Though right concentration claims the last place among the factors of the Noble Eightfold Path, concentration itself does not mark the path's culmination. The attainment of concentration makes the mind still and steady, unifies its concomitants, opens vast vistas of bliss, serenity, and power. But by itself it does not suffice to reach the highest accomplishment, release from the bonds of suffering. To reach the end of suffering demands that the Eightfold Path be turned into an instrument of discovery, that it be used to generate the insights unveiling the ultimate truth of things. This requires the combined contributions of all eight factors, and thus a new mobilization of right view and right intention. Up to the present point these first two path factors have performed only a preliminary function. Now they have to be taken up again and raised to a higher level. Right view is to become a direct seeing into the real nature of phenomena, previously grasped only conceptually; right intention, to become a true renunciation of defilements born out of deep understanding. |
Mặc dù chánh định được xem là vị trí cuối cùng trong các yếu tố của Bát Chánh Đạo, sự tập trung tự nó không là đỉnh cao của con đường tu tập. Việc đạt được sự tập trung làm cho tâm tĩnh lặng và ổn định, hợp nhất các yếu tố của nó, mở ra khung cảnh rộng lớn của hạnh phúc, thanh tịnh và sức mạnh. Nhưng bản thân nó không đủ để đạt được thành tựu cao nhất, giải thoái khỏi những ràng buộc của đau khổ. Để đạt đến sự giải thoát cuối cùng khỏi sự đau khổ, thì đòi hỏi rằng con đường tu tập Bát Chánh Đạo phải là phương tiện tu tập, nó được sử dụng để tạo ra những hiểu biết sâu sắc hiển thị sự thật cuối cùng của sự vật. Điều này đòi hỏi sự tu tập tổng hợp của tất cả tám yếu tố, và thật vậy, một sự hổ trợ mới của chánh kiến và chánh tư duy. Cho đến thời điểm hiện tại, hai yếu tố đầu tiên này chỉ thực hiện một chức năng sơ bộ. Bây giờ chúng phải được nâng lên một lần nữa và nâng lên cấp độ cao hơn. Chánh kiến là trở thành cái nhìn trực tiếp vào bản chất thực của sự vật hiện tượng mà trước đây chỉ nắm được về mặt khái niệm; chánh tư duy, trở thành công cụ từ bỏ thực sự những phiền não sinh ra từ sự hiểu biết sâu sắc . |
Before we turn to the development of wisdom, it will be helpful to inquire why concentration is not adequate to the attainment of liberation. Concentration does not suffice to bring liberation because it fails to touch the defilements at their fundamental level. The Buddha teaches that the defilements are stratified into three layers: the stage of latent tendency, the stage of manifestation, and the stage of transgression. The most deeply grounded is the level of latent tendency (anusaya), where a defilement merely lies dormant without displaying any activity. The second level is the stage of manifestation (pariyutthana), where a defilement, through the impact of some stimulus, surges up in the form of unwholesome thoughts, emotions, and volitions. Then, at the third level, the defilement passes beyond a purely mental manifestation to motivate some unwholesome action of body or speech. Hence this level is called the stage of transgression (vitikkama).. |
Trước khi chúng ta nói sang sự phát triển của trí tuệ, sẽ rất hữu ích nếu bạn hỏi tại sao sự tập trung không đủ để đạt được giải thoát. Sự tập trung không đủ để mang lại sự giải thoát vì nó không thể chạm tới những phiền não ở cấp độ cơ bản của chúng. Đức Phật dạy rằng phiền não được phân chia thành ba loại: giai đoạn có khuynh hướng phiền não ngủ ngầm, anusaya kilesa, phiền não tư tưởng, hay phiền não tác động. Căn cứ sâu sắc nhất là mức độ của phiền não ngủ ngầm (analaya), nơi mà sự ô uế chỉ nằm im lìm không có bất kỳ hoạt động nào. Cấp độ thứ hai là giai đoạn biểu hiện qua tư tưởng (pariyutthana), nơi mà sự nhiễm ô, thông qua tác động của một số kích thích, bùng lên dưới dạng những ý nghĩ, cảm xúc và hành động bất thiện. Sau đó, ở cấp độ thứ ba, sự nhiễm ô vượt ra ngoài một biểu hiện tinh thần thuần túy để thúc đẩy một số hành động bất thiện của thân hoặc khẩu. Do đó, mức độ này được gọi là giai đoạn phạm giới (vitikkama). |
The three divisions of the Noble Eightfold Path provide the check against this threefold layering of the defilements. The first, the training in moral discipline, restrains unwholesome bodily and verbal activity and thus prevents defilements from reaching the stage of transgression. The training in concentration provides the safeguard against the stage of manifestation. It removes already manifest defilements and protects the mind from their continued influx. But even though concentration may be pursued to the depths of full absorption, it cannot touch the basic source of affliction — the latent tendencies lying dormant in the mental continuum. Against these concentration is powerless, since to root them out calls for more than mental calm. What it calls for, beyond the composure and serenity of the unified mind, is wisdom (pañña), a penetrating vision of phenomena in their fundamental mode of being. |
Bát Chánh Đạo bao gồm 8 yếu tố chân chánh và chia thành 3 nhóm gọi là tam vô lậu học, 3 nhóm này để diệt trừ phiền não. Đã chuẩn bị đầy đủ sự kiểm soát chống lại ba lớp phiền não này. Thứ nhất, Giới: Chánh ngữ, Chánh nghhiệp, Chánh mạng. Là sự tu tập trong kỷ luật đạo đức, kiềm chế hoạt động bất thiện của thân và lời nói và, do đó ngăn ngừa phiền não đạt đến giai đoạn hành động bất thiện. Thứ hai, Định: Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Việc tu tập khả năng tập trung cung cấp sự bảo vệ chống lại giai đoạn biểu hiện. Nó loại bỏ các phiền não đã hiển hiện và bảo vệ tâm khỏi dòng chảy liên tục của chúng. Thứ ba, Tuệ: Chánh kiến, Chánh tư duy. Nhưng mặc dù sự tập trung có thể được theo đuổi đến tận độ sâu của sự thẩm thấu hoàn toàn, nó không thể chạm đến nguồn gốc cơ bản của phiền não - những khuynh hướng tiềm ẩn ngủ ngầm trong dòng tinh thần liên tục. Muốn chống lại sự tập trung này là bất lực, vì để giải quyết tận gốc chúng đòi hỏi sự bình tĩnh về tinh thần nhiều hơn. Những gì nó đòi hỏi, ngoài sự điềm tĩnh và thanh thản của tâm trí thống nhất, là trí tuệ (pañña), một tầm nhìn xuyên suốt về các hiện tượng trong phương thức tồn tại cơ bản của chúng. |
Wisdom alone can cut off the latent tendencies at their root because the most fundamental member of the set, the one which nurtures the others and holds them in place, is ignorance (avijja), and wisdom is the remedy for ignorance. Though verbally a negative, "unknowing," ignorance is not a factual negative, a mere privation of right knowledge. It is, rather, an insidious and volatile mental factor incessantly at work inserting itself into every compartment of our inner life. It distorts cognition, dominates volition, and determines the entire tone of our existence. As the Buddha says: "The element of ignorance is indeed a powerful element" (SN 14:13).. |
