SN 2.21 With Shiva - Sivasutta

So I have heard.

At one time the Buddha was staying near Sāvatthī in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s monastery. Then, late at night, the glorious god Shiva, lighting up the entire Jeta’s Grove, went up to the Buddha, bowed, stood to one side, and recited these verses in the Buddha’s presence:

I. Siva

1) Như vậy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Thắng Lâm), tại vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc). Rồi Thiên tử Siva, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, Thiên tử Siva nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:

“Associate only with the virtuous!
Try to get close to the virtuous!
Understanding the true teaching of the good,
things get better, not worse.
Associate only with the virtuous!
Try to get close to the virtuous!
Understanding the true teaching of the good,
wisdom is gained—but not from anyone else.
Associate only with the virtuous!
Try to get close to the virtuous!
Understanding the true teaching of the good,
you don’t sorrow even among those who sorrow.
Associate only with the virtuous!
Try to get close to the virtuous!
Understanding the true teaching of the good,
you shine among your relatives.
Associate only with the virtuous!
Try to get close to the virtuous!
Understanding the true teaching of the good,
sentient beings go to a good place.
Associate only with the virtuous!
Try to get close to the virtuous!
Understanding the true teaching of the good,
sentient beings live happily.”

2) Hãy thân với người lành,
Hãy gần gũi người thiện,
Biết diệu pháp người hiền,
Chỉ tốt hơn, không xấu.
Hãy thân với người lành,
Hãy gần gũi người thiện,
Biết diệu pháp người hiền,
Ðược tuệ, không gì khác.
Hãy thân với người lành,
Hãy gần gũi người thiện,
Biết diệu pháp người hiền,
Không sầu giữa sầu muộn.
Hãy thân với người lành,
Hãy gần gũi người thiện,
Biết diệu pháp người hiền,
Chói sáng giữa quyến thuộc.
Hãy thân với người lành,
Hãy gần gũi người thiện,
Biết diệu pháp người hiền,
Chúng sanh sanh thiện thú.
Hãy thân với người lành,
Hãy gần gũi người thiện,
Biết diệu pháp người hiền
Chúng sanh thường hưởng lạc.

Then the Buddha replied to Shiva in verse:

“Associate only with the virtuous!
Try to get close to the virtuous!
Understanding the true teaching of the good,
you’re released from all suffering.”

3) Rồi Thế Tôn đáp lại Thiên tử Siva với bài kệ:

Hãy thân với người lành,
Hãy gần gũi người thiện,
Biết diệu pháp người hiền,
Giải thoát mọi khổ đau.

SN 2.22 With Khema - Khemasutta

Standing to one side, the god Khema recited these verses in the Buddha’s presence:

“Foolish and unintelligent people
treat themselves like an enemy.
They do bad deeds
with bitter fruit.
It’s not good to do a deed
after doing which you’re tormented by regrets;
you experience the result
weeping, with a tearful face.
It’s good to do a deed
after doing which you’re free of regrets;
you experience the result
joyful, with a happy mind.”
“As a precaution, you should do
what you know is for your own welfare.
A thinker, a sage would not proceed
thinking like the cart driver.
Suppose a cart driver leaves the highway,
so even and well compacted.
They enter upon a rough road,
and fret when their axle breaks.
So too, an idiot departs the good
to follow what’s against the good.
Fallen in the jaws of death,
they fret like their axle’s broken.”

II. Khema (S.i,57)

Ðứng một bên, Thiên tử Khema nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:

Kẻ ngu không trí tuệ,
Lấy ngã làm kẻ thù,
Tự làm các ác nghiệp,
Ðưa đến quả đắng cay.
Nghiệp nào không khéo làm,
Làm xong bị nung nấu,
Với mặt đầy nước mắt,
Khóc lóc chịu quả báo.
Và nghiệp nào khéo làm,
Làm xong, không nung nấu,
Tâm vui, ý thoải mái,
Vị ấy hưởng quả báo.
Biết điều lợi cho mình,
Làm trước điều phải làm,
Không tâm trạng đánh xe,
Kẻ trí lòng tinh tấn.
Như người chủ đánh xe,
Rời đại đạo thăng bằng,
Leo lên đường lồi lõm,
Ưu tư nạn gãy trục.
Cũng vậy bỏ Chánh pháp,
Người ngu theo phi pháp,
Rơi vào miệng tử thần,
Ưu tư như gãy trục.

