôn kính tại đền thờ?
Khi nào ông sẽ biết Đạo và Quả?
Khi nào ông sẽ tìm thấy sự yên tĩnh?
Nơi Đức Phật ngồi?


Notes  

13.
Suffering of all kinds, physical and mental, and suffering due to the impermanence of everything.
14.
Go in by the mouth but can come out from the eyes (2), ears (2), nostrils (2), mouth, urinary duct, and anus, as various sorts of "dirt."
15.
The Thai bubbulupama is translated "a wave compared," a wave being a very suitable simile for feeling.
16.
A banana-plant.
17.
"Extinguished": for the putting out of the flames of greed, aversion and delusion (= Arahatship) the same verb is used, as in the last line of the verses.
18.
Or on "Aging" or "Decay."
19.
Impermanence, Unsatisfactoriness, No-self.
20.
A Buddhist layman keeping five or eight precepts.

Abbreviations:

M ...... Majjhima-nikaya
A ...... Anguttara-nikaya
S ...... Samyutta-nikaya
M.R. ... Minor Readings (and Illustrator) — Khuddaka-patha


Chú Thích  

13.
Chịu đựng tất cả các loại đau khổ, thể chất và tinh thần, và đau khổ vì sự vô thường của mọi thứ.
14.
Đi vào bằng miệng nhưng có thể đi ra từ mắt (2), tai (2), lỗ mũi (2), miệng, ống dẫn nước tiểu, và hậu môn, như các loại "bụi bẩn" khác nhau.
15.
Cụm từ Thái ngữ bubbulupama được dịch là "ví với sóng," sóng là một mô phỏng rất phù hợp cho cảm giác.
16.
Cây chuối.
17.
"Dập tắt": chỉ việc dập tắt những ngọn lửa của tham, sân và si (=quả vị A-la-hán) cùng một động từ được sử dụng, như trong câu cuối của bài thơ.
18.
Hay là "Lão hóa" hay "Già yếu."
19.
Vô thường, Khổ, Vô ngã.
20.
Cư sĩ Phật giáo giữ năm hay tám giới luật.

Các Chữ Viết Tắt:

M ...... Majjhima-nikaya (Trung Bộ Kinh)
A ...... Anguttara-nikaya (Tăng Chi Bộ Kinh)
S ...... Samyutta-nikaya (Tương Ưng Bộ Kinh)
M.R. ... Tiểu Bộ Kinh (và Minh họa) — Khuddaka-patha

How to cite this document (a suggested style): "Bag of Bones: A Miscellany on the Body", compiled by Bhikkhu Khantipalo. Access to Insight (BCBS Edition), 30 November 2013, http://www.accesstoinsight.org/lib/authors/khantipalo/wheel271.html .
Alternate format: PDF

Làm thế nào để trích dẫn tài liệu này (một đề nghị bút pháp): "Bag of Bones: A Miscellany on the Body - Túi Xương: Tuyển Tập về Quán Niệm Thân", biên soạn bởi Tỳ khưu Khantipalo. Access to Insight (BCBS Edition), ngày 30 tháng 11 năm 2013,
http://www.accesstoinsight.org/lib/authors/khantipalo/wheel271.html .
Ấn bản phát hành theo dạng khác: PDF

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

  Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại phamdang0308@gmail.com
Cập nhập ngày: Thứ Hai 06-25-2018

Kỹ thuật trình bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

 | | trở về đầu trang | Home page |