32 “Mendicants, I will teach you the level of the untrue person and the level of the true person. Listen and apply your mind well, I will speak.” |
1-11 Ðất 1.- Này các Tỷ-kheo, ta sẽ giảng cho các Thầy về địa vị bậc không phải Chân nhân và địa vị bậc Chân nhân. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng. |
“Yes, sir,” they replied. The Buddha said this: |
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Các tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế tôn nói như sau: |
“What is the level of the untrue person? The untrue person is ungrateful and thankless, for the wicked only know how to be ungrateful and thankless. It is totally the level of an untrue person to be ungrateful and thankless. The true person is grateful and thankful, for the virtuous only know how to be grateful and thankful. It is totally the level of a true person to be grateful and thankful.” |
- Này các Tỷ-kheo, thế nào là địa vị bậc không phải Chân nhân? Người không phải Chân nhân, này các Tỷ-kheo, không biết ơn, không nhớ ơn. Ðối với những người độc ác, đây là đặc tánh của họ được biết đến, này các Tỷ-kheo, tức là không biết ơn, không nhớ ơn. Ðây hoàn toàn là địa vị kẻ không Chân nhân, này các Tỷ-kheo, tức là không biết ơn, không nhớ ơn. Còn bậc Chân nhân, này các Tỷ-kheo, là biết ơn, là nhớ ơn. Ðối với những thiện nhân, đây là đặc tánh của họ được biết đến, này các Tỷ-kheo, tức là biết ơn, nhớ ơn. Ðây hoàn toàn là địa vị bậc Chân nhân, này các Tỷ-kheo, tức là biết ơn, nhớ ơn. |
33 “Mendicants, I say that these two people cannot easily be repaid. What two? Mother and father. |
2. Có hai hạng người, này các Tỷ-kheo, ta nói không thể trả ơn được. Thế nào là hai? Mẹ và Cha. |
You would not have done enough to repay your mother and father even if you were to carry your mother around on one shoulder and your father on the other, and if you lived like this for a hundred years, and if you were to anoint, massage, bathe, and rub them; and even if they were to defecate and urinate right there. |
Nếu một bên vai cõng mẹ, này các Tỷ-kheo, nếu một bên vai cõng cha, làm vậy suốt trăm năm, cho đến trăm tuổi; nếu đấm bóp, thoa xức, tắm rửa, xoa gội, và dầu tại đấy, mẹ cha có vãi tiểu tiện đại tiện, như vậy, này các Tỷ-kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. |
Even if you were to establish your mother and father as supreme monarchs of this great earth, abounding in the seven treasures, you would still not have done enough to repay them. Why is that? Parents are very helpful to their children: they raise them, nurture them, and show them the world. |
Hơn nữa, này các Tỷ-kheo, nếu có an trí cha mẹ vào quốc độ với tối thượng uy lực, trên quả đất lớn với bảy báu này, như vậy, này các Tỷ-kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Vì cớ sao? Vì rằng, này các Tỷ-kheo, cha mẹ đã làm nhiều cho con cái, nuôi nấng, nuôi dưỡng chúng lớn, giới thiệu chúng vào đời này. |
But you have done enough, more than enough, to repay them if you encourage, settle, and ground unfaithful parents in faith, unethical parents in ethical conduct, stingy parents in generosity, or ignorant parents in wisdom.” |
Nhưng này các Tỷ-kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn an trú các vị ấy vào lòng tin; đối với mẹ cha theo ác giới, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào thiện giới; đối với mẹ cha xan tham, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào bố thí; đối với mẹ cha theo ác trí tuệ, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào trí tuệ. Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, là làm đủ và trả ơn đủ mẹ và cha. |
34 Then a certain brahmin went up to the Buddha, and exchanged greetings with him. When the greetings and polite conversation were over, he sat down to one side and said to the Buddha, “What does Master Gotama teach? What does he explain?” |