SN 2.23 With Serī - Serīsutta

Standing to one side, the god Serī addressed the Buddha in verse:

“Both gods and humans
enjoy their food.
So what’s the name of the spirit
who doesn’t like food?”

III. Serì (S.i,57)

1) Ðứng một bên, Thiên tử Serì nói lên bài kệ với Thế Tôn:

Cả hai loại Trời, Người,
Ðều ưa thích ăn uống,
Có Dạ-xoa tên nào,
Lại không thích ăn uống!

Buddha:

“Those who give with faith
and a clear and confident heart,
partake of food
in this world and the next.
So you should dispel stinginess,
overcoming that stain, and give a gift.
The good deeds of sentient beings
support them in the next world.”

(Thế Tôn)

Ai cho với lòng tin,
Với tâm tư thanh tịnh,
Ðược phần món ăn ấy,
Ðời này và đời sau.
Vậy hãy ngăn xan tham,
Bố thí, nhiếp cấu uế,
Chúng sanh vẫn hưởng thọ,
Công đức trong đời sau.

“It’s incredible, sir, it’s amazing, how well said this was by Master Gotama. He repeated the Buddha’s verses, and said:

2) -- Thật là hy hữu, bạch Thế Tôn! Thật là kỳ diệu, bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã nói điều khéo nói như vậy:

"Ai cho với lòng tin,
Với tâm tư thanh tịnh,
Ðược phần món ăn ấy,
Ðời này và đời sau.
Vậy hãy ngăn xan tham,
Bố thí, nhiếp cấu uế,
Chúng sanh vẫn hưởng thọ,
Công đức trong đời sau."

“Once upon a time, sir, I was a king named Serī, a giver, a donor, who praised giving. I gave gifts at the four gates to ascetics and brahmins, to paupers, vagrants, travelers, and beggars.

3) Bạch Thế Tôn, thuở xưa con là vị vua tên Serì ưa bố thí, là bậc thí chủ tán thán bố thí. Bạch Thế Tôn, tại bốn cửa thành, bố thí được phân phát nhân danh con, cho những ai đến xin, cho các vị Bà-la-môn và Sa-môn, cho các người nghèo đói và tàn phế, cho các nhà lữ hành và hành khất.

Then the ladies of my harem approached me and said: ‘Your Majesty gives gifts, but we don’t. Your Majesty, please support us to give gifts and make merit.’

4) Bạch Thế Tôn, khi con đến các cung phi của con, họ thưa với con: "Ðại vương thường hay bố thí, còn chúng con chưa bố thí. Lành thay nếu chúng con được nương tựa Ðại vương để bố thí và làm các công đức."

Then it occurred to me: ‘I’m a giver, a donor, who praises giving. When they say, “We would give gifts”, what am I to say?’ And so I gave the first gate to the ladies of my harem. There they gave gifts, while my own giving dwindled.

5) Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Ta là người ưa bố thí, là thí chủ tán thán bố thí. Nay ta phải trả lời như thế nào khi họ đến và thưa: 'Chúng ta hãy bố thí'?". Bạch Thế Tôn, con cho các cung phi cửa thành thứ nhất. Ở đây các cung phi được bố thí, và bố thí của con trở lui lại cho con.

Then my aristocrat vassals approached me and said: ‘Your Majesty gives gifts, the ladies of your harem give gifts, but we don’t. Your Majesty, please support us to give gifts and make merit.’

6) Rồi bạch Thế Tôn, các Sát-đế-lỵ (Khattiya) chư hầu của con đến con và thưa: "Ðại vương đã bố thí. Các cung phi đã bố thí. Chúng con chưa bố thí. Lành thay nếu chúng con được nương tựa Ðại vương để bố thí và làm các công đức".

Then it occurred to me: ‘I’m a giver, a donor, who praises giving. When they say, “We would give gifts”, what am I to say?’ And so I gave the second gate to my aristocrat vassals. There they gave gifts, while my own giving dwindled.

Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Ta là người ưa bố thí, là thí chủ tán thán bố thí. Nay ta phải trả lời như thế nào khi họ đến và thưa: "Chúng ta hãy bố thí"?". Bạch Thế Tôn, con cho các chư hầu Khattiya cửa thành thứ hai. Ở đây các chư hầu Khattiya được bố thí, và bố thí của con được trở lui lại cho con.

Then my troops approached me and said: ‘Your Majesty gives gifts, the ladies of your harem give gifts, your aristocrat vassals give gifts, but we don’t. Your Majesty, please support us to give gifts and make merit.’