Tuệ một mình có thể cắt đứt tận gốc các khuynh hướng tiềm ẩn của phiền não bởi vì vô minh (avijja) là nguyên tắc cơ bản nhất của dòng chảy, thành phần nuôi dưỡng những phiền não và giữ vững chúng, và trí tuệ là phương thuốc chữa trị sự vô minh. Mặc dù bằng lời nói là tiêu cực, "không ý thức", vô minh không phải là phủ định trên thực tế, chỉ là đặc tính của kiến thức. Đúng hơn, nó là một yếu tố tinh thần âm ỉ và chuyển động không ngừng , tự len lỏi vào của cuộc sống nội tâm của chúng ta. Nó bóp méo nhận thức, chi phối hành động và quyết định toàn bộ giai điệu tồn tại của chúng ta. Như lời Đức Phật nói: “Yếu tố vô minh quả là một yếu tố mạnh mẽ” (SN 14:13). |
At the cognitive level, which is its most basic sphere of operation, ignorance infiltrates our perceptions, thoughts, and views, so that we come to misconstrue our experience, overlaying it with multiple strata of delusions. The most important of these delusions are three: the delusions of seeing permanence in the impermanent, of seeing satisfaction in the unsatisfactory, and of seeing a self in the selfless.[66] Thus we take ourselves and our world to be solid, stable, enduring entities, despite the ubiquitous reminders that everything is subject to change and destruction. We assume we have an innate right to pleasure, and direct our efforts to increasing and intensifying our enjoyment with an anticipatory fervor undaunted by repeated encounters with pain, disappointment, and frustration. And we perceive ourselves as self-contained egos, clinging to the various ideas and images we form of ourselves as the irrefragable truth of our identity. |
Ở cấp độ nhận thức, cái mà lĩnh vực hoạt động cơ bản nhất của nó, vô minh xâm nhập vào nhận thức, những suy nghĩ và quan điểm của chúng ta, để chúng ta hiểu sai về trải nghiệm của mình, phủ lên nó nhiều tầng lớp của ảo tưởng. Ba điều quan trọng nhất trong số này là: ảo tưởng khi thấy sự vĩnh cửu trong cái vô thường, thấy thỏa mãn trong cái không thỏa mãn, và nhìn thấy một bản ngã trong cái vô ngã. [66] Vì vậy, chúng ta coi bản thân và thế giới của chúng ta là những thực thể vững chắc, ổn định, bền bỉ, bất chấp những lời nhắc nhở phổ biến rằng mọi thứ đều có thể thay đổi và hủy diệt. Chúng ta cho rằng chúng ta có quyền được hưởng thụ bẩm sinh, và hướng nỗ lực của chúng ta vào việc tăng cường và nâng cao khả năng hưởng thụ của chúng ta với một lòng nhiệt thành mong đợi mà không bị lung lay bởi những lần gặp đau đớn, thất vọng và vỡ mộng. Và chúng ta coi mình như những cái tôi khép kín, bám vào những ý tưởng và hình ảnh khác nhau mà chúng ta hình thành về bản thân như sự thật không thể chối cãi về danh tính của chúng ta. |
Whereas ignorance obscures the true nature of things, wisdom removes the veils of distortion, enabling us to see phenomena in their fundamental mode of being with the vivacity of direct perception. The training in wisdom centers on the development of insight (vipassana-bhavana), a deep and comprehensive seeing into the nature of existence which fathoms the truth of our being in the only sphere where it is directly accessible to us, namely, in our own experience. Normally we are immersed in our experience, identified with it so completely that we do not comprehend it. We live it but fail to understand its nature. Due to this blindness experience comes to be misconstrued, worked upon by the delusions of permanence, pleasure, and self. Of these cognitive distortions, the most deeply grounded and resistant is the delusion of self, the idea that at the core of our being there exists a truly established "I" with which we are essentially identified. This notion of self, the Buddha teaches, is an error, a mere presupposition lacking a real referent. Yet, though a mere presupposition, the idea of self is not inconsequential. To the contrary, it entails consequences that can be calamitous. Because we make the view of self the lookout point from which we survey the world, our minds divide everything up into the dualities of "I" and "not I," what is "mine" and what is "not mine." Then, trapped in these dichotomies, we fall victim to the defilements they breed, the urges to grasp and destroy, and finally to the suffering that inevitably follows. |
Nhưng trái với, vô minh che khuất bản chất thực sự của sự vật, thì trí tuệ loại bỏ bề ngoài giả dối của sự bóp méo, cho phép chúng ta nhìn thấy các hiện tượng ở căn nguyên cơ bản của chúng với sự hoạt động của nhận thức trực tiếp. Việc đào tạo trí tuệ tập trung vào sự phát triển của thiền Minh Sát (vipassana-bhavana), là phát triển tuệ giác, hướng tâm định soi vào đời sống để chứng ngộ thực tướng của vạn pháp, từ đó xác nhận sự thật của con người chúng ta trong lĩnh vực duy nhất mà nó có thể tiếp cận trực tiếp với chúng ta, cụ thể là trong sự trải nghiệm của chúng ta. Thông thường chúng ta đắm chìm trong trải nghiệm của mình, đồng nhất với nó hoàn toàn đến nỗi chúng ta không thể hiểu được nó. Chúng ta sống với nó nhưng không hiểu được bản chất của nó. Do sự mù quáng này mà trải nghiệm bị hiểu sai, bị làm cho ảo tưởng về sự vĩnh cửu, sự hài lòng và cái "tôi". Trong số những nhận thức sai lệch này, căn cứ sâu sắc nhất và có khả năng chống lại là những ảo tưởng về bản thân, ý tưởng rằng cốt lõi của con người chúng ta tồn tại một cái "tôi" thực sự được thiết lập mà chúng ta về cơ bản được xác định. Ý niệm về cái tôi này, Đức Phật dạy, là một sai lầm, một sự giả định đơn thuần thiếu một quy chiếu thực sự. Tuy nhiên, mặc dù chỉ là một giả định, ý tưởng về bản thân không phải là không quan trọng. Ngược lại, nó kéo theo những hậu quả khôn lường. Bởi vì chúng ta coi cái tôi là điểm quan sát mà từ đó chúng ta khảo sát thế giới, tâm của chúng ta phân chia mọi thứ thành nhị nguyên "tôi" và "không phải tôi", cái gì là "của tôi" và cái "không phải của tôi." Sau đó, bị mắc kẹt trong những sự phân chia này, chúng ta trở thành nạn nhân của những ô nhiễm mà chúng sinh ra, những thôi thúc nắm bắt và phá hủy, và cuối cùng là đau khổ chắc chắn xảy ra sau đó. |
To free ourselves from all defilements and suffering, the illusion of selfhood that sustains them has to be dispelled, exploded by the realization of selflessness. Precisely this is the task set for the development of wisdom. The first step along the path of development is an analytical one. In order to uproot the view of self, the field of experience has to be laid out in certain sets of factors, which are then methodically investigated to ascertain that none of them singly or in combination can be taken as a self. This analytical treatment of experience, so characteristic of the higher reaches of Buddhist philosophical psychology, is not intended to suggest that experience, like a watch or car, can be reduced to an accidental conglomeration of separable parts. Experience does have an irreducible unity, but this unity is functional rather than substantial; it does not require the postulate of a unifying self separate from the factors, retaining its identity as a constant amidst the ceaseless flux. |
