AN 3.31 - Sabrahmakasutta - With Brahmā |
AN 3.31. Ngang Bằng Với Phạm Thiên |
‘Brahmā’ is a term for your parents. |
Phạm Thiên, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với cha mẹ |
‘First teachers’ is a term for your parents. |
Các Ðạo sư thời xưa, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với cha mẹ. |
‘Worthy of offerings dedicated to the gods’ is a term for your parents. |
Ðáng được cúng dường, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với cha mẹ. |
Why is that? Parents are very helpful to their children, they raise them, nurture them, and show them the world. |
Vì cớ sao? Giúp đỡ rất nhiều, này các Tỷ-kheo, là cha mẹ đối với con cái, nuôi chúng lớn, dưỡng dục chúng, giới thiệu chúng vào đời. |
Parents are said to be ‘Brahmā’ |
Mẹ cha gọi Phạm Thiên, |
AN 3.32 Ānandasutta With Ānanda |
AN 3.32 32. Ananda |
“Could it be, sir, that a mendicant might gain a state of immersion such that there’s no ego, possessiveness, or underlying tendency to conceit for this conscious body; and no ego, possessiveness, or underlying tendency to conceit for all external stimuli; and that they’d live having attained the freedom of heart and freedom by wisdom where ego, possessiveness, and underlying tendency to conceit are no more?” |
- Rất có thể, bạch Thế Tôn, một Tỷ-kheo được định như vậy, trong cái thân có thức này, không có ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tuỳ miên; đối với tất cả tướng ở ngoài, không có ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tuỳ miên; và do chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát, không có ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tuỳ miên; vị ấy có thể chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy. |
“It could be, Ānanda, that a mendicant gains a state of immersion such that they have no ego, possessiveness, or underlying tendency to conceit for this conscious body; and no ego, possessiveness, or underlying tendency to conceit for all external stimuli; and that they’d live having attained the freedom of heart and freedom by wisdom where ego, possessiveness, and underlying tendency to conceit are no more.” |
- Rất có thể, này, Ananda, một Tỷ-kheo được định như vậy ... có thể chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy. |
“But how could this be, sir?” |
- Như thế nào, bạch Thế Tôn, rất có thể, một Tỷ-kheo được định như vậy ... có thể chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy? |
“Ānanda, it’s when a mendicant thinks: ‘This is peaceful; this is sublime—that is, the stilling of all activities, the letting go of all attachments, the ending of craving, fading away, cessation, extinguishment.’ |
- Ở đây, này Ananda, vị Tỷ-kheo suy nghĩ như sau: "Ðây là an tịnh, đây là thù diệu, tức là chỉ tức tất cả hành, từ bỏ tất cả sanh y, đoạn tận tham, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn". |
That’s how, Ānanda, a mendicant might gain a state of immersion such that there’s no ego, possessiveness, or underlying tendency to conceit for this conscious body; and no ego, possessiveness, or underlying tendency to conceit for all external stimuli; and that they’d live having achieved the freedom of heart and freedom by wisdom where ego, possessiveness, and underlying tendency to conceit are no more. |
Như vậy, này Ananda, rất có thể Tỷ-kheo được định như vậy, ... có thể chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát . |
And Ānanda, this is what I was referring to in ‘The Way to the Far Shore’, in ‘The Questions of Puṇṇaka’ when I said: |
Lại nữa, này Ananda, liên hệ đến vấn đề này, Ta đã nói như sau trong kinh tên là "Những câu hỏi của Punnaka", chương về Pàràyana. |
‘Having appraised the world high and low, |
Do phân tích ở đời |
AN 3.33 Sāriputtasutta -With Sāriputta |
Sàriputta |
“Now is the time, Blessed One! Now is the time, Holy One! Let the Buddha teach Dhamma in brief, in detail, and both in brief and in detail. There will be those who understand the teaching!” |
- Nay đã đến thời, bạch Thế Tôn, nay đã đến thời, bạch Thế Tôn, để Thế Tôn thuyết pháp một cách tóm lược, thuyết pháp một cách rộng rãi, và thuyết pháp một cách tóm lược và rộng rãi. Sẽ có những người có thể hiểu rõ Chánh pháp. |
“So, Sāriputta, you should train like this: ‘There’ll be no ego, possessiveness, or underlying tendency to conceit for this conscious body; and no ego, possessiveness, or underlying tendency to conceit for all external stimuli; and we’ll live having achieved the freedom of heart and freedom by wisdom where ego, possessiveness, and underlying tendency to conceit are no more.’ That’s how you should train. |
- Vậy này Sàriputta, hãy học tập như sau: "Trong cái thân có thức này, sẽ không có ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tùy miên; đối với tất cả tướng ở ngoài, sẽ không có ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tùy miên; và do chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát, không có ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tùy miên, chúng tôi sẽ chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy!". Như vậy, này Sàriputta, |
When a mendicant has no ego, possessiveness, or underlying tendency to conceit for this conscious body; and no ego, possessiveness, or underlying tendency to conceit for all external stimuli; and they live having attained the freedom of heart and freedom by wisdom where ego, possessiveness, and underlying tendency to conceit are no more—they’re called a mendicant who has cut off craving, untied the fetters, and by rightly comprehending conceit has made an end of suffering. |
Khi nào Tỷ-kheo đối với thân có thức này, không có ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tùy miên; đối với tất cả các tướng ở ngoài, không có ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tùy miên; và do chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát, không có ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tùy miên; vị ấy chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy. Người như vậy, này Sàriputta, được gọi là Tỷ-kheo đã chặt đứt khát ái, đã cởi mở kiết sử, với chơn chánh hiện quán kiêu mạn, đã đoạn tận khổ đau. |