7) Rồi bạch Thế Tôn, quân đội đến con và thưa: "Ðại vương đã bố thí. Các cung phi đã bố thí. Các chư hầu Khattiya đã bố thí. Chúng con chưa bố thí. Tốt lành thay nếu chúng con được nương tựa Ðại vương để bố thí và làm các công đức".

Then it occurred to me: ‘I’m a giver, a donor, who praises giving. When they say, “We would give gifts”, what am I to say?’ And so I gave the third gate to my troops. There they gave gifts, while my own giving dwindled.

Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Ta là người ưa bố thí, là thí chủ tán thán bố thí. Nay ta phải trả lời như thế nào khi họ đến và thưa: "Chúng ta hãy bố thí"?". Bạch Thế Tôn, con cho quân đội cửa thành thứ ba. Ở đây quân đội được bố thí và bố thí của con được trở lui lại cho con.

Then my brahmins and householders approached me and said: ‘Your Majesty gives gifts, the ladies of your harem give gifts, your aristocrat vassals give gifts, your troops give gifts, but we don’t. Your Majesty, please support us to give gifts and make merit.’

8) Rồi bạch Thế Tôn, các Bà-la-môn gia chủ đến con và thưa: "Ðại vương đã bố thí. Các cung phi đã bố thí. Các chư hầu Khattiya đã bố thí. Quân đội đã bố thí. Chúng con chưa bố thí. Tốt lành thay nếu chúng con được nương tựa Ðại vương để bố thí và làm các công đức!".

Then it occurred to me: ‘I’m a giver, a donor, who praises giving. When they say, “We would give gifts”, what am I to say?’ And so I gave the fourth gate to my brahmins and householders. There they gave gifts, while my own giving dwindled.

Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Ta là người ưa bố thí, là thí chủ tán thán bố thí. Nay ta phải trả lời như thế nào khi họ đến và thưa: "Chúng ta hãy bố thí"?". Bạch Thế Tôn, con cho các Bà-la-môn gia chủ cửa thành thứ tư. Ở đây các Bà-la-môn gia chủ được bố thí và bố thí của con được trở lui lại cho con.

Then my men approached me and said: ‘Now Your Majesty is not giving gifts at all!’

9) Rồi bạch Thế Tôn, các người của con đến con và thưa: "Nay Ðại vương không còn bố thí nào để cho nữa".

When they said this, I said to those men: ‘So then, my men, send half of the revenue from the outer districts to the royal compound. Then give half right there to ascetics and brahmins, to paupers, vagrants, travelers, and beggars.’

Khi được nói vậy, bạch Thế Tôn, con nói với các người ấy như sau: "Này các Ông, các thuế má thâu hoạch được từ các nước ngoài vào, một nửa hãy gửi vào trong nội thành, một nửa ngay tại chỗ ấy đem bố thí cho các vị Sa-môn, Bà-la-môn, các người nghèo và tàn tật, các nhà lữ hành và hành khất".

Sir, for a long time I made so much merit and did so many skillful deeds. I never reached any limit so as to say ‘there’s this much merit’ or ‘there’s this much result of merit’ or ‘for so long I’ll remain in heaven’.

10) Như vậy, bạch Thế Tôn, con không chấm dứt trong một thời gian dài các việc làm công đức, trong một thời gian dài các việc làm thiện, những việc làm được con xem như là công đức, hay như là công đức quả hay như là những điều kiện được sanh thiên giới.

It’s incredible, sir, it’s amazing, how well said this was by Master Gotama:

Those who give with faith
and a clear and confident heart,
partake of food
in this world and the next.
So you should dispel stinginess,
overcoming that stain, and give a gift.
The good deeds of sentient beings
support them in the next world.’”

11) Thật là hy hữu, bạch Thế Tôn! Thật là kỳ diệu, bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã nói lên điều khéo nói như vầy:

"Ai cho với lòng tin,
Với tâm tư thanh tịnh,
Ðược phần món ăn ấy,
Ðời này và đời sau.
Vậy hãy ngăn xan tham,
Bố thí, nhiếp cấu uế,
Chúng sanh vẫn hưởng thọ,
Công đức trong đời sau."

SN 2.24 With Ghaṭikāra - Ghaṭīkārasutta

Standing to one side, the god Ghaṭikāra recited this verse in the Buddha’s presence:

“Seven mendicants reborn in Aviha
have been freed.
With the complete ending of greed and hate,
they’ve crossed over clinging to the world.”