Để giải thoát bản thân chúng ta khỏi mọi phiền não và đau khổ, ảo tưởng về "cái tôi" điều đó chứng minh chúng phải bị xua tan, phải phá vỡ bằng sự quên mình.Đúng vậy, đây là nhiệm vụ nhất định cho sự phát triển của trí tuệ. Bước đầu tiên trên con đường phát triển là bước phân tích như thế không thay đổi. Để khơi dậy quan điểm về bản thân, lĩnh vực kinh nghiệm phải được đặt ra trong một số tập hợp các yếu tố nhất định, cái mà sau đó được điều tra một cách có phương pháp để chắc chắn rằng không có yếu tố nào trong số đó có thể được coi là tự ngã. Cách xử lý phân tích về trải nghiệm này, đặc trưng của tầm cao hơn của tâm lý học triết học Phật giáo, không nhằm mục đích gợi ý rằng trải nghiệm, giống như đồng hồ hoặc ô tô, có thể làm giảm được sự kết hợp ngẫu nhiên của các bộ phận rời. Sự trải nghiệm có tính đồng nhất không thể đơn giản hóa, nhưng sự thống nhất này mang tính chức năng hơn là thực tế; nó không đòi hỏi đưa ra một cái tôi thống nhất tách biệt khỏi các yếu tố, giữ nguyên bản sắc của nó như một hằng số giữa dòng chảy không ngừng. |
The method of analysis applied most often is that of the five aggregates of clinging (panc'upadanakkhandha): material form, feeling, perception, mental formations, and consciousness.[67] Material form constitutes the material side of existence: the bodily organism with its sense faculties and the outer objects of cognition. The other four aggregates constitute the mental side. Feeling provides the affective tone, perception the factor of noting and identifying, the mental formations the volitional and emotive elements, and consciousness the basic awareness essential to the whole occasion of experience. The analysis by way of the five aggregates paves the way for an attempt to see experience solely in terms of its constituting factors, without slipping in implicit references to an unfindable self. To gain this perspective requires the development of intensive mindfulness, now applied to the fourth foundation, the contemplation of the factors of existence (dhammanupassana). The disciple will dwell contemplating the five aggregates, their arising and passing: |
Phương pháp phân tích được áp dụng thường xuyên nhất đó là năm thủ uẩn (Panca upadana kkhandha): sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. [67]1. 1. Sắc thủ uẩn (Rūpūpādānakkhandha), tức là bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, hiện tại, vị lai, nội phần, ngoại phần, thô tế, xa hoặc gần, mà bị chấp thủ, thành cảnh lậu. Bốn uẩn kia về mặt tinh thần : 2. Thọ thủ uẩn (Vedanūpādānakkhandha), tức là bất cứ thọ gì thuộc quá khứ... xa hoặc gần, mà bị chấp thủ, thành cảnh lậu. 3. Tưởng thủ uẩn (Saññūpādānakkhandha), tức là bất cứ tưởng gì thuộc quá khứ... xa hoặc gần, mà bị chấp thủ, thành cảnh lậu. 4. Hành thủ uẩn (Saṅkhārūpādānakkhandha), tức là bất cứ hành gì thuộc quá khứ... xa hoặc gần, mà bị chấp thủ, thành cảnh lậu. 5. Thức thủ uẩn (Viññāṇūpādānakkhandha), tức là bất cứ thức gì thuộc quá khứ... xa hoặc gần, mà bị chấp thủ, thành cảnh lậu. Việc phân tích theo cách thức của ngũ uẩn mở đường cho một nỗ lực để xem trải nghiệm chỉ dựa trên các yếu tố cấu thành của nó, mà không có sự sơ xuất trong các tham chiếu ngầm đến một bản ngã không thể xác định được. Để đạt được quan điểm này, đòi hỏi sự phát triển mạnh của chánh niệm, được áp dụng cho nền tảng thứ tư, sự quán chiếu về các yếu tố của hiện hữu - Pháp Quán Niệm Xứ(dhammanupassana). Hành giả sẽ quán tưởng về năm uẩn, sự sinh và diệt của chúng: |
The disciple dwells in contemplation of phenomena, namely, of the five aggregates of clinging. He knows what material form is, how it arises, how it passes away; knows what feeling is, how it arises, how it passes away; knows what perception is, how it arises, how it passes away; knows what mental formations are, how they arise, how they pass away; knows what consciousness is, how it arises, how it passes away.[68] |
Tỷ kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Năm Thủ uẩn. Này các Tỷ kheo, thế nào là Tỷ kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Năm Thủ uẩn? Này các Tỷ kheo, Tỷ kheo suy tư: "Đây là sắc, đây là sắc sanh, đây là sắc diệt. Đây là thọ, đây là thọ sanh, đây là thọ diệt. Đây là tưởng, đây là tưởng sanh, đây là tưởng diệt. Đây là hành, đây là hành sanh, đây là hành diệt. Đây là thức, đây là thức sanh, đây là thức diệt".[68] |
Or the disciple may instead base his contemplation on the six internal and external spheres of sense experience, that is, the six sense faculties and their corresponding objects, also taking note of the "fetters" or defilements that arise from such sensory contacts:. |
Hoặc thay vào đó, người Phật tử có thể chiêm nghiệm trên sáu lĩnh vực bên trong và bên ngoài của kinh nghiệm giác quan, tức là sáu giác quan và các đối tượng tương ứng của chúng, cũng lưu ý đến những "kiết sử" hoặc phiền não phát sinh từ những sự tiếp xúc giác quan đó: |
The disciple dwells in contemplation of phenomena, namely, of the six internal and external sense bases. He knows the eye and forms, the ear and sounds, the nose and odors, the tongue and tastes, the body and tangibles, the mind and mental objects; and he knows as well the fetter that arises in dependence on them. He understands how the unarisen fetter arises, how the arisen fetter is abandoned, and how the abandoned fetter does not arise again in the future.[69] |
Tỷ kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Sáu Nội Ngoại xứ. Này các Tỷ kheo, thế nào là Tỷ kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Sáu Nội Ngoại xứ? Này các Tỷ kheo, ở đây Tỷ kheo tuệ tri con mắt và tuệ tri các sắc, do duyên hai pháp này, kiết sử sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy... và tuệ tri tai, và tuệ tri các tiếng... và tuệ tri mũi và tuệ tri các hương... và tuệ tri lưỡi, và tuệ tri các vị... và tuệ tri thân và tuệ tri các xúc... và tuệ tri ý và tuệ tri các pháp; do duyên hai pháp này, kiết sử sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. [69] |
The view of self is further attenuated by examining the factors of existence, not analytically, but in terms of their relational structure. Inspection reveals that the aggregates exist solely in dependence on conditions. Nothing in the set enjoys the absolute self-sufficiency of being attributed to the assumed "I." Whatever factors in the body-mind complex be looked at, they are found to be dependently arisen, tied to the vast net of events extending beyond themselves temporally and spatially. The body, for example, has arisen through the union of sperm and egg and subsists in dependence on food, water, and air. Feeling, perception, and mental formations occur in dependence on the body with its sense faculties. They require an object, the corresponding consciousness, and the contact of the object with the consciousness through the media of the sense faculties. Consciousness in its turn depends on the sentient organism and the entire assemblage of co-arisen mental factors. This whole process of becoming, moreover, has arisen from the previous lives in this particular chain of existences and inherit all the accumulated kamma of the earlier existences. Thus nothing possesses a self-sufficient mode of being. All conditioned phenomena exist relationally, contingent and dependent on other things. |
