SN 2.11. With Candimasa - Candimasasutta
At Sāvatthī.
Then, late at night, the glorious god Candimasa, lighting up the entire Jeta’s Grove, went up to the Buddha, bowed, stood to one side, and recited this verse in the Buddha’s presence:
|
I. Candimasa
Tại Sàvatthi.
1) Rồi Thiên tử Candimasa, sau khi đêm đã gần mãn,với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, Thiên tử Candimasa nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
|
“Like deer in a mosquito-free marsh,
they will reach a safe place
having entered the absorptions,
unified, self-disciplined, and mindful.”
“Like fish when the net is cut,
they will reach the far shore
having entered the absorptions,
diligent, with flaws discarded.”
|
2)
Họ sẽ đi an toàn,
Như thú, vùng không muỗi,
Sau khi chứng Thiền định,
Nhứt tâm, niệm tỉnh giác,
Họ sẽ đi bờ kia,
Như cá, phá rách lưới,
Sau khi chứng Thiền định,
Tự chế, vượt lỗi lầm.
|
SN 2.12. With Vishnu - Veṇḍusutta
Standing to one side, the god Vishnu recited this verse in the Buddha’s presence:
“Happy are the children of Manu
who pay homage to the Holy One!
They apply themselves to Gotama’s instructions,
diligently training.”
|
II. Vendu (S.i,52)
1) Ðứng một bên, Thiên tử Vendu nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
2)
Hạnh phúc thay những người,
Sau khi hầu Thiện Thệ,
Tuân phụng lời Ngài dạy,
Tu học không phóng dật!
|
Buddha:
“Those who practice absorption in accord with the training
in the way of teaching I’ve proclaimed,” said the Buddha to Vishnu,
“they’re in time to be diligent;
they won’t fall under the sway of Death.”
|
3) Thế Tôn nói:
Vendu!
Những ai Thiền tu học.
Trong pháp cú Ta dạy,
Tinh cần, không phóng dật,
Ðúng thời họ sẽ đi,
Thoát khỏi tay tử thần.
|
SN 2.13 With Dīghalaṭṭhi - Dīghalaṭṭhisutta
So I have heard.
At one time the Buddha was staying near Rājagaha, in the Bamboo Grove, the squirrels’ feeding ground.
|
III. Diighalatthi (S.i,52)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Ràjagaha (Vương Xá), Trúc Lâm, tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
|
Then, late at night, the glorious god Dīghalaṭṭhi, lighting up the entire Bamboo Grove, went up to the Buddha, bowed, stood to one side, and recited this verse in the Buddha’s presence:
|
2) Rồi Thiên tử Diighalatthi, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, Thiên tử Diighalatthi nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
|
“Suppose a mendicant is one who practices absorption, freed in mind.
If they want to reach the heart’s peace,
having known the arising and passing of the world,
healthy-minded, independent, that is their reward.”
|
Với tâm tư giải thoát,
Vị Tỷ-kheo tu Thiền,
Và với lòng ước vọng,
Ðạt được tâm sở nguyện,
Sau khi biết cuộc đời,
Sanh khởi rồi đoạn diệt,
Tâm thuần không chấp trước,
Hưởng lợi quả như chơn.
|
SN 2.14 14. With Nandana - Nandanasutta
Standing to one side, the god Nandana addressed the Buddha in verse:
“I ask you, Gotama, whose wisdom is vast,
the Blessed One of unhindered knowledge and vision.
What kind of person do they call ethical?
What kind of person do they call wise?
What kind of person lives on after transcending suffering?
What kind of person is worshipped by the deities?”
|
IV. Nandana (S.i,52)
1) Ðứng một bên, Thiên tử Nandana nói bài kệ với Thế Tôn:
Con hỏi Gotama,
Bậc Ðại Giác toàn trí,
Con hỏi đấng Thế Tôn,
Với tri kiến vạn năng.
Người nào gọi trì giới?
Người nào gọi trí tuệ?
Người nào vượt sầu khổ?
Người nào chư Thiên lạy?
|
Buddha:
“A person who is ethical, wise, self-developed,
becomes immersed in samādhi, loving absorption, mindful,
who’s gotten rid of and given up all sorrows,
with defilements ended, they bear their final body.
That’s the kind of person they call ethical.
That’s the kind of person they call wise.
That kind of person lives on after transcending suffering.
That kind of person is worshipped by the deities.”
|
2) (Thế Tôn):
Ai hộ trì giới luật,
Trí tuệ, tâm tu trì,
Chú tâm, vui Thiền định,
Tâm tư trú chánh niệm,
Tất cả mọi sầu khổ,
Ðược trừ diệt, đoạn tận,
Các lậu hoặc tận trừ,
Sống với thân tối hậu,
Vị ấy gọi trì giới,
Vị ấy gọi trí tuệ,
Vị ấy vượt sầu khổ,
Vị ấy chư Thiên lạy.
|
SN 2.15 With Candana - Candanasutta
Standing to one side, the god Candana addressed the Buddha in verse:
“Who here crosses the flood,
not slacking off by night or day.
Who, not standing and unsupported,
does not sink in the deep?”
|
V. Candana: Chiên Ðàn (S.i,53)
1) Ðứng một bên, Thiên tử Candana nói lên bài kệ với Thế Tôn:
Làm sao vượt bộc lưu,
Ngày đêm vững, kiên trì,
Không trú, không bám víu,
Ai không chìm vực sâu?
|
Buddha:
“Someone who is always endowed with ethics,
wise and serene,
energetic, and resolute
crosses the flood so hard to cross.
Someone who desists from sensual perception,
has moved past the fetter of form,
and has finished with relishing and greed
does not sink in the deep.”
|
2) (Thế Tôn):
Vị luôn luôn trì giới,
Trí tuệ, khéo định tĩnh,
Chí siêng năng dõng mãnh,
Vượt bộc lưu khó vượt.
Vị đoạn, ly dục tưởng,
Vượt khỏi sắc triền phược,
Ðoạn tận hỷ, hữu ái,
Không chìm xuống vực sâu.
|
SN 2.16 16. With Vāsudatta - Vāsudattasutta
Standing to one side, the god Vāsudatta recited this verse in the Buddha’s presence:
“Like they’re struck by a sword,
like their head were on fire,
a mendicant should go forth mindfully,
to give up sensual desire.”
|
VI. Sudatta (Tu-đạt-đa)
1) Ðứng một bên, Thiên tử Sudatta nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Như kiếm đã chạm da,
Như lửa cháy trên đầu,
Tỷ-kheo hãy chánh niệm,
Xuất gia, bỏ ái dục.
|
Buddha:
“Like they’re struck by a sword,
like their head were on fire,
a mendicant should go forth mindfully,
to give up identity view.”
|
2) (Thế Tôn):
Như kiếm đã chạm da,
Như lửa cháy trên đầu,
Tỷ-kheo hãy chánh niệm,
Xuất gia, bỏ thân kiến.
|
SN 2.17 With Subrahmā - Subrahmasutta
Standing to one side, the god Subrahmā addressed the Buddha in verse:
“This mind is always anxious,
this mind is always stressed
about stresses that haven’t arisen
and those that have.
If there is a state free of anxiety,
please answer my question.”
|
VII. Subrahmà (S.i,53)
1) Ðứng một bên, Thiên tử Subrahmà nói lên bài kệ với Thế Tôn:
Tâm này thường sợ hãi,
Ý này thường dao động,
Ðiều mong ước không khởi,
Ðiều không mong lại khởi,
Nếu có, không sợ hãi,
Hãy nói điều con hỏi.
|
Buddha:
“Not without understanding and austerity,
not without restraining the sense faculties,
not without letting go of everything,
do I see safety for living creatures.”
That is what the Buddha said. … The god vanished right there.
|
2) (Thế Tôn):
Không ngoài hạnh giác chi,
Không ngoài hộ trì căn,
Không ngoài bỏ tất cả,
Ta thấy các pháp ấy,
Ðưa đến sự an toàn,
Cho tất cả chúng sanh.
3) Rồi Thiên tử biến mất tại chỗ ấy.
|
SN 2.18 Kakudhasutta - With Kakudha
So I have heard.
At one time the Buddha was staying near Sāketa in the deer park at the Añjana Wood. Then, late at night, the glorious god Kakudha, lighting up the entire Añjana Wood, went up to the Buddha, bowed, stood to one side,
|
VIII. Kakudha (S.i,54)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Sàketa, rừng Anjana, tại vườn Nai. Rồi Thiên tử Kokudha, sau khi đêm đã gần mãn, với nhan sắc thù thắng chói sáng toàn khu rừng Anjana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.
|
stood to one side, and said to him:
“Do you delight, ascetic?”
“What have I got, sir?”
“Well then, ascetic, do you sorrow?”
“What have I lost, sir?”
“Well then, ascetic, do you neither delight nor sorrow?”
“Yes, sir.”
|
2) Ðứng một bên, Thiên tử Kakudha bạch Thế Tôn:
-- Thưa Sa-môn, Ngài có hoan hỷ không?
-- Ta được cái gì, này Hiền giả, mà Ta hoan hỷ?
-- Nếu vậy, thưa Sa-môn, có phải Ngài sầu muộn?
-- Ta mòn mỏi cái gì, này Hiền giả, mà Ta sầu muộn?
-- Vậy thời thưa Sa-môn, Ngài không hoan hỷ và không sầu muộn?
-- Thật như vậy, này Hiền giả.
|
“I hope you’re untroubled, mendicant,
I hope that delight isn’t found in you.
I hope that discontent doesn’t
overwhelm you as you sit alone.”
|
3)
Làm sao, này Tỷ-kheo,
Ngài không có sầu muộn,
Tuy vậy, Ngài cũng không
Có được sự hoan hỷ?
Làm sao nay Ngài lại,
Ngồi cô độc một mình,
Không có được hoan hỷ,
Cũng không bị dao động?
|
“I’m genuinely untroubled, spirit,
and no delight is found in me.
And also discontent doesn’t
overwhelm me as I sit alone.”
|
4)
Thật sự, này Dạ-xoa,
Ta không có sầu muộn,
Tuy vậy ở nơi Ta,
Hoan hỷ không khởi lên,
Dầu nay Ta có ngồi,
Riêng một mình cô độc,
Ta không có hoan hỷ,
Cũng không bị dao động.
|
“How are you untroubled, mendicant?
How is delight not found in you?
How does discontent not
overwhelm you as you sit alone?”
|
5)
Làm sao, này Tỷ-kheo,
Ngài không có sầu muộn,
Làm sao ở nơi Ngài,
Hoan hỷ không khởi lên?
Làm sao nay Ngài lại,
Ngồi cô độc một mình,
Không có được hoan hỷ,
Cũng không bị dao động?
|
“Delight is born from misery,
misery is born from delight;
sir, you should know me as
a mendicant free of delight and misery.”
|
6)
Hoan hỷ chỉ có đến,
Với người tâm sầu muộn,
Sầu muộn chỉ có đến,
Với người tâm hoan hỷ.
Do vậy, vị Tỷ-kheo,
Không hoan hỷ, sầu muộn.
Vậy nên, này Hiền giả,
Ông phải biết như vậy.
|
“After a long time I see
a brahmin extinguished.
A mendicant free of delight and misery,
he has crossed over clinging to the world.”
|
7)
Ðã lâu, con mới thấy,
Bà-la-môn tịch tịnh,
Vị Tỷ-kheo không sầu,
Cũng không có hoan hỷ,
Ðã an toàn vượt khỏi,
Chỗ người đời đắm say.
|
SN 2.19 With Uttara - Uttarasutta
At Rājagaha.
Standing to one side, the god Uttara recited this verse in the Buddha’s presence:
|
IX. Uttara (S.i,54)
1) Nhân duyên tại thành Vương Xá.
Ðứng một bên, Thiên tử Uttara nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
|
“This life, so very short, is led onward.
There’s no shelter for someone who’s been led on by old age.
Seeing this peril in death,
you should do good deeds that bring happiness.”
|
2)
Mạng sống bị dắt dẫn,
Tuổi thọ chẳng là bao,
Bị dẫn đến già nua,
Không có nơi dừng bước.
Ai đem tâm quán tưởng,
Sợ hãi tử vong này,
Hãy làm các công đức,
Ðưa đến chơn an lạc.
|
“This life, so very short, is led onward.
There’s no shelter for someone who’s been led on by old age.
Seeing this peril in death,
one looking for peace would drop the world’s bait.”
|
3)
Mạng sống bị dắt dẫn,
Tuổi thọ chẳng là bao,
Bị dẫn đến già nua,
Không có nơi dừng bước.
Ai đem tâm quán tưởng,
Sợ hãi tử vong này,
Hãy bỏ mọi thế lợi,
Tâm hướng cầu tịch tịnh. |
SN 2.20 With Anāthapiṇḍikav - Anāthapiṇḍikasutta
Standing to one side, the god Anāthapiṇḍika recited these verses in the Buddha’s presence:
“This is indeed that Jeta’s Grove,
frequented by the Saṅgha of seers,
where the King of Dhamma stayed:
it brings me joy!
Deeds, knowledge, and principle;
ethical conduct, an excellent livelihood;
by these are mortals purified,
not by clan or wealth.
That’s why an astute person,
seeing what’s good for themselves,
would examine the teaching rationally,
and thus be purified in it.
Sāriputta has true wisdom,
ethics, and also peace.
Any mendicant who has gone beyond
can at best equal him.”
|
X. Anàthapindika: Cấp Cô Ðộc (S.i,55)
1) Ðứng một bên, Thiên tử Cấp Cô Ðộc nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Ðây là rừng Kỳ Viên,
Chỗ trú xứ Thánh chúng,
Chỗ ở đấng Pháp Vương,
Khiến tâm con hoan hỷ.
Nghiệp, minh và tâm pháp,
Giới và tối thắng mạng,
Chính những diệu pháp ấy,
Khiến chúng sanh thanh tịnh,
Không phải vì dòng họ,
Không phải vì tài sản.
Do vậy bậc Hiền giả,
Thấy lợi ích chính mình,
Chánh giác sát tâm pháp,
Như vậy được thanh tịnh.
Như ngài Xá-lợi-phất,
Tuệ, giới và tịch tịnh,
Tỷ-kheo đến bờ giác,
Ở đây là tối thượng.
|
This is what the god Anāthapiṇḍika said. Then he bowed and respectfully circled the Buddha, keeping him on his right side, before vanishing right there.
|
2) Thiên tử Anàthapindika nói như vậy, nói vậy xong, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, rồi biến mất tại chỗ ấy.
|
Then, when the night had passed, the Buddha addressed the mendicants:
|
3) Rồi Thế Tôn sau khi đêm ấy đã qua, liền gọi các Tỷ-kheo và nói:
|
“Mendicants, tonight, a certain glorious god, lighting up the entire Jeta’s Grove, came to me, bowed, stood to one side, and recited these verses in my presence.” The Buddha then repeated the verses in full.
|
4) -- Này các Tỷ-kheo, đêm nay có Thiên tử, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng, chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Ta, sau khi đến, đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Ðứng một bên, này các Tỷ-kheo, vị Thiên tử ấy nói lên bài lệ này trước mặt Ta:
|
^^^^
|
5)
"Ðây là rừng Kỳ Viên,
Chỗ trú xứ Thánh chúng,
Chỗ ở đấng Pháp Vương,
Khiến tâm con hoan hỷ.
Nghiệp, minh và tâm pháp,
Giới và tối thắng mạng,
Chính những diệu pháp ấy,
Khiến chúng sanh thanh tịnh,
Không phải vì dòng họ,
Không phải vì tài sản.
Do vậy bậc Hiền giả,
Thấy lợi ích chính mình,
Chánh giác sát tâm pháp,
Như vậy được thanh tịnh.
Như ngài Xá-lợi-phất,
Tuệ, giới và tịch tịnh,
Tỷ-kheo đến bờ giác,
Ở đây là tối thượng."
|
^^^^
|
6) Này các Tỷ-kheo, Thiên tử ấy nói như vậy, nói vậy xong, đảnh lễ Ta, thân phía hữu hướng về Ta rồi biến mất tại chỗ.
|
When he said this, Venerable Ānanda said to the Buddha:
“Sir, that god must surely have been Anāthapiṇḍika. For the householder Anāthapiṇḍika was devoted to Venerable Sāriputta.”
|
7) Ðược nghe nói như vậy, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, có phải vị Thiên tử ấy là Anàthapindika? Gia chủ Anàthapindika hết dạ tín thành đối với Tôn giả Sàriputta?
|
“Good, good, Ānanda. You’ve reached the logical conclusion, as far as logic goes. For that was indeed the god Anāthapiṇḍika.”
|
8) -- Lành thay! Lành thay! Này Ananda, cho đến những gì có thể đạt được nhờ suy diễn, này Ananda, Ông đã đạt được. Này Ananda, Anàthapindika là vị Thiên tử ấy.
|
Cập nhập ngày:
Thứ Ba ngày 24-8-2021
webmasters: Minh Hạnh & Thiện Pháp, Thủy Tú & Phạm Cương
| | trở về đầu trang | Home page | |