SN 4.14 / SN i 111//SN i 247 - Patirūpasutta - Appropriate

At one time the Buddha was staying in the land of the Kosalans near the brahmin village of Ekasālā. Now, at that time the Buddha was teaching Dhamma, surrounded by a large assembly of laypeople.

SN 4.14 - IV. Tương Ưng Thích Nghi (S.i,111)

1) Một thời Thế Tôn trú ở Kosala, tại một làng Bà-la-môn tên là Ekasàlà. Lúc bấy giờ, Thế Tôn xung quanh có đại chúng cư sĩ đoanh vây, đang thuyết pháp.

Then Māra thought: “The ascetic Gotama is teaching Dhamma, surrounded by a large assembly of laypeople. Why don’t I go and pull the wool over their eyes?” Then Māra the Wicked went up to the Buddha and addressed him in verse:

2) Rồi Ác ma suy nghĩ: "Sa-môn Gotama này, xung quanh có đại chúng cư sĩ đoanh vây, đang thuyết pháp. Vậy ta hãy đi đến Sa-môn Gotama và làm mờ mắt đại chúng này." 3) Rồi Ác ma đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên bài kệ với Thế Tôn:

“It’s not appropriate for you
to instruct others.
As you engage in this,
don’t get caught up in favoring and opposing.”

Thật không chút thích hợp,
Ðể Ngài giảng dạy người,
Giữa người thuận, kẻ nghịch,
Chớ hành nghề đứng giữa.

“The Buddha instructs others
out of compassion for their welfare.
The Realized One is liberated
from favoring and opposing.”

4) (Thế Tôn):

Với lòng từ, thương tưởng,
Bậc Giác Ngộ dạy người,
Giữa người thuận, kẻ nghịch,
Như Lai chơn giải thoát..

Then Māra the Wicked, thinking, “The Buddha knows me! The Holy One knows me!” miserable and sad, vanished right there.

5) Rồi Ác ma biết được : "Thế Tôn đã biết ta..." liền biến mất tại chỗ ấy.

SN 4.15 / SN i 111//SN i 248 Mānasasutta - A Mental Snare

So I have heard. At one time the Buddha was staying near Sāvatthī in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s monastery. Then Māra the Wicked went up to the Buddha and addressed him in verse:

SN 4.15 V. Ý (S.i,111)

1) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, Jetavana, tại vườn ông Anàthapindika. 2) Rồi Ác ma đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên bài kệ với Thế Tôn:

“There’s a mental snare
wandering the sky.
I’ll bind you with it—
you won’t escape me, ascetic!”

Mọi hành tung của ý
Là bẫy sập trên không,
Chính với bẫy sập ấy,
Ta trói buộc lấy Ngài,
Này vị Sa-môn kia,
Ngài chưa thoát khỏi ta.

“Sights, sounds, tastes, smells,
and touches so delightful:
desire for these is gone from me.
You’re defeated, terminator!”

3) (Thế Tôn):
Sắc, thanh, vị, hương, xúc,
Làm tâm ý ưa thích,
Ta không ưa muốn chúng,
Ta vượt thoát ngoài chúng,
Này kẻ Tử ma kia,
Ông đã bị bại trận.

Then Māra the Wicked, thinking, “The Buddha knows me! The Holy One knows me!” miserable and sad, vanished right there.

4) Rồi Ác ma biết được: "Thế Tôn đã biết ta...", liền biến mất tại chỗ ấy.

SN 4.16 / SN i 112//SN i 249 Pattasutta - The Alms Bowls

At Sāvatthī. Now at that time the Buddha was educating, encouraging, firing up, and inspiring the mendicants with a Dhamma talk on the topic of the five grasping aggregates. And those mendicants were paying attention, focusing, concentrating wholeheartedly, and listening well.

SN 4.16 VI. Bình Bát (S.i,112)

1) Trú ở Sàvatthi. Lúc bấy giờ Thế Tôn đang thuyết pháp cho các Tỷ-kheo về năm thủ uẩn, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ. Và các Tỷ-kheo ấy hết sức chú tâm, hết sức chú ý, tập trung mọi tâm tư, lóng tai nghe pháp.

Then Māra thought: “This ascetic Gotama is educating, encouraging, firing up, and inspiring the mendicants with a Dhamma talk on the topic of the five grasping aggregates. And the mendicants are paying attention, focusing, concentrating wholeheartedly, and listening well. Why don’t I go and pull the wool over their eyes?”

2) Rồi Ác ma suy nghĩ: "Sa-môn Gotama này đang thuyết pháp cho các Tỷ-kheo về năm thủ uẩn, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, và các Tỷ-kheo ấy hết sức chú tâm, hết sức chú ý, tập trung mọi tâm tư, lắng tai nghe pháp. Vậy ta hãy đi đến Sa-môn Gotama và làm mờ mắt các Tỷ-kheo ấy".

At that time several alms bowls were placed in the open air. Then Māra the Wicked manifested in the form of an ox and approached those bowls. Then one of the mendicants said to another: “Mendicant, mendicant, that ox will break the bowls.” When this was said, the Buddha said to that mendicant: “Mendicant, that’s no ox. That’s Māra the Wicked come to pull the wool over your eyes!” Then the Buddha, knowing that this was Māra the Wicked, addressed him in verse:

3) Lúc bấy giờ có nhiều bình bát được đặt ra ngoài trời để phơi cho khô.
4) Rồi Ác ma biến hình thành con bò đực và đi đến các bình bát ấy.
5) Rồi một Tỷ-kheo nói với một Tỷ-kheo khác:
-- Này Tỷ-kheo, Tỷ-kheo, con bò đực này sẽ làm bể các bình bát.
6) Khi nghe nói vậy, Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo ấy:
-- Này Tỷ-kheo, nó không phải con bò đực. Nó chính là Ác ma muốn đến làm mờ mắt các ông.
7) Và Thế Tôn biết được: "Ðây là Ác ma", liền nói lên bài kệ cho Ác ma:

“Sights, feeling, and perception,
consciousness and what is chosen:
‘I am not this’ and ‘this is not mine’;
that’s how to lose interest in them.

Sắc, thọ, tưởng, hành, thức,
Cái ấy không phải tôi,
Cái ấy không của tôi,
Như vậy đây ly tham,

When you’re detached, secure,
all fetters transcended,
though Māra and his army chase everywhere
they never find you.”

Ly tham vậy, tâm an,
Mọi kiết sử siêu thoát,
Dầu tìm mọi xứ sở,
Ma quân không gặp được.

Then Māra … vanished right there.

8) Ác ma biết được: " Thế Tôn đã biết ta...", liền biến mất tại chỗ ấy.

SN 4.17 / SN i 112//SN i 251 Chaphassāyatanasutta - The Six Fields of Contact

At one time the Buddha was staying near Vesālī, at the Great Wood, in the hall with the peaked roof. Now at that time the Buddha was educating, encouraging, firing up, and inspiring the mendicants with a Dhamma talk on the topic of the six fields of contact. And those mendicants were paying attention, focusing, concentrating wholeheartedly, and listening well.

SN 4.17 - VII. Xứ (S.i,112)

1) Một thời Thế Tôn trú ở Vesàli (Tỳ-xá-ly), Ðại Lâm, chỗ Trùng Các giảng đường.
2) Lúc bấy giờ, Thế Tôn đang thuyết pháp cho các Tỷ-kheo về sáu xúc xứ, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ. Và các vị Tỷ-kheo ấy hết sức chú tâm, hết sức chú ý, tập trung mọi tư tưởng, lóng tai nghe pháp.

Then Māra thought: “This ascetic Gotama is educating, encouraging, firing up, and inspiring the mendicants with a Dhamma talk on the topic of the six fields of contact. And those mendicants are paying attention, focusing, concentrating wholeheartedly, and listening well. Why don’t I go and pull the wool over their eyes?” Then Māra the Wicked went up to the Buddha and made a terrifyingly loud noise close by him. It seemed as if the earth were shattering. Then one of the mendicants said to another: “Mendicant, mendicant, it seems like the earth is shattering!” When this was said, the Buddha said to that mendicant: “Mendicant, that’s not the earth shattering. That’s Māra the Wicked come to pull the wool over your eyes!” Then the Buddha, knowing that this was Māra the Wicked, addressed him in verse:

3) Rồi Ác ma suy nghĩ: "Sa-môn Gotama này đang thuyết pháp cho các Tỷ- kheo về sáu xúc xứ, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ. Và các Tỷ-kheo ấy hết sức chú tâm, hết sức chú ý, tập trung mọi tâm tư, lắng tai nghe pháp. Vậy ta hãy đi đến Sa-môn Gotama và làm mờ mắt các Tỷ-kheo ấy".
4) Rồi Ác ma đi đến Thế Tôn; sau khi đến, Ác ma hét lên một tiếng to lớn, khủng khiếp, dễ sợ, như đất bị nứt vỡ.
5) Rồi một Tỷ-kheo nói với một Tỷ-kheo khác:
-- Này Tỷ-kheo, Tỷ-kheo, hình như quả đất này bị nứt vỡ.
6) Khi nghe nói vậy, Thế Tôn nói với Tỷ-kheo ấy :
-- Này Tỷ-kheo, không phải đất nứt vỡ. Ðó là Ác ma đi đến để làm mờ mắt các Ông.
7) Rồi Thế Tôn biết được: "Ðây là Ác ma", liền nói bài kệ cho Ác ma:

“Sights, sounds, tastes, smells,
touches, and thoughts, the lot of them—
this is the dreadful bait
that the world’s stupefied by.

Sắc, thanh, vị và hương,
Cùng toàn bộ xúc, pháp,
Là thế vật rùng rợn,
Làm mê loạn ở đời.

But a mindful disciple of the Buddha
has transcended all that.
Having gone beyond Māra’s domain,
they shine like the sun.”

Ðệ tử bậc Chánh Giác,
Chánh niệm, vượt khỏi chúng,
Vượt thế lực Ác ma,
Như mặt trời sáng chói.

Then Māra … vanished right there.

8) Rồi Ác ma biết được: "Thế Tôn đã biết ta...", liền biến mất tại chỗ ấy.

SN 4.18 / SN i 113//SN i 252 - Piṇḍasutta - Alms Food

At one time the Buddha was staying in the land of the Magadhans near the brahmin village of Pañcasālā. Now at that time in Pañcasālā the young women were taking care of guests. Then the Buddha robed up in the morning and, taking his bowl and robe, entered Pañcasālā for alms. Now at that time Māra had possessed the brahmins and householders of Pañcasālā, so that they thought: “Don’t let the ascetic Gotama get any alms!”

SN 4.18 - VIII. Ðoàn Thực (S.i,113)

1) Một thời Thế Tôn trú ở Magadha, tại làng Bà-la-môn tên là Pancasàlà.
2) Lúc bấy giờ, tại làng Bà-la-môn tên là Pancasàlà, lễ trao đổi tặng vật giữa nam nữ thanh niên đang được xảy ra.
3) Rồi Thế Tôn đắp y, vào buổi sáng, cầm y bát đi vào làng Bà-la- môn Pancasàlà để khất thực.
4) Lúc bấy giờ, các Bà-la-môn gia chủ ở Pancasàlà bị Ác ma xâm nhập và quyết định: "Chớ để Sa-môn Gotama nhận được đồ ăn khất thực".

Then the Buddha left the village with his bowl as clean-washed as it was when he entered for alms. Then Māra the Wicked went up to the Buddha and said to him: “Well, ascetic, did you get any alms?” “Wicked One, did you make sure I didn’t get any alms?” “Well then, sir, let the Buddha enter Pañcasālā a second time for alms. I’ll make sure you get alms.”

5) Rồi Thế Tôn đi vào làng Bà-la-môn tên Pancasàlà để khất thực với bình bát rửa sạch như thế nào, cũng đã trở về cùng với bình bát được rửa sạch như vậy.
6) Rồi Ác ma đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói với Thế Tôn:
-- Này Sa-môn, Ngài có nhận được đồ ăn khất thực không?
7) -- Này Ác ma, có phải Ông làm cho Ta không nhận được đồ ăn khất thực?
8) -- Vâng bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy đi vào làng Bà-la-môn Pancasàlà một lần thứ hai nữa. Và tôi sẽ làm để Thế Tôn nhận được đồ ăn khất thực

“Māra’s made bad karma
in attacking the Realized One.
Wicked One, do you imagine that
your wickedness won’t bear fruit?

(Thế Tôn):
Ác ma làm điều ác,
Ðể tấn công Như Lai,
Này Ác ma, vì sao,
Ông có thể nghĩ rằng,
Ðiều ác Ông hại Ta,
Sẽ không có kết quả.

We who have nothing
live so very happily.
We’ll feed on rapture,
like the gods of streaming radiance.”

Chúng ta sống sung sướng,
Những người không có gì,
Như chư Thiên Quang Âm,
Như chư Thiên Quang Âm,
Có hào quang sáng chói,
Lấy hỷ làm đồ ăn.

Then Māra the Wicked, thinking, “The Buddha knows me! The Holy One knows me!” miserable and sad, vanished right there.

9) Rồi Ác ma biết được: " Thế Tôn đã biết ta...", liền biến mất tại chỗ ấy.

webmasters: Nguyễn Văn Hoà & Minh Hạnh

 | | trở về đầu trang | Home page |