Quan điểm về cái "tôi" càng bị suy yếu khi xem xét các yếu tố hiện hữu, không phải về mặt phân tích, mà về cấu trúc quan hệ của chúng. Sự kiểm tra cho thấy rằng các hành uẩn chỉ tồn tại phụ thuộc vào các điều kiện. Không có gì trong toàn bộ được hưởng sự tự lực tuyệt đối khi được gán cho cái "Tôi" giả định. Bất cứ yếu tố nào trong hỗn hợp của thân-tâm được xem xét, chúng đều được phát sinh phụ thuộc, gắn liền với mạng lưới rộng lớn của các sự kiện mở rộng ra ngoài bản thân chúng về mặt thời gian và không gian. Ví dụ, cơ thể được hình thành nhờ sự kết hợp của tinh trùng và trứng và tồn tại phụ thuộc vào thức ăn, nước uống và không khí. Thọ, tưởng, hành, ý thức xảy ra phụ thuộc vào cơ thể với các khả năng giác quan của nó. Chúng đòi hỏi một đối tượng, ý thức tương ứng, và sự tiếp xúc của đối tượng với ý thức thông qua phương tiện của các khoa giác quan. Ý thức, phụ thuộc vào sinh vật có tri giác và toàn bộ tập hợp các yếu tố tinh thần đồng phát sinh. Hơn nữa, toàn bộ quá trình thành hình này đã phát sinh từ các kiếp trước trong dòng sinh tử hiện hữu đặc biệt này và kế thừa tất cả nghiệp tích lũy của các kiếp trước. Thật vậy, không có gì sở hữu một phương thức tồn tại. Tất cả các hiện tượng với điều kiện này hiện diện tương quan với nhau, tùy thuộc vào các sự kiện khác. |
The above two steps — the factorial analysis and the discernment of relations — help cut away the intellectual adherence to the idea of self, but they lack sufficient power to destroy the ingrained clinging to the ego sustained by erroneous perception. To uproot this subtle form of ego-clinging requires a counteractive perception: direct insight into the empty, coreless nature of phenomena. Such an insight is generated by contemplating the factors of existence in terms of their three universal marks — impermanence (aniccata), unsatisfactoriness (dukkhata), and selflessness (anattata). Generally, the first of the three marks to be discerned is impermanence, which at the level of insight does not mean merely that everything eventually comes to an end. At this level it means something deeper and more pervasive, namely, that conditioned phenomena are in constant process, happenings which break up and perish almost as soon as they arise. The stable objects appearing to the senses reveal themselves to be strings of momentary formations (sankhara); the person posited by common sense dissolves into a current made up of two intertwining streams — a stream of material events, the aggregate of material form, and a stream of mental events, the other four aggregates. |
Hai bước trên - cách phân tích toán học và phân biệt các mối quan hệ - giúp cắt bỏ sự bám chặt của trí tuệ đối với ý tưởng về cái tôi, nhưng chúng không đủ sức mạnh để phá hủy sự bám chặt vào bản ngã được duy trì bởi nhận thức sai lầm. Để nhổ tận gốc hình thức chấp ngã tinh vi này đòi hỏi một nhận thức làm mất tác dụng: cái nhìn sâu sắc trực tiếp vào bản chất trống rỗng, không có cốt lõi của hiện tượng. Cái nhìn sâu sắc như vậy được tạo ra bằng cách quán chiếu các yếu tố của sự tồn tại theo ba dấu ấn phổ quát của chúng - vô thường (aniccata), khổ (dukkhata) và vô ngã (anattata). Nói chung, điểm đầu tiên trong ba dấu ấn cần nhận biết là vô thường, ở mức độ sáng suốt không có nghĩa chỉ rằng mọi thứ cuối cùng cũng kết thúc. Ở cấp độ này, nó có nghĩa là một cái gì đó sâu sắc hơn và phổ biến hơn, cụ thể là, các hiện tượng có điều kiện là trong một quá trình liên tục, các diễn biến sẽ tan vỡ và diệt vong ngay khi chúng phát sinh. Các đối tượng ổn định xuất hiện với các giác quan tự tiết lộ chúng là những chuỗi hình thành nhất thời - hành uẩn(sankhara); con người được nhận thức bởi ý niệm thông thường sẽ được hội nhập vào dòng đời được tạo thành bởi hai hiện tượng đan xen nhau - một là các sự kiện vật chất, là sắc uẩn (Rùpakkhandha) và, hiện tượng kia là các sự kiện tinh thần, thuộc bốn uẩn, là Thọ uẩn (Vedanàkkhandha) , Tưởng uẩn (Sannàkkhandha), Hành uẩn (Sankhàrakkhandha), Thức uẩn (Vinnànakkhandha) |
When impermanence is seen, insight into the other two marks closely follows. Since the aggregates are constantly breaking up, we cannot pin our hopes on them for any lasting satisfaction. Whatever expectations we lay on them are bound to be dashed to pieces by their inevitable change. Thus when seen with insight they are dukkha, suffering, in the deepest sense. Then, as the aggregates are impermanent and unsatisfactory, they cannot be taken as self. If they were self, or the belongings of a self, we would be able to control them and bend them to our will, to make them everlasting sources of bliss. But far from being able to exercise such mastery, we find them to be grounds of pain and disappointment. Since they cannot be subjected to control, these very factors of our being are anatta: not a self, not the belongings of a self, just empty, ownerless phenomena occurring in dependence on conditions. |
Khi dấu ấn Vô Thường được hiểu rõ, thì Khổ và Vô Ngã sẽ được thấu hiểu ngay sau đó. Vì các uẩn liên tục tan vỡ, chúng ta không thể đặt hy vọng vào chúng để có được sự hài lòng lâu dài. Bất kỳ kỳ vọng nào chúng ta đặt vào chúng đều nhất định bị tiêu tan thành từng mảnh bởi sự thay đổi không thể tránh khỏi của chúng. Vì vậy, khi các uẩn phải được nhìn với sự hiểu biết sâu sắc, chúng là khổ (dukkha), theo nghĩa sâu xa nhất. Sau đó, vì các uẩn là vô thường và không hài lòng, chúng không thể được coi là "tôi". Nếu chúng là "tôi", hoặc là vật dụng "của tôi", chúng ta sẽ có thể kiểm soát chúng và uốn nắn chúng theo ý mình, để biến chúng thành nguồn hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng không có thể thực hiện được khả năng làm chủ như vậy, chúng ta thấy chúng chỉ là cơ sở của nỗi đau và sự thất vọng. Vì chúng không thể kiểm soát được, những yếu tố này của bản thể chúng là vô ngã: không phải là ngã, không phải là thuộc tính của ngã, chỉ là những hiện tượng trống rỗng, vô chủ xảy ra trong sự phụ thuộc vào các hành. |
When the course of insight practice is entered, the eight path factors become charged with an intensity previously unknown. They gain in force and fuse together into the unity of a single cohesive path heading towards the goal. In the practice of insight all eight factors and three trainings co-exist; each is there supporting all the others; each makes its own unique contribution to the work. The factors of moral discipline hold the tendencies to transgression in check with such care that even the thought of unethical conduct does not arise. The factors of the concentration group keep the mind firmly fixed upon the stream of phenomena, contemplating whatever arises with impeccable precision, free from forgetfulness and distraction. Right view, as the wisdom of insight, grows continually sharper and deeper; right intention shows itself in a detachment and steadiness of purpose bringing an unruffled poise to the entire process of contemplation.. |
