**** |
1-10 Các Sức Mạnh |
11 “There are, mendicants, these two powers. What two? The power of reflection and the power of development. And what, mendicants, is the power of reflection? It’s when someone reflects: ‘Bad conduct of body, speech, or mind has a bad, painful result in both this life and the next.’ Reflecting like this, they give up bad conduct by way of body, speech, and mind, and develop good conduct by way of body, speech, and mind, keeping themselves pure. This is called the power of reflection. |
1.-- Có hai sức mạnh, này các Tỷ-kheo. Thế nào là hai? Sức mạnh tư sát và sức mạnh tu tập. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sức mạnh tư sát? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tư sát như sau: "Với thân làm ác, quả dị thục là ác ngay hiện tại và trong đời sau. Với miệng nói ác, quả dị thục là ác ngay trong hiện tại và trong đời sau. Với ý nghĩ ác, quả dị thục là ác ngay trong hiện tại và trong đời sau". Vị ấy, tư sát như vậy, từ bỏ thân làm ác, tu tập thân làm thiện, từ bỏ miệng nói ác, tu tập miệng nói thiện, từ bỏ ý nghĩ ác, tu tập ý nghĩ thiện, tư sát sự thật thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là sức mạnh tư sát. |
And what, mendicants, is the power of development? In this context, the power of development is the power of the trainees. For when you rely on the power of a trainee, you give up greed, hate, and delusion. Then you don’t do anything unskillful, or practice anything bad. This is called the power of development. These are the two powers.” |
Và thế nào, này các Tỷ-kheo, là sức mạnh tu tập? Ở đây, này các Tỷ-kheo, sức mạnh tu tập tức là sức mạnh của người hữu học. Do sức mạnh tu học, vị ấy từ bỏ tham, từ bỏ sân, từ bỏ si. Sau khi từ bỏ tham, từ bỏ sân, từ bỏ si, vị ấy không làm các điều bất thiện, không phục vụ các điều ác. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là sức mạnh tu tập. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai sức mạnh. |
12 “There are, mendicants, these two powers. What two? The power of reflection and the power of development. And what, mendicants, is the power of reflection? It’s when someone reflects: ‘Bad conduct of body, speech, or mind has a bad, painful result in both this life and the next.’ Reflecting like this, they give up bad conduct by way of body, speech, and mind, and develop good conduct by way of body, speech, and mind, keeping themselves pure. This is called the power of reflection. |
2. Này các Tỷ kheo, có hai sức mạnh. Thế nào là hai? Sức mạnh tư sát và sức mạnh tu tập. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sức mạnh tư sát? ... (như trên) ... Này các Tỷ-kheo, đây gọi là sức mạnh tư sát. |
And what, mendicants, is the power of development? It’s when a mendicant develops the awakening factors of mindfulness, investigation of principles, energy, rapture, tranquility, immersion, and equanimity, which rely on seclusion, fading away, and cessation, and ripen as letting go. This is called the power of development. These are the two powers.” |
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sức mạnh tu tập? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập niệm Niệm giác chi, liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Tu tập Trạch pháp giác chi ... tu tập Tinh tấn giác chi ... tu tập Hỷ giác chi ... tu tập Khinh an giác chi ... tu tập Ðịnh giác chi ... tu tập Xả giác chi, liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là sức mạnh tu tập. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai sức mạnh. |
13 “There are, mendicants, these two powers. What two? The power of reflection and the power of development. And what, mendicants, is the power of reflection? It’s when someone reflects: ‘Bad conduct of body, speech, or mind has a bad, painful result in both this life and the next.’ Reflecting like this, they give up bad conduct by way of body, speech, and mind, and develop good conduct by way of body, speech, and mind, keeping themselves pure. This is called the power of reflection. |
3. Này càc Tỷ kheo, có hai sức mạnh.... (như số 1 ở trên). Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sức mạnh tu tập? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất thiện, chứng đạt và an trú sơ Thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Ly hỷ, trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba. Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là sức mạnh tu tập. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai sức mạnh. |
And what, mendicants, is the power of development? It’s when a mendicant, quite secluded from sensual pleasures, secluded from unskillful qualities, enters and remains in the first absorption, which has the rapture and bliss born of seclusion, while placing the mind and keeping it connected. As the placing of the mind and keeping it connected are stilled, they enter and remain in the second absorption, which has the rapture and bliss born of immersion, with internal clarity and mind at one, without placing the mind and keeping it connected. And with the fading away of rapture, they enter and remain in the third absorption, where they meditate with equanimity, mindful and aware, personally experiencing the bliss of which the noble ones declare, ‘Equanimous and mindful, one meditates in bliss.’ Giving up pleasure and pain, and ending former happiness and sadness, they enter and remain in the fourth absorption, without pleasure or pain, with pure equanimity and mindfulness. This is called the power of development. These are the two powers.” |
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sức mạnh của sự phát triển? Đó là khi một vị khất sĩ, hoàn toàn tách biệt khỏi các dục lạc, tách biệt khỏi các phẩm chất bất thiện, chứng và an trú trong thiền thứ nhất, nơi có hỷ và lạc sinh ra từ sự ẩn dật, trong khi đặt tâm và giữ cho nó được kết nối. Khi việc đặt tâm trí và giữ cho nó kết nối được tĩnh lặng, họ đi vào và ở trong tầng thiền thứ hai, nơi có hỷ lạc sinh ra từ sự chìm đắm, với sự trong sáng bên trong và tâm trí là một, mà không đặt tâm trí và giữ cho nó được kết nối. Và với sự phai nhạt của hỷ, họ nhập và an trú trong tầng thiền thứ ba, ở đó họ thiền định với sự bình thản, chánh niệm và tỉnh giác, tự mình trải nghiệm niềm an lạc mà các bậc thánh tuyên bố, 'Bình đẳng và chánh niệm, người ta thiền định trong an lạc.' diệt lạc và đau khổ, và chấm dứt hạnh phúc và nỗi buồn trước đây, họ nhập và an trú trong thiền thứ tư, không vui hay đau, với xả và niệm thanh tịnh. Đây được gọi là sức mạnh của sự phát triển. Đây là hai thế lực.” |
14 “There are, mendicants, these two ways of teaching the Dhamma. What two? In brief and in detail. These are two ways of teaching the Dhamma.” |
4. Có hai cách thuyết pháp này của Như Lai, này các Tỷ-kheo. Thế nào là hai? Lược thuyết và rộng thuyết. Hai pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai cách thuyết pháp của Như Lai. |
15 “Mendicants, in a disciplinary issue, if neither the offending mendicant nor the accusing mendicant carefully checks themselves, you can expect that issue will lead to lasting acrimony and enmity, and the mendicants won’t live comfortably. But in a disciplinary issue, if both the offending mendicant and the accusing mendicant carefully check themselves, you can expect that issue won’t lead to lasting acrimony and enmity, and the mendicants will live comfortably. |
5. Trong bất cứ tranh tụng nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo phạm tội và Tỷ-kheo buộc tội, không có tự mình khéo quán sát lấy mình, thời tranh tụng ấy được chờ đợi là sẽ đưa đến kéo dài, gay gắt, ác liệt, và các Tỷ-kheo sẽ sống không được an lạc. Và trong bất cứ cuộc tranh tụng nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo phạm tội và Tỷ-kheo buộc tội, có tự mình khéo quán sát lấy mình, thời tranh tụng ấy, này các Tỷ-kheo, được chờ đợi là không đưa đến kéo dài, gay gắt, ác liệt, và các Tỷ-kheo sẽ sống được an lạc. |
And how, mendicants, does an offending mendicant carefully check themselves? An offending mendicant reflects: ‘I have committed a certain unskillful offense with the body. That mendicant saw me do this. If I hadn’t committed that offense, they wouldn’t have seen me. But since I did commit that offense, they did see me. When they saw me, they were upset, and they voiced their unhappiness to me. Then I also got upset, so I told others. So the mistake is mine alone, like someone who owes customs duty on their goods.’ That’s how, mendicants, an offending mendicant carefully checks themselves. |
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo phạm tội và Tỷ-kheo buộc tội, khéo tự mình quán sát lấy mình? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo phạm tội quán sát như sau: "Ta phạm một tội bất thiện về thân. Tỷ-kheo ấy đã thấy ta phạm tội bất thiện về thân. Nếu ta không phạm tội bất thiện về thân, Tỷ-kheo ấy sẽ không thấy ta phạm tội bất thiện về thân. Do vì ta có phạm một tội bất thiện về thân, do vậy, Tỷ-kheo ấy thấy ta có phạm tội bất thiện về thân. Thấy ta có phạm tội bất thiện về thân, Tỷ-kheo ấy không được hoan hỷ. Vì không hoan hỷ, Tỷ-kheo ấy nói với ta lời không hoan hỷ. Vì ta bị Tỷ-kheo ấy nói lời không hoan hỷ, nên ta không hoan hỷ. Do ta không hoan hỷ, ta nói cho các người khác biết. Như vậy, ở đây tội đã phạm chinh phục ta như trường hợp người phải trả thuế hàng hóa của mình". Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo phạm tội khéo tự mình quán sát lấy mình. |
And how, mendicants, does an accusing mendicant carefully check themselves? An accusing mendicant reflects: ‘This mendicant has committed a certain unskillful offense with the body. I saw them do that. If they hadn’t committed that offense, I wouldn’t have seen them. But since they did commit that offense, I did see them. When I saw them, I was upset, and I voiced my unhappiness to them. Then they also got upset, so they told others. So the mistake is mine alone, like someone who owes customs duty on their goods.’ That’s how, mendicants, an accusing mendicant carefully checks themselves. |
Và thế nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo buộc tội khéo tự mình quán sát lấy mình? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo buộc tội quán sát như sau: "Tỷ-kheo phạm một tội bất thiện về thân. Ta đã thấy Tỷ-kheo ấy phạm một tội bất thiện về thân. Nếu Tỷ-kheo này không phạm tội bất thiện về thân, thời ta đã không thấy Tỷ-kheo ấy phạm tội bất thiện về thân. Do vì Tỷ-kheo này có phạm một tội bất thiện về thân, do vậy Ta thấy Tỷ-kheo này phạm tội bất thiện về thân. Và sau khi thấy Tỷ-kheo này phạm tội bất thiện về thân, ta không hoan hỷ. Do ta không hoan hỷ, ta nói cho Tỷ-kheo này biết lời không hoan hỷ. Vì Tỷ-kheo này bị ta nói lời không hoan hỷ, nên không hoan hỷ. Vì không hoan hỷ, vị ấy nói cho các người khác biết. Như vậy, ở đây tội đã phạm chinh phục ta, như trường hợp người phải trả thuế hàng hóa của mình". Như vậy, Tỷ-kheo buộc tội khéo tự mình quán sát lấy mình. |
In a disciplinary issue, if neither the offending mendicant nor the accusing mendicant carefully checks themselves, you can expect that issue will lead to lasting acrimony and enmity, and the mendicants won’t live comfortably. But in a disciplinary issue, if both the offending mendicant and the accusing mendicant carefully checks themselves, you can expect that issue won’t lead to lasting acrimony and enmity, and the mendicants will live comfortably.” |
Trong bất cứ tranh tụng nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo phạm tội và Tỷ-kheo buộc tội, không tự mình khéo quán sát lấy mình, thời tranh tụng ấy được chờ đợi là sẽ đưa đến kéo dài, gay gắt, ác liệt, và các Tỷ-kheo sẽ sống không được an lạc. Và trong bất cứ cuộc tranh tụng nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo phạm tội và Tỷ-kheo buộc tội, có tự mình khéo quán sát lấy mình, thời tranh tụng ấy, này các Tỷ-kheo, được chờ đợi là không đưa đến kéo dài, gay gắt, ác liệt, và các Tỷ-kheo sẽ sống được an lạc. |
16 Then a certain brahmin went up to the Buddha and exchanged greetings with him. When the greetings and polite conversation were over, he sat down to one side and said to the Buddha: |
6. Rồi một Bà-la-môn đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn ấy bạch Thế Tôn: |
“What is the cause, Master Gotama, what is the reason why some sentient beings, when their body breaks up, after death, are reborn in a place of loss, a bad place, the underworld, hell?” |
- Do nhân gì, thưa Tôn giả Gotama, do duyên gì, ở đây một số chúng sanh khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục? |
“Unprincipled and immoral conduct is the reason why some sentient beings, when their body breaks up, after death, are reborn in a place of loss, a bad place, the underworld, hell.” |
- Do nhân phi pháp hành và bất bình đẳng hành, này Bà-la-môn, như vậy ở đây, một số các chúng sanh sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục! |
“What is the cause, Master Gotama, what is the reason why some sentient beings, when their body breaks up, after death, are reborn in a good place, a heavenly realm?” |
- Do nhân gì, thưa Tôn giả Gotama, do duyên gì, ở đây một số chúng sanh sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi Thiện, cõi Trời, cõi đời này? |
“Principled and moral conduct is the reason why some sentient beings, when their body breaks up, after death, are reborn in a good place, a heavenly realm.” |
- Do nhân pháp hành và bình đẳng hành, này Bà-la-môn, như vậy ở đây, một số chúng sanh sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên cõi Thiện, cõi Trời, cõi đời này. |
“Excellent, Master Gotama! Excellent! As if he was righting the overturned, or revealing the hidden, or pointing out the path to the lost, or lighting a lamp in the dark so people with clear eyes can see what’s there, Master Gotama has made the teaching clear in many ways. I go for refuge to Master Gotama, to the teaching, and to the mendicant Saṅgha. From this day forth, may Master Gotama remember me as a lay follower who has gone for refuge for life.” |
- Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ đi lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, pháp được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Con nay xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo Tăng! Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng! |
17 Then the brahmin Jānussoṇi went up to the Buddha, and exchanged greetings with him. When the greetings and polite conversation were over, he sat down to one side and said to the Buddha: |
7. Rồi Bà-la-môn Jànussoni đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Jànussoni bạch Thế Tôn: |
“What is the cause, Master Gotama, what is the reason why some sentient beings, when their body breaks up, after death, are reborn in a place of loss, a bad place, the underworld, hell?” |
- Do nhân gì, thưa Tôn giả Gotama, do duyên gì, ở đây một số chúng sanh sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục? |
“What they’ve done and what they’ve not done. That’s why some sentient beings, when their body breaks up, after death, are reborn in a place of loss, a bad place, the underworld, hell.” |
- Do vì có làm, này Bà-la-môn, do vì không làm. Như vậy, ở đây một số chúng sanh sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục! |
“But what is the cause, Master Gotama, what is the reason why some sentient beings, when their body breaks up, after death, are reborn in a good place, a heavenly realm?” |
- Do nhân gì, thưa Tôn giả Gotama, do duyên gì, ở đây một số chúng sanh sau khi thân hoại mạng chung, sanh lên cõi Thiện, cõi Trời, cõi đời này? |
“What they’ve done and what they’ve not done. That’s why some sentient beings, when their body breaks up, after death, are reborn in a good place, a heavenly realm.” |
- Do vì có làm, này Bà-la-môn, do vì không làm. Như vậy, ở đây một số chúng sanh sau khi thân hoại mạng chung, sanh lên cõi Thiện, cõi Trời, cõi đời này. |
“I don’t understand the meaning of what Master Gotama has said in brief, without explaining the details. Master Gotama, please teach me this matter in detail so I can understand the meaning.” |
- Thưa Tôn giả Gotama, lời nói vắn tắt không giảng rộng của Tôn giả Gotama, con không được hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi. Lành thay, nếu Tôn giả Gotama thuyết pháp cho con để con có thể hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi lời nói vắn tắt không giảng rộng của Tôn giả Gotama. |
“Well then, brahmin, listen and apply your mind well, I will speak.” |
- Vậy này Bà-la-môn, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói. |
“Yes sir,” Jānussoṇi replied. The Buddha said this: |
Bà-la-môn Jànussoni vâng đáp Thế Tôn: - Thưa vâng, Tôn giả |
“Firstly, brahmin, someone has done bad things and not done good things by way of body, speech, and mind. So what they’ve done and what they’ve not done is why some sentient beings, when their body breaks up, after death, are reborn in a place of loss, a bad place, the underworld, hell. Furthermore, brahmin, someone has done good things and not done bad things by way of body, speech, and mind. So what they’ve done and what they’ve not done is why some sentient beings, when their body breaks up, after death, are reborn in a good place, a heavenly realm.” |
Thế Tôn nói như sau: - Ở đây, này Bà-la-môn, có người thân làm ác, thân không làm thiện, miệng nói ác, miệng không nói thiện, ý nghĩ ác, ý không nghĩ thiện. Như vậy, này Bà-la-môn, do làm và do không làm như vậy, ở đây một số chúng sanh sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Lại ở đây, này Bà-la-môn, có một số chúng sanh thân làm thiện, thân không làm ác, miệng nói thiện, miệng không nói ác, ý nghĩ thiện, ý không nghĩ ác. Như vậy, này Bà-la-môn, do làm và do không làm như vậy, ở đây một số chúng sanh sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên cõi Thiện, cõi Trời, cõi đời này. |
“Excellent, Master Gotama! … From this day forth, may Master Gotama remember me as a lay follower who has gone for refuge for life.” |
- Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ... từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng! |
18 Then Venerable Ānanda went up to the Buddha, bowed, and sat down to one side. The Buddha said to him, “Ānanda, I absolutely say that you should not do bad things by way of body, speech, and mind.” |
8. Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda đang ngồi xuống một bên: - Ta tuyên bố một cách dứt khoát rằng, này Ananda, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác là điều không nên làm. |
“But, sir, if someone does these things that should not be done, what drawbacks should they expect?” |
- Vì rằng, bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã tuyên bố một cách dứt khoát rằng, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác là điều không nên làm. Nếu làm những điều không nên làm ấy, thời có những nguy hại gì được chờ đợi? |
“They should expect these drawbacks. They blame themselves. After examination, sensible people criticize them. They get a bad reputation. They feel lost when they die. And when their body breaks up, after death, they are reborn in a place of loss, a bad place, the underworld, hell. These are the drawbacks they should expect.” |
- Vì rằng này Ananda, Ta đã tuyên bố một cách dứt khoát rằng, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác là điều không nên làm. Nếu làm những điều không nên làm ấy, thời có những nguy hại như sau được chờ đợi: Tự mình chê trách mình; sau khi được biết, kẻ trí chê trách, tiếng ác đồn xa, bị mê ám khi mạng chung; sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. |
“Ānanda, I absolutely say that you should do good things by way of body, speech, and mind.” |
Vì thế, này Ananda, Ta đã tuyên bố một cách dứt khoát rằng, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác là điều không nên làm. Nếu làm những điều không nên làm ấy, thời có những nguy hại như vậy được chờ đợi. |
“But, sir, if someone does these things that should be done, what benefits should they expect?” |
- Ta tuyên bố một cách dứt khoát rằng, này Ananda, thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện là điều nên làm. - Vì rằng, bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã tuyên bố một cách dứt khoát rằng, thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện là điều nên làm. Nếu làm những điều nên làm ấy, thời có những lợi ích gì được chờ đợi? |
“They should expect these benefits. They don’t blame themselves. After examination, sensible people praise them. They get a good reputation. They don’t feel lost when they die. And when the body breaks up, after death, they are reborn in a good place, a heavenly realm. These are the benefits they should expect.” |
Vì rằng này Ananda, Ta dã tuyên bố một cách dứt khoát rằng, thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện là điều nên làm. Nếu làm những điều nên làm ấy, thời có những lợi ích như sau được chờ đợi: Tự mình không chê trách mình; sau khi được biết, kẻ trí tán thán, tiếng lành đồn xa, không bị mê ám khi mạng chung; sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào cõi Thiện, cõi Trời, cõi đời này. Vì thế, này Ananda, Ta đã tuyên bố một cách dứt khoát rằng, thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện là điều nên làm. Nếu làm những điều nên làm ấy, thời có những lợi ích như vậy được chờ đợi. |
19 “Mendicants, give up the unskillful. It is possible to give up the unskillful. If it wasn’t possible, I wouldn’t say: ‘Give up the unskillful.’ But it is possible, and so I say: ‘Give up the unskillful.’ And if giving up the unskillful led to harm and suffering, I would not say: ‘Give up the unskillful.’ But giving up the unskillful leads to welfare and happiness, so I say: ‘Give up the unskillful.’ |
9. Này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ bất thiện, này các Tỷ-kheo, từ bỏ bất thiện có thể làm được. Nếu từ bỏ bất thiện không thể làm được thời ta đã không nói như sau: "Này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ bất thiện". Vì rằng, này các Tỷ-kheo, từ bỏ bất thiện có thể làm được, do vậy Ta mới nói rằng: "Này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ bất thiện". Và nếu, này các Tỷ-kheo, từ bỏ bất thiện đưa đến bất hạnh, đau khổ, thời ta không nói như sau: "Này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ bất thiện". Và này các Tỷ-kheo, vì từ bỏ bất thiện đưa đến hạnh phúc, an lạc, nên Ta đã nói như sau: "Này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ bất thiện". |
Mendicants, develop the skillful. It is possible to develop the skillful. If it wasn’t possible, I wouldn’t say: ‘Develop the skillful.’ But it is possible, and so I say: ‘Develop the skillful.’ If developing the skillful led to harm and suffering I wouldn’t say: ‘Develop the skillful.’ But developing the skillful leads to welfare and happiness, so I say: ‘Develop the skillful.’” |
Này các Tỷ-kheo, hãy tu tập thiện. Này các Tỷ-kheo, tu tập thiện có thể làm được. Nếu tu tập thiện không thể làm được, này các Tỳ kheo, thời ta đã không nói như sau: "Này các Tỷ-kheo, hãy tu tập thiện". Vì rằng, này các Tỷ-kheo, tu tập thiện có thể làm được, do vậy Ta mới nói rằng: "Này các Tỷ-kheo, hãy tu tập thiện". Và nếu, này các Tỷ-kheo, tu tập thiện đưa đến bất hạnh, đau khổ, thời ta đã không nói như sau: "Này các Tỷ-kheo, hãy tu tập thiện". Và vì rằng, này các Tỷ-kheo, tu tập thiện đưa đến hạnh phúc, an lạc, nên Ta đã nói như sau: "Này các Tỷ-kheo, hãy tu tập thiện". |
20 “These two things, mendicants, lead to the decline and disappearance of the true teaching. What two? The words and phrases are misplaced, and the meaning is misinterpreted. When the words and phrases are misplaced, the meaning is misinterpreted. These two things lead to the decline and disappearance of the true teaching. |
10. Hai pháp này, này các Tỷ-kheo, đưa đến sự hỗn loạn (mê mờ) và biến mất của diệu pháp. Thế nào là hai? Văn cú bị đảo ngược và ý nghĩa bị hiểu lầm. Nếu văn cú bị đảo ngược thời ý nghĩa bị hiểu lầm. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai pháp đưa đến hỗn loạn và biến mất của diệu pháp. |
These two things lead to the continuation, persistence, and enduring of the true teaching. What two? The words and phrases are well organized, and the meaning is correctly interpreted. When the words and phrases are well organized, the meaning is correctly interpreted. These two things lead to the continuation, persistence, and enduring of the true teaching.” |
11. Hai pháp này, này các Tỷ-kheo, đưa đến an trú, không biến loạn, không biến mất của diệu pháp. Thế nào là hai? Văn cú phối trí chơn chánh và ý nghĩa được hiểu chơn chánh. nếu văn cú được phối trí chơn chánh thời ý nghĩa được hiểu chơn chánh. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai pháp đưa đến an trú, không hỗn loạn, không biến mất của diệu pháp. |
webmasters: Nguyễn Văn Hoà & Minh Hạnh |