31. Virtuous
So I have heard. At one time the Buddha was staying near Sāvatthī in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s monastery.
|
I. Với Người Thiện (S.i 16)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Thắng Lâm), tại vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc).
|
Then, late at night, several glorious deities of the Satullapa Group, lighting up the entire Jeta’s Grove, went up to the Buddha, bowed,
|
2) Rồi rất nhiều quần tiên Satullapa, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.
|
stood to one side, and recited this verse in the Buddha’s presence:
“Associate only with the virtuous!
Try to get close to the virtuous!
Understanding the true teaching of the good,
things get better, not worse.”
|
3) Ðứng một bên, một vị Thiên nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Hãy thân với người lành,
Hãy gần gũi người thiện,
Biết diệu pháp người hiền,
Ðược tốt hơn, không xấu.
|
Then another deity recited this verse in the Buddha’s presence:
“Associate only with the virtuous!
Try to get close to the virtuous!
Understanding the true teaching of the good,
wisdom is gained—but not from anyone else.”
|
4) Rồi một vị Thiên khác lại nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Hãy thân với người lành,
Hãy gần gũi người thiện,
Biết diệu pháp người hiền,
Ðược tuệ, không gì khác.
|
Then another deity recited this verse in the Buddha’s presence:
“Associate only with the virtuous!
Try to get close to the virtuous!
Understanding the true teaching of the good,
you don’t sorrow even among those who sorrow.”
|
5) Rồi một vị Thiên khác lại nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Hãy thân với người lành,
Hãy gần gũi người thiện,
Biết diệu pháp người hiền,
Không sầu, giữa sầu muộn.
|
Then another deity recited this verse in the Buddha’s presence:
“Associate only with the virtuous!
Try to get close to the virtuous!
Understanding the true teaching of the good,
you shine among your relatives.”
|
6) Rồi một vị Thiên khác lại nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Hãy thân với người lành,
Hãy gần gũi người thiện,
Biết diệu pháp người hiền,
Chúng sanh sanh thiện thú.
|
Then another deity recited this verse in the Buddha’s presence:
“Associate only with the virtuous!
Try to get close to the virtuous!
Understanding the true teaching of the good,
sentient beings go to a good place.”
|
8) Rồi một vị Thiên khác lại nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Hãy thân với người lành,
Hãy gần gũi người thiện,
Biết diệu pháp người hiền,
Chúng sanh thường hưởng lạc.
|
Then another deity recited this verse in the Buddha’s presence:
“Associate only with the virtuous!
Try to get close to the virtuous!
Understanding the true teaching of the good,
sentient beings live happily.”
Then another deity said to the Buddha: “Sir, who has spoken well?”
“You’ve all spoken well in your own way. However, listen to me also:
Associate only with the virtuous!
Try to get close to the virtuous!
Understanding the true teaching of the good,
you’re released from all suffering.”
That is what the Buddha said. Then those deities, knowing that the teacher approved, bowed and respectfully circled the Buddha, keeping him on their right, before vanishing right there.
|
9) Rồi một vị Thiên khác bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, trong tất cả vị ấy, ai đã nói lên một cách tốt đẹp?,
-- Về vấn đề này, tất cả các Ông đều nói lên một cách tốt đẹp. Tuy vậy, hãy nghe lời Ta nói:
Hãy thân với người lành,
Hãy gần gũi người thiện,
Biết diệu pháp người hiền,
Giải thoát mọi khổ đau.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Quần Tiên ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
|
32. Stinginess
At one time the Buddha was staying near Sāvatthī in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s monastery.
|
II. Xan Tham (Tạp, Ðại 2,354c) (Biệt Tạp, Ðại 2,473b) (S.i,18)
1) Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, Jetavana, tại vườn ông Anàthapindika.
|
Then, late at night, several glorious deities of the Satullapa Group, lighting up the entire Jeta’s Grove, went up to the Buddha, bowed, and stood to one side.
|
2) Rồi rất nhiều quần tiên Satullapa, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng, chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.
|
Standing to one side, one deity recited this verse in the Buddha’s presence:
“Because of stinginess and negligence
a gift is not given.
Wanting merit,
a smart person would give.”
|
3) Ðứng một bên, một vị Thiên nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Vì xan tham, phóng dật,
Như vậy không bố thí,
Ai ước mong công đức,
Có trí nên bố thí.
|
Then another deity recited these verses in the Buddha’s presence:
“When a miser fails to give because of fear,
the very thing they’re afraid of comes to pass.
The hunger and thirst
that a miser fears
hurt the fool
in this world and the next.
So you should dispel stinginess,
overcoming that stain, and give a gift.
The good deeds of sentient beings
support them in the next world.”
|
4) Rồi một vị Thiên khác nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Ðiều kẻ xan tham sợ,
Nên không dám bố thí,
Sợ ấy đến với họ,
Chính vì không bố thí.
Ðiều kẻ xan tham sợ,
Chính là đói và khát,
Kẻ ngu phải cảm thọ,
Ðời này và đời sau.
Vậy hãy chế xan tham,
Bố thí, nhiếp cấu uế,
Chúng sanh vững an trú,
Công đức trong đời sau.
|
Then another deity recited these verses in the Buddha’s presence:
“Among the dead they do not die,
those who, like fellow travelers on the road,
are happy to provide, though they have but little.
