SN 3.1 - Daharasutta

So I have heard.

At one time the Buddha was staying near Sāvatthī in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s monastery.

I. Tuổi Trẻ (S.i,68)

1) Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Thắng Lâm), tại vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc).

Then King Pasenadi of Kosala went up to the Buddha, and exchanged greetings with him. When the greetings and polite conversation were over, he sat down to one side

2) Rồi vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) nước Kosala (Kiều-tát-la) đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên

he sat down to one side and said to the Buddha:

“Does Master Gotama claim to have awakened to the supreme perfect awakening?”

3) Ngồi xuống một bên, vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn:

-- Tôn giả Gotama có tự cho mình đã chứng Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác không?

“If anyone should rightly be said to have awakened to the supreme perfect awakening, it’s me. For, great king, I have awakened to the supreme perfect awakening.”

4) -- Thưa Ðại vương, nếu có ai có thể nói một cách chơn chánh là mình đã chứng Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, thời người ấy phải chính là Ta. Thưa Ðại vương, Ta đã chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

“Well, there are those ascetics and brahmins who lead an order and a community, and teach a community. They’re well-known and famous religious founders, regarded as holy by many people. That is, Pūraṇa Kassapa, Makkhali Gosāla, Nigaṇṭha Nāṭaputta, Sañjaya Belaṭṭhiputta, Pakudha Kaccāyana, and Ajita Kesakambala. I also asked them whether they claimed to have awakened to the supreme perfect awakening, but they made no such claim. So why do you, given that you’re so young in age and newly gone forth?”

5) -- Thưa Tôn giả Gotama, có những vị Sa-môn, Bà-la-môn là vị hội chủ, vị giáo trưởng, vị sư trưởng giáo hội, có tiếng tốt, có danh vọng, khai tổ giáo phái, được quần chúng tôn sùng. Như ngài Purana Kassapa, Makkali Gosàla, Nigantha Nàtaputta, Sanjaya Belatthiputta, Kakudha Kaccàyana, Ajita Kesakambala. Khi con hỏi các vị ấy: "Có tự xem là đã chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không?", thời họ đã trả lời, không tự xem mình đã chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vậy làm sao Tôn giả Gotama, trẻ tuổi, sanh sau đẻ muộn, và chỉ mới xuất gia lại tự cho mình như vậy?

“Great king, these four things should not be looked down on or disparaged because they are young. What four?

6) -- Thưa Ðại vương, có bốn loại trẻ tuổi không nên khinh thường, hay không nên miệt thị vì họ là trẻ. Thế nào là bốn?

An aristocrat, a snake, a fire, and a mendicant. These four things should not be looked down on or disparaged because they are young.”

-- Thưa Ðại vương, Khattiya trẻ tuổi không nên khinh thường hay không nên miệt thị vì họ là trẻ. Thưa Ðại vương, con rắn trẻ tuổi không nên khinh thường hay không nên miệt thị vì chúng là trẻ. Thưa Ðại vương, ngọn lửa trẻ tuổi không nên khinh thường hay không nên miệt thị vì chúng là trẻ. Thưa Ðại vương, Tỷ-kheo trẻ tuổi không nên khinh thường hay không nên miệt thị vì họ là trẻ.

^^^^

Thưa Ðại vương, bốn loại trẻ tuổi này không nên khinh thường hay không nên miệt thị vì chúng là trẻ.

That is what the Buddha said. Then the Holy One, the Teacher, went on to say:

7) Thế Tôn nói như vậy. Nói xong, bậc Thiện Thệ lại nói thêm như sau:

“A man should not despise
an aristocrat of impeccable lineage,
high-born and famous,
just because they’re young.
For it’s possible that that lord of men,
as aristocrat, will gain the throne.
And in his anger he’ll execute a royal punishment,
and have you violently beaten.
Hence you should avoid him
for the sake of your own life.

8) Sanh dòng Sát-đế-lỵ,
Thuộc quý tộc, danh xưng,
Chớ khinh thường là trẻ,
Chớ miệt thị là nhỏ.
Vị Sát-đế-lỵ ấy,
Ðến thời lên ngôi vua,
Làm chúa tể loài Người,
Trị vì cả quốc độ.
Vị ấy nếu phẫn nộ,
Dùng vương phạt gia hình,
Ai bảo tồn mạng mình,
Hãy tránh né vị ấy.