3. Rồi một Bà-la-môn đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm... ngồi xuống một bên. Bà-la-môn ấy nói với Thế Tôn: - Tôn giả Gotama đã nói gì, đã thuyết gì? |
“Brahmin, I teach action and inaction.” |
- Này Bà-la-môn, Ta thuyết về hành động và Ta thuyết về không hành động. |
“But in what way does Master Gotama teach action and inaction?” |
- Như thế nào, Tôn giả Gotama thuyết về hành động và thuyết về không hành động? |
“I teach inaction regarding bad bodily, verbal, and mental conduct, and the many kinds of unskillful things. I teach action regarding good bodily, verbal, and mental conduct, and the many kinds of skillful things. This is the kind of action and inaction that I teach.” |
- Ta thuyết không hành động, này Bà-la-môn, đối với thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Ta thuyết không hành động đối với nhiều loại pháp ác, bất thiện. Ta thuyết hành động, này Bà-la-môn, đối với thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện. Ta thuyết hành động đối với nhiều loại pháp thiện. Như vậy, này Bà-la-môn, ta thuyết về hành động và thuyết về không hành động. |
“Excellent, Master Gotama! … From this day forth, may Master Gotama remember me as a lay follower who has gone for refuge for life.” |
- Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ... từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng! |
35 Then the householder Anāthapiṇḍika went up to the Buddha, bowed, sat down to one side, and said to the Buddha, “How many kinds of people in the world are worthy of a religious donation? And where should a gift be given?” |
4. Rồi gia chủ Anàthapindika đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, gia chủ Anàthapindika bạch Thế Tôn: - Có bao nhiêu người, bạch Thế Tôn, đáng được cúng dường ở đời? Và chỗ nào cần phải bố thí cúng dường. |
“Householder, there are two kinds of people in the world who are worthy of a religious donation: the trainee and the master. These are two kinds of people in the world who are worthy of a religious donation, and that’s where you should give a gift.” |
- Có hai hạng người, này gia chủ, đáng được cúng dường ở đời: Hữu học và vô học. Ðối với hai hạng người này đáng được cúng dường ở đời, này gia chủ, ở đây cần phải bố thí cúng dường. |
That is what the Buddha said. Then the Holy One, the Teacher, went on to say: |
Thế Tôn thuyết như vậy, Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Ðạo sư lại nói thêm: |
“In this world, the trainee and the master, |
Hữu học và vô học |
36 So I have heard. At one time the Buddha was staying near Sāvatthī in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s monastery. |
5. Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn ở tại Sàvatthi, Thắng Lâm, khu vườn ông Anàthapindika. |
Now at that time Venerable Sāriputta was staying near Sāvatthī in the Eastern Monastery, the stilt longhouse of Migāra’s mother. There Sāriputta addressed the mendicants: |
Lúc bấy giờ, Tôn giả Sàriputta trú ở Sàvatthi, tại Ðông Viên, ngôi lâu đài của mẹ Migàra. Tại đấy, Tôn giả Sàriputta gọi các Tỷ-kheo |
“Reverends, mendicants!” |
- Này chư Hiền Tỷ-kheo! |
“Reverend,” they replied. Sāriputta said this: |
- Thưa Hiền giả. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp tôn giả Sàriputta, Tôn giả Sàriputta nói như sau: |
“I will teach you about a person fettered internally and one fettered externally. Listen and apply your mind well, I will speak.” |
- Này chư Hiền, tôi sẽ giảng về người bị nội kiết sử trói buộc và người bị ngoại kiết sử trói buộc. Hãy nghe và khéo tác ý, tôi sẽ nói. |
“Yes, reverend,” they replied. Sāriputta said this: |