This is an ancient principle.
Some who have little are happy to provide,
while some who have much don’t wish to give.
An offering given from little
is multiplied a thousand times.”
|
5) Rồi một vị Thiên khác nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Không chết giữa người chết,
Như thiện hữu trên đường,
San sẻ lương thực hiếm,
Thường pháp là như vậy.
Kẻ ít, vui san sẻ,
Kẻ nhiều khó, đem cho,
Bố thí từ kẻ khó,
Ðong được ngàn đồng vàng.
|
Then another deity recited these verses in the Buddha’s presence:
“Giving what’s hard to give,
doing what’s hard to do;
the wicked don’t act like this,
for the teaching of the good is hard to follow.
That’s why the virtuous and the wicked
have different destinations after leaving this place.
The wicked go to hell,
while the virtuous are bound for heaven.”
Then another deity said to the Buddha: “Sir, who has spoken well?”
|
6) Rồi một vị Thiên khác nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Khó thay sự đem cho,
Khó thay làm hạnh ấy.
Kẻ ác khó tùy thuận,
Khó thay pháp bậc lành.
Do vậy kẻ hiền, ác,
Sanh thú phải sai khác,
Kẻ ác sanh địa ngục,
Người lành lên cõi trời.
|
“You’ve all spoken well in your own way. However, listen to me also:
A hundred thousand people making a thousand sacrifices
isn’t worth a fraction
of one who lives rightly, wandering for gleanings,
or one who supports their partner from what little they have.”
|
7) Rồi một vị Thiên khác bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, trong tất cả vị ấy, vị nào đã nói một cách tốt đẹp?
-- Về vấn đề này, tất cả các Ông đã nói một cách tốt đẹp. Tuy vậy hãy nghe Ta:
Sở hành vẫn chơn chánh,
Dầu phải sống vụn vặt,
Dầu phải nuôi vợ con,
Với đồ ăn lượm lặt,
Nhưng vẫn bố thí được,
Từ vật chứa ít ỏi,
Từ ngàn người bố thí,
Từ trăm ngàn vật cho,
Trị giá không ngang bằng,
Kẻ bố thí như vậy.
|
Then another deity addressed the Buddha in verse:
“Why doesn’t that sacrifice of theirs, so abundant and magnificent,
equal the value of a moral person’s gift?
How is it that a hundred thousand people making a thousand sacrifices
isn’t worth a fraction of what’s offered by such a person?”
|
8) Rồi một vị Thiên khác nói lên bài kệ này với Thế Tôn:
Vì sao họ bố thí,
Rộng lớn nhiều như vậy,
Trị giá không ngang bằng,
Kẻ nghèo, chơn bố thí?
Sao ngàn người bố thí,
Từ trăm ngàn vật cho,
Trị giá không ngang bằng,
Kẻ bố thí như vậy?
|
“Some give based on immorality—
after injuring, killing, and tormenting.
Such an offering—tearful, violent—
in no way equals the value of a moral person’s gift.
That’s how it is that a hundred thousand people making a thousand sacrifices
isn’t worth a fraction of what’s offered by such a person.”
|
9) Rồi Thế Tôn nói lên bài kệ này với vị Thiên ấy:
Có những người bố thí,
Một cách bất bình thường,
Sau khi chém và giết,
Mới làm vơi nỗi sầu.
Sự bố thí như vậy,
Ðầy nước mắt đánh đập,
Trị giá không ngang bằng,
Kẻ nghèo, chơn bố thí.
Từ ngàn người bố thí,
Từ trăm ngàn vật cho,
Trị giá không ngang bằng,
Kẻ bố thí như vậy.
|
33. Good
At Sāvatthī.
Then, late at night, several glorious deities of the Satullapa Group, lighting up the entire Jeta’s Grove, went up to the Buddha, bowed, and stood to one side.
|
III. Lành Thay (S.i,20)
1) Ở Sàvatthi.
2) Rồi rất nhiều quần tiên Satullapa, khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng, chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.
|
Standing to one side, one deity spoke these words of inspiration in the Buddha’s presence:
“Good, sir, is giving!
Because of stinginess and negligence
a gift is not given.
Wanting merit,
a smart person would give.”
|
3) Ðứng một bên, một vị Thiên nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:
Lành thay sự bố thí!
Kính thưa bậc Tôn giả.
Vì xan tham, phóng dật,
Như vậy không bố thí,
Ai ước mong công đức,
Có trí nên bố thí.
|
Then another deity spoke these words of inspiration in the Buddha’s presence:
“Good, sir, is giving!
Even when one has little, giving is good.
Some who have little are happy to provide,
while some who have much don’t wish to give.
An offering given from little
is multiplied a thousand times.”
|
4) Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:
Lành thay sự bố thí,
Kính thưa bậc Tôn giả!
Nhưng thật tốt lành thay,
Bố thí trong thiếu thốn!
Kẻ ít, vui san sẻ,
Kẻ nhiều khó, đem cho,
Bố thí từ kẻ khó,
Ðong được ngàn đồng vàng.
|
Then another deity spoke these words of inspiration in the Buddha’s presence:
“Good, sir, is giving!