Khi bước vào quá trình tu tập tuệ giác, tám yếu tố con đường Bát Chánh Đạo trở thành nhiệm vụ với sức mạnh mà trước đây chưa biết. Chúng có sức mạnh và hợp nhất với nhau thành sự thống nhất của một con đường độc nhất hướng tới mục tiêu. Trong việc tu tập tuệ giác, tất cả tám yếu tố và ba sự rèn luyện (Giới, Định, Tuệ) cùng tồn tại; mỗi yếu tố ở đó hỗ trợ tất cả những yếu tố kia; mỗi yếu tố có đóng góp độc đáo cho sự kiện. Các yếu tố của Giới, tu tập về đạo đức kiểm soát các khuynh hướng vi phạm một cách thận trọng đến mức ngay cả ý nghĩ về hành vi phi đạo đức cũng không nảy sinh. Các nhân tố của Định, nhóm tập trung giữ cho tâm trí cố định vững chắc trên dòng hiện tượng, suy ngẫm về bất cứ điều gì nảy sinh với độ chính xác hoàn hảo, không bị đãng trí và mất tập trung. Tuệ, Chánh kiến, như trí tuệ của sự sáng suốt, liên tục phát triển sắc nét và sâu sắc hơn; Chánh Tư Duy thể hiện trong sự tách rời và sự kiên định của mục đích mang lại một tư thế không dao động cho toàn bộ quá trình tu tập. |
Insight meditation takes as its objective sphere the "conditioned formations" (sankhara) comprised in the five aggregates. Its task is to uncover their essential characteristics: the three marks of impermanence, unsatisfactoriness, and selflessness. Because it still deals with the world of conditioned events, the Eightfold Path in the stage of insight is called the mundane path (lokiyamagga). This designation in no way implies that the path of insight is concerned with mundane goals, with achievements falling in the range of samsara. It aspires to transcendence, it leads to liberation, but its objective domain of contemplation still lies within the conditioned world. However, this mundane contemplation of the conditioned serves as the vehicle for reaching the unconditioned, for attaining the supramundane. When insight meditation reaches its climax, when it fully comprehends the impermanence, unsatisfactoriness, and selflessness of everything formed, the mind breaks through the conditioned and realizes the unconditioned, Nibbana. It sees Nibbana with direct vision, makes it an object of immediate realization. |
Thiền quán là phương pháp tu tập dùng trí tuệ quan sát tất cả mọi sự vật " pháp hữu vi" (sankhara) là những gì, vật chất hay tinh thần, phát sanh và hiện hữu do điều kiện bao gồm trong năm uẩn. Nhiệm vụ của Thiền Quán là khám phá ra những đặc điểm cốt yếu của chúng: ba dấu ấn, vô thường, khổ và vô ngã. Bởi vì, trong thế gian hiện tượng này, tất cả mọi sự vật đều là pháp hữu lậu, hay pháp hữu vi. Bát chánh đạo trong phạm vi tu tập của tuệ được gọi là đạo lộ hiệp-thế (lokiyamagga). Sự gọi tên này không có nghĩa là con đường của tuệ giác liên quan đến những mục tiêu trần tục, với những sự đạt được nằm trong vòng sinh tử luân hồi. Nó khao khát sự siêu nghiệm, nó dẫn đến giải thoát, nhưng lãnh vực chiêm nghiệm khách quan của nó vẫn nằm trong thế giới pháp hữu vi. Tuy nhiên, sự quán chiếu hiệp-thế này về các pháp hữu vi phục vụ như là phương tiện để đạt đến giải thoát , để đạt được siêu thế. Khi thiền quán đạt đến đỉnh điểm, khi nó hoàn toàn thấu hiểu tính chất vô thường, khổ và vô ngã của mọi thứ được tạo thành , tâm vượt qua mọi sự vật và nhận ra Niết bàn vô điều kiện(unconditioned) tức là Niết-bàn, là giải thoát. Nó nhìn thấy Niết-bàn với tầm nhìn trực tiếp, khiến nó trở thành đối tượng của sự chứng ngộ ngay lập tức. |
The breakthrough to the unconditioned is achieved by a type of consciousness or mental event called the supramundane path (lokuttaramagga). The supramundane path occurs in four stages, four "supramundane paths," each marking a deeper level of realization and issuing in a fuller degree of liberation, the fourth and last in complete liberation. The four paths can be achieved in close proximity to one another — for those with extraordinarily sharp faculties even in the same sitting — or (as is more typically the case) they can be spread out over time, even over several lifetimes.[70] The supramundane paths share in common the penetration of the Four Noble Truths. They understand them, not conceptually, but intuitively. They grasp them through vision, seeing them with self-validating certainty to be the invariable truths of existence. The vision of the truths which they present is complete at one moment. The four truths are not understood sequentially, as in the stage of reflection when thought is the instrument of understanding. They are seen simultaneously: to see one truth with the path is to see them all. |
Sự đột phá đến vô điều kiện (unconditioned) tức là Niết-bàn, là giải thoát đạt được nhờ một loại tâm thức hoặc sự kiện tinh thần được gọi là con đường siêu thế (lokuttaramagga). Con đường siêu thế bao gồm trong bốn giai đoạn, bốn "con đường siêu thế", mỗi giai đoạn đánh dấu một mức độ chứng ngộ sâu hơn và phát triển trong mức độ giải thoát đầy đủ hơn, mức độ thứ tư và cuối cùng trong sự giải thoát hoàn toàn. Bốn con đường có thể đạt được ở gần nhau - đối với những người có khả năng đặc biệt sắc bén ngay cả trong cùng một tư thế - hoặc (như trường hợp điển hình hơn), chúng có thể trải rộng theo thời gian, thậm chí trong vài kiếp. [70] Các con đường siêu thế có điểm chung là sự thâm nhập Tứ Diệu Đế. Hiểu chúng, không phải bằng khái niệm, mà bằng trực giác. Nắm bắt chúng thông qua tầm nhìn, nhìn thấy chúng với sự chắc chắn tự xác nhận là chân lý bất biến của sự tồn tại. Tầm nhìn về những sự thật được trình bày sẽ hoàn tất ngay lập tức. Bốn sự thật không được hiểu một cách tuần tự, như trong giai đoạn suy tư khi tư tưởng là công cụ của sự hiểu biết. Chúng được nhìn thấy đồng thời: nhìn thấy một sự thật với con đường tu tập là nhìn thấy tất cả chúng. |
As the path penetrates the four truths, the mind exercises four simultaneous functions, one regarding each truth. It fully comprehends the truth of suffering, seeing all conditioned existence as stamped with the mark of unsatisfactoriness. At the same time it abandons craving, cuts through the mass of egotism and desire that repeatedly gives birth to suffering. Again, the mind realizes cessation, the deathless element Nibbana, now directly present to the inner eye. And fourthly, the mind develops the Noble Eightfold Path, whose eight factors spring up endowed with tremendous power, attained to supramundane stature: right view as the direct seeing of Nibbana, right intention as the mind's application to Nibbana, the triad of ethical factors as the checks on moral transgression, right effort as the energy in the path-consciousness, right mindfulness as the factor of awareness, and right concentration as the mind's one-pointed focus. This ability of the mind to perform four functions at the same moment is compared to a candle's ability to simultaneously burn the wick, consume the wax, dispel darkness, and give light.[71] |