- Thưa vâng, Hiền giả. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp tôn giả Sàriputta, Tôn giả Sàriputta nói như sau: |
“Who is a person fettered internally? It’s a mendicant who is ethical, restrained in the monastic code, conducting themselves well and seeking alms in suitable places. Seeing danger in the slightest fault, they keep the rules they’ve undertaken. When their body breaks up, after death, they’re reborn in one of the orders of gods. When they pass away from there, they’re a returner, who comes back to this state of existence. This is called a person who is fettered internally, a returner, who comes back to this state of existence. |
- Này chư Hiền, thế nào là người bị nội kiết sử trói buộc? Ở đây, này chư Hiền, Tỷ-kheo có giới hạnh, sống hộ trì với sự hộ trì của giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong các học giới. Vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào một trong các Thiên giới. Sau khi từ chỗ ấy mạng chung, vị ấy làm người lại trở về, trở về ở thế giới này. Vị này, này chư Hiền, được gọi là người bị nội kiết sử trói buộc, người lại trở lại, trở lui trạng thái này. |
Who is a person fettered externally? It’s a mendicant who is ethical, restrained in the monastic code, conducting themselves well and seeking alms in suitable places. Seeing danger in the slightest fault, they keep the rules they’ve undertaken. They enter and remain in a certain peaceful state of freed mind. When their body breaks up, after death, they’re reborn in one of the orders of gods. When they pass away from there, they’re a non-returner, not coming back to this state of existence. This is called a person who is fettered externally, a non-returner, who does not come back to this state of existence. |
Thế nào, này chư Hiền, là người bị ngoại kiết sử trói buộc? Ở đây, này chư Hiền, Tỷ-kheo có giới hạnh, sống hộ trì với sự hộ trì của giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong các học giới. Vị ấy, chứng đạt và an trú tịch tịnh tâm giải thoát. Sau khi thân hoại mạng chung, Vị ấy sanh vào một loại chư Thiên. Sau khi từ chỗ ấy mạng chung, vị ấy không còn trở lui, không còn trở lại trạng thái này nữa. Vị này, này chư Hiền, được gọi là người bị ngoại kiết sử trói buộc, không còn trở lui, không còn trở lại trạng thái này nữa. |
Furthermore, a mendicant is ethical … they keep the rules they’ve undertaken. They simply practice for disillusionment, dispassion, and cessation regarding sensual pleasures. They simply practice for disillusionment, dispassion, and cessation regarding future lives. They practice for the ending of craving. They practice for the ending of greed. When their body breaks up, after death, they are reborn in one of the orders of gods. When they pass away from there, they are non-returners, not coming back to this state of existence. This is called a person who is fettered externally, a non-returner, who does not come back to this state of existence.” |
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có giới hạnh, sống hộ trì với sự hộ trì của giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong các học giới. Vị ấy thực hiện sự yếm ly, ly tham, đoạn diệt các dục vọng. Vị ấy thực hiện sự đoạn diệt khát ái. Vị ấy thực hiện sự đoạn diệt tham. Vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào một trong các Thiên giới. Sau khi từ chỗ ấy mạng chung, vị ấy không còn trở lui, không còn trở lại trạng thái này nữa. Vị này, này chư Hiền, được gọi là người bị ngoại kiết sử trói buộc, không còn trở lui, không còn trở lại trạng thái này nữa. |
Then several peaceful-minded deities went up to the Buddha, bowed, stood to one side, and said to the Buddha, “Sir, Venerable Sāriputta is in the Eastern Monastery, the stilt longhouse of Migāra’s mother, where he is teaching the mendicants about a person with internal fetters and one with external fetters. The assembly is overjoyed! Sir, please go to Venerable Sāriputta out of compassion.” The Buddha consented with silence. |