Even when one has little, giving is good.
And it’s also good to give out of faith.
Giving and warfare are similar, they say,
for even a few of the good may conquer the many.
If a faithful person gives even a little,
it still brings them happiness in the hereafter.”
|
5) Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:
Lành thay sự bố thí,
Kính thưa bậc Tôn giả!
Nhưng thật tốt lành thay,
Bố thí trong thiếu thốn!
Lành thay sự bố thí,
Phát xuất từ lòng tin.
Bố thí và đánh nhau,
Ðược nói là bằng nhau,
Một số ít kẻ lành,
Thắng xa số đông người.
Ví dầu cho có ít,
Nhưng cho với lòng tin,
Do vậy được an lạc,
Vì lợi ích cho người.
|
Then another deity spoke these words of inspiration in the Buddha’s presence:
“Good, sir, is giving!
Even when one has little, giving is good.
And it’s also good to give out of faith.
And it’s also good to give legitimate wealth.
A man who gives legitimate wealth,
earned by his efforts and initiative,
has passed over Yama’s Vetaraṇi River;
that mortal arrives at celestial fields.”
|
6) Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:
Lành thay sự bố thí,
Kính thưa bậc Tôn giả!
Nhưng thật tốt lành thay,
Bố thí trong thiếu thốn!
Lành thay sự bố thí,
Phát xuất từ lòng tin!
Lành thay sự bố thí,
Với tài sản hợp pháp!
Ai là người bố thí,
Với tàn sản hợp pháp,
Do nỗ lực tinh tấn,
Nhờ vậy thâu hoạch được;
Vị ấy vượt dòng suối,
Thần chết Dạ-ma giới,
Sau khi chết được sanh,
Chỗ trú xứ chư Thiên.
|
Then another deity spoke these words of inspiration in the Buddha’s presence:
“Good, sir, is giving!
Even when one has little, giving is good.
And it’s also good to give out of faith.
And it’s also good to give legitimate wealth.
And it’s also good to give intelligently.
The Holy One praises giving intelligently
to those worthy of offerings here in the world of the living.
What’s given to these is very fruitful,
like seeds sown in a fertile field.”
|
7) Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:
Lành thay sự bố thí,
Kính thưa bậc Tôn giả!
Nhưng thật tốt lành thay,
Bố thí trong thiếu thốn!
Lành thay sự bố thí,
Phát xuất từ lòng tin!
Lành thay sự bố thí,
Với tài sản hợp pháp!
Lành thay sự bố thí,
Có suy tư sáng suốt!
Bố thí có suy tư,
Bậc Thiện Thệ tán thán.
Bố thí cho những vị,
Ðáng kính trọng ở đời,
Bố thí những vị ấy,
Ðược hưởng quả phước lớn,
Như hạt giống tốt đẹp,
Gieo vào ruộng tốt lành.
|
Then another deity spoke these words of inspiration in the Buddha’s presence:
“Good, sir, is giving!
Even when one has little, giving is good.
And it’s also good to give out of faith.
And it’s also good to give legitimate wealth.
And it’s also good to give intelligently.
And it’s also good to be restrained when it comes to living creatures.
One who lives without harming any living being
never does bad because of others’ blame;
for in that case they praise the coward, not the brave;
and the virtuous never do bad out of fear.”
|
8) Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:
Lành thay sự bố thí,
Kính thưa bậc Tôn giả!
Nhưng thật tốt lành thay,
Bố thí trong thiếu thốn!
Lành thay sự bố thí,
Phát xuất từ lòng tin!
Lành thay sự bố thí,
Với tài sản hợp pháp!
Lành thay sự bố thí,
Có suy tư sáng suốt!
Lành thay sự tự chế,
Ðối với các chúng sanh!
Giữa chúng sanh hữu tình,
Ai sống không làm hại,
Sợ người khác chỉ trích,
Không làm ác, bất thiện,
Họ khen kẻ nhút nhát,
Nhưng chỉ trích người hùng,
Chính sợ bị chỉ trích,
Người lành không làm ác.
|
Then another deity said to the Buddha: “Sir, who has spoken well?”
“You’ve all spoken well in your own way. However, listen to me also:
It’s true that giving is praised in many ways
but the path of the teaching is better than giving,
for in days old and older still,
the wise and virtuous even attained extinction.”
|
9) Rồi một vị Thiên khác bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, giữa chúng con, lời nói ai được tốt lành?
-- Về vấn đề này, tất cả các Ông đều nói lên một cách tốt đẹp. Tuy vậy hãy nghe lời của Ta:
Bố thí với lòng tin,
Ðược tán thán nhiều mặt,
Có pháp hơn bố thí,
Pháp ấy là Pháp cú.
Từ xưa, từ xa xưa,
Người lành, người chơn thiện,
Với trí tuệ sáng suốt,
Ðạt đến cảnh Niết-bàn. |
34. There’s None
At one time the Buddha was staying near Sāvatthī in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s monastery.
|
IV. Chúng Không Phải (S.i,22)
1) Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Thắng Lâm), tại vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc).
|
Then, late at night, several glorious deities of the Satullapa Group, lighting up the entire Jeta’s Grove, went up to the Buddha, bowed, and stood to one side.
|
2) Rồi rất nhiều quần tiên Satullapa, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.
|
Standing to one side, one deity recited this verse in the Buddha’s presence:
“Among humans there are no sensual pleasures that are permanent.