IV. Ghatìkara (S.i,60)

1) Ðứng một bên, Thiên tử Ghatìkara nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:

Ðược sanh Vô phiền thiên,
Bảy Tỷ-kheo giải thoát,
Ðoạn tận tham và sân,
Siêu thoát đời ái trược.

“Who are those who’ve crossed the marsh,
death’s domain so hard to pass?
Who, after leaving behind the human body,
have risen above celestial yokes?”

2) Vượt bùn, họ là ai?
Khó vượt lệnh thần chết,
Sau khi bỏ thân người,
Họ thoát ách chư Thiên.

“Upaka and Palagaṇḍa,
and Pukkusāti, these three;
Bhaddiya and Bhaddadeva,
and Bāhudantī and Piṅgiya.
They, after leaving behind the human body,
have risen above celestial yokes.”

3) Họ là Upaka,
Và Phalaganda,
Với Pukkusàti,
Hợp thành là ba vị.
Lại thêm Bhaddiya,
Với Khandadeva,
Và Bàhuraggi,
Cùng với Pingiya,
Sau khi bỏ thân người,
Họ thoát ách chư Thiên.

Buddha:

“You speak well of them,
who have let go the snares of Māra.
Whose teaching did they understand
to cut the bonds of rebirth?”

4) (Thế Tôn):

Ông nói điều tốt lành,
Về bảy Tỷ-kheo ấy,
Họ thoát ly, đoạn trừ,
Các cạm bẫy Ma vương.
Pháp họ biết, của ai
Ðoạn được hữu kiết sử?

(Ghatìkara):

“None other than the Blessed One!
None other than your instruction!
It was your teaching that they understood
to cut the bonds of rebirth.
Where name and form
cease with nothing left over;
understanding this teaching,
they cut the bonds of rebirth.”

5) (Ghatìkara):

Không ai ngoài Thế Tôn,
Chính thật giáo lý Ngài,
Họ biết pháp của Ngài,
Ðoạn được hữu kiết sử.
Chỗ nào danh và sắc,
Ðược đoạn diệt không dư,
Họ học được pháp ấy,
Ở đây từ nơi Ngài.
Nhờ vậy họ đoạn trừ,
Hữu kiết sử trói buộc.

Buddha:

“The words you say are deep,
hard to understand, so very hard to wake up to.
Whose teaching do you know
to be able to say such things?”

6) (Thế Tôn):

Lời Ông nói thâm sâu,
Khó biết, khó chứng ngộ,
Pháp Ông biết của ai,
Sao Ông không nói được?

(Ghatìkara):

“In the past I was a potter
in Vebhaliṅga called Ghaṭikāra.
I took care of my parents
as a lay follower of Buddha Kassapa.
I refrained from sexual intercourse,
I was celibate, non-carnal.
We lived in the same village;
in the past I was your friend.
I am the one who understands
that these seven mendicants have been freed.
With the complete ending of greed and hate,
they’ve crossed over clinging to the world.”

7) (Ghatìkara):

Thuở xưa, con thợ gốm,
Tại Vehalinga,
Và con được tên gọi,
Là Ghatìkara.
Chính con lo nuôi dưỡng
Cả mẹ lẫn cả cha,
Ðối với Phật Ca-diếp,
Con đệ tử tại gia.
Con viễn ly dâm dục,
Phạm hạnh, không thế vật,
Thuở xưa, con đồng hương,
Cũng là bạn của họ
Do vậy con biết họ,
Bảy Tỷ-kheo giải thoát,
Ðoạn tận tham và sân,
Vượt qua đời phiền trược.

Buddha:

“That’s exactly how it was,
just as you say, Bhaggava.
In the past you were a potter
in Vebhaliṅga called Ghaṭikāra.
You took care of your parents
as a lay follower of Buddha Kassapa.
You refrained from sexual intercourse,
you were celibate, non-carnal.
We lived in the same village;

8) (Thế Tôn):

Vậy này Bhaggava,
Chính như Ông vừa nói,
Thuở xưa, Ông thợ gốm,
Tại Vehalinga,
Và Ông được tên gọi,
Là Ghatìkara,
Chính Ông lo nuôi dưỡng
Cả mẹ lẫn cả cha,
Ðối với Phật Ca-diếp,
Ông đệ tử tại gia,
Ông viễn ly dâm dục,
Phạm hạnh, không thế vật.

We lived in the same village;
in the past you were my friend.”
“That’s how it was
when those friends of old met again.
Both of them have developed themselves,
and bear their final body.”