Rồi một số đông chư Thiên với tâm thăng bằng đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, chư Thiên ấy bạch Thế Tôn: - Tôn giả Sàriputta này, bạch Thế Tôn, tại Ðông viên, ở lâu đài mẹ Migàra, thuyết pháp về người bị nội kiết sử trói buộc và người bị ngoại kiết sử trói buộc. Hội chúng rất hoan hỷ, bạch Thế Tôn. Lành thay! Bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn vì lòng từ mẫn đi đến Tôn giả Sàriputta. Thế Tôn im lặng nhận lời. |
Then the Buddha, as easily as a strong person would extend or contract their arm, vanished from Jeta’s Grove and reappeared in the Eastern Monastery, the stilt longhouse of Migāra’s mother, in front of Sāriputta. He sat on the seat spread out. Sāriputta bowed to the Buddha and sat down to one side. The Buddha said to him: |
Rồi Thế Tôn, rồi như người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại bàn tay đang duỗi ra, cũng vậy, biến mất ở Thắng Lâm, hiện ra ở tại Ðông viên, tại lâu đài mẹ Migàra, trước mặt Tôn giả Sàriputta. Thế Tôn ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi Tôn giả Sàriputta đảnh lễ Thế Tôn, ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Sàriputta đang ngồi xuống một bên: |
“Just now, Sāriputta, several peaceful-minded deities came up to me, bowed, and stood to one side. Those deities said to me: ‘Sir, Venerable Sāriputta is in the Eastern Monastery, the stilt longhouse of Migāra’s mother, where he is teaching the mendicants about a person with internal fetters and one with external fetters. The assembly is overjoyed! Sir, please go to Venerable Sāriputta out of compassion.’ |
- Ở đây, này Sàriputta, có một số đông chư Thiên, với tâm thăng bằng, đi đến Ta; sau khi đến, đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Ðứng một bên, chư Thiên ấy thưa với Ta: "Tôn giả Sàriputta này, bạch Thế Tôn, tại Ðông viên, ở lâu đài mẹ Migàra, thuyết pháp về người bị nội kiết sử trói buộc và người bị ngoại kiết sử trói buộc. Hội chúng rất hoan hỷ, bạch Thế Tôn. Lành thay! Bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn vì lòng từ mẫn đi đến Tôn giả Sàriputta".. |
Those deities, though they number ten, twenty, thirty, forty, fifty, or sixty, can stand on the point of a needle without bumping up against each other. |
Này Sàriputta, chư Thiên ấy tuy con số đến 10, 20, 30, 40, 50, 60, nhưng cùng đứng chỉ trong khoảng trống đầu một cây kim, không có chen lấn nhau. |
Sāriputta, you might think: ‘Surely those deities, since so many of them can stand on the point of a needle without bumping up against each other, must have developed their minds in that place.’ But you should not see it like this. It was right here that those deities developed their minds. |
Này Sàriputta, Thầy có thể nghĩ như sau: "Chắc chắn, tại chỗ kia (trên thế giới) đã tu tập, nhờ vậy, chư Thiên ấy, tuy con số đến 10, 20, 30, 40, 50, 60, nhưng cùng đứng chỉ trong khoảng trống đầu một cây kim, không có chen lấn nhau". Này Sàriputta, Thầy chớ có thấy như vậy. Chính tại đây, này Sàriputta, chư Thiên ấy đã tu tập tâm, nhờ như vậy chư Thiên ấy tuy con số đến ... không chen lấn nhau. |
So you should train like this: ‘We shall have peaceful faculties and peaceful minds.’ That’s how you should train. When your faculties and mind are peaceful, your acts of body, speech, and mind will be peaceful, thinking: ‘We shall present the gift of peace to our spiritual companions.’ That’s how you should train. |