Here there are desirable things, bound to which,
drunk on which, there’s no coming back.
That person doesn’t return here from Death’s domain.”
“Misery is born of desire; suffering is born of desire;
when desire is removed, misery is removed;
when misery is removed, suffering is removed.”
“The world’s pretty things aren’t sensual pleasures.
Greedy intention is a person’s sensual pleasure.
The world’s pretty things stay just as they are,
but a sage removes desire for them.
You should give up anger and get rid of conceit,
and get past all the fetters.
Sufferings don’t torment the one who has nothing,
not clinging to name and form.
Reckoning’s given up, conceit rejected;
craving for name and form is cut off right here.
They’ve cut the ties, untroubled and free of hope.
Though gods and humans search for them
both here and beyond, they never find them,
not in heaven nor in any abode.”
“If neither gods nor humans see one freed in this way
either here nor beyond,” said Venerable Mogharāja,
“are those who revere that best of men,
who lives for the good of mankind, also worthy of praise?”
“The mendicants who revere one freed in this way
are also worthy of praise, Mogharāja,” said the Buddha.
“But having understood the teaching and given up doubt,
those mendicants can get over clinging.”
|
3) Ðứng một bên, một vị Thiên nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Giữa loài Người chúng ta,
Có các dục vô thường.
Ai hưởng chúng ở đời,
Bị chúng trói, chúng buộc.
Phóng dật đối với chúng,
Khó thoát ly với chúng,
Người nào khó thoát ly,
Bị thần chết chinh phục.
Họa từ dục vọng sanh,
Khổ từ dục vọng khởi,
Dục vọng được nhiếp phục,
Nhờ vậy họa nhiếp phục,
Tai họa được nhiếp phục,
Nhờ vậy khổ nhiếp phục.
Vật sai biệt ở đời,
Chúng không phải các dục,
Chính tư niệm tham ái,
Là dục vọng con người.
Vật sai biệt tồn tại,
Như vậy ở trên đời,
Do vậy bậc Hiền trí,
Ðiều phục các dục vọng.
Hãy từ bỏ phẫn nộ,
Hãy nhiếp phục kiêu mạn,
Hãy vượt qua tất cả,
Mọi kiết sử trói buộc.
Chớ có quá chấp trước,
Ðối với danh sắc ấy,
Khổ không thể đến được,
Với ai không có gì.
Hãy từ bỏ tính toán,
Không chạy theo hư tưởng,
Cắt đứt mọi tham ái,
Với danh sắc ở đời.
Vị ấy đoạn phiền trược,
Không lo âu, không ái;
Chư Thiên và loài Người,
Ðời này hay đời sau,
Ở cảnh giới chư Thiên,
Hay tại mọi trú xứ,
Tìm cầu nhưng không gặp,
Vết tích của vị ấy,
Họ tìm nhưng không thấy,
Vị giải thoát như vậy.
|
^^^^
|
(Tôn giả Mogharàjà nói như vầy)
Chư Thiên và loài Người,
Ðời này hay đời sau,
Bậc tối thượng loài Người,
Lo hạnh phúc chúng sanh,
Họ đảnh lễ vị ấy,
Nên tán thán họ không?
|
^^^^
|
(Bậc Thế Tôn lên tiếng)
Này Mogharàjà
Họ cũng nên tán thán,
Bậc giải thoát như vậy.
Này Tỷ-kheo khất sĩ,
Nếu họ biết Chánh pháp,
Ðoạn trừ được nghi hoặc,
Họ trở thành giải thoát.
|
35. Disdain
At one time the Buddha was staying near Sāvatthī in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s monastery.
|
V. Hiềm Trách Thiên (S.i,23)
1) Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Thắng Lâm), tại vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc).
|
Then, late at night, several glorious deities of the Disdainful Group, lighting up the entire Jeta’s Grove, went up to the Buddha, and stood in the air.
|
2) Rồi rất nhiều quần tiên Ujjhànasannà (Hiềm trách thiên), sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng, chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, các vị ấy đứng giữa hư không.
|
Standing in the air, one deity recited this verse in the Buddha’s presence:
“Someone who really is one way,
but shows themselves another way,
is like a cheating gambler
who enjoys what was gained by theft.
You should only say what you would do;
you shouldn’t say what you wouldn’t do.
The wise will recognize
one who talks without doing.”
|
3) Rồi một vị Thiên đứng giữa hư không, nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Những ai nói mình khác
Với điều họ thực có,
Thời mọi vật thọ dụng,
Xem như do trộm cắp,
Chẳng khác kẻ gian manh,
Dùng lừa đảo trộm cắp.
Hãy nói điều có làm,
Không nói điều không làm,
Không làm nói có làm,
Kẻ trí biết rõ họ.
|
“Not just by speaking,
nor solely by listening,
are you able to progress
on this hard path,
by which sages practicing absorption
are released from Māra’s bonds.