9) Thuở xưa, Ông đồng hương,
Cũng là bạn của Ta.
Như vậy là hội ngộ,
Giữa những bạn thuở xưa,
Cả hai khéo tu tập,
Mang thân này tối hậu.

SN 2.25 With Jantu - Jantusutta

So I have heard.

Now at that time several mendicants were staying in the Kosalan lands, in a wilderness hut on the slopes of the Himalayas. They were restless, insolent, fickle, gossipy, loose-tongued, unmindful, lacking situational awareness and immersion, with straying minds and undisciplined faculties.

V. Jantu ( S.i,61)

1) Như vầy tôi nghe.

Một thời một số đông Tỷ-kheo trú ở Kosala (Câu-tát-la), trên sườn núi Himavanta (Tuyết sơn), tại một cốc nhỏ trong rừng. Họ tự cao, tự mãn, dao động, lắm mồm lắm miệng, ăn nói huyên thuyên, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, tâm tư tán loạn, các căn không chế ngự.

Then on the fifteenth day sabbath the god Jantu went up to those mendicants and addressed them in verse:

“The mendicants used to live happily,
as disciples of Gotama.
Desireless they sought alms;
desireless they used their lodgings.
Knowing that the world was impermanent
they made an end of suffering.
But now they’ve made themselves hard to look after,
like chiefs in a village.
They eat and eat and then lie down,
unconscious in the homes of others.
Having raised my joined palms to the Saṅgha,
I speak here only about certain people.
They’re rejects, with no protector,
just like those who have passed away.
I’m speaking about
those who live negligently.
To those who live diligently
I pay homage.”

2) Rồi Thiên tử Jantu, vào đêm Bố-tát, ngày rằm, đi đến các Tỷ-kheo ấy, sau khi đến nói lên bài kệ với các Tỷ-kheo ấy:

Các Tỷ-kheo thuở xưa,
Sống thật chơn an lạc,
Họ thật là đệ tử,
Bậc Ðại Giác Cù-đàm.
Không ham tìm món ăn,
Không ham tìm chỗ trú,
Biết đời là vô thường,
Họ chấm dứt khổ đau.
Nay tự làm ác hạnh,
Như thôn trưởng trong làng.
Họ ăn, ăn ngả gục,
Thèm khát vật nhà người.
Con vái chào chúng Tăng,
Ðảnh lễ một vài vị
Kẻ khác, sống vất vưởng,
Không chỉ đạo, hướng dẫn.
Họ giống như thân thể
Kẻ chết bị quăng bỏ.
Những ai sống phóng dật,
Vì họ con nói lên,
Những ai không phóng dật,
Chân thành, con đảnh lễ.

SN 2.26 With Rohitassa - Rohitassasutta

At Sāvatthī.

Standing to one side, the god Rohitassa said to the Buddha:

“Sir, is it possible to know or see or reach the end of the world by traveling to a place where there’s no being born, growing old, dying, passing away, or being reborn?”

VI. Rohita (S.i,61)

1) Tại Sàvatthi (Xá-vệ).

2) Ðứng một bên, Thiên tử Rohitassa bạch Thế Tôn:

-- Bạch Thế Tôn, tại chỗ nào không có sanh, không có già, không có chết, không có diệt, không có khởi, làm sao, bạch Thế Tôn, với bộ hành, có thể biết được, hay thấy được, hay đạt được sự tận cùng của thế giới?

“Reverend, I say it’s not possible to know or see or reach the end of the world by traveling to a place where there’s no being born, growing old, dying, passing away, or being reborn.”

3) -- Này Hiền giả, tại chỗ nào không có sanh, không có già, không có chết, không có diệt, không có khởi, Ta nói rằng tại chỗ ấy, không có thể với bộ hành, biết được, hay thấy được, hay đạt được sự tận cùng của thế giới.

“It’s incredible, sir, it’s amazing, how well said this was by Master Gotama.

4) -- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã nói lên điều khéo nói như vầy: "Này Hiền giả, tại chỗ nào không sanh, không già, không chết, không diệt, không khởi, Ta nói rằng tại chỗ ấy, không có thể với bộ hành biết được, hay thấy được, hay đạt được sự tận cùng của thế giới".

Once upon a time, I was a seer called Rohitassa, son of Bhoja. I was a sky-walker with psychic power. I was as fast as a light arrow easily shot across the shadow of a palm tree by a well-trained expert archer with a strong bow.