Whether in village or wilderness,
wherever a serpent is seen,
a man should not look down on it
or despise it for its youth.
With its rainbow of colors,
the snake of fiery breath glides along.
It lashes out and bites the fool,
both men and women alike.
Hence you should avoid it
for the sake of your own life.

9) Ở làng hay là rừng,
Có thấy rắn bò qua,
Chớ khinh thường rắn trẻ,
Chớ miệt thị rắn nhỏ,
Cao thấp hình sai biệt.
Rắn sống đầy nhiệt khí,
Bị tấn công, nó cắn,
Kẻ ngu cả nam nữ,
Ai bảo tồn mạng mình,
Hãy tránh né loài rắn.

A fire devours a huge amount,
a conflagration with a blackened trail.
A man should not look down on it
just because it’s young.
For once it gets fuel
it’ll become a huge conflagration.
It’ll lash out and burn the fool,
both men and women alike.
Hence you should avoid it
for the sake of your own life.

10) Lửa cháy đầy khát vọng,
Lửa đốt thiêu, đốt cháy,
Chớ khinh thường lửa trẻ,
Chớ miệt thị lửa nhỏ.
Lửa được đồ bén cháy,
Liền cháy to, cháy lớn,
Bị tấn công, lửa đốt,
Kẻ ngu cả nam nữ,
Ai bảo tồn mạng mình,
Hãy tránh né lửa cháy.

When a forest is burned by fire,
a conflagration with a blackened trail,
the shoots will spring up there again,
with the passing of the days and nights.

11) Khu rừng bị lửa đốt,
Lửa đốt thiêu, đốt cháy,
Sau nhiều đêm và ngày,
Rễ mầm lại mọc lên.

But if a mendicant endowed with ethics
burns you with their power,
you’ll have no sons or cattle,
nor will your heirs find wealth.
Childless and heirless you become,
like a palm-tree stump.

12) Còn Tỷ-kheo trẻ giới,
Nồng cháy với nhiệt tình,
Nhưng không con, không cái,
Không của cải truyền thừa,
Không con, không thừa tự,
Như thân cây tala.

That’s why an astute person,
seeing what’s good for themselves,
would always treat these properly:
a snake, a conflagration,
a famous aristocrat,
and a mendicant endowed with ethics.”

13) Do vậy, người hiền trí,
Tự thấy hạnh phúc mình,
Ðối với rắn và lửa
Danh xưng Sát-đế-lỵ,
Vị Tỷ-kheo trì giới,
Với bốn vị kể trên,
Hãy biết cách cư xử,
Chơn chánh và tốt đẹp.

When this was said, King Pasenadi of Kosala said to the Buddha:

“Excellent, sir! Excellent! As if he was righting the overturned, or revealing the hidden, or pointing out the path to the lost, or lighting a lamp in the dark so people with good eyes can see what’s there, so too the Buddha has made the teaching clear in many ways. I go for refuge to the Buddha, to the teaching, and to the mendicant Saṅgha. From this day forth, may the Buddha remember me as a lay follower who has gone for refuge for life.”

14) Khi nghe nói vậy, vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn:

-- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Bạch Thế Tôn, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y chúng Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.

SN 3.2 - Purisasutta - A Man

At Sāvatthī.

Then King Pasenadi of Kosala went up to the Buddha, bowed, sat down to one side, and said to the Buddha: “Sir, how many things arise inside a person for their harm, suffering, and discomfort?”

II. Người (S.i,70)

1) Tại tịnh xá ở Sàvatthi.

2) Rồi vua Pasenadi nước Kosala, đi đến Thế Tôn, sau khi đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

“Great king, three things arise inside a person for their harm, suffering, and discomfort.

What three? …

3) Ngồi xuống một bên, vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn:

-- Có bao nhiêu loại pháp, bạch Thế Tôn, khi khởi lên trong nội tâm của một người, sẽ đưa lại bất lợi, khổ não và bất an cho người ấy?