The sages certainly don’t act like that,
for they understand the ways of the world.
The sages are extinguished by understanding,
they’ve crossed over clinging to the world.”
|
(Thế Tôn):
Những ai chỉ biết nói,
Hay chỉ biết nghe thôi,
Những hạng người như vậy,
Không thể nào tiến bộ.
Khó nhọc thay con đường,
Giúp kẻ trí giải thoát.
Nhờ Thiền định thiêu cháy,
Mọi trói buộc quần ma,
Kẻ trí không làm vậy,
Sau khi biết thế tình,
Với trí, chứng Niết-bàn,
Vượt chấp trước ở đời.
|
Then those deities landed on the ground, bowed with their heads at the Buddha’s feet and said:
“We have made a mistake, sir. It was foolish, stupid, and unskillful of us to imagine we could attack the Buddha! Please, sir, accept our mistake for what it is, so we will restrain ourselves in future.”
At that, the Buddha smiled.
Then those deities, becoming even more disdainful, flew up in the air.
|
4) Rồi các quần tiên ấy đứng xuống đất, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, và bạch Thế Tôn:
-- Ðây là tội lỗi của chúng con, bạch Thế Tôn. Chúng con đi đến tội lỗi, vì ngu xuẩn, vì mê mờ, vì bất thiện. Chúng con nghĩ chúng con có thể công kích Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn chấp nhận cho chúng con, lỗi lầm là lỗi lầm để gìn giữ trong tương lai.
5) Rồi Thế Tôn mỉm cười.
6) Các quần tiên ấy càng tức tối thêm và bay lên hư không.
|
One deity recited this verse in the Buddha’s presence:
“If you don’t give your pardon
when a mistake is confessed,
with hidden anger and heavy hate,
you’re fastened tight to enmity.”
“If no mistake is found,
if no-one’s gone astray,
and enmities are settled,
then who could have been unskillful?”
“Who makes no mistakes?
Who doesn’t go astray?
Who doesn’t fall into confusion?
Who is the sage that’s ever mindful?”
|
7) Một vị Thiên nói bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Ai không chịu chấp nhận,
Tội lỗi được phát lộ,
Nội phẫn, ưa sân hận,
Hận thù càng kiên chặt.
Nếu không có tội lỗi,
Ở đây không lầm lạc,
Hận thù không thể tiêu.
Do gì xem là thiện?
Với ai không tội lỗi?
Với ai không lầm lạc?
Ai không bị si mê?
Ai kẻ trí thường niệm?
|
“The Realized One, the Buddha,
compassionate for all beings:
that’s who makes no mistakes,
and that’s who doesn’t go astray.
He doesn’t fall into confusion,
for he’s the sage, ever mindful.
If you don’t give your pardon
when a mistake is confessed,
with hidden anger and heavy hate,
you’re fastened tight to enmity.
I don’t approve of such enmity,
and so I pardon your mistake.”
|
(Thế Tôn):
Như Lai, bậc Giác Ngộ,
Thương xót mọi hữu tình,
Nơi Ngài không tội lỗi,
Nơi Ngài không lầm lạc.
Ngài không bị si mê,
Ngài chánh trí thường niệm.
Ai không chịu chấp nhận,
Tội lỗi được phát lộ,
Nội phẫn, ưa sân hận,
Hận thù càng kiên chặt.
Ta không thích hận thù,
Ta nhận tội các Ông.
|
36. Faith
At one time the Buddha was staying near Sāvatthī in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s monastery.
|
VI. Lòng Tin (S.i,25), (Tạp, Ðại 2,354b) - (Biệt Tạp, Ðại 2,473a)
1) Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Thắng Lâm) tại vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc).
|
Then, late at night, several glorious deities of the Satullapa Group, lighting up the entire Jeta’s Grove, went up to the Buddha, bowed, and stood to one side.
|
2) Rồi rất nhiều quần tiên SatullapaKàyikà, khi đêm đã gần tàn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.
|
Standing to one side, one deity recited this verse in the Buddha’s presence:
“Faith is a person’s partner.
If faithlessness doesn’t linger,
fame and renown are theirs,
and when they discard this corpse they go to heaven.”
Then another deity recited these verses in the Buddha’s presence:
“You should give up anger and get rid of conceit,
and get past all the fetters.
Clingings don’t torment the one who has nothing,
not clinging to name and form.”
“Fools and unintelligent people
devote themselves to negligence.
But the intelligent protect diligence
as their best treasure.
Don’t devote yourself to negligence,
or delight in sexual intimacy.
For if you’re diligent and practice absorption,
you’ll attain the highest happiness.”
|
3) Ðứng một bên, một vị Thiên nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Tín là người thứ hai,
Là bạn của loài Người,
Nếu không trú bất tín,
Ðược danh dự, xưng tán,
Sau khi bỏ thân này,
Ðược sanh lên Thiên giới.
Hãy từ bỏ phẫn nộ,
Hãy nhiếp phục kiêu mạn,
Hãy vượt qua tất cả
Mọi kiết sử trói buộc.
Chớ có quá chấp trước,
Ðối với danh sắc ấy.
Tham không thể đến được,
Với ai không có gì.