5) Bạch Thế Tôn, thuở trước, con tên là Rohita con của Bhoja, có thần thông, có thể đi giữa hư không. Bạch Thế Tôn, tốc lực con mau lẹ cho đến con có thể bay, như người thợ bắn cung lão luyện, khéo tập, khéo luyện, thuần thục, thiện xảo, với một cây cung chắc mạnh không gì khó khăn, có thể bắn một mũi tên nhẹ bay vượt qua bóng tối của cây tala.

My stride was such that it could span from the eastern ocean to the western ocean. This wish came to me: ‘I will reach the end of the world by traveling.’

6) Và bạch Thế Tôn, bước đi của con dài cho đến con có thể bước từ biển phía Ðông qua biển phía Tây. Và ở nơi con, bạch Thế Tôn, khởi lên sự ước muốn như sau: "Với bộ hành, ta có thể đạt đến được sự tận cùng của thế giới".

Having such speed and stride, I traveled for my whole lifespan of a hundred years—pausing only to eat and drink, go to the toilet, and sleep to dispel weariness—and I passed away along the way, never reaching the end of the world.

7) Và bạch Thế Tôn, dầu cho tốc lực của con mau đến như vậy, và dầu cho con có bước dài đến như vậy, và dầu cho con không có dừng để ăn, hay uống, hay nhai, hay nếm, dầu cho con không có đại tiện, tiểu tiện, dầu cho con không ngủ, không bị mệt nhọc, không trừ cấu uế, dầu cho trăm năm là tuổi thọ thường tình, dầu cho trăm năm là mạng sống thường tình, tuy con đi hơn trăm năm và bị mệnh chung, con cũng không thể đạt đến sự tận cùng của thế giới.

It’s incredible, sir, it’s amazing, how well said this was by Master Gotama: ‘Reverend, I say it’s not possible to know or see or reach the end of the world by traveling to a place where there’s no being born, growing old, dying, passing away, or being reborn.’”

8) Thật là vi diệu, bạch Thế Tôn! Thật là hy hữu, bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã nói lên điều khéo nói như vầy: "Này Hiền giả, tại chỗ nào không sanh, không già, không chết, không diệt, không khởi. Ta nói rằng tại chỗ ấy, không có thể bộ hành, biết được hay thấy được sự tận cùng của thế giới. Ta nói như vậy".

“But Reverend, I also say there’s no making an end of suffering without reaching the end of the world. For it is in this fathom-long carcass with its perception and mind that I describe the world, its origin, its cessation, and the practice that leads to its cessation.

9) -- Này Hiền giả, nhưng Ta cũng không nói rằng không đạt được sự tận cùng của thế giới thời chấm dứt cuộc khổ đau. Này Hiền giả, chính trong cái thân thể dài một tầm có tưởng, có ý này, Ta tuyên bố thế giới, nguyên nhân của thế giới, sự đoạn diệt thế giới và con đường đưa đến sự đoạn diệt của thế giới.

The end of the world can never
be reached by traveling.
But without reaching the end of the world,
there’s no release from suffering.
So a clever person, understanding the world,
has completed the spiritual journey, and gone to the end of the world.
A peaceful one, knowing the end of the world,
does not hope for this world or the next.”

10) Bộ hành không bao giờ
Ðạt được thế giới tận,
Không đạt thế giới tận,
Không thể thoát khỏi khổ.
Do vậy, bậc Hiền thiện,
Thế gian giải, Thiện tuệ,
Ðạt đến thế giới tận,
Phạm hạnh được viên thành.
Với tâm tư định tĩnh,
Biết được thế giới tận,
Không ước vọng đời này,
Không ước vọng đời sau.

SN 2.27 - With Nanda - Nandasutta

Standing to one side, the god Nanda recited this verse in the Buddha’s presence:

“Time flies, nights pass by,
the stages of life leave us one by one.
Seeing this peril in death,
you should do good deeds that bring happiness.”

VI. Nanda: (S.i,62) (Xem trước I, 1*4).

1) Ðứng một bên, Thiên tử Nanda nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:

Thời gian lặng trôi qua,
Ðêm ngày luôn di động,
Tuổi tác buổi thanh xuân,
Tiếp tục bỏ chúng ta.
Những ai chịu quán sát,
Sợ hãi tử vong này,
Hãy làm các công đức,
Ðược hưởng cảnh an lạc.

Buddha:

“Time flies, nights pass by,
the stages of life leave us one by one.
Seeing this peril in death,
one looking for peace would drop the world’s bait.”