Khi con đường tu tập Tứ Diệu Đế, tâm thực hiện bốn chức năng đồng thời, một chức năng liên quan đến mỗi sự thật. Nó hoàn toàn thấu hiểu sự thật của khổ, nhìn thấy tất cả pháp hữu vi được đóng dấu ấn của sự không hài lòng. Đồng thời, nó từ bỏ tham ái, cắt đứt khỏi chủ nghĩa vị kỷ và tham ái nhiều lần sinh ra đau khổ. Một lần nữa, tâm thức nhận ra sự chấm dứt khổ, yếu tố vô tử Nibbana, bây giờ trực tiếp hiện diện với con mắt nội tâm. Và thứ tư con đường đạo, tâm phát triển Bát Chánh Đạo, mà tám yếu tố khởi lên với sức mạnh to lớn, đạt đến tầm vóc siêu phàm: Chánh Kiến như cái thấy trực tiếp của Níết- bàn, Chánh Định như sự ứng dụng của tâm vào Niết-bàn, ba yếu tố đạo đức, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng như sự kiểm tra về sự vi phạm đạo đức, Chánh Tinh Tấn như năng lượng trong ý thức con đường, Chánh Niệm như yếu tố của sự tỉnh thức, và Chánh Định như sự tập trung nhất tâm của tâm. Khả năng tu tập Tứ Diệu Đế cùng lúc của tâm trí này được so sánh với khả năng của ngọn nến đồng thời đốt bấc, tiêu thụ sáp, xua tan bóng tối và cho ra ánh sáng.[71] |
The supramundane paths have the special task of eradicating the defilements. Prior to the attainment of the paths, in the stages of concentration and even insight meditation, the defilements were not cut off but were only debilitated, checked and suppressed by the training of the higher mental faculties. Beneath the surface they continued to linger in the form of latent tendencies. But when the supramundane paths are reached, the work of eradication begins.. |
Các con đường siêu thế có nhiệm vụ đặc biệt là diệt trừ các phiền não. Trước khi đạt đến các con đường siêu thế, trong các giai đoạn định tâm và thậm chí tu tập thiền minh sát, các phiền não không bị cắt bỏ mà chỉ bị suy nhược, bị kiềm hãm và chỉ bị dập tắt nhờ sự tu tập của các tính năng tâm cao hơn. Bên dưới bề mặt, chúng tiếp tục tồn tại dưới dạng các khuynh hướng ngủ ngầm. Nhưng khi các con đường siêu thế đạt đến, công việc diệt trừ những phiền não bắt đầu . |
Insofar as they bind us to the round of becoming, the defilements are classified into a set of ten "fetters" (samyojana) as follows: (1) personality view, (2) doubt, (3) clinging to rules and rituals, (4) sensual desire, (5) aversion, (6) desire for fine-material existence, (7) desire for immaterial existence, (8) conceit, (9) restlessness, and (10) ignorance. The four supramundane paths each eliminate a certain layer of defilements. The first, the path of stream-entry (sotapatti-magga), cuts off the first three fetters, the coarsest of the set, eliminates them so they can never arise again. "Personality view" (sakkaya-ditthi), the view of a truly existent self in the five aggregates, is cut off since one sees the selfless nature of all phenomena. Doubt is eliminated because one has grasped the truth proclaimed by the Buddha, seen it for oneself, and so can never again hang back due to uncertainty. And clinging to rules and rites is removed since one knows that deliverance can be won only through the practice of the Eightfold Path, not through rigid moralism or ceremonial observances.. |
Trong chừng mực chúng ràng buộc chúng ta vào vòng bị sanh, các phiền não được phân loại thành một nhóm gồm mười "kiết sử" (samyojana) như sau: (1) thân kiến (sakkàya-ditthi), (2) Hoài nghi (Vicikicchā), (3) Tà kiến (Diṭṭhi), ( 4) . Dục ái (Kāmarāga), (5) sân hận (vyàpàda), (6) - tham đắm vào cõi sắc (rùpa-ràga), (7) tham đắm vào cõi vô sắc (arùpa-ràga), (8) Ngã mạn (Māna), (9) trạo cử vi tế (uddhacca), và (10) Vô minh (Avijjā). Bốn con đường siêu thế mỗi con đường loại bỏ một lớp phiền não nhất định. Đầu tiên, Tâm sơ đạo Còn gọi là Tu-Ðà-Huờn đạo(sotapatti-magga), cắt bỏ ba kiết sử đầu tiên, thô nhất trong nhóm, loại bỏ chúng để chúng không bao giờ có thể phát sinh nữa. “Thân Kiến” (sakkaya-ditthi), quan niệm về một ngã thực sự tồn tại trong năm uẩn, bị cắt bỏ vì hành giả thấy được bản chất vô ngã của mọi hiện tượng. Hoài nghi (Vicikicchā), được loại bỏ bởi vì hành giả đã nắm bắt được sự thật, Đức Phật tuyên bố, tự mình nhìn thấy nó, và do đó, không bao giờ có thể quay trở lại sự do dự không chắc chắn. Và Tà kiến (Diṭṭhi), sẽ bị loại bỏ vì hành giả biết rằng sự giải thoát chỉ có thể đạt được thông qua việc thực hành Bát Chánh Đạo, chứ không phải thông qua chủ nghĩa đạo đức cứng nhắc hoặc tuân thủ nghi lễ. |
The path is followed immediately by another state of supramundane consciousness known as the fruit (phala), which results from the path's work of cutting off defilements. Each path is followed by its own fruit, wherein for a few moments the mind enjoys the blissful peace of Nibbana before descending again to the level of mundane consciousness. The first fruit is the fruit of stream-entry, and a person who has gone through the experience of this fruit becomes a "stream-enterer" (sotapanna). He has entered the stream of the Dhamma carrying him to final deliverance. He is bound for liberation and can no longer fall back into the ways of an unenlightened worldling. He still has certain defilements remaining in his mental makeup, and it may take him as long as seven more lives to arrive at the final goal, but he has acquired the essential realization needed to reach it, and there is no way he can fall away.. |
Con đường tiếp theo là một trạng thái tâm thức siêu thế khác được gọi là tâm quả (phala), là kết quả của công việc cắt bỏ phiền não của con đường siêu thế. Mỗi con đường được theo sau bởi quả riêng của nó, trong đó trong một vài khoảnh khắc, tâm tận hưởng sự an lạc hạnh phúc của Níết-bàn trước khi đi xuống lại mức độ của ý thức trần tục. Quả thứ nhất, một người đã nhập vào dòng suối giải thoát của Thánh đạo. Là một người đã trải qua kinh nghiệm của quả này sẽ trở thành một "người đã đạt đến bậc giác ngộ thứ nhất" Thánh quả Tu Đà Huờn (sotapanna). Một vị đã bước vào dòng thánh của Giáo pháp mang hành giả đến sự giải thoát cuối cùng. Người này đi hướng về sự giải thoát và không còn có thể rơi vào bốn đường ác đạo. Vị này vẫn còn một số phiền não còn sót lại trong tâm, và sẽ chỉ còn tái sanh bảy lần trong cõi người hay cõi trời mà thôi, nhưng vị này đã có được nhận thức thiết yếu cần thiết để đạt được nó, và không có cách nào có thể rơi vào đường ác đạo. |
An enthusiastic practitioner with sharp faculties, after reaching stream-entry, does not relax his striving but puts forth energy to complete the entire path as swiftly as possible. He resumes his practice of insight contemplation, passes through the ascending stages of insight-knowledge, and in time reaches the second path, the path of the once-returner (sakadagami-magga). This supramundane path does not totally eradicate any of the fetters, but it attenuates the roots of greed, aversion, and delusion. Following the path the meditator experiences its fruit, then emerges as a "once-returner" who will return to this world at most only one more time before attaining full liberation. |