Kẻ ngu không trí tuệ,
Mới đam mê, phóng dật,
Kẻ trí không phóng dật,
Như giữ tài vật quý.
Chớ đam mê, phóng dật,
Chớ đắm say ái dục,
Thiền tư, không phóng dật,
Ðạt được tối thắng lạc.
|
37. The Congregation
|
VII. Tụ Hội (S.i,26) - (Tạp, Ðại 2.323a) (Biệt Tạp, Ðại 2.411a) (S.i,26) (D. 20 Mahàsamaya, Trường, Ðại 1,79b - 81b)
|
So I have heard. At one time the Buddha was staying in the land of the Sakyans, near Kapilavatthu in the Great Wood, together with a large Saṅgha of around five hundred mendicants, all of whom were perfected ones. And most of the deities from ten solar systems had gathered to see the Buddha and the Saṅgha of mendicants.
|
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở giữa dòng họ Sakka (Thích-ca), tại Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), ở rừng Ðại Lâm, cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng 500 vị, tất cả là bậc A-la-hán. Và chư Thiên ở mười phương thế giới phần lớn cũng thường tập hội để chiêm ngưỡng Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo.
|
Then four deities of the Pure Abodes, aware of what was happening, thought: “Why don’t we go to the Buddha and each recite a verse in his presence?”
|
2) Rồi bốn vị Tịnh cư thiên (Suddàvàsà) suy nghĩ như sau: "Thế Tôn nay ở giữa dân chúng Sakka, thành Kapilavatthu, rừng Ðại Lâm, cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng 500 vị, tất cả đều là bậc A-la-hán. Và chư Thiên ở mười phương thế giới, phần lớn cũng thường tập hội để chiêm ngưỡng Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo. Vậy chúng ta hãy đi đến Thế Tôn; sau khi đến, mỗi chúng ta đọc một bài kệ dâng lên Thế Tôn."
|
Then, as easily as a strong person would extend or contract their arm, they vanished from the Pure Abodes and reappeared in front of the Buddha.
|
3) Rồi chư Thiên ấy nhanh như nhà lực sĩ duỗi cánh tay đã co lại, hay co cánh tay đã duỗi ra, biến mất từ Tịnh cư thiên và hiện ra trước mặt Thế Tôn.
|
They bowed to the Buddha and stood to one side. Standing to one side, one deity recited this verse in the Buddha’s presence:
“There’s a great congregation in the woods,
a host of gods have assembled.
We’ve come to this righteous congregation
to see the invincible Saṅgha!”
|
4) Chư Thiên ấy đảnh lễ Thế Tôn và đứng một bên. Sau khi đứng một bên, một vị Thiên đọc bài kệ trước Thế Tôn:
Ðại hội tại Ðại Lâm,
Chư Thiên đồng tụ tập,
Chúng con đến Pháp hội,
Ðảnh lễ chúng Bất thắng.
|
Then another deity recited this verse in the Buddha’s presence:
“The mendicants there have immersion,
they’ve straightened out their own minds.
Like a charioteer who has taken the reins,
the astute ones protect their senses.”
|
5) Rồi các vị Thiên khác cũng đọc lên một bài kệ trước Thế Tôn:
Tại đây chúng Tỷ-kheo,
Thiền định, tâm chánh trực,
Như chủ xe nắm cương,
Bậc hiền hộ các căn.
|
Then another deity recited this verse in the Buddha’s presence:
“Having cut the stake and cut the bar,
they’re unmoved, with boundary post uprooted.
They live pure and stainless,
the young dragons tamed by the seer.”
|
6) Lại một vị Thiên khác cũng đọc lên một bài kệ trước Thế Tôn:
Như khóa gãy, chốt tháo,
Trụ bị đào, tham đoạn,
Sống thanh tịnh, vô cấu,
Có mắt, voi khéo điều.
|
Then another deity recited this verse in the Buddha’s presence:
“Anyone who has gone to the Buddha for refuge
won’t go to a plane of loss.
After giving up this human body,
they swell the hosts of gods.”
|
7) Lại một vị Thiên khác cũng đọc lên một bài kệ trước mặt Thế Tôn:
Những ai quy y Phật,
Sẽ không đọa ác thú,
Sau khi bỏ thân Người,
Sẽ sanh làm chư Thiên.
|
38. A Splinter
So I have heard.
At one time the Buddha was staying near Rājagaha in the Maddakucchi deer park
|
VIII. Miếng Ðá Vụn - (Tạp, Ðại 2,355a) - (Biệt Tạp, Ðại 2,473c) - (S.i,27)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại Ràjagaha (Vương Xá), tại vườn Nai (Maddakucchi)
|
Now at that time the Buddha’s foot had been cut by a splinter. The Buddha was stricken by harrowing pains; physical feelings that were painful, sharp, severe, acute, unpleasant, and disagreeable. But he endured with mindfulness and situational awareness, without worrying.
|
2) Lúc bấy giờ, chân Thế Tôn bị miếng đá bể đâm phải. Cảm thọ Thế Tôn mãnh liệt. Thân cảm thọ khổ đau, nhói đau, nhức nhối, khốc liệt, không khoái tâm, không thích thú. Nhưng Thế Tôn chánh niệm tỉnh giác, nhẫn chịu, không phiền não.
