SN 4.1 / SN i 103//SN i 231 - Tapokammasutta

- 1. Mortification
So I have heard. At one time, when he was first awakened, the Buddha was staying near Uruvelā at the root of the goatherd’s banyan tree on the bank of the Nerañjarā River. Then as he was in private retreat this thought came to his mind: “I am truly freed from that grueling work! Thank goodness I’m freed from that pointless grueling work. Thank goodness that, steadfast and mindful, I have attained awakening.”

SN 4.1 - I. Khổ Hạnh Và Nghiệp (S.i,103)

1) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Uruvelà bên bờ sông Neranjarà, dưới gốc cây Ajapàla Nigrodha, khi Ngài vừa giác ngộ. 2) Rồi Thế Tôn trong khi Thiền tịnh độc cư, tư tưởng sau đây được khởi lên: "Thật sự Ta được giải thoát khỏi khổ hạnh ấy. Tốt lành thay, thật sự Ta được giải thoát khỏi khổ hạnh không liên hệ đến lợi ích ấy! Tốt lành thay, Ta kiên trì, chánh niệm, chứng đạt Bồ-đề!"

And then Māra the Wicked, knowing what the Buddha was thinking, went up to him and addressed him in verse:

3) Rồi Ác ma với tâm tư của mình biết được tâm tư của Thế Tôn, liền đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên bài kệ này với Thế Tôn:

“You’ve departed from the practice of mortification
by which humans purify themselves.
You’re impure, but think yourself pure;
you’ve strayed from the path of purity.”

Từ bỏ pháp khổ hạnh,
Giúp thanh niên trong sạch,
Không tịnh, nghĩ mình tịnh,
Ði ngược thanh tịnh đạo.

Then the Buddha, knowing that this was Māra the Wicked, replied to him in verse:

4) Rồi Thế Tôn, biết được: "Ðây là Ác ma", liền nói lên bài kệ với Ác ma:

“I realized that it’s pointless;
all that mortification in search of immortality
is as futile
as oars and rudder on dry land.
Ethics, immersion, and wisdom:
by developing this path to awakening
I attained ultimate purity.
You’re defeated, terminator!”

Biết được pháp khổ hạnh,
Ðược xem là bất tử,
Pháp ấy không lợi ích,
Không đem lợi ích nào,
Như chèo và bánh lái,
Chiếc thuyền trên đất cạn.
Giới, định và trí tuệ,
Con đường hướng chánh giác.
Ta tu tập hạnh ấy,
Ðạt được tối thắng tịnh,
Này kẻ Tử ma kia,
Ông bị bại trận rồi.

Then Māra the Wicked, thinking, “The Buddha knows me! The Holy One knows me!” miserable and sad, vanished right there.

5) Rồi Ác ma biết được: "Thế Tôn đã biết ta, Thiện Thệ đã biết ta", buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.

SN 4.2 / SN i 103//SN i 232 - Hatthirājavaṇṇasutta - 2. In the Form of an Elephant King

So I have heard. At one time, when he was first awakened, the Buddha was staying near Uruvelā at the root of the goatherd’s banyan tree on the bank of the Nerañjarā River. Now at that time the Buddha was meditating in the open during the dark of night, while a gentle rain drizzled down. Then Māra the Wicked, wanting to make the Buddha feel fear, terror, and goosebumps, manifested in the form of a huge elephant king and approached him. Its head was like a huge block of soapstone. Its tusks were like pure silver. Its trunk was like a long plough pole. Then the Buddha, knowing that this was Māra the Wicked, addressed him in verse:

SN 4.2 - II. Con Voi (S.i,103)

1) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở tại Uruvelà, bên bờ sông Neranjarà, dưới cây Nigrodha Ajapàla, khi Ngài mới giác ngộ. Lúc bấy giờ, Thế Tôn đang ngồi ngoài trời, trong bóng đêm tối, và trời đang mưa từng hột một. 2) Rồi Ác ma muốn khiến Thế Tôn sợ hãi, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, liền biến hình thành con voi chúa to lớn và đi đến Thế Tôn. 3) Và đầu con voi ví như hòn đá đen lớn (aritthako), ngà của nó ví như bạc trắng tinh, vòi của nó ví như đầu cái cày lớn. 4) Thế Tôn biết được: "Ðây là Ác ma", liền nói lên bài kệ với Ác ma:

“Transmigrating for such a long time,
you’ve made forms beautiful and ugly.
Enough of this, Wicked One!
You’re defeated, terminator!”

Ông luân hồi dài dài,
Hình thức tịnh, bất tịnh.
Thôi vừa rồi, Ác ma,
Ông đã bị bại trận.

Then Māra the Wicked, thinking, “The Buddha knows me! The Holy One knows me!” miserable and sad, vanished right there.

5) Rồi Ác ma biết được: "Thế Tôn biết ta, Thiện Thệ biết ta", buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.

SN 4.3 / SN i 104//SN i 233 - Subhasutta - Beautiful

So I have heard. At one time, when he was first awakened, the Buddha was staying near Uruvelā at the root of the goatherd’s banyan tree on the bank of the Nerañjarā River. Now at that time the Buddha was meditating in the open during the dark of night, while a gentle rain drizzled down. Then Māra the Wicked, wanting to make the Buddha feel fear, terror, and goosebumps, approached him, and while not far away generated a rainbow of bright colors, both beautiful and ugly. Then the Buddha, knowing that this was Māra the Wicked, replied to him in verse:

SN 4.3 - III. Tịnh (S.i,104)

1) Trú tại Uruvelà. 2) Lúc bấy giờ, Thế Tôn đang ngồi ngoài trời, trong bóng đêm tối, và trời đang mưa từng hột một. 3) Rồi Ác ma muốn khiến Thế Tôn sợ hãi, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, liền đi đến Thế Tôn. 4) Sau khi đến, hiện lên những hình tướng cao thấp, tịnh, bất tịnh, không xa Thế Tôn bao nhiêu. 5) Rồi Thế Tôn biết được: "Ðây là Ác ma", liền nói lên bài kệ với Ác ma:

“Transmigrating for such a long time,
you’ve made forms beautiful and ugly.
Enough of this, Wicked One!
You’re defeated, terminator.
Those who are well restrained
in body, speech, and mind
don’t fall under Māra’s sway,
they don’t become your henchmen.”

Ông luân hồi dài dài,
Hình thức tịnh, bất tịnh.
Thôi vừa rồi, Ác ma,
Ông đã bị bại trận.
Những vị thân, khẩu, ý,
Khéo hộ trì chế ngự,
Này kẻ Ác ma kia,
Những vị ấy như vậy,
Không bị Ông chi phối,
Không phải đệ tử Ông.

Then Māra … vanished right there.

6) Rồi Ác ma biết được... liền biến mất tại chỗ.

SN 4.4 / SN i 105//SN i 234 Paṭhamamārapāsasutta - Māra’s Snares (1st)

So I have heard. At one time the Buddha was staying near Benares, in the deer park at Isipatana. There the Buddha addressed the mendicants: “Mendicants!” “Venerable sir,” they replied. The Buddha said this:

SN 4.4 - IV. Bẫy Sập (S.i,105)

1) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở tại Barànasi (Ba-la-nại), Isipatana (chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: -- "Này các Tỷ-kheo." -- "Thưa vâng, bạch Thế Tôn ". Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. 2) Thế Tôn nói như sau

“Mendicants, I have attained and realized supreme freedom through proper attention and proper effort. You too should attain and realize supreme freedom through proper attention and proper effort.” Then Māra the Wicked went up to the Buddha and addressed him in verse:

-- Này các Tỷ-kheo, chính nhờ chánh tác ý, chính nhờ chánh tinh cần. Ta chứng đạt Vô thượng giải thoát. Ta chứng ngộ Vô thượng giải thoát. Vậy này các Tỷ-kheo, các Ông cũng phải với chánh tác ý, chánh tinh cần, chứng đạt Vô thượng giải thoát, chứng ngộ Vô thượng giải thoát. Rồi Ác ma đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên bài kệ với Thế Tôn:

“You’re bound by Māra’s snares,
both human and divine.
You’re bound by Māra’s bonds:
you won’t escape me, ascetic!”

Ngài còn bị trói buộc,
Trong bẫy sập của ma,
Bởi những dây dục lạc,
Cả Thiên giới, Nhân giới.
Ngài đang bị cột chặt,
Trong triền phược của ma.
Này vị Sa-môn kia,
Ngài chưa thoát khỏi ta.

“I’m freed from Māra’s snares,
both human and divine.
I’m freed from Māra’s bonds.
You’re defeated, terminator!”.

4) (Thế Tôn):

Ta đã được giải thoát,
Khỏi bẫy sập của ma,
Thoát khỏi dây dục lạc,
Cả Thiên giới, Nhân giới.
Ta đã được giải thoát,
Khỏi triền phược của ma,
Này kẻ Tử ma kia,
Ông đã bị bại trận.

Then Māra … vanished right there.

5) Rồi Ác ma... biến mất tại chỗ.

SN 4.5 / SN i 105//SN i 236 Dutiyamārapāsasutta - Māra’s Snares (2nd)

At one time the Buddha was staying near Benares, in the deer park at Isipatana. There the Buddha addressed the mendicants: “Mendicants!” “Venerable sir,” they replied. The Buddha said this:

SN 4.5 - V. Bẫy Sập (S.i,105)

1) Một thời Thế Tôn trú ở Bàrànasi (Ba-la-nại) tại Isipatana, vườn Lộc Uyển. Ở đấy Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "-- Này các Tỷ-kheo." "-- Thưa vâng Thế Tôn." Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. 2) Thế Tôn nói như sau:

“Mendicants, I am freed from all snares, both human and divine. You are also freed from all snares, both human and divine. Wander forth, mendicants, for the welfare and happiness of the people, out of compassion for the world, for the benefit, welfare, and happiness of gods and humans. Let not two go by one road. Teach the Dhamma that’s good in the beginning, good in the middle, and good in the end, meaningful and well-phrased. And reveal a spiritual practice that’s entirely full and pure. There are beings with little dust in their eyes. They’re in decline because they haven’t heard the teaching. There will be those who understand the teaching! I will travel to Uruvelā, the village of Senāni, in order to teach the Dhamma.” Then Māra the Wicked went up to the Buddha and addressed him in verse:

-- Này các Tỷ-kheo, Ta đã được giải thoát khỏi tất cả bẫy sập ở Thiên giới và Nhân giới. Này các Tỷ-kheo, các Ông cũng được giải thoát khỏi tất cả bẫy sập ở Thiên giới và Nhân giới. Này các Tỷ-kheo, hãy du hành vì hạnh phúc cho quần chúng, vì an lạc cho quần chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người. Chớ có đi hai người một chỗ. Này các Tỷ-kheo, hãy thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn. Hãy tuyên thuyết Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh. Có các chúng sanh sanh ra ít nhiễm bụi đời, nếu không được nghe pháp sẽ đi đến hoại diệt. Họ sẽ trở thành những vị thâm hiểu Chánh pháp. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ đi đến Uruvelà, thị trấn Senà để thuyết pháp. 3) Rồi Ác ma đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên bài kệ với Thế Tôn:

“You’re bound by all snares,
both human and divine.
You’re bound by the great bond:
you won’t escape me, ascetic!”

Ngài còn bị trói buộc,
Trong bẫy sập của ma,
Bởi những dây dục lạc,
Cả Thiên giới, Nhân giới.
Ngài đang bị cột chặt,
Trong triền phược của ma,
Này vị Sa-môn kia,
Ngài chưa thoát khỏi ta.

“I’m freed from all snares,
both human and divine.
I’m freed from the great bonds;
You’re defeated, terminator!”

4) (Thế Tôn)

Ta đã được giải thoát,
Khỏi bẫy sập của ma,
Thoát khỏi dây dục lạc,
Cả Thiên giới, Nhân giới.
Ta đã được giải thoát,
Khỏi triền phược của ma,
Này kẻ Tử ma kia,
Ông đã bị bại trận.

Then Māra … vanished right there.

Rồi Ác ma... biến mất tại chỗ.

SN 4.6 / SN i 106//SN i 237 Sappasutta - A Serpent

So I have heard. At one time the Buddha was staying near Rājagaha, in the Bamboo Grove, the squirrels’ feeding ground. Now at that time the Buddha was meditating in the open during the dark of night, while a gentle rain drizzled down.

SN 4.6 - VI. Con Rắn (S.i,106)

1) Một thời Thế Tôn ở Ràjagaha, Veluvana, tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc. 2) Lúc bấy giờ Thế Tôn đang ngồi ngoài trời, trong bóng đêm tối, và trời đang mưa từng hột một.

Then Māra the Wicked, wanting to make the Buddha feel fear, terror, and goosebumps, manifested in the form of a huge serpent king and approached him. Its body was like a huge canoe carved from a single tree. Its hood was like a large brewer’s sieve. Its eyes were like those big bronze dishes from Kosala. Its tongue flickered from its mouth like lightning flashes in a thunderstorm. The sound of its breathing was like the puffing of a blacksmith’s bellows.

3) Rồi Ác ma muốn khiến Thế Tôn sợ hãi, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, bèn biến thành con đại xà vương và đi đến Thế Tôn. 4) Thân của nó to lớn ví như một chiếc thuyền đẽo ra từ một thân cây. Cái mang của nó ví như cái khay đan của người nấu rượu. Mắt của nó ví như cái đĩa bằng đồng của nước Kosala; lưỡi của nó le ra từ miệng ví như mũi tên chớp sáng lòe khi trời mưa gió sấm sét; tiếng hơi thở vô, hơi thở ra của nó ví như bệ thổi của người thợ rèn.

Then the Buddha, knowing that this was Māra the Wicked, replied to him in verse:

5) Rồi Thế Tôn biết: "Ðây là Ác ma", liền nói lên bài kệ này với Ác ma:

“A self-controlled sage frequents
empty buildings for lodging.
It’s appropriate for such a person
to live there after relinquishing.
Though there are lots of creepy crawlies,
and lots of flies and snakes,
they wouldn’t stir a hair
of a great sage in that empty hut.
Though the sky may split and the earth may quake,
and all creatures be stricken with fear;
and even if an arrow’s aimed at their breast,
the Buddhas take no shelter in attachments.”

Quý thay bậc Mâu-ni,
Sống trong nhà không tịch,
Biết chế ngự tự ngã,
Tại đấy vị ấy trú.
Sống từ bỏ tất cả,
Với hạnh tu tương xứng,
Nhiều loại thú bộ hành,
Nhiều sự vật khủng khiếp,
Nhiều ruồi muỗi độc xà,
Không mảy may rung động
Sợi lông bậc Mâu-ni
Sống trong nhà không tịch.
Dầu trời nứt, đất động,
Dầu muôn loài khủng bố,
Dầu bị giáo, đao, tên,
Quẳng ném vào ngực Ngài,
Chư Phật không tạo nên,
Những căn cứ sanh y.

Then Māra the Wicked, thinking, “The Buddha knows me! The Holy One knows me!” miserable and sad, vanished right there.

6) Rồi Ác ma biết được: " Thế Tôn đã biết ta, Thiện Thệ đã biết ta", liền biến mất tại chỗ.

SN 4.7 / SN i 107//SN i 239 Supatisutta - Sleeping

At one time the Buddha was staying near Rājagaha, in the Bamboo Grove, the squirrels’ feeding ground. He spent most of the night practicing walking meditation in the open. At the crack of dawn he washed his feet and entered his dwelling. He lay down in the lion’s posture—on the right side, placing one foot on top of the other—mindful and aware, and focused on the time of getting up. Then Māra the Wicked went up to the Buddha and addressed him in verse:

SN 4.7 - VII. Thụy Miên (S.i,107)

1) Một thời Thế Tôn ở Ràjagaha, Veluvana, tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc. 2) Rồi Thế Tôn sau khi đã đi kinh hành ngoài trời một phần lớn của đêm. Khi đêm đã gần mãn, Ngài rửa chân, bước vào tịnh xá, và nằm xuống phía hông bên phải theo thế nằm của con sư tử, hai chân gác lên nhau, chánh niệm tỉnh giác và nghĩ đến lúc thức dậy. 3) Rồi Ác ma đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên bài kệ với Thế Tôn:

“What, you’re asleep? Really, you’re asleep?
You sleep like a loser—what’s up with that?
You sleep, thinking that the hut is empty.
You sleep when the sun has come up—what’s up with that?”

Sao Ngài còn nằm ngủ,
Sao Ngài vẫn nằm ngủ,
Sao Ngài ngủ như vậy,
Như kẻ chết nằm co?
Nghĩ rằng nhà trống không,
Nên Ngài ngủ như vậy,
Sao Ngài ngủ như vậy,
Khi mặt trời đã mọc?

“For them there is no craving—
the weaver, the clinger—to lead them anywhere.
With the ending of all attachments the awakened Buddha sleeps.
What’s that got to do with you, Māra?”

4) (Thế Tôn):

Khi không còn tham ái,
Với lưới triền, nọc độc,
Người vậy được giải thoát,
Không bị dẫn nơi nào.
Ác ma! Bậc Giác Ngộ
Mọi sanh y diệt tận,
Vị ấy nếu có ngủ,
Các Ông làm được gì?

Then Māra … vanished right there.

Rồi Ác ma... biến mất tại chỗ.

webmasters: Nguyễn Văn Hoà & Minh Hạnh

 | | trở về đầu trang | Home page |