Ngài tiếp tục nhiệt tình với khả năng nhạy bén, sau khi đạt được mục tiêu, không lơi là với sự phấn đấu của mình mà cố gắng dành năng lượng để hoàn thành toàn bộ con đường tu tập nhanh nhất có thể. Ngài tiếp tục thực hành quán chiếu tuệ giác, vượt đến các giai đoạn tăng dần của tri kiến tuệ giác, và đạt đến con đường thứ hai, đạo quả Dự Lưu là đạo quả Nhất Lai, Ðạo Tư Ðà Hàm (sakadagami-magga). Con đường siêu thế này không hoàn toàn diệt trừ bất kỳ kiết sử nào, nhưng nó làm giảm bớt gốc rễ của tham, sân và si. Đi theo con đường mà Ngài trải nghiệm thành quả của nó, sau đó đạt đến như một "quả vị Nhất Lai", người sẽ trở lại thế giới này ít nhất một lần nữa trước khi đạt được giải thoát hoàn toàn. |
But our practitioner again takes up the task of contemplation. At the next stage of supramundane realization he attains the third path, the path of the non-returner (anagami-magga), with which he cuts off the two fetters of sensual desire and ill will. From that point on he can never again fall into the grip of any desire for sense pleasure, and can never be aroused to anger, aversion, or discontent. As a non-returner he will not return to the human state of existence in any future life. If he does not reach the last path in this very life, then after death he will be reborn in a higher sphere in the fine-material world (rupaloka) and there reach deliverance. |
Nhưng Ngài lại tiếp tục quán chiếu. Ở giai đoạn tiếp theo của sự chứng ngộ siêu thế, Ngài đạt được con đường siêu thế thứ ba tầng Giác Ngộ thứ ba, Bất Lai (A-na-hàm, con đường không quay trở lại (anagami-magga), với con đường đó Ngài cắt đứt hai kiềng xích của si và sân. Kể từ thời điểm đó, Ngài không bao giờ bị rơi vào vòng kìm hãm của bất kỳ ham muốn cảm giác khoái lạc nào, và không bao giờ có thể bị khơi dậy sự giận dữ, chán ghét hay bất mãn. Là một người không trở lại, Ngài sẽ không trở lại trạng thái tồn tại của con người trong bất kỳ cuộc sống tương lai nào. Nếu Ngài không đi đến con đường cuối cùng trong chính kiếp này, thì sau khi chết Ngài sẽ tái sinh trong một lãnh vực cao hơn trong thế giới vật chất tốt (rupaloka) và ở đó đạt được sự giải thoát. |
But our meditator again puts forth effort, develops insight, and at its climax enters the fourth path, the path of arahatship (arahatta-magga). With this path he cuts off the five remaining fetters — desire for fine-material existence and desire for immaterial existence, conceit, restlessness, and ignorance. The first is the desire for rebirth into the celestial planes made accessible by the four jhanas, the planes commonly subsumed under the name "the Brahma-world." The second is the desire for rebirth into the four immaterial planes made accessible by the achievement of the four immaterial attainments. Conceit (mana) is not the coarse type of pride to which we become disposed through an over-estimation of our virtues and talents, but the subtle residue of the notion of an ego which subsists even after conceptually explicit views of self have been eradicated. The texts refer to this type of conceit as the conceit "I am" (asmimana). Restlessness (uddhacca) is the subtle excitement which persists in any mind not yet completely enlightened, and ignorance (avijja) is the fundamental cognitive obscuration which prevents full understanding of the Four Noble Truths. Although the grosser grades of ignorance have been scoured from the mind by the wisdom faculty in the first three paths, a thin veil of ignorance overlays the truths even in the non-returner. |
Nếu vị Bất Lai tiếp tục hành thiền, phát triển tuệ giác, và ở đỉnh điểm là đi vào con đường thứ tư, đạt được kết quả cuối cùng là tầng thánh giải thoát A La Hán. (arahatta-magga). Ngài cắt đứt năm kiết sử còn lại - Không còn, tham đắm vào cõi sắc (rùpa-ràga), và tham đắm vào cõi vô sắc (arùpa-ràga), mạn (màna), trạo cử vi tế (uddhacca), và Vô minh (Avijjā). Đầu tiên là mong muốn tái sinh vào cõi chư thiên mà bốn tầng thiền jhanas có thể tiếp cận được, các bình diện thường được đặt dưới tên " Cõi Phạm Thiên ." Thứ hai là ước muốn tái sinh vào bốn cõi phi vật chất được thực hiện bằng cách thành tựu bốn sự thành tựu phi vật chất. Mạn (màna) không phải là kiểu kiêu ngạo thô thiển mà chúng ta trở thành ngã mạn thông qua việc tự cao quá mức các đức tính và tài năng của mình, mà là phần còn sót lại tinh vi của ý niệm về bản ngã vẫn tồn tại ngay cả sau khi các quan điểm rõ ràng về bản thân đã bị xóa bỏ. Các văn bản gọi loại ngã mạn này là tự phụ "tôi là" (asmimana). Sự trạo cử vi tế (uddhacca), là sự phấn khích vi tế tồn tại trong bất kỳ tâm trí nào chưa hoàn toàn giác ngộ, và vô minh (avijja) là sự che khuất nhận thức cơ bản ngăn cản sự hiểu biết đầy đủ về Tứ diệu đế. Mặc dù những cấp độ thiếu hiểu biết tổng thể hơn đã được trí tuệ quét sạch khỏi tâm trí trong ba con đường siêu thế đầu, một bức màn vô minh mỏng manh phủ lên sự thật ngay cả trong vị Thánh Bất Lai. |
The path of arahatship strips away this last veil of ignorance and, with it, all the residual mental defilements. This path issues in perfect comprehension of the Four Noble Truths. It fully fathoms the truth of suffering; eradicates the craving from which suffering springs; realizes with complete clarity the unconditioned element, Nibbana, as the cessation of suffering; and consummates the development of the eight factors of the Noble Eightfold Path. |
Con đường của vị Thánh A-la-hán lột bỏ bức màn vô minh cuối cùng này và tất cả những phiền não tinh thần còn sót lại. Con đường này đề cập đến sự hiểu biết hoàn hảo về Tứ Diệu Đế. Nó hoàn toàn xác nhận sự thật của đau khổ; xóa bỏ tham ái mà từ đó đau khổ phát sinh; nhận ra hoàn toàn rõ ràng yếu tố vô điều kiện, tức là Nibbana, là sự chấm dứt đau khổ; và hoàn thiện sự phát triển của tám yếu tố của Bát Chánh Đạo. |
With the attainment of the fourth path and fruit the disciple emerges as an arahant, one who in this very life has been liberated from all bonds. The arahant has walked the Noble Eightfold Path to its end and lives in the assurance stated so often in the formula from the Pali canon: "Destroyed is birth; the holy life has been lived; what had to be done has been done; there is no coming back to any state of being." The arahant is no longer a practitioner of the path but its living embodiment. Having developed the eight factors of the path to their consummation, the Liberated One lives in the enjoyment of their fruits, enlightenment and final deliverance.. |
Với việc đạt được con đường siêu thế thứ tư và quả vị, vị Thánh xuất hiện như một vị A la hán, một người trong chính cuộc sống này đã được giải thoát khỏi mọi kiết sử. Vị A-la-hán đã tu tập hết Bát Chánh Đạo và sống trong sự bảo đảm được nêu rất thường xuyên trong công thức từ kinh điển Pali: Một vị A La Hán ví như một ngọn đèn dầu, lửa sẽ lụn tắt khi dầu cạn. Thân xác vị nầy mang trong kiếp hiện tại là thân xác cuối cùng, và kiếp sống mà họ đạt được quả vị nầy sẽ là kiếp sống chót. Sau khi phát triển tám yếu tố của con đường dẫn đến viên mãn của mình, Đấng Giải thoát sống trong sự hưởng thụ những thành quả của mình, sự giác ngộ và sự giải thoát cuối cùng . |