|
And then he spread out his outer robe folded in four and lay down in the lion’s posture—on the right side, placing one foot on top of the other—mindful and aware.
|
3) Rồi Thế Tôn cho trải áo Sanghàti (Tăng-già-lê) xếp tư lại, nằm xuống phía hông bên phải như dáng điệu con sư tử, chân đặt trên chân, chánh niệm tỉnh giác.
|
Then, late at night, several glorious deities of the Satullapa Group, lighting up the entire Maddukucchi, went up to the Buddha, bowed, and stood to one side.
|
4) Rồi bảy trăm quần tiên Satullapakàyikà, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Maddakucchi, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.
|
Standing to one side, one deity spoke these words of inspiration in the Buddha’s presence:
“The ascetic Gotama is such an elephant, sir! And as an elephant, he endures painful physical feelings that have come up—sharp, severe, acute, unpleasant, and disagreeable—with mindfulness and situational awareness,
|
5) Ðứng một bên, một vị Thiên đọc lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:
-- Sa-môn Gotama thật là bậc Long tượng. Và với tư cách Long tượng, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, đau khổ, nhói đau, nhức nhối, khốc liệt, không khoái tâm, không thích thú, Ngài chánh niệm tỉnh giác, nhẫn chịu, không phiền não.
|
Then another deity spoke these words of inspiration in the Buddha’s presence:
“The ascetic Gotama is such a lion, sir! And as a lion, he endures painful physical feelings … without worrying.”
|
6) Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:
-- Sa-môn Gotama thật là bậc Sư tử. Và với tư cách Sư tử, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ đau... không có phiền não.
|
Then another deity spoke these words of inspiration in the Buddha’s presence:
“The ascetic Gotama is such a thoroughbred, sir! And as a thoroughbred, he endures painful physical feelings … without worrying.”
|
7) Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:
-- Sa-môn Gotama thật là Lương tuấn mã. Và với tư cách Lương tuấn mã, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ đau... không có phiền não.
|
Then another deity spoke these words of inspiration in the Buddha’s presence:
“The ascetic Gotama is such a chief bull, sir! And as a chief bull, he endures painful physical feelings … without worrying.”
|
8) Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:
-- Sa-môn Gotama thật là bậc Ngưu vương. Và với tư cách Ngưu vương, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ đau... không có phiền não.
|
Then another deity spoke these words of inspiration in the Buddha’s presence:
“The ascetic Gotama is such a behemoth, sir! And as a behemoth, he endures painful physical feelings … without worrying.”
|
9) Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:
-- Sa-môn Gotama thật là bậc Nhẫn nại Kiên cường. Và với tư cách bậc Nhẫn nại Kiên cường, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ đau... không có phiền não.
|
Then another deity spoke these words of inspiration in the Buddha’s presence:
“The ascetic Gotama is truly tamed, sir! And as someone tamed, he endures painful physical feelings … without worrying.”
|
10) Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:
-- Sa-môn Gotama thật là một bậc Khéo điều phục. Và với tư cách là một bậc Khéo điều phục, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ đau... không có phiền não.
|
Then another deity spoke these words of inspiration in the Buddha’s presence:
“See, his immersion is so well developed, and his mind is so well freed—not leaning forward or pulling back, and not held in place by forceful suppression. If anyone imagines that they can overcome such an elephant of a man, a lion of a man, a thoroughbred of a man, a chief bull of a man, a behemoth of a man, a tamed man—what is that but a failure to see?”
|
11) Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:
-- Hãy xem tâm của Ngài khéo được tu tập Thiền định và giải thoát, không có nổi lên, không có chìm xuống, mọi hành động được tác thành, không có ai kích thích. Ai có thể nghĩ mình đi ngược lại một Long tượng như vậy, một bậc Sư tử như vậy, một bậc Lương tuấn mã như vậy, một bậc Ngưu vương như vậy, một bậc Nhẫn nại Kiên cường như vậy, một bậc Nhiếp phục như vậy, trừ phi là một người mù.
|
“Learned in the five Vedas, brahmins practice
mortification for a full century.
But their minds are not properly freed,
for those of base character don’t cross to the far shore.
Seized by craving, attached to precepts and observances,
they practice rough mortification for a hundred years.
But their minds are not properly freed,
for those of base character don’t cross to the far shore.
Someone who’s fond of conceit can’t be tamed,
and someone without immersion can’t be a sage.
Living negligent alone in the wilderness,
they can’t pass beyond Death’s domain.”
“Having given up conceit, serene within oneself,
with a healthy heart, everywhere released;
living diligent alone in the wilderness,
they pass beyond Death’s domain.”
|
Các vị Bà-la-môn,
Tinh thông năm Vệ-đà,
Dầu tu tập khổ hạnh,
Cho đến hàng trăm năm,
Tâm họ không có thể,
Chơn chánh được giải thoát.
Tự tánh quá hạ liệt,
Không đến bờ bên kia,
Bị khát ái chi phối,
Bị giới cấm trói buộc,
Dầu tu tập khổ hạnh,
Cho đến hàng trăm năm,
Tâm họ không có thể,
Chơn chánh được giải thoát.