And Sāriputta, this is what I was referring to in ‘The Way to the Far Shore’, in ‘The Questions of Udaya’ when I said: |
- Lại nữa, này Sàriputta, liên hệ đến vấn đề này, ta đã nói như sau trong kinh tên là "Những câu hỏi của Udaya" trong chương Pàràyana. |
‘The giving up of sensual desires |
Ðoạn tận cả hai pháp |
AN 3.34 Nidānasutta - Sources |
AN 3.34.- Các Nguyên Nhân |
Any deed that emerges from greed—born, sourced, and originated from greed—ripens where that new life-form is born. And wherever that deed ripens, its result is experienced—either in the present life, or in the next life, or in some subsequent period. |
Phàm nghiệp nào được làm vì tham, này các Tỷ-kheo, sanh ra từ tham, duyên khởi từ tham, tập khởi từ tham, tại chỗ nào tự ngã được hiện hữu, tại chỗ ấy, nghiệp ấy được thuần thục. Chỗ nào nghiệp ấy được thuần thục, chỗ ấy quả dị thục của nghiệp ấy được cảm thọ ngay trong hiện tại, hay trong đời sống kế tiếp, hay trong một đời sau nữa. |
Any deed that emerges from hate—born, sourced, and originated from hate—ripens where that new life-form is born. And wherever that deed ripens, its result is experienced—either in the present life, or in the next life, or in some subsequent period. |
Phàm nghiệp nào được làm vì sân, này các Tỷ-kheo, sanh ra từ sân ... |
Any deed that emerges from delusion—born, sourced, and originated from delusion—ripens where that new life-form is born. And wherever that deed ripens, its result is experienced—either in the present life, or in the next life, or in some subsequent period. |
Phàm nghiệp nào được làm vì si, này các Tỷ-kheo, sanh ra từ si ... tại chỗ ấy, nghiệp ấy được thuần thục ... hay trong một đời sau nữa. |
Suppose some seeds were intact, unspoiled, not weather-damaged, fertile, and well-kept. They’re sown in a well-prepared, productive field, and the heavens provide plenty of rain. Then those seeds would grow, increase, and mature. |
Ví như, này các Tỷ-kheo, các hạt giống không bị bể vụn, không bị hư thối, không bị gió và nắng làm hư, còn tươi tốt được khéo gieo vào một đồng ruộng tốt, được trồng vào đất khéo sửa soạn, và được trời mưa xuống đều đặn, các hạt giống ấy, này các Tỷ-kheo, được lớn lên, tăng trưởng, lớn mạnh. |
In the same way, any deed that emerges from greed—born, sourced, and originated from greed—ripens where that new life-form is born. And wherever that deed ripens, its result is experienced—either in the present life, or in the next life, or in some subsequent period. |
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm nghiệp nào được làm vì tham ... hay trong môt đời sau nữa. |
Any deed that emerges from hate … |
hay trong môt đời sau nữa. Phàm nghiệp nào được làm vì sân ... |
Any deed that emerges from delusion—born, sourced, and originated from delusion—ripens where that new life-form is born. And wherever that deed ripens, its result is experienced—either in the present life, or in the next life, or in some subsequent period. These are three sources that give rise to deeds. |
Phàm nghiệp nào được làm vì si, này các Tỷ-kheo, sanh ra từ si ... tại chỗ ấy, nghiệp ấy được thuần thục ... hay trong một đời sau nữa. |
Mendicants, there are these three sources that give rise to deeds. What three? Contentment, love, and understanding are sources that give rise to deeds. |
Có ba nguyên nhân này, này các Tỷ-kheo, khởi lên các nghiệp.Thế nào là ba? Không tham là nguyên nhân khởi lên các nghiệp. Không sân là nguyên nhân khởi lên các nghiệp. Không si là nguyên nhân khởi lên các nghiệp. |
Any deed that emerges from contentment—born, sourced, and originated from contentment—is given up when greed is done away with. It’s cut off at the root, made like a palm stump, obliterated, and unable to arise in the future. |
Phàm nghiệp nào được làm vì không tham, này các Tỷ-kheo, sanh ra từ không tham, duyên khởi từ không tham, tập khởi từ không tham. Vì rằng tham được từ bỏ, như vậy, nghiệp ấy được đoạn tận, được cắt đứt từ gốc rễ, được làm như thân cây tala, được làm cho không thể hiện hữu, được làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. |
Any deed that emerges from love—born, sourced, and originated from love—is abandoned when hate is done away with. It’s cut off at the root, made like a palm stump, obliterated, and unable to arise in the future. |
Phàm nghiệp nào được làm vì không sân ... |
Any deed that emerges from understanding—born, sourced, and originated from understanding—is abandoned when delusion is done away with. It’s cut off at the root, made like a palm stump, obliterated, and unable to arise in the future. |
Phàm nghiệp nào được làm vì không si, này các Tỷ-kheo, sanh ra từ không si ... Vì rằng si được từ bỏ, như vậy, nghiệp ấy được đoạn tận, được cắt đứt từ gốc rễ, được làm như thân cây tala, được làm cho không thể hiện hữu, được làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. |
Suppose some seeds were intact, unspoiled, not damaged by wind and sun, fertile, and well-kept. But someone would burn them with fire, reduce them to ashes, and sweep away the ashes in a strong wind, or float them away down a swift stream. Then those seeds would be cut off at the root, made like a palm stump, obliterated, and unable to arise in the future. |
Ví như này các Tỷ-kheo, các hạt giống không thể bị bể vụn, không bị hư thối, không bị gió và nắng làm hư, còn được tươi tốt, được khéo gieo. Và một người lấy lửa đốt chúng, sau khi lấy lửa đốt, làm cho chúng thành tro, sau khi làm thành tro, quạt chúng trong gió lớn, hay cho vào dòng nước sông chảy nhanh mang cuốn đi. |
In the same way, any deed that emerges from contentment—born, sourced, and originated from contentment—is abandoned when greed is done away with. It’s cut off at the root, made like a palm stump, obliterated, and unable to arise in the future. |