EpilogueThis completes our survey of the Noble Eightfold Path, the way to deliverance from suffering taught by the Buddha. The higher reaches of the path may seem remote from us in our present position, the demands of practice may appear difficult to fulfill. But even if the heights of realization are now distant, all that we need to reach them lies just beneath our feet. The eight factors of the path are always accessible to us; they are mental components which can be established in the mind simply through determination and effort. We have to begin by straightening out our views and clarifying our intentions. Then we have to purify our conduct — our speech, action, and livelihood. Taking these measures as our foundation, we have to apply ourselves with energy and mindfulness to the cultivation of concentration and insight. The rest is a matter of gradual practice and gradual progress, without expecting quick results. For some progress may be rapid, for others it may be slow, but the rate at which progress occurs should not cause elation or discouragement. Liberation is the inevitable fruit of the path and is bound to blossom forth when there is steady and persistent practice. The only requirements for reaching the final goal are two: to start and to continue. If these requirements are met there is no doubt the goal will be attained. This is the Dhamma, the undeviating law. |
Phần KếtĐây là cuộc khảo sát hoàn thành của chúng tôi về Bát Chánh Đạo, con đường giải thoát khỏi đau khổ do Đức Phật dạy. Ở vị trí hiện tại của chúng ta, những điểm đỉnh cao của con đường có vẻ xa vời với chúng ta, những đòi hỏi của sự tu tập hành dường như khó thực hiện. Nhưng ngay cả khi tầm cao của nhận thức hiện nay đã xa, tất cả những gì chúng ta cần đạt được đều nằm ngay dưới chân chúng ta. Tám yếu tố của con đường luôn có thể tiếp cận được với chúng ta; chúng là những thành phần tinh thần có thể được hình thành trong tâm trí đơn giản thông qua quyết tâm và nỗ lực. Chúng ta phải bắt đầu bằng cách nói thẳng quan điểm của mình và làm rõ ý định của mình. Sau đó, chúng ta phải thanh lọc hạnh kiểm của mình - lời nói, hành động và sinh kế của chúng ta. Lấy những biện pháp này làm nền tảng, chúng ta phải áp dụng chính mình với sự tinh tấn và chánh niệm để trau dồi sự tập trung và tuệ giác. Việc còn lại là chúng ta phải tu tập từ từ và tiến bộ dần dần, không nên mong đợi kết quả nhanh chóng. Đối với một số tiến bộ có thể nhanh chóng, đối với một số khác thì có thể chậm, nhưng tốc độ tiến triển xảy ra không được gây phấn khích hay nản lòng. Sự giải thoát là kết quả tất yếu của con đường và nhất định sẽ đơm hoa kết trái khi có sự thực hành đều đặn và bền bỉ. Yêu cầu duy nhất để đạt được mục tiêu cuối cùng là : bắt đầu và tiếp tục. Nếu các yêu cầu này được đáp ứng thì chắc chắn mục tiêu sẽ đạt được. Đây là Pháp, định luật không đi lệch hướng. |
Appendix: A Factorial Analysis of the Noble Eightfold Path (Pali and English)I. Samma ditthi .... Right view dukkhe ñana .... understanding suffering II. Samma sankappa .... Right intention nekkhamma-sankappa .... intention of renunciation III. Samma vaca .... Right speech musavada veramani .... abstaining from false speech IV. Samma kammanta .... Right action panatipata veramani .... abstaining from taking life V. Samma ajiva .... Right livelihood miccha ajivam pahaya .... giving up wrong livelihood, VI. Samma vayama .... Right effort samvarappadhana .... the effort to restrain defilements VII. Samma sati .... Right mindfulness kayanupassana .... mindful contemplation of the body VIII. Samma samadhi .... Right concentration pathamajjhana .... the first jhana |
Appendix: A Factorial Analysis of the Noble Eightfold Path (Pali and English)I. Samma ditthi .... Right view dukkhe ñana .... understanding suffering II. Samma sankappa .... Right intention nekkhamma-sankappa .... intention of renunciation III. Samma vaca .... Right speech musavada veramani .... abstaining from false speech IV. Samma kammanta .... Right action panatipata veramani .... abstaining from taking life V. Samma ajiva .... Right livelihood miccha ajivam pahaya .... giving up wrong livelihood, VI. Samma vayama .... Right effort samvarappadhana .... the effort to restrain defilements VII. Samma sati .... Right mindfulness kayanupassana .... mindful contemplation of the body VIII. Samma samadhi .... Right concentration pathamajjhana .... the first jhana |
Recommended ReadingsI. General treatments of the Noble Eightfold Path:
II. Right View:
III. Right Intentions:
IV. Right Speech, Right Action, & Right Livelihood:
V. Right Effort:
VI. Right Mindfulness:
VII. Right Concentration & The Development of Wisdom:
All Wheel publications and Bodhi Leaves referred to above are published by the Buddhist Publication Society. |
Recommended ReadingsI. General treatments of the Noble Eightfold Path:
II. Right View:
III. Right Intentions:
IV. Right Speech, Right Action, & Right Livelihood:
V. Right Effort:
VI. Right Mindfulness:
VII. Right Concentration & The Development of Wisdom:
All Wheel publications and Bodhi Leaves referred to above are published by the Buddhist Publication Society. |
Notes
|
Notes
|
About the AuthorBhikkhu Bodhi is a Buddhist monk of American nationality, born in New York City in 1944. After completing a doctorate in philosophy at the Claremont Graduate School, he came to Sri Lanka for the purpose of entering the Sangha. He received novice ordination in 1972 and higher ordination in 1973, both under the eminent scholar-monk, Ven. Balangoda Ananda Maitreya, with whom he studied Pali and Dhamma. He is the author of several works on Theravada Buddhism, including four translations of major Pali suttas along with their commentaries. Since 1984 he has been the Editor for the Buddhist Publication Society, and since 1988 its President. |
Tiểu Sử Tác GiảTỳ kheo Bodhi là một nhà sư Phật giáo quốc tịch Mỹ, sinh ra tại Thành phố New York năm 1944. Sau khi hoàn thành bằng tiến sĩ triết học tại Trường Cao học Claremont, ông đến Sri Lanka với mục đích gia nhập Tăng đoàn. Ngài thọ giới Sa Di năm 1972 và thọ giới cao hơn năm 1973, cả hai đều dưới sự chỉ đạo của Thượng tọa. Balangoda Ananda Maitreya, một học giả-nhà sư lỗi lạc, người đã học tiếng Pali và Phật Pháp. Ông là tác giả của một số tác phẩm về Phật giáo Nguyên thủy, bao gồm bốn bản dịch các bài kinh Pali lớn cùng với các bài chú giải của chúng. Từ năm 1984, ông là Biên tập viên của Hiệp hội Xuất bản Phật giáo, và từ năm 1988 là Chủ tịch của Hiệp hội. |
Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng. Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại phamdang0308@gmail.com |
Cập nhập ngày:
Thứ Sáu 27-11-2020 Webmasters: Minh Hạnh & Thiện Pháp, Thủy Tú & Cương Phạm |
Trang Trước | | trở về đầu trang | Home page | |