Tự tánh quá hạ liệt,
Không đến bờ bên kia.
Ở đời không nhiếp phục,
Kiêu mạn cùng các dục,
Tâm không được an tịnh,
Không tu tập Thiền định.
Ở trong rừng cô độc,
Nhưng tâm tư phóng dật,
Vị ấy khó vượt khỏi,
Sự chinh phục tử thần.
Nhiếp phục được kiêu mạn,
Khéo tu tập Thiền định,
Tâm tư khéo an tịnh,
Giải thoát được viên mãn,
Ở trong rừng cô độc,
Tâm tư không phóng dật,
Vị ấy khéo vượt khỏi,
Sự chinh phục tử thần.
|
39. With Pajjunna’s Daughter (1st)
So I have heard.
At one time the Buddha was staying near Vesālī, at the Great Wood, in the hall with the peaked roof.
|
IX. Con Gái Của Pajjunna (Tạp, Ðại 2,350a) (Biệt Tạp, 14.4, Ðại 2,469a) (S.i,29)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Vesàli, Ðại Lâm, tại Trùng Các giảng đường.
|
Then, late at night, the beautiful Kokanadā, Pajjunna’s daughter, lighting up the entire Great Wood, went up to the Buddha, bowed, stood to one side,
|
2) Rồi Kokanadà, con gái của Pajjunna, sau khi đêm vừa mãn, với dung sắc thù thắng chiếu sáng toàn vùng Ðại Lâm, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.
|
stood to one side, and recited these verses in the Buddha’s presence
|
3) Ðứng một bên, Thiên nữ Kokanadà, con gái của Pajjunna, nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
|
“Staying in the woods of Vesālī
is the Buddha, best of beings.
Kokanadā am I who worships him,
Kokanadā, Pajjuna’s daughter.
Previously I had only heard
the teaching realized by the seer.
But now I know it as a witness
while the sage, the Holy One teaches.
There are unintelligent people who go about
denouncing the noble teaching.
They fall into the terrible Hell of Screams
where they suffer long.
There are those who have found acceptance and peace
in the noble teaching.
After giving up this human body,
they swell the hosts of gods.”
|
Bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác,
Thượng thủ các chúng sanh,
Nay an trú Ðại Lâm,
Tại thành Vesàli,
Hãy để con đảnh lễ,
Con gái Pajjunna,
Tên Kokanadà.
Từ trước con chỉ nghe,
Bậc chứng ngộ Chánh Giác.
Bậc vô thượng Pháp Nhãn,
Bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Ngày nay con có thể,
Biết được Chánh pháp ấy,
Do Thiện Thệ thuyết giảng,
Bậc Mâu-ni Chánh Giác.
Những ai kém trí tuệ,
Khinh bác chống Thánh pháp,
Sẽ rơi vào địa ngục,
Mệnh danh Roruva,
Trải thời gian lâu dài,
Thọ lãnh nhiều thống khổ.
Những ai đối Thánh pháp,
Kham nhẫn, tâm tịch tịnh,
Từ bỏ thân làm người,
Viên mãn thân chư Thiên.
|
40. With Pajjunna’s Daughter (2nd)
So I have heard.
At one time the Buddha was staying near Vesālī, at the Great Wood, in the hall with the peaked roof.
|
X. Con Gái Của Pajjunna (Tạp, Ðại 2, 349c) (Biệt Tạp 14.3, Ðại 2, 469a) (S.i,30)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Vesàli, Ðại Lâm, tại Trùng Các giảng đường.
|
Then, late at night, the beautiful Kokanadā the Younger, Pajjunna’s daughter, lighting up the entire Great Wood, went up to the Buddha, bowed, stood to one side, and recited these verses in the Buddha’s presence:
|
2) Rồi Cùla - Kokanadà, con gái của Pajjunna, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Ðại Lâm đi đến Thế Tôn; sau khi đi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, Cùla-Kokanadà, con gái của Pajjunna, nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
|
“Kokanadā, Pajjunna’s daughter, came here,
beautiful as a flash of lightning.
Revering the Buddha and the teaching,
she spoke these verses full of meaning.
The teaching is such that
I could analyze it in many different ways.
However, I will state the meaning in brief
as far as I have learned it by heart.
You should never do anything bad
by speech or mind or body in all the world.
Having given up sensual pleasures, mindful and aware,
you shouldn’t keep doing what’s painful and pointless.”
|
Con gái Pajjunna,
Tên Kokanadà.
Nhan sắc như điện quang,
Nàng đã đến tại đây,
Ðảnh lễ Phật và Pháp,
Nói kệ lợi ích này,
Dầu với nhiều pháp môn,
Con phân tích pháp này.
Nhưng lược nghĩa con nói,
Theo ý con hiểu biết,
Ở đời, chớ làm ác,
Cả ba: thân, khẩu, ý,
Từ bỏ mọi thứ dục,
Chánh niệm, tâm tỉnh giác,
Không khổ hạnh ép xác,
Vô bổ, không lợi ích.
|
Cập nhập ngày:
Thứ Tư 21-7-2021
webmasters: Minh Hạnh & Thiện Pháp, Thủy Tú & Phạm Cương
| | trở về đầu trang | Home page | |