Do vậy, này Sàriputta, cần phải học tập như sau: "Chúng tôi sẽ có các căn an tịnh, các ý an tịnh". Này Sàriputta, cần phải học tập như vậy. Với những ai có các căn an tịnh, này Sàriputta, với những ai có các ý an tịnh, thời thân nghiệp cũng sẽ được an tịnh, khẩu nghiệp được an tịnh, ý nghiệp được an tịnh. "Chúng ta sẽ đem tặng cho các vị đồng Phạm hạnh một quà tặng an tịnh". Như vậy, này Sàriputta, các Thầy cần phải học tập. |
Those wanderers of other religions, Sāriputta, who have not heard this exposition of the teaching are lost.” |
Các du sĩ ngoại đạo nào, này Sàriputta, không được nghe pháp môn này, họ sẽ bị thiệt hại. |
37 So I have heard. At one time Venerable Mahākaccāna was staying at Varaṇā, on the bank of the Kaddama Lake. |
6- Như vầy tôi nghe. Một thời Tôn giả Mahà Kaccàna ở tại Vanara, trên bờ sông Kaddamada. |
Then the brahmin Ārāmadaṇḍa went up to Mahākaccāna, and exchanged greetings with him. When the greetings and polite conversation were over, he sat down to one side and said to Mahākaccāna: |
Rồi Bà-la-môn Aràmadanda đi đến Tôn giả Mahà Kaccàna, sau khi đến, nói lên với Tôn giả Mahà Kaccàna những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Aràmadanda thưa với Tôn giả Mahà Kaccàna: |
“What is the cause, Master Kaccāna, what is the reason why aristocrats fight with aristocrats, brahmins fight with brahmins, and householders fight with householders?” |
- Do nhân gì, thưa Tôn giả Kaccàna, do duyên gì các người Sát-đế-lỵ tranh chấp với các người Sát-đế-lỵ, các người Bà-la-môn tranh chấp với các người Bà-la-môn, các người gia chủ tranh chấp với các người gia chủ? |
“It is because of their insistence on sensual desire, their shackles, avarice, and attachment, that aristocrats fight with aristocrats, brahmins fight with brahmins, and householders fight with householders.” |
- Do nhân thiên chấp, bị trói buộc, bị đắm say, bị xâm chiếm, bị đắm trước bởi các dục tham, này Bà-la-môn, nên các quý tộc tranh chấp với các quý tộc, các người Bà-la-môn tranh chấp với các người Bà La môn, các người gia chủ tranh chấp với các người gia chủ. |
“What is the cause, Master Kaccāna, what is the reason why ascetics fight with ascetics?” |
- Do nhân gì, thưa Tôn giả Kaccàna, do duyên gì các Sa-môn tranh chấp với các Sa-môn? |
“It is because of their insistence on views, their shackles, avarice, and attachment, that ascetics fight with ascetics.” |
- Do nhân thiên chấp, bị trói buộc, bị đắm say, bị xâm chiếm, bị đắm trước bởi các kiến tham, này Bà-la-môn, nên các Sa-môn tranh chấp với các Sa-môn. |
“Master Kaccāna, is there anyone in the world who has gone beyond the insistence on sensual desire and the insistence on views?” |
- Nhưng thưa Tôn giả Kaccàna, có người nào ở đời có thể vượt qua thiên chấp, bị trói buộc, bị đắm say, bị xâm chiếm, bị đắm trước bởi các dục tham này, có thể vượt qua thiên chấp, bị trói buộc, bị đắm say, bị xâm chiếm, bị đắm trước bởi các kiến tham này? |
“There is, brahmin.” |
^^^^ |
“Who in the world has gone beyond the insistence on sensual desire and the insistence on views?” |
- Có người ở đời này, này Bà-la-môn, có thể vượt qua thiên chấp, trói buộc, đắm say, xâm chiếm, bị đắm trước bởi các dục tham này, có thể vượt qua thiên chấp, trói buộc, đắm say, xâm chiếm, bị đắm trước bởi các kiến tham này. Vị ấy là ai, này các Bà-la-môn, có thể vượt qua thiên chấp ... kiến tham này? |
“In the eastern lands there is a city called Sāvatthī. There the Blessed One is now staying, the perfected one, the fully awakened Buddha. He, brahmin, has gone beyond the insistence on sensual desire and the insistence on views.” |
Ở quốc độ phương Ðông, này Bà-la-môn, có một thành phố tên là Sàvatthi, Tại đấy, Thế Tôn nay đang trú, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Vị Thế Tôn ấy, này Bà-la-môn, đã vượt qua thiên chấp ... kiến tham này. |
When this was said, the brahmin Ārāmadaṇḍa got up from his seat, arranged his robe over one shoulder, knelt on his right knee, raised his joined palms toward the Buddha, and expressed this heartfelt sentiment three times: |
Khi được nghe nói vậy, Bà-la-môn Aràmadanda từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, đầu gối phía hữu quỳ trên đất, chắp tay hướng về phía Thế Tôn, và nói lên ba lần lời cảm hứng như sau: |
“Homage to that Blessed One, the perfected one, the fully awakened Buddha! |
- Kính lễ Thế Tôn ấy, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác! Kính lễ Thế Tôn ấy, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác! Kính lễ Thế Tôn ấy, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác! |
Homage to that Blessed One, the perfected one, the fully awakened Buddha! |
^^^^ |
Homage to that Blessed One, the perfected one, the fully awakened Buddha! |
^^^^ |
He who has gone beyond the insistence on sensual desire and the insistence on views. |
Vị Thế Tôn ấy, đã vượt qua thiên chấp ... kiến tham này. |
Excellent, Master Kaccāna! Excellent! As if he were righting the overturned, or revealing the hidden, or pointing out the path to the lost, or lighting a lamp in the dark so people with clear eyes can see what’s there, Master Kaccāna has made the teaching clear in many ways. I go for refuge to Master Gotama, to the teaching, and to the mendicant Saṅgha. From this day forth, may Master Kaccāna remember me as a lay follower who has gone for refuge for life.” |
Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Kaccàna! Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Kaccàna! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, thưa Tôn giả Kaccàna, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ đi lạc hướng, hay đem đèn vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, chánh pháp đã được Tôn giả Kaccàna dùng nhiều pháp môn để giải thích. Thưa Tôn giả Kaccàna, con nay xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo Tăng! Mong Tôn giả Kaccàna chấp nhận con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng! |
38 At one time Venerable Mahākaccāna was staying near Madhurā, in Gunda’s Grove. |
7. Một thời, Tôn giả Mahà Kaccàna trú ở Madhurà, tại rừng Gundhà. |
Then the brahmin Kandarāyana went up to Mahākaccāna, and exchanged greetings with him … He sat down to one side and said to Mahākaccāna: |
Rồi Bà-la-môn Kandaràyana đi đến Tôn giả Mahà Kaccàna; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Mahà Kaccàna những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên với Tôn giả Mahà Kaccàna những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Kandaràyana thưa với Tôn giả Mahà Kaccàna: |
“I have heard, Master Kaccāna, that the ascetic Kaccāna doesn’t bow to old brahmins, the elderly and senior, who are advanced in years and have reached the final stage of life; nor does he rise in their presence or offer them a seat. And this is indeed the case, for the ascetic Kaccāna does not bow to old brahmins, elderly and senior, who are advanced in years and have reached the final stage of life; nor does he rise in their presence or offer them a seat. This is not appropriate, Master Kaccāna.” |
- Tôi có nghe như sau, thưa Tôn giả Kaccàna: "Sa-môn Kaccàna không kính lễ, không đứng dậy, không lấy ghế mời ngồi các bậc Bà-la-môn già cả, trưởng lão, các bậc trưởng thượng đã đi quá nửa cuộc đời, đã đạt mức cuối tuổi đời". Thưa Tôn giả Kaccàna, có phải sự tình là như vậy không? Nếu Tôn giả Kaccàna không kính lễ, không đứng dậy, không lấy ghế mời ngồi các bậc Bà-la-môn già cả, trưởng lão, các bậc trưởng thượng đã đi quá nửa cuộc đời, đã đạt cuối mức tuổi đời, sự tình như vậy, thưa Tôn giả Kaccàna, là không được tốt đẹp. |
“There is the stage of an elder and the stage of youth as explained by the Blessed One, who knows and sees, the perfected one, the fully awakened Buddha. If an elder, though eighty, ninety, or a hundred years old, still dwells in the midst of sensual pleasures, enjoying them, consumed by thoughts of them, burning with fever for them, and eagerly seeking more, they are reckoned as a child, not a senior. If a youth, young, black-haired, blessed with youth, in the prime of life, does not dwell in the midst of sensual pleasures, enjoying them, consumed by thoughts of them, burning with fever for them, and eagerly seeking more, they are reckoned as astute, a senior.” |
- Này Bà-la-môn, có Thế Tôn, bậc Tri giả, bậc Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã tuyên bố về địa vị của tuổi trưởng lão và về địa vị của tuổi trẻ. Vị trưởng lão, này Bà-la-môn, 80 tuổi hay 90 tuổi, hay 100 tuổi đời, nếu vị ấy thọ hưởng các dục vọng, sống giữa các dục vọng, bị đốt cháy bởi lửa nhiệt não của dục vọng, bị nhai nghiến bởi các tầm tư dục vọng, cố gắng tìm cầu các dục vọng; người như vậy được gọi là kẻ ngu, không phải là bậc trưởng lão. Dầu cho này Bà-la-môn, một người còn trẻ, một thanh niên trẻ trung với tóc đen nhánh, đầy đủ tuổi trẻ hiền thiện trong thời sơ khởi của tuổi đời, mà người ấy không hưởng thọ các dục vọng, không sống giữa các dục vọng, không bị đốt cháy bởi lửa nhiệt não của dục vọng, không bị nhai nghiến bởi các tầm tư dục vọng, không có cố gắng tìm cầu các dục vọng; người như vậy được gọi là bậc có trí, bậc trưởng lão. |
When this was said, the brahmin Kandarāyana got up from his seat, placed his robe over one shoulder, and bowed with his head at the feet of the young mendicants, saying, “The masters are elders, at the stage of the elder; we are youths, at the stage of youth. |
- Khi được nghe nói vậy, Bà-la-môn Kandarãyana từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, cúi đầu đảnh lễ chân các Tỷ-kheo còn trẻ tuổi và nói: - Trưởng lão là chư Tôn giả, đã đứng trên địa vị trưởng lão. Trẻ tuổi là chúng con, đã đứng trên địa vị trẻ tuổi. |
Excellent, Master Kaccāna! … From this day forth, may Master Kaccāna remember me as a lay follower who has gone for refuge for life.” |
Thật vi diệu, Tôn giả Kaccàna, ... Mong Tôn giả Kaccàna chấp nhận con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng! |
39 “At a time when bandits are strong, kings are weak. Then the king is not at ease when going out or coming back or when touring the provinces. The brahmins and householders, likewise, are not at ease when going out or coming back, or when inspecting their business activities. In the same way, at a time when bad mendicants are strong, good-hearted mendicants are weak. Then the good-hearted mendicants continually adhere to silence in the midst of the Saṅgha, or they stay in the borderlands. This is for the hurt and unhappiness of the people, for the harm, hurt, and suffering of many people, of gods and humans. |
8. - Khi nào các người ăn trộm cường mạnh, này các Tỷ-kheo, trong khi ấy, các vua chúa yếu đuối, trong khi ấy, thật không an toàn cho các vua chúa để đi qua lại, đi ra, đi quan sát các biên cương. Và trong khi ấy, thật không an toàn cho các Bà-la-môn, các gia chủ để đi qua lại, đi ra, đi giám sát các công việc làm ở ngoài. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi các ác Tỷ-kheo cường mạnh, trong khi ấy, các thuần tịnh Tỷ-kheo yếu đuối. Trong khi ấy, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo thuần tịnh giữ thái độ im lặng, hoặc ẩn mình giữa chúng Tỷ-kheo, hoặc đi đến các quốc độ biên địa. Và như vậy, này các Tỷ-kheo, là bất hạnh cho đa số, là không an lạc cho đa số, là không lợi ích cho đa số, là bất hạnh, đau khổ cho chư Thiên và loài Người. |
At a time when kings are strong, bandits are weak. Then the king is at ease when going out or coming back or when inspecting the provinces. The brahmins and householders, likewise, are at ease when going out or coming back, or when inspecting their business activities. In the same way, at a time when good-hearted mendicants are strong, bad mendicants are weak. Then the bad mendicants continually adhere to silence in the midst of the Saṅgha, or they leave for some place or other. This is for the welfare and happiness of the people, for the benefit, welfare, and happiness of gods and humans.” |
Khi nào, này các Tỷ-kheo, các vua chúa cường mạnh, trong khi ấy, các trộm cướp yếu đuối, trong khi ấy, thật an toàn cho các vua chúa để đi qua lại, đi ra, đi quan sát các biên cương. Và trong khi ấy, thật an toàn cho các Bà-la-môn, các gia chủ để đi qua lại, đi ra, đi giám sát các công việc làm ở ngoài. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi các thuần tịnh Tỷ-kheo cường mạnh, trong khi ấy, các ác Tỷ-kheo yếu đuối. Trong khi ấy, này các Tỷ-kheo, các ác Tỷ-kheo giữ thái độ im lặng, hoặc ẩn mình giữa chúng Tỷ-kheo, hoặc đi các chỗ khác. Và như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạnh phúc cho đa số, là an lạc cho đa số, là lợi ích cho đa số, là hạnh phúc, an lạc cho chư Thiên và loài Người. |
40 “Mendicants, I don’t praise wrong practice for these two, for laypeople and renunciates. Because of wrong practice, neither laypeople nor renunciates succeed in completing the system of the skillful teaching. |
9. Ta không tán thán hai loại tà hạnh, này các Tỷ-kheo, ở người gia chủ hay ở người xuất gia. Người gia chủ, này các Tỷ-kheo, hay người xuất gia theo tà hạnh, do nhân duyên tà hạnh, không thể đem lại chánh lý, thiện pháp. |
I praise right practice for these two, for laypeople and renunciates. Because of right practice, both laypeople and renunciates succeed in completing the system of the skillful teaching.” |
Ta tán thán hai loại chánh hạnh, này các Tỷ-kheo, ở người gia chủ hay ở người xuất gia. Người gia chủ, này các Tỷ-kheo, hay người xuất gia theo chánh hạnh, do nhân duyên chánh hạnh, có thể đem lại chánh lý, thiện pháp. |
41 “Mendicants, by memorizing the discourses incorrectly, taking only a semblance of the phrasing, some mendicants shut out the meaning and the teaching. They act for the hurt and unhappiness of the people, for the harm, hurt, and suffering of many people, of gods and humans. They make much bad karma and make the true teaching disappear. |
10. Những Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, chặn đứng cả văn và nghĩa, bằng cách nắm giữ sai lạc các kinh điển và những văn tự thích ứng, thì những Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, chịu trách nhiệm về bất hạnh cho đa số, không an lạc cho đa số, không lợi ích cho đa số, bất hạnh, đau khổ cho chư Thiên và loài Người. Ngoài ra, các Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, chất chứa nhiều vô phước làm cho diệu pháp biến mất. |
But by memorizing the discourses well, not taking only a semblance of the phrasing, some mendicants reinforce the meaning and the teaching. They act for the welfare and happiness of the people, for the benefit, welfare, and happiness of the people, of gods and humans. They make much merit and make the true teaching continue.” |
Những Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, tùy thuận cả văn và nghĩa, bằng cách nắm giữ đúng đắn các kinh điển và những văn tự thích ứng, thì những Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, chịu trách nhiệm về hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, lợi ích cho đa số, hạnh phúc, và an lạc cho chư Thiên và loài Người. Ngoài ra, các Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, chất chứa nhiều phước đức, làm cho diệu pháp an trú. |
webmasters: Nguyễn Văn Hoà & Minh Hạnh |