2) (Thế Tôn):

Thời gian lặng trôi qua,
Ðêm ngày luôn di động,
Tuổi tác buổi thanh xuân,
Tiếp tục bỏ chúng ta.
Những ai chịu quán sát,
Sợ hãi tử vong này,
Hãy bỏ mọi thế lợi,
Ðược hưởng chơn tịch tịnh.

SN 2.28 With Nandivisāla - Nandivisālasutta

Standing to one side, the god Nandivisāla addressed the Buddha in verse:

“Four are its wheels, and nine its doors;
it’s filled with greed and tied up;
and it’s born from a bog. Great hero,
how am I supposed to live like this?”

VII. Nandivisàla: (S.i,63)

1) Ðứng một bên, Thiên tử Nandivisàla nói lên bài kệ với Thế Tôn:

Bốn bánh xe chín cửa,
Ðầy uế, hệ lụy tham,
Chìm đắm trong bùn nhơ,
Ôi! Thưa bậc Ðại Hùng,
Sanh thú Ngài như vậy,
Tương lai sẽ thế nào?

Buddha:

“Having cut the strap and harness—
wicked desire and greed—
and having plucked out craving, root and all:
that’s how you’re supposed to live like this.”

2) (Thế Tôn):

Cắt hỷ và buộc ràng,
Dục tham và tà ác,
Ái căn được đoạn tận,
Sanh thú sẽ như vậy.

SN 2.29 With Susīma - Susimasutta

At Sāvatthī.

Then Venerable Ānanda went up to the Buddha, bowed, and sat down to one side. The Buddha said to him:

“Ānanda, do you like Sāriputta?”

IX. Susima (S.i,63)

1) Nhân duyên ở Sàvatthi.

2) Rồi Ðại đức Ananda đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Ðại đức Ananda đang ngồi một bên:

-- Này Ananda, Ông có hoan hỷ đối với Sàriputta không?

“Sir, who on earth would not like Venerable Sāriputta unless they’re a fool, a hater, delusional, or mentally deranged? Venerable Sāriputta is astute, he has great wisdom, widespread wisdom, laughing wisdom, swift wisdom, sharp wisdom, and penetrating wisdom. He has few wishes, he’s content, secluded, aloof, and energetic. He gives advice and accepts advice; he accuses and criticizes wickedness.”

3) -- Bạch Thế Tôn, ai là người không ngu si, không ác tâm, không si ám, không loạn tâm lại có thể không hoan hỷ đối với Tôn giả Sàriputta? Bạch Thế Tôn, hiền trí là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, đại tuệ là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, quảng tuệ là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, hỷ tuệ là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, tiệp tuệ là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, lợi tuệ là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, quyết trạch tuệ là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, ít dục là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, biết đủ là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, viễn ly là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, bất cộng trú là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, tinh cần, tinh tấn là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, biện tài là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, nghe lời trung ngôn là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, cáo tội trung thực là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, chỉ trích ác pháp là Tôn giả Sàriputta.

Who on earth would not like Venerable Sāriputta unless they’re a fool, a hater, delusional, or mentally deranged?”

Bạch Thế Tôn, ai là người không ngu si, không ác tâm, không si ám, không loạn tâm lại có thể không hoan hỷ đối với Tôn giả Sàriputta?

“That’s so true, Ānanda! That’s so true! Who on earth would not like Venerable Sāriputta unless they’re a fool, a hater, delusional, or mentally deranged?” And the Buddha repeated all of Ānanda’s terms of praise.

4) -- Như vậy là phải, này Ananda. Như vậy là phải, này Ananda. Này Ananda, ai là người không ngu si, không ác tâm, không si ám, không loạn tâm lại có thể không hoan hỷ đối với Sàriputta? Này Ananda, hiền trí là Sàriputta. Này Ananda, đại tuệ là Sàriputta. Này Ananda, quảng tuệ là Sàriputta. Này Ananda, hỷ tuệ là Sàriputta. Này Ananda, tiệp tuệ là Sàriputta. Này Ananda, lợi tuệ là Sàriputta. Này Ananda, quyết trạch tuệ là Sàriputta. Này Ananda, ít dục là Sàriputta. Này Ananda, biết đủ là Sàriputta. Này Ananda, viễn ly là Sàriputta. Này Ananda, bất cọng trú là Sàriputta. Này Ananda, biện tài là Sàriputta. Này Ananda, nghe lời trung ngôn là Sariputta. Này Ananda, cáo tội trung thực là Sàriputta. Này Ananda, chỉ trích ác pháp là Sàriputta. Này Ananda, ai là người không ngu si, không ác tâm, không si ám, không loạn tâm, lại có thể không hoan hỷ đối với Sàriputta?