Greed, hate, and delusion. These three things arise inside a person for their harm, suffering, and discomfort.” That is what the Buddha said.

4) -- Thưa Ðại vương có ba loại pháp khi khởi lên trong nội tâm của một người, sẽ đưa lại bất lợi, khổ não và bất an cho người ấy. Thế nào là ba? Tham pháp, thưa Ðại vương, khi khởi lên trong nội tâm của một người, sẽ đưa lại bất lợi, khổ não và bất an cho người ấy. Sân pháp, thưa Ðại vương, khi khởi lên trong nội tâm của một người, sẽ đưa lại bất lợi, khổ não và bất an trú cho người ấy. Si pháp, thưa Ðại vương, khi khởi lên trong nội tâm của một người sẽ đưa lại bất lợi, khổ não và bất an cho người ấy. Ba pháp ấy, thưa Ðại vương, khi khởi lên trong nội tâm của một người, sẽ đưa lại bất lợi, khổ não và bất an cho người ấy.

“When greed, hate, and delusion,
have arisen inside oneself,
they harm a person of wicked heart,
as a reed is destroyed by its own fruit.”

5) Tham, sân, si ba pháp,
Là ác tâm cho người,
Chúng di hại tự ngã,
Chúng tác thành tự ngã,
Như vỏ và lõi cây,
Tự tác thành trái cây.

SN 3.3 Jarāmaraṇasutta - Old Age and Death

At Sāvatthī.

Seated to one side, King Pasenadi said to the Buddha:

“Sir, for someone who has been reborn, is there anything apart from old age and death?”

III. Vua (S.i,71)

1) Ở tại Sàvatthi.

2) Ngồi một bên, vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn:

-- Bạch Thế Tôn, có cái gì sanh mà không già và không chết không?

“Great king, for someone who has been reborn, there’s nothing apart from old age and death.

Even for well-to-do aristocrats, brahmins, or householders—rich, affluent, and wealthy, with lots of gold and silver, lots of property and assets, and lots of money and grain—when they’re born, there’s nothing apart from old age and death.

3) -- Thưa Ðại vương, không có cái gì sanh mà không già và không chết.

4) Thưa Ðại vương, dầu cho những vị Sát-đế-lỵ là những bậc đại phú, phú hào, có tiền của lớn, có tài sản lớn, có nhiều vàng và bạc, có nhiều tài sản vật dụng, có nhiều tiền của, ngũ cốc. Các vị ấy có sanh cũng không thoát khỏi già và chết.

.. .

5) Thưa Ðại vương, dầu cho những vị Bà-la-môn là những bậc đại phú, dầu cho những gia chủ là những bậc đại phú, phú hào, có tiền của lớn, có tài sản lớn, có nhiều vàng bạc, có nhiều tài sản vật dụng, có nhiều tiền của, ngũ cốc, các vị ấy có sanh cũng không thoát khỏi già và chết.

Even for mendicants who are perfected—who have ended the defilements, completed the spiritual journey, done what had to be done, laid down the burden, achieved their own goal, utterly ended the fetters of rebirth, and are rightly freed through enlightenment—their bodies are liable to break up and be laid to rest.That is what the Buddha said.

6) Thưa Ðại vương, cho đến các vị Tỷ-kheo, những bậc A-la-hán, đã đoạn tận các lậu hoặc, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích tối hậu, đã đoạn được hữu kiết sử, đã được giải thoát nhờ chánh trí, cho đến thân này của các vị ấy cũng phải bị hủy hoại, cũng phải bị từ bỏ.

“The fancy chariots of kings wear out,
and this body too gets old.
But goodness never gets old:
so the true and good proclaim.”

7) Xe vua dầu mỹ diệu,
Rồi cũng phải hư hoại,
Thân thể này cũng vậy,
Rồi cũng phải già yếu.
Chỉ thiện pháp không già,
Bậc thiện nhân nói vậy.

SN 3.4 Piyasutta - Loved

At Sāvatthī.

Seated to one side, King Pasenadi said to the Buddha:

“Just now, sir, as I was in private retreat this thought came to mind. ‘Who are those who love themselves? And who are those who don’t love themselves?’ Then it occurred to me:

IV. Thân Ái (S.i,71)

1) Ở tại Sàvatthi.

2) Ngồi xuống một bên, vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn:

-- Bạch Thế Tôn, ở đây khi con đang ngồi yên tịnh một mình, tư tưởng này khởi lên nơi con: "Ðối với những ai, tự ngã là thân ái? Ðối với những ai, tự ngã là kẻ thù?" Và rồi bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau:

‘Those who do bad things by way of body, speech, and mind don’t love themselves. Even though they may say: “I love myself”, they don’t really. Why is that? It’s because they treat themselves like an enemy. That’s why they don’t love themselves.

3) "Những ai sống thân làm ác, sống miệng nói ác, sống ý nghĩ ác; đối với người ấy, tự ngã là kẻ thù. Dầu họ có nói: "Tự ngã là thân ái của chúng tôi", nhưng tự ngã đối với họ là kẻ thù. Vì sao vậy? Những gì kẻ thù làm cho kẻ thù, tự ngã của họ làm cho tự ngã của họ như vậy. Do vậy, đối với họ, tự ngã là kẻ thù.

Those who do good things by way of body, speech, and mind do love themselves. Even though they may say: “I don’t love myself”, they do really. Why is that? It’s because they treat themselves like a loved one. That’s why they do love themselves.’”

4) Những ai sống thân làm thiện, sống miệng nói thiện, sống ý nghĩ thiện, đối với họ, tự ngã là thân ái. Dầu cho họ có nói: "Tự ngã là kẻ thù của chúng tôi", nhưng tự ngã đối với họ là thân ái. Vì sao vậy? Những gì kẻ thân ái làm cho kẻ thân ái, tự ngã của họ làm cho tự ngã của họ như vậy. Do vậy, đối với họ, tự ngã là kẻ thân ái."

“That’s so true, great king! That’s so true!” said the Buddha. And he repeated the king’s statement, adding:

5) -- Như vậy là phải, thưa Ðại vương. Như vậy là phải, thưa Ðại vương. Thưa Ðại vương, những ai sống thân làm ác... Do vậy, đối với họ, tự ngã là kẻ thù. Thưa Ðại vương, những ai sống thân làm thiện... Do vậy, đối với họ, tự ngã là kẻ thân ái.

“If you regard yourself as loved,
you wouldn’t yoke yourself to wickedness.
For happiness is not easy to find
by someone who does bad deeds.
When you’re seized by the Terminator
as you give up your human life,
what can you call your own?
What do you take when you go?
What goes with you,
like a shadow that never leaves?
Both the good and the bad
that a mortal does in this life
is what they can call their own.
That’s what they take when they go.
That’s what goes with them,
like a shadow that never leaves.
That’s why you should do good,
investing in the future life.
The good deeds of sentient beings
support them in the next world.”

6) Nếu những ai biết được,
Tự ngã là thân ái,
Họ sẽ không liên hệ,
Với các điều ác hạnh.
Kẻ làm điều ác hạnh,
Khó được chơn hạnh phúc,
Bị thần chết cầm tù,
Từ bỏ thân làm người.
Kẻ có nghiệp như vậy,
Cái gì là của mình?
Lấy cái gì đem đi?
Cái gì theo dõi họ,
Như bóng theo dõi hình?
Ở đây kẻ bị chết,
Làm các nghiệp công đức,
Làm các nghiệp ác đức,
Lấy cả hai đem đi.
Cả hai của kẻ ấy,
Như bóng theo dõi hình.
Cả hai theo kẻ ấy,
Do vậy hãy làm lành,
Tích lũy cho đời sau,
Công đức cho đời sau,
Là hậu cứ cho người.

SN 3.5 Attarakkhitasutta - Self-Protected

At Sāvatthī. Seated to one side, King Pasenadi said to the Buddha:

V. Tự Bảo Hộ (S.i,72)

1) Ngồi một bên, vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn:

“Just now, sir, as I was in private retreat this thought came to mind. ‘Who are those who protect themselves? And who are those who don’t protect themselves?’ Then it occurred to me:

2) -- Ở đây, bạch Thế Tôn, trong khi con đang ngồi yên tịnh một mình, tư tưởng này khởi lên nơi con: "Ðối với những ai, tự ngã được bảo vệ? Ðối với những ai, tự ngã không được bảo vệ?" Và rồi bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau:

‘Those who do bad things by way of body, speech, and mind don’t protect themselves. Even if they’re protected by a company of elephants, cavalry, chariots, or infantry, they still don’t protect themselves. Why is that? Because such protection is exterior, not interior. That’s why they don’t protect themselves. Those who do good things by way of body, speech, and mind do protect themselves.

3) "Những ai thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác, những người ấy không bảo vệ tự ngã. Dầu cho họ được tượng binh bảo vệ, hay được mã binh bảo vệ, hay được xa binh bảo vệ, hay được bộ binh bảo vệ; đối với những người ấy, tự ngã không được bảo vệ. Vì cớ sao? Vì sự bảo vệ như vậy là bảo vệ ở ngoài, không phải sự bảo vệ bên trong. Cho nên đối với những người ấy, tự ngã không được bảo vệ.

Even if they’re not protected by a company of elephants, cavalry, chariots, or infantry, they still protect themselves. Why is that? Because such protection is interior, not exterior. That’s why they do protect themselves.’”

4) Và những ai thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện, những người ấy bảo vệ tự ngã. Dầu cho họ không được tượng binh bảo vệ, hay không được mã binh bảo vệ, hay không được xa binh bảo vệ, hay không được bộ binh bảo vệ; đối với những người ấy, tự ngã được bảo vệ. Vì cớ sao? Vì sự bảo vệ như vậy là sự bảo vệ bên trong, không phải sự bảo vệ ở ngoài. Cho nên đối với những người ấy, tự ngã được bảo vệ." “That’s so true, great king! That’s so true!” said the Buddha. And he repeated the king’s statement, adding:

“Restraint of the body is good;
restraint of speech is good;
restraint of mind is good;
restraint everywhere is good.
A sincere person, restrained everywhere,
is said to be ‘protected’.”

5) Lành thay bảo vệ thân!
Lành thay bảo vệ lời!
Lành thay bảo vệ ý!
Lành thay tổng bảo vệ!
Kẻ liêm sỉ bảo vệ,
Tổng quát và cùng khắp,
Vị ấy có tên gọi,
Là vị được bảo vệ.

SN 3.6 - Appakasutta - Few

At Sāvatthī.

Seated to one side, King Pasenadi said to the Buddha:

“Just now, sir, as I was in private retreat this thought came to mind. ‘Few are the sentient beings in the world who, when they obtain luxury possessions, don’t get indulgent and negligent, giving in to greed for sensual pleasures, and doing the wrong thing by others. There are many more who, when they obtain luxury possessions, do get indulgent and negligent, giving in to greed for sensual pleasures, and doing the wrong thing by others.’”

VI. Thiểu Số (S.i,73)

1) Ở tại Sàvatthi.

2) Ngồi xuống một bên, vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn:

-- Ở đây, bạch Thế Tôn, trong khi con đang ngồi yên tịnh một mình, tư tưởng này khởi lên nơi con: "Ít thay là những người trong đời này, sau khi được tài sản phong phú, dồi dào lại có thể không bị lôi cuốn, không bị chìm đắm, không bị say mê trong các dục và không có những hành vi không tốt đẹp đối với các người khác. Trái lại, thật là nhiều thay, những người trong đời này, sau khi được tài sản phong phú, dồi dào, có thể bị lôi cuốn, bị chìm đắm, bị say mê trong các dục và có những hành vi không tốt đẹp đối với các người khác.

“That’s so true, great king! That’s so true!” said the Buddha. And he repeated the king’s statement, adding:

3) -- Thật sự là vậy, thưa Ðại vương. Thật sự là vậy, thưa Ðại vương. Ít thay là những người trong đời này, sau khi được tài sản phong phú, dồi dào, lại có thể không bị lôi cuốn, không bị chìm đắm, không bị say mê trong các dục và không có những hành vi không tốt đẹp đối với người khác. Trái lại, thật là nhiều thay những người trong đời này, sau khi được tài sản phong phú, dồi dào, có thể bị lôi cuốn, bị chìm đắm, bị say mê trong các dục và có những hành vi không tốt đẹp đối với các người khác.

“Full of desire for possessions and pleasures,
greedy, stupefied by sensual pleasures;
they don’t notice that they’ve gone too far,
like deer falling into a trap set out.
It’ll be bitter later on;
for the result will be bad for them.”

4) Loài người bị đắm say,
Trong tài sản, trong dục,
Họ tham lam, điên dại,
Trong các dục ở đời,
Không ý thức rõ ràng,
Ðã quá độ say mê,
Chẳng khác gì con nai,
Không thấy đặt bẫy sập,
Về sau họ khổ đau,
Chịu quả báo ác nghiệp.

SN 3.7 - Aḍḍakaraṇasutta - Judgment

At Sāvatthī. Seated to one side, King Pasenadi said to the Buddha:

VII. Xử Kiện (S.i,74)

1) Ngồi xuống một bên, vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn:

“Sir, when I’m sitting in judgment I see well-to-do aristocrats, brahmins, and householders—rich, affluent, and wealthy, with lots of gold and silver, lots of property and assets, and lots of money and grain. But they tell deliberate lies for the sake of sensual pleasures. Then it occurred to me: ‘Enough with passing judgment today. Now my dear will be known by the judgments he makes.’”

2) -- Ở đây, bạch Thế Tôn, con ngồi trong pháp đường (để xử kiện), con thấy chính các vị Sát-đế-lỵ đại phú, các Bà-la-môn đại phú, các gia chủ đại phú, phú hào, có tiền của lớn, có tài sản lớn, có nhiều vàng và bạc, có nhiều tài sản vật dụng, có nhiều tiền của, ngũ cốc; vì nhân các dục, vì duyên các dục, vì nguyên nhân các dục, đã dụng ý nói lời vọng ngôn. Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Nay ta đã chán ngấy xử kiện. Nay hãy để cho vị hiền diện (bhadramukha) được có danh tiếng nhờ tài xử kiện."

“That’s so true, great king! That’s so true! Those who are well-to-do aristocrats, brahmins, and householders tell deliberate lies for the sake of sensual pleasures. That is for their lasting harm and suffering.” That is what the Buddha said. …

3) -- Thưa Ðại vương, các vị Sát-đế-lỵ đại phú, các vị Bà-la-môn đại phú, các vị gia chủ đại phú, phú hào có tiền của lớn, có tài sản lớn, có nhiều vàng và bạc, có nhiều tài sản vật dụng, có nhiều tiền của, ngũ cốc; vì nhân các dục, vì duyên các dục, vì nhân duyên các dục, đã dụng ý nói lên lời vọng ngôn. Do vậy họ sẽ gánh chịu bất lợi, đau khổ trong một thời gian dài.

“Full of desire for possessions and pleasures,
greedy, stupefied by sensual pleasures;
they don’t notice that they’ve gone too far,
like fish entering a net set out.
It’ll be bitter later on;
for the result will be bad for them.”

4) Loài Người bị đắm say,
Trong tài sản, trong dục,
Họ tham lam, điên dại,
Trong các dục ở đời.
Không ý thức rõ ràng,
Ðã quá độ say mê,
Chẳng khác gì con cá,
Không thấy đặt bẫy sập.
Về sau họ khổ đau,
Chịu quả báo ác nghiệp.

SN 3.8 - Mallikāsutta - With Queen Mallikā

At Sāvatthī.

Now at that time King Pasenadi of Kosala was upstairs in the stilt longhouse together with Queen Mallikā.

VIII. Mallikà: Mạt-lỵ (S.i,75)

1) Tại Sàvatthi.

2) Lúc bấy giờ vua Pasenadi nước Kosala có mặt với hoàng hậu Mallikà, trên lầu thượng (hoàng cung).

Then the king said to the queen:

“Mallikā, is there anyone more dear to you than yourself?”

3) Rồi vua Pasenadi nước Kosala nói với hoàng hậu Mallikà:

-- Này Mallikà, có ai khác thân ái với hoàng hậu hơn là tự ngã của hoàng hậu.

“No, great king, there isn’t. But is there anyone more dear to you than yourself?” “For me also, Mallikā, there’s no-one.”

4) -- Thưa Ðại vương, không có ai khác thân ái với thiếp hơn là tự ngã của thiếp. Nhưng thưa Ðại vương, có ai khác thân ái với Ðại vương hơn là tự ngã của Ðại vương?

^^^^

5) -- Này Mallikà, không có ai khác thân ái với ta hơn là tự ngã của ta.

Then King Pasenadi of Kosala came downstairs from the stilt longhouse, went to the Buddha, bowed, sat down to one side, and told him what had happened.

6) Rồi vua Pasenadi nước Kosala bước xuống lầu và đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn:

^^^^

7) -- Ở đây, bạch Thế Tôn, con đi lên lầu thượng (của hoàng cung) với hoàng hậu Mallikà và con nói với hoàng hậu Mallikà:

" -- Này Mallikà, có ai khác thân ái với hoàng hậu hơn là tự ngã của hoàng hậu?".

^^^^

Khi được nói vậy, bạch Thế Tôn, hoàng hậu Mallikà trả lời với con:

" -- Thưa Ðại vương, không có ai khác thân ái với thiếp hơn là tự ngã của thiếp. Nhưng thưa Ðại vương, có ai khác thân ái với Ðại vương hơn là tự ngã của Ðại vương?". Ðược nói vậy, bạch Thế Tôn, con trả lời cho hoàng hậu Mallikà:

" -- Này Mallikà, không có ai khác thân ái với ta hơn là tự ngã của ta".

Then, knowing the meaning of this, on that occasion the Buddha recited this verse:

“Having explored every quarter with the mind,
one finds no-one dearer than oneself.
Likewise for others, each holds themselves dear.
So one who loves themselves would not harm others.”

8) Rồi Thế Tôn, sau khi biết rõ ý nghĩa này, trong lúc ấy liền nói lên bài kệ này:

Tâm ta đi cùng khắp,
Tất cả mọi phương trời,
Cũng không tìm thấy được,
Ai thân hơn tự ngã.
Tự ngã đối mọi người,
Quá thân ái như vậy.
Vậy ai yêu tự ngã,
Chớ hại tự ngã người.

SN 3.9 - Yaññasutta - Sacrifice

At Sāvatthī.

Now at that time a big sacrifice had been set up for King Pasenadi of Kosala. Five hundred chief bulls, five hundred bullocks, five hundred heifers, five hundred goats, and five hundred rams had been led to the pillar for the sacrifice.

IX. Tế Ðàn (S.i,75)

1) Tại Sàvatthi.

2) Lúc bấy giờ, vua Pasenadi nước Kosala tổ chức một đại tế đàn. Năm trăm con bò đực, năm trăm con bò con đực, năm trăm con bò con cái, năm trăm con dê, và năm trăm con cừu (urabbha) được dắt đến trụ tế lễ để làm lễ tế đàn.

His bondservants, employees, and workers did their jobs under threat of punishment and danger, weeping with tearful faces.

3) Và có những người nô tỳ, hay những người phục dịch, hay những người lao động, bị hình phạt thúc đẩy, bị sợ hãi thúc đẩy,với nước mắt đầy mặt, than khóc và làm các công việc chuẩn bị cho lễ tế đàn.

Then several mendicants robed up in the morning and, taking their bowls and robes, entered Sāvatthī for alms. Then, after the meal, when they returned from alms-round, they went up to the Buddha, bowed, sat down to one side, and told him what was happening.

4) Rồi rất nhiều Tỷ-kheo, vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi vào Sàvatthi để khất thực; khất thực xong, sau bữa ăn, trên con đường đi khất thực trở về, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

^^^^

5) -- Ở đây, bạch Thế Tôn, vua Pasenadi nước Kosala tổ chức một đại lễ tế đàn. Năm trăm con bò đực, năm trăm con bò con đực, năm trăm con bò con cái, năm trăm con dê, năm trăm con cừu được dắt đến trụ tế lễ để làm lễ tế đàn. Và có những người nô tỳ, hay những người phục dịch, hay những người lao công, bị hình phạt thúc đẩy, bị sợ hãi thúc đẩy, với nước mắt đầy mặt và than khóc, làm các công việc chuẩn bị cho lễ tế đàn.

Then, knowing the meaning of this, on that occasion the Buddha recited these verses:

“Horse sacrifice, human sacrifice,
the sacrifices of the ‘stick-casting’,
the ‘royal soma drinking’, and the ‘unbarred’—
these huge violent sacrifices yield no great fruit.
The great sages of good conduct
don’t attend sacrifices
where goats, sheep, and cattle
and various creatures are killed.
But the great sages of good conduct
do attend non-violent sacrifices
of regular family tradition,
where goats, sheep, and cattle,
and various creatures aren’t killed.
A clever person should sacrifice like this,
for this sacrifice is very fruitful.
For a sponsor of sacrifices like this,
things get better, not worse.
Such a sacrifice is truly abundant,
and even the deities are pleased.”

6) Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu rõ ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên bài kệ:

Lễ cúng ngựa, cúng người,
Quăng cọc, rượu chiến thắng,
Không chốt cửa, đại lễ,
Chúng không phải quả lớn.
Chỗ nào có giết hại,
Dê, cừu và trâu bò,
Lễ tế đàn như vậy,
Bậc Ðại Thánh không đi.
Tế đàn không rộn ràng,
Cúng dường được thường hằng,
Không có sự giết hại,
Dê, cừu và trâu bò,
Lễ tế đàn như vậy,
Bậc Ðại Thánh sẽ đi.
Bậc trí tế như vậy,
Tế đàn vậy, quả lớn.
Ai tế lễ như vậy,
Chỉ tốt hơn, không xấu,
Là tế đàn vĩ đại,
Ðược chư Thiên hoan hỷ.

SN 3.10 - Bandhanasutta - Shackles

Now at that time a large group of people had been put in shackles by King Pasenadi of Kosala—some in ropes, some in manacles, some in chains.

X. Triền Phược (S.i,76)

1) Lúc bấy giờ, vua Pasenadi nước Kosala đang bắt trói một số đông người. Một số người bị trói bằng dây, một số người bị trói bằng dây chuyền, một số người bị trói bằng kềm kẹp.

Then several mendicants robed up in the morning and, taking their bowls and robes, entered Sāvatthī for alms. Then, after the meal, when they returned from alms-round, they went up to the Buddha, bowed, sat down to one side, and told him what was happening.

2) Rồi một số đông Tỷ-kheo vào buổi sáng đắp y, cầm bát, đi vào Sàvatthi để khất thực. Ði khất thực xong, sau bữa ăn, trên con đường khất thực trở về, họ đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

^^^^

3) Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

-- Ở đây, bạch Thế Tôn, vua Pasenadi nước Kosala bắt trói một số đông người. Một số người bị trói bằng dây, một số người bị trói bằng dây chuyền, một số người bị trói bằng kềm kẹp.

Then, knowing the meaning of this, on that occasion the Buddha recited these verses:

“The sages say that shackle is not strong
that’s made of iron, wood, or knots.
But infatuation with jewels and earrings,
worry for your partners and children:
this the sages say is a strong shackle
that drags you down, tight, hard to escape.
They cut this too and go forth,
with no worries, having given up sensual pleasures.”

Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy nói lên bài kệ:

Bậc có trí nói rằng
Trói vậy không vững chắc,
Trói bằng sắt, dây gai,
Kềm kẹp bằng gỗ mộc;
Ðam mê các dục lạc,
Với châu báu, trang sức,
Và tâm tư tưởng vọng,
Hướng về con, về vợ.
Bậc có trí nói rằng
Trói vậy thật vững chắc.
Dầu trói buộc trì xuống,
Tế nhị và khó thoát,
Các vị chơn xuất gia,
Cắt đứt chúng làm đôi,
Không ước vọng mong cầu,
Từ bỏ mọi dục lạc.

Cập nhập ngày: Thứ Tư ngày 08-9-2021

webmasters: Minh Hạnh & Thiện Pháp, Thủy Tú & Phạm Cương


 | | trở về đầu trang | Home page |