Như vậy, này các Tỷ-kheo, các hạt giống ấy được đoạn tận, được cắt đứt từ gốc rễ, được làm cho như thân cây tala, được làm cho không thể hiện hữu, được làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm nghiệp nào được làm từ không tham ... không thể sanh khởi trong tương lai. |
Any deed that emerges from love … Any deed that emerges from understanding—born, sourced, and originated from understanding—is abandoned when delusion is done away with. It’s cut off at the root, made like a palm stump, obliterated, and unable to arise in the future. |
Phàm nghiệp nào được làm từ không sân ... không thể sanh khởi trong tương lai. Phàm nghiệp nào được làm từ không si ... không thể sanh khởi trong tương lai. |
These are three sources that give rise to deeds. |
Có ba nguyên nhân này, này các Tỷ-kheo, khởi lên các nghiệp: |
AN 3.35 Hatthakasutta With Hatthaka |
34.- Về Alavì |
Then as Hatthaka of Āḷavī was going for a walk he saw the Buddha sitting on that mat of leaves. He went up to the Buddha, bowed, sat down to one side, and said, “Sir, I trust the Buddha slept well?” |
Rồi Hatthaka, người Alavì, đang đi bộ hành du ngoạn, thấy Thế Tôn đang ngồi trên chỗ có trải lá trong rừng Simsapà ở Gomagga, thấy vậy, liền đi đến Thế Tôn; sau khi đi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Hatthaka người Alavì bạch Thế Tôn:- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn sống có an lạc không? |
“Yes, prince, I slept well. I am one of those who sleep at ease in the world.” |
- Phải, này Hoàng Tử, ta sống được an lạc. Và những ai cảm thấy an lạc ở đời, Ta là một trong số những người ấy. |
“The winter nights are cold, sir, and it’s the week of mid-winter, when the snow falls. Rough is the ground trampled under the cows’ hooves, and thin is the mat of leaves. The leaves are sparse on the trees, the ocher robes are cold, and cold blows the north wind. And yet the Buddha says, ‘Yes, prince, I slept well. I am one of those who sleep at ease in the world.’” |
- Bạch Thế Tôn, lạnh là đêm mùa đông, thời gian giữa những ngày tám (trước và sau ngày rằm) là thời gian tuyết rơi, cứng rắn là đất do trâu bò dẫm đạp, mỏng manh là nệm làm bằng lá, lưa thưa là những lá của cây, lạnh là tấm vải cà sa, và lạnh là làn gió thổi. Rồi Thế Tôn nói như sau: - Dẫu vậy, này Hoàng Tử, Ta sống được an lạc. Và những ai cảm thấy an lạc ở đời, Ta là một trong số những người ấy. |
“Well then, prince, I’ll ask you about this in return, and you can answer as you like. What do you think? Take the case of a householder or his son, who lives in a bungalow, plastered inside and out, draft-free, with latches fastened and windows shuttered. His couch is spread with woolen covers—shag-piled, pure white, or embroidered with flowers—and spread with a fine deer hide. It has a canopy above and red pillows at both ends. An oil lamp is burning there, while his four wives attend to him in all manner of agreeable ways. What do you think, prince, would he sleep at ease, or not? Or how do you see this?” |
Vậy nay, này Hoàng Tử, ở đây ta sẽ hỏi Hoàng Tử, nếu có thể kham nhẫn, Hoàng Tử hãy trả lời. Hoàng Tử nghĩ thế nào, này Hoàng Tử? Ở đây, người gia chủ hay con người gia chủ có nhà có nóc nhọn, với các tường trét trong trét ngoài, che chở khỏi gió, chốt cửa được khóa chặt, các cửa sổ được đóng kín. Trong ấy, có một chỗ nằm có trải tấm thảm len với lông dài, với tấm vải giường bằng len trắng, chăn len thêu bông, nệm bằng da quý con sơn dương kadali, tấm thảm có tàn che phía trên và gối nệm đỏ cả hai đầu, có đèn thắp đỏ và bốn bà vợ đẹp hầu hạ. Này Hoàng Tử, Hoàng Tử nghĩ thế nào, người ấy nằm ngủ có an lạc không? Hay Hoàng Tử nghĩ thế nào? |
“He would sleep at ease, sir. Of those who sleep at ease in the world, he would be one.” |
- Bạch Thế Tôn, người ấy nằm ngủ an lạc. Nếu có những người cảm thấy an lạc ở đời, người ấy là một trong những người ấy. |
“What do you think, prince? Is it not possible that a fever born of greed—physical or mental—might arise in that householder or householder’s son, burning him so he sleeps badly?” |
- Hoàng Tử nghĩ thế nào, này Hoàng tử, với người gia chủ hay người con của người gia chủ ấy, khởi lên những nhiệt não về thân hay về tâm, do tham ái sanh. Bị nung đốt bởi những nhiệt não do tham ái sanh, người ấy có cảm thấy đau khổ không? |
“Yes, sir.” |
- Thưa có, bạch Thế Tôn. |
What do you think, prince? Is it not possible that a fever born of hate … or a fever born of delusion—physical or mental—might arise in that householder or householder’s son, burning him so he sleeps badly?” |
Hoàng Tử nghĩ thế nào, này Hoàng Tử, với người gia chủ hay con của người gia chủ ấy, khởi lên những nhiệt não về thân hay tâm do sân sanh ... do si sanh. Bị nung đốt bởi những nhiệt não do si sanh, người ấy có cảm thấy đau khổ không? |
“Yes, sir.” |
- Thưa có, bạch Thế Tôn. |
A brahmin who is fully extinguished |
Luôn luôn được an lạc, |
AN 3.36 Devadūtasutta - Messengers of the Gods |
35.- Diêm Vương |
Firstly, someone does bad things by way of body, speech, and mind. When their body breaks up, after death, they’re reborn in a place of loss, a bad place, the underworld, hell. Then the wardens of hell take them by the arms and present them to King Yama, saying: ‘Your Majesty, this person did not pay due respect to their mother and father, ascetics and brahmins, or honor the elders in the family. May Your Majesty punish them!’ |
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Sau khi thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác, khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Rồi này các Tỳ kheo, những người lính địa ngục với hai cánh tay bắt người ấy dẫn đến Vua Yama (Diêm vương) và thưa: - "Thưa Ðại vương, người này không kính mẹ, không kính cha, không kính Sa-môn, không kính Bà-la-môn, không tôn kính các bậc lớn tuổi trong gia đình, Ðại vương hãy hình phạt nó" |
Then King Yama pursues, presses, and grills them about the first messenger of the gods: ‘Mister, did you not see the first messenger of the gods that appeared among human beings?’ |
Rồi vua Yama chất vấn người ấy:, cật vấn, nạn vấn người ấy về Thiên sứ thứ nhất: - "Này người kia, người có thấy vị Thiên sứ thứ nhất hiện ra giữa loài người không?" |
They say, ‘I saw nothing, sir.’ |
Người ấy trả lời: - "Con không thấy, thưa ngài" |
Then King Yama says, ‘Mister, did you not see among human beings an elderly woman or a man—eighty, ninety, or a hundred years old—bent double, crooked, leaning on a staff, trembling as they walk, ailing, past their prime, with teeth broken, hair grey and scanty or bald, skin wrinkled, and limbs blotchy?’ |
Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người ấy: - "Này người kia, ngươi có bao giờ thấy giữa loài người, một người đàn bà hay đàn ông 80 tuổi, hay 90 tuổi, hay 100 tuổi, già yếu, cong như nóc nhà, lưng còm, chống gậy, vừa đi vừa run rẩy, bệnh hoạn, tuổi trẻ đã tận, răng rụng tóc bạc, hư rụng, sói đầu, da nhăn, đầu rung, tay chân da mồi khô đét?" |
They say, ‘I saw that, sir.’ |
Người ấy nói như sau: - "Thưa Ngài, con có thấy". |
Then King Yama says, ‘Mister, did it not occur to you—being sensible and mature—“I, too, am liable to grow old. I’m not exempt from old age. I’d better do good by way of body, speech, and mind”?’ |
Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người ấy như sau: - "Này người kia, với ngươi là người có trí, và lớn tuổi, Ngươi có nghĩ rằng: "Ta rồi cũng bị già, ta không vượt qua tuổi già. Vậy ta hãy làm điều lành, về thân, về lời nói, về ý?" |
They say, ‘I couldn’t, sir. I was negligent.’ |
Người ấy nói như sau: - "Không, thưa Ngài, con không có làm. Thưa Ngài, con phóng dật." |
Then King Yama says, ‘Mister, because you were negligent, you didn’t do good by way of body, speech, and mind. Well, they’ll definitely punish you to fit your negligence. That bad deed wasn’t done by your mother, father, brother, or sister. It wasn’t done by friends and colleagues, by relatives and kin, by the deities, or by ascetics and brahmins. That bad deed was done by you alone, and you alone will experience the result.’ |
Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người ấy: - "Này người kia, chính vì do phóng dật, ngươi đã không làm các điều lành về thân, về lời nói, về ý. Thật vậy, này người kia, chúng sẽ làm cho ngươi, đúng theo sự phóng dật của ngươi. Ác nghiệp ấy của ngươi, không phải mẹ làm, không phải cha làm, không phải anh làm, không phải chị làm, không phải bạn bè thân hữu làm, không phải bà con huyết thống làm, không phải chư Thiên làm, không phải Sa-môn làm, Bà-la-môn làm. Ác nghiệp ấy chính do ngươi làm và Ngươi sẽ thọ lãnh quả dị thục của ác nghiệp ấy. |
Then King Yama grills them about the third messenger of the gods: ‘Mister, did you not see the third messenger of the gods that appeared among human beings?’ |
2. Rồi vua Yama, này các Tỷ-kheo, sau khi chất vấn, cật vấn, nạn vấn người ấy về vị Thiên sứ thứ nhất, liền chất vấn, cật vấn, nạn vấn người ấy về vị Thiên sứ thứ hai: - "Này người kia, người có thấy vị Thiên sứ thứ hai hiện ra giữa loài người không?" |
They say, ‘I saw nothing, sir.’ |
Người ấy trả lời: - "Con không thấy, thưa ngài" |
Then King Yama says, ‘Mister, did you not see among human beings a woman or a man, dead for one, two, or three days, bloated, livid, and festering?’ |
Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người ấy: - "Này người kia, ngươi có bao giờ thấy giữa loài người, một người đàn bà hay một người đàn ông, bệnh hoạn khổ não nguy kịch, rơi nằm trong tiểu tiện, đại tiện của mình, cần người khác nâng dậy, cần người khác dìu nằm xuống?" |
They say, ‘I saw that, sir.’ |
Người ấy nói như sau: - "Thưa Ngài, con có thấy". |
Then King Yama says, ‘Mister, did it not occur to you—being sensible and mature—“I, too, am liable to die. I’m not exempt from death. I’d better do good by way of body, speech, and mind”?’ |
Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người ấy như sau: - "Này người kia, với ngươi là người có trí, và lớn tuổi, Ngươi có nghĩ rằng: "Ta rồi cũng bị bệnh, ta không vượt qua bệnh hoạn. Vậy ta hãy làm điều lành, về thân, về lời nói, về ý?" |
They say, ‘I couldn’t, sir. I was negligent.’ |
Người ấy nói như sau:
- "Không, thưa Ngài, con không có làm. Thưa Ngài, con phóng dật." |
Then, after grilling them about the third messenger of the gods, King Yama falls silent. Then the wardens of hell punish them with the five-fold crucifixion. They drive red-hot stakes through the hands and feet, and another in the middle of the chest. And there they suffer painful, sharp, severe, acute feelings—but they don’t die until that bad deed is eliminated. |
3. Rồi vua Yama, này các Tỷ-kheo, sau khi chất vấn, cật vấn, nạn vấn người ấy về vị Thiên sứ thứ hai, liền chất vấn, cật vấn, nạn vấn người ấy về vị Thiên sứ thứ ba: - "Này người kia, người có thấy vị Thiên sứ thứ ba hiện ra giữa loài người không?" 4. Rồi vua Yama, này các Tỷ-kheo, sau khi chất vấn, cật vấn, nạn vấn người ấy về vị Thiên sứ thứ ba, rồi giữ im lặng. |
Then the wardens of hell throw them down and hack them with axes. … |
Rồi này các Tỷ-kheo, những người lính địa ngục bắt người ấy chịu hình phạt gọi là năm cọc. Họ lấy cọc sắt nung đỏ đóng vào một bàn tay, họ lấy cọc sắt nung đỏ đóng vào bàn tay thứ hai, họ lấy cọc sắt nung đỏ đóng vào một bàn chân, họ lấy cọc sắt nung đỏ đóng vào bàn chân thứ hai, Họ lấy cọc sắt nung đỏ đóng vào giữa ngực. Người ấy ở đây thọ lãnh các cảm giác đau đớn, cực khổ, thống khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy không có thể mệnh chung cho đến khi ác nghiệp của người ấy chưa được tiêu trừ. |
They hang them upside-down and hack them with hatchets. … |
Này các Tỷ-kheo, rồi các người lính địa ngục bắt người ấy nằm xuống và lấy cái rìu chặt người ấy. Người ấy ở đây thọ lãnh ... chưa được tiêu trừ. Này các Tỷ-kheo, rồi các người lính địa ngục dựng ngược người ấy, chân trên đầu dưới và lấy dao sắc chặt người ấy. Người ấy ở đây thọ lãnh ... chưa được tiêu trừ. |
They harness them to a chariot, and drive them back and forth across burning ground, blazing and glowing. … |
Này các Tỷ-kheo, các người lính địa ngục, cột người ấy vào một chiếc xe, kéo người ấy chạy tới, kéo người ấy chạy lui, trên đất được đốt cháy đỏ, cháy thành ngọn, cháy đỏ rực. Người ấy ở đây thọ lãnh ... chưa được tiêu trừ. |
They make them climb up and down a huge mountain of burning coals, blazing and glowing. … |
Rồi này các Tỷ-kheo, các người lính địa ngục đẩy người ấy lên, kéo người ấy xuống trên một sườn núi đầy than hừng, cháy đỏ, cháy thành ngọn, cháy đỏ rực. Người ấy ở đây thọ lãnh ... chưa được tiêu trừ. |
Then the wardens of hell turn them upside down and throw them in a red-hot copper pot, burning, blazing, and glowing. There they’re seared in boiling scum, and they’re swept up and down and round and round. And there they suffer painful, sharp, severe, acute feelings—but they don’t die until that bad deed is eliminated. Then the wardens of hell toss them into the Great Hell. |
Rồi này các Tỷ-kheo, các người lính địa ngục nắm ngược người ấy, chân phía trên, đầu phía dưới và quăng người ấy vào một vạc dầu bằng đồng nung đỏ, cháy đỏ, cháy thành ngọn, cháy đỏ rực. Người ấy ở đây, bị nấu với bọt nước sôi sùng sục, khi thì trôi nổi lên, khi thì chìm xuống đáy, khi thì trôi dạt ngang. Người ấy ở đây thọ lãnh các cảm giác đau đớn, cực khổ, thống khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy không thể mệnh chung cho đến khi ác nghiệp của người ấy được tiêu trừ. Rồi này các Tỷ-kheo, những người lính địa ngục quăng người ấy vào Ðại địa ngục. |
Now, about that Great Hell: |
Này các Tỷ-kheo, Ðại địa ngục ấy: |
Once upon a time, King Yama thought, ‘Those who do such bad deeds in the world receive these many different punishments. Oh, I hope I may be reborn as a human being! And that a Realized One—a perfected one, a fully awakened Buddha—arises in the world! And that I may pay homage to the Buddha! Then the Buddha can teach me Dhamma, so that I may understand his teaching.’ |
Một thời xưa lắm, này các Tỷ-kheo, vua Yama suy nghĩ như sau: "Những ai làm ác nghiệp ở đời, phải thọ lãnh những hình phạt sai khác như vậy. Mong rằng ta được làm người, và Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác xuất hiện ở đời, ta có thể hầu hạ Thế Tôn, Thế Tôn thuyết pháp cho ta, và ta có thể thông hiểu pháp do Thế Tôn thuyết giảng". |
Now, I don’t say this because I’ve heard it from some other ascetic or brahmin. I only say it because I’ve known, seen, and realized it for myself. |
Này các Tỷ-kheo, điều ta đang nói, không phải ta nghe từ một Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác; những điều ta đang nói chỉ được ta biết mà thôi, chỉ được ta thấy mà thôi, chỉ được ta hiểu mà thôi. |
Those people who are negligent, |
6.
Dầu Thiên sứ báo động, |
AN 3.37 Catumahārājasutta The Four Great Kings (1st) |
36.- Bốn Bậc Ðại Vương |
And on the fourteenth day of the fortnight, the sons of the Four Great Kings wander about the world, thinking: ‘Hopefully most humans are paying due respect to their parents … and making merit.’ |
Này các Tỷ-kheo, trong ngày 14 của nửa tháng, các Hoàng tử của bốn Thiên vương, đi du hành trong thế giới này để xem trong loài người, có nhiều người có hiếu với mẹ, ... có làm các công đức. |
And on the fifteenth day sabbath, the Four Great Kings themselves wander about the world, thinking: ‘Hopefully most humans are paying due respect to their parents … and making merit.’ |
Này các Tỷ-kheo, trong ngày rằm lễ Uposatha, bốn vị Thiên vương tự mình đi du hành trong thế giới này để xem trong loài người, có nhiều người có hiếu với mẹ, ... có làm các công đức. |
If only a few humans are paying due respect to their parents … and making merit, then the Four Great Kings address the gods of the Thirty-Three, seated together in the Hall of Justice: ‘Only a few humans are paying due respect to their parents … and making merit.’ Then the gods of the Thirty-Three are disappointed, thinking, ‘The heavenly hosts will dwindle, while the titan hosts will swell!’ |
Nếu chỉ có ít người giữa loài người, này các Tỷ-kheo, có hiếu với mẹ, ... là các công đức, thời này các Tỷ-kheo, bốn vị Ðại vương liền báo với chư Thiên ở cõi trời thứ ba mươi ba, đang ngồi tụ họp tại hội trường Sudhammà: - "Thưa chư vị, có ít người giữa loài người có hiếu với mẹ, ... có làm các công đức". Rồi này các Tỷ-kheo, chư Thiên ở cõi trời thứ ba mươi ba không hoan hỉ nói: - "Thật vậy, Thiên chúng sẽ bị tổn giảm và Asura chúng (A-tu-la) sẽ được sung mãn." |
But if many humans are paying due respect to their parents … and making merit, then the Four Great Kings address the gods of the Thirty-Three, seated together in the Hall of Justice: ‘Many humans are paying due respect to their parents … and making merit.’ Then the gods of the Thirty-Three are pleased, thinking, ‘The heavenly hosts will swell, while the titan hosts will dwindle!’ |
Nhưng này các Tỷ-kheo, nếu có nhiều người giữa loài người, có hiếu với mẹ, ... có làm các công đức, thời này các Tỷ-kheo, bốn vị Ðại vương liền báo với chư Thiên ở cõi trời thứ ba mươi ba, đang ngồi tụ họp tại hội trường Sudhammà: - "Thưa chư Vị, có nhiều người giữa loài người, có hiếu với mẹ, ... có làm các công đức". Rồi này các Tỷ-kheo, chư Thiên ở cõi trời thứ ba mươi ba hoan hỷ nói - "Thật vậy, Thiên chúng sẽ được sung mãn, còn các Asura chúng sẽ bị tổn giảm. |
Once upon a time, Sakka, lord of gods, guiding the gods of the Thirty-Three, recited this verse: |
37.- Sakka. Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka đang thuyết giảng cho chư Thiên ở cõi Trời thứ Ba mươi ba, trong khi ấy, nói lên bài kệ như sau: |
‘Whoever wants to be like me |
Ngày mười bốn, ngày rằm |
But that verse was poorly sung by Sakka, lord of gods, not well sung; poorly spoken, not well spoken. Why is that? Sakka, lord of gods, is not free of greed, hate, and delusion. |
Bài kệ ấy, này các Tỷ-kheo, đã bị Thiên chủ Sakka hát sai, không hát đúng, nói sai, không nói đúng. Vì cớ sao? Thiên chủ Sakka, này các Tỷ-kheo, chưa ly tham, chưa ly sân, chưa ly si. |
But for a mendicant who is perfected—with defilements ended, who has completed the spiritual journey, done what had to be done, laid down the burden, achieved their own true goal, utterly ended the fetters of rebirth, and is rightly freed through enlightenment—it is appropriate to say: |
Còn vị Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, là bậc A-la-hán, lậu hoặc đã đoạn tận, Phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, gánh nặng đã đặt xuống, mục đích đã thành đạt, hữu kiết sử đã đoạn tận, chánh trí giải thoát. Với vị Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, lời nói này mới là thích đáng. |
'Whoever wants to be like me |
Ngày mười bốn, ngày rằm |
Why is that? Because that mendicant is free of greed, hate, and delusion.” |
Vì cớ sao? Vị Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, đã ly tham, đã ly sân, đã ly si. |
AN 3.38 Dutiyacatumahārājasutta
The Four Great Kings (2nd) |
38 |
‘Whoever wants to be like me |
Ngày mười bốn, ngày rằm |
But that verse was poorly sung by Sakka, lord of gods, not well sung; poorly spoken, not well spoken. Why is that? Because Sakka, lord of gods, is not exempt from rebirth, old age, and death, from sorrow, lamentation, pain, sadness, and distress. He is not exempt from suffering, I say. But for a mendicant who is perfected—with defilements ended, who has completed the spiritual journey, done what had to be done, laid down the burden, achieved their own true goal, utterly ended the fetters of rebirth, and is rightly freed through enlightenment—it is appropriate to say: |
Bài kệ ấy, này các Tỷ-kheo, đã bị Thiên chủ Sakka hát sai, không hát đúng ... Vì cớ sao? Ta nói rằng Thiên chủ Sakka, này các Tỷ-kheo, chưa giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Còn vị Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, là bậc A-la-hán ... chánh trí giải thoát. Với vị Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, lời nói này mới là thích đáng: |
‘Whoever wants to be like me |
Ngày mười bốn, ngày rằm |
Why is that? Because that mendicant is exempt from rebirth, old age, and death, from sorrow, lamentation, pain, sadness, and distress. He is exempt from suffering, I say.” |
Vì cớ sao? Ta nói rằng, vị Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, đã thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, giải thoát khỏi khổ đau. |
AN 3.39 Sukhumālasutta - A Delicate Lifestyle |
38.- Ðược Nuôi Dưỡng Tế Nhị |
In my father’s home, lotus ponds were made just for me. In some, blue water lilies blossomed, while in others, there were pink or white lotuses, just for my benefit. I only used sandalwood from Kāsi, and my turbans, jackets, sarongs, and upper robes also came from Kāsi. And a white parasol was held over me night and day, with the thought: ‘Don’t let cold, heat, grass, dust, or damp bother him.’ |
Này các Tỷ-kheo, trong nhà Phụ vương ta, các hồ nước được xây lên, trong một hồ có hoa sen xanh, trong một hồ có hoa sen đỏ, trong một hồ có hoa sen trắng, tất cả phục vụ cho ta. Không một hương chiên đàn nào ta dùng, này các Tỷ-kheo, là không từ Kàsi đến. Bằng vải Kàsi là khăn của ta, này các Tỷ-kheo. Bằng vải kàsi là áo cánh, bằng vải kàsi là nội y, bằng vải kàsi là thượng y. Ðêm và ngày, một lọng trắng được che cho ta để tránh xúc chạm lạnh, nóng, bụi, cỏ hay xương. |
I had three stilt longhouses—one for the winter, one for the summer, and one for the rainy season. I stayed in a stilt longhouse without coming downstairs for the four months of the rainy season, where I was entertained by musicians—none of them men. |
Này các Tỷ-kheo, ba lâu đài được xây dựng cho Ta, một cái cho mùa đông, một cái cho mùa hạ, một cái cho mùa mưa. Và Ta, này các Tỷ-kheo, tại lâu đài mùa mưa, trong bốn tháng mưa, được những nữ nhạc công đoanh vây, Ta không có xuống dưới lầu. |
While the bondservants, workers, and staff in other houses are given rough gruel with pickles to eat, in my father’s home they are given fine rice with meat. |
Trong các nhà của người khác, các người đầy tớ, làm công được cho ăn cơm tấm, cháo chua. Trong nhà phụ vương Ta, các người đầy tớ, làm công được cho ăn gạo, thịt gà và cơm nấu. |
Amid such prosperity and such a delicate lifestyle, I thought: ‘When an unlearned ordinary person—who is liable to grow old, not being exempt from old age—sees someone else who is old, they’re horrified, repelled, and disgusted, overlooking the fact that they themselves are in the same situation. But since I, too, am liable to grow old, it would not be appropriate for me to be horrified, embarrassed, and disgusted, when I see someone else who is old.’ Reflecting like this, I entirely gave up the vanity of youth. |
2.- Với Ta, này các Tỷ-kheo, được đầy đủ với sự giàu sang như vậy, được cứu cánh nuôi dưỡng tế nhị như vậy, ta suy nghĩ rằng: "Kẻ vô văn phàm phu tự mình bị già, không vượt qua khỏi già, khi thấy người khác bị già, lại bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm, quên rằng mình cũng như vậy. Ta cũng bị già, không vượt qua khỏi già, sau khi thấy người khác già, ta có thể bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm sao? Như vậy, thật không xứng đáng cho ta". Sau khi quan sát về ta như vậy, này các Tỷ-kheo, sự kiêu mạn của tuổi trẻ trong tuổi trẻ được đoạn trừ hoàn toàn. |
‘When an unlearned ordinary person—who is liable to get sick, not being exempt from sickness—sees someone else who is sick, they’re horrified, repelled, and disgusted, overlooking the fact that they themselves are in the same situation. But since I, too, am liable to get sick, it would not be appropriate for me to be horrified, embarrassed, and disgusted, when I see someone else who is sick.’ Reflecting like this, I entirely gave up the vanity of health. |
"Kẻ vô văn phàm phu tự mình bị bệnh, không vượt khỏi bệnh, thấy người khác bị bệnh, lại bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm, quên rằng mình cũng như vậy. Ta cũng bị bệnh, không vượt qua khỏi bệnh, sau khi thấy người khác bị bệnh, ta có thể bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm sao? Như vậy, thật không xứng đáng cho ta". Sau khi quan sát về ta như vậy, này các Tỷ-kheo, sự kiêu mạn của không bệnh trong không bệnh được đoạn trừ hoàn toàn. |
‘When an unlearned ordinary person—who is liable to die, not being exempt from death—sees someone else who is dead, they’re horrified, repelled, and disgusted, overlooking the fact that they themselves are in the same situation. But since I, too, am liable to die, it would not be appropriate for me to be horrified, embarrassed, and disgusted, when I see someone else who is dead.’ Reflecting like this, I entirely gave up the vanity of life. |
"Kẻ vô văn phàm phu tự mình bị chết, không vượt khỏi chết, thấy người khác bị chết, lại bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm, quên rằng mình cũng như vậy. Ta cũng bị chết, không vượt qua khỏi chết, sau khi thấy người khác chết, ta có thể bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm sao? Như vậy, thật không xứng đáng cho ta". Sau khi quan sát về ta như vậy, này các Tỷ-kheo, sự kiêu mạn của sự sống trong sự sống được đoạn trừ hoàn toàn. |
There are these three vanities. What three? The vanity of youth, of health, and of life. |
39. Kiêu Mạn 1. - Có ba kiêu mạn này, này các Tỷ-kheo, Thế nào là ba? Kiêu mạn của tuổi trẻ, Kiêu mạn của không bệnh, Kiêu mạn của sự sống. |
Intoxicated with the vanity of youth, an unlearned ordinary person does bad things by way of body, speech, and mind. When their body breaks up, after death, they’re reborn in a place of loss, a bad place, the underworld, hell. |
Say sưa trong Kiêu mạn của tuổi trẻ, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành về ý. Do làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành về ý, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. |
Intoxicated with the vanity of health … |
Say sưa trong Kiêu mạn của không bệnh, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu làm các ác hành về thân...., về ý . Do làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành về ý, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Say sưa trong Kiêu mạn của sự sống, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành về ý. Do làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành về ý, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. |
Intoxicated with the vanity of life, an unlearned ordinary person does bad things by way of body, speech, and mind. When their body breaks up, after death, they’re reborn in a place of loss, a bad place, the underworld, hell. |
Say sưa trong Kiêu mạn của tuổi trẻ, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo từ bỏ học pháp, trở lui lại đời sống thế tục. Say sưa trong kiêu mạn của không bệnh, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo từ bỏ học pháp, trở lui lại đời sống thế tục |
Intoxicated with the vanity of youth, health, or life, a mendicant rejects the training and returns to a lesser life. |
Say sưa trong kiêu mạn của đời sống, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo từ bỏ học pháp, trở lui lại đời sống thế tục. |
For others, sickness is natural, |
Bị bệnh và bị già |
AN 3.40 Ādhipateyyasutta - In Charge |
40.- Tăng Thượng
1-4 |
And what, mendicants, is putting oneself in charge? It’s when a mendicant has gone to a wilderness, or to the root of a tree, or to an empty hut, and reflects like this: ‘I didn’t go forth from the lay life to homelessness for the sake of a robe, almsfood, lodgings, or rebirth in this or that state. But I was swamped by rebirth, old age, and death; by sorrow, lamentation, pain, sadness, and distress. I was swamped by suffering, mired in suffering. And I thought, “Hopefully I can find an end to this entire mass of suffering.” But it would not be appropriate for me to seek sensual pleasures like those I abandoned when I went forth, or even worse.’ Then they reflect: ‘My energy shall be roused up and unflagging, mindfulness shall be established and lucid, my body shall be tranquil and undisturbed, and my mind shall be immersed in samādhi.’ Putting themselves in charge, they give up the unskillful and develop the skillful, they give up the blameworthy and develop the blameless, and they keep themselves pure. This is called putting oneself in charge. |
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ngã tăng thượng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo đi đến ngôi rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, quan sát như sau: "Không phải vì y áo, ta xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Không phải vì món ăn khất thực, không phải vì sàng tọa, không phải vì nhân có mặt hay không có mặt ở đây mà ta xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình, (nhưng với ý nghĩ như sau): "Nay ta bị rơi vào sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, rơi vào khổ, bị khổ chi phối. Có thể do làm như vậy, sự đoạn tận tất cả khổ uẩn này được hiện khởi lên (cho ta). Và ta đã xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình, sau khi đã đoạn tận tất cả các dục vọng như vậy, lại còn đeo đuổi các dục vọng như kia hay còn ác tệ hơn. Như vậy, thật không xứng đáng cho ta". Vị ấy quan sát như sau: "Thắng tấn là tinh tấn của ta, không có thụ động; an trú là niệm của ta, không có thất niệm; khinh an là thân của ta, không có dao động; định tĩnh là tâm của ta, được nhứt tâm". Vị ấy làm cho tăng thượng tự ngã, từ bỏ bất thiện, tu tập thiện, từ bỏ có tội, tu tập không tội, gìn giữ cho tự ngã được thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tự ngã tăng thượng. |
And what, mendicants, is putting the world in charge? It’s when a mendicant has gone to a wilderness, or to the root of a tree, or to an empty hut, and reflects like this: ‘I didn’t go forth from the lay life to homelessness for the sake of a robe, almsfood, lodgings, or rebirth in this or that state. But I was swamped by rebirth, old age, and death, by sorrow, lamentation, pain, sadness, and distress. I was swamped by suffering, mired in suffering. And I thought, “Hopefully I can find an end to this entire mass of suffering.” And now, since I’ve now gone forth, I might have sensual, malicious, or cruel thoughts. But the population of the world is large, and there are ascetics and brahmins who have psychic power—they’re clairvoyant, and can read the minds of others. They see far without being seen, even by those close; and they understand the minds of others. They would know me: |
2.- Như thế nào, này các Tỷ-kheo, là thế giới tăng thượng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo đi đến ngôi rừng hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, rồi thẩm sát như sau: "Không phải vì y áo, ta xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Không phải vì món ăn khất thực, không phải vì sàng tọa, không phải vì nhân có mặt hay không có mặt ở đây mà ta xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình, (nhưng với ý nghĩ như sau): "Nay ta bị rơi vào sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, rơi vào khổ, bị khổ chi phối. Có thể làm như vậy, đoạn tận của tất cả khổ uẩn này được hiện khởi lên cho ta. Và ta đã xuất gia như vậy, lại có thể suy nghĩ về dục tầm hay có thể suy nghĩ về sân tầm, hay có thể suy nghi về hại tầm. To lớn là đại chúng này sống ở trong đời. Trong đại chúng sống ở đời, có các vị Sa-môn, Bà-la-môn có thần thông, có thiên nhãn, có tha tâm thông. Các vị này có thể thấy từ xa, tuy ở gần nhưng không thể thấy chúng được, và chúng có thể biết tâm ta với tâm của chúng. Chúng biết về ta như sau: |
“Look at this gentleman; he’s gone forth out of faith from the lay life to homelessness, but he’s living mixed up with bad, unskillful qualities.” And there are deities, too, who have psychic power—they’re clairvoyant, and can read the minds of others. They see far without being seen, even by those close; and they understand the minds of others. They would know me: |
"Hãy xem thiện nam tử này, tuy vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, nhưng sống xen lẫn với các pháp ác, bất thiện". Lại có các chư Thiên có thần thông, có thiên nhãn, có tha tâm thông. Các vị này có thể thấy từ xa, tuy ở gần nhưng không thấy chúng được, và chúng có thể biết tâm ta với tâm của chúng. Các vị ấy có thể biết về ta như sau: "Hãy xem thiện nam tử này, tuy vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, nhưng sống xen lẫn với các pháp ác, bất thiện." |
“Look at this gentleman; he’s gone forth out of faith from the lay life to homelessness, but he’s living mixed up with bad, unskillful qualities.”’ Then they reflect: ‘My energy shall be roused up and unflagging, mindfulness shall be established and lucid, my body shall be tranquil and undisturbed, and my mind shall be immersed in samādhi.’ Putting the world in charge, they give up the unskillful and develop the skillful, they give up the blameworthy and develop the blameless, and they keep themselves pure. This is called putting the world in charge. |
Vị ấy lại quan sát như sau: "Thắng tấn là tinh tấn của ta, không có thụ động; an trú là niệm của ta, không có thất niệm; khinh an là thân của ta, không có dao động; định tĩnh là tâm của ta, được nhứt tâm". Vị ấy làm cho tăng thượng thế giới, từ bỏ bất thiện, tu tập thiện, từ bỏ có tội, tu tập không có tội, giữ gìn cho tự ngã được thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là thế giới tăng thượng. |
And what, mendicants, is putting the teaching in charge? It’s when a mendicant has gone to a wilderness, or to the root of a tree, or to an empty hut, and reflects like this: ‘I didn’t go forth from the lay life to homelessness for the sake of a robe, almsfood, lodgings, or rebirth in this or that state. But I was swamped by rebirth, old age, and death, by sorrow, lamentation, pain, sadness, and distress. I was swamped by suffering, mired in suffering. And I thought, “Hopefully I can find an end to this entire mass of suffering.” The teaching is well explained by the Buddha—apparent in the present life, immediately effective, inviting inspection, relevant, so that sensible people can know it for themselves. I have spiritual companions who live knowing and seeing. Now that I’ve gone forth in this well explained teaching and training, it would not be appropriate for me to live lazy and heedless.’ Then they reflect: ‘My energy shall be roused up and unflagging, mindfulness shall be established and lucid, my body shall be tranquil and undisturbed, and my mind shall be immersed in samādhi.’ Putting the teaching in charge, they give up the unskillful and develop the skillful, they give up the blameworthy and develop the blameless, and they keep themselves pure. This is called putting the teaching in charge. |
3.-Và này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp tăng thượng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo đi đến ngôi rừng hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, rồi thẩm sát như sau: "Không phải vì y áo, ta xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Không phải vì món ăn khất thực, không phải vì sàng tọa, không phải vì nhân có mặt hay không có mặt ở đây mà ta xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình, (nhưng với ý nghĩ như sau): "Nay ta bị rơi vào sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, rơi vào khổ, bị khổ chi phối. Có thể do làm như vậy, đoạn tận tất cả các khổ uẩn này được hiện khởi lên cho ta. Pháp được Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có kết quả ngay tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người có trí tự mình giác hiểu. Nay ta có những người đồng Phạm hạnh, chúng sống biết và thấy. Ta đã được xuất gia trong pháp và Luật khéo giảng như vậy, không lẽ ta lại có thể sống biếng nhác phóng dật. Như vậy, thật không xứng đáng cho ta". Vị ấy lại quán sát như sau: "Thắng tấn là tinh tấn của ta, không có thụ động; an trú là niệm của ta, không có thất niệm; khinh an là thân của ta, không có dao động; định tĩnh là tâm của ta, được nhứt tâm". Vị ấy làm cho tăng thượng pháp, từ bỏ bất thiện, tu tập thiện, từ bỏ có tội, tu tập không tội, giữ gìn cho tự ngã được thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là pháp tăng thượng. |
These are the three things to put in charge. |
Này các Tỷ-kheo, có ba pháp tăng thượng này. |
webmasters: Nguyễn Văn Hoà & Minh Hạnh |