While this praise of Sāriputta was being spoken, the god Susīma approached the Buddha, escorted by a large assembly of gods. He bowed, stood to one side,

5) Rồi Thiên tử Susima, trong khi được nghe lời tán thán về Tôn giả Sàriputta, với đại chúng Thiên tử đoanh vây, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.

stood to one side, and said to him:

“That’s so true, Blessed One! That’s so true, Holy One! Who on earth would not like Venerable Sāriputta unless they’re a fool, a hater, delusional, or mentally deranged?” And he too repeated all the terms of praise of Sāriputta, adding: “For I too, sir, whenever I go to an assembly of gods, frequently hear the same terms of praise.”

6) Ðứng một bên, Thiên tử Susima bạch Thế Tôn:

-- Như vậy là phải, bạch Thế Tôn. Như vậy là phải, bạch Thiện Thệ. Bạch Thế Tôn, ai là người không ngu si, không ác tâm, không si ám, không loạn tâm lại có thể không hoan hỷ đối với Tôn giả Sàriputta?. Bạch Thế Tôn, hiền trí là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, đại tuệ là Tôn giả Sàriputta...... Bạch Thế Tôn, chỉ trích ác pháp là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, ai là người không ngu si, không ác tâm, không si ám, không loạn tâm lại có thể không hoan hỷ đối với Tôn giả Sàriputta? Bạch Thế Tôn, con đi đến chúng Thiên tử nào, con đều được nghe nhiều lần tiếng nói như vậy: "Hiền trí là Tôn giả Sàriputta... ... chỉ trích ác pháp là Tôn giả Sàriputta. Ai không ngu si, không ác tâm, không si ám, không loạn tâm lại có thể không hoan hỷ đối với Tôn giả Sàriputta?"

While this praise of Sāriputta was being spoken, the gods of Susīma’s assembly—uplifted and overjoyed, full of rapture and happiness—generated a rainbow of bright colors.

7) Rồi chúng Thiên tử của Thiên tử Susima, trong khi những lời tán thán Tôn giả Sàriputta được lớn tiếng nói lên, họ hoan hỷ, hỷ duyệt, hân hoan và thân chói sáng màu sắc thù thắng.

Suppose there was a beryl gem that was naturally beautiful, eight-faceted, with expert workmanship. When placed on a cream rug it would shine and glow and radiate. In the same way, the gods of Susīma’s assembly … generated a rainbow of bright colors.

8) Ví như một hòn lưu ly bảo châu, đẹp đẽ, trong suốt, có tám mặt, khéo giũa, khéo mài, được đặt trên một tấm màn màu vàng da cam, chói sáng, chiếu sáng và bừng sáng. Cũng vậy, chúng Thiên tử của Thiên tử Susima, trong khi những lời tán thán Tôn giả Sàriputta được lớn tiếng nói lên, họ hoan hỷ, hỷ duyệt, hân hoan và thân chói sáng màu sắc thù thắng.

Suppose there was an ornament of rare gold, fashioned by an expert smith, expertly wrought in the forge. When placed on a cream rug it would shine and glow and radiate. In the same way, the gods of Susīma’s assembly … generated a spectrum of bright colors.

9) Ví như một đồ trang sức bằng vàng mịn được một người thợ vàng thiện xảo, khéo đập, khéo mài, đặt trên một tấm màn màu vàng da cam, chói sáng, chiếu sáng và bừng sáng. Cũng vậy, Thiên tử chúng của Thiên tử Susima... ... và thân chói sáng màu sắc thù thắng.

Suppose that after the rainy season the sky was clear and cloudless. At the crack of dawn, the Morning Star shines and glows and radiates. In the same way, the gods of Susīma’s assembly … generated a spectrum of bright colors.

10) Ví như trong khi đêm đã gần sáng, sao mai chói sáng, chiếu sáng và bừng sáng. Cũng vậy, chúng Thiên tử của Thiên tử Susima... ... và thân chói sáng màu sắc thù thắng.

Suppose that after the rainy season the sky was clear and cloudless. As the sun rises, it would dispel all the darkness from the sky as it shines and glows and radiates. In the same way, the gods of Susīma’s assembly … generated a spectrum of bright colors.

11) Ví như trong mùa thu, trên trời các vòng mây đã được bay sạch, mặt trời mọc lên giữa trời, đánh tan màn đêm, khắp giữa hư không chói sáng, chiếu sáng và bừng sáng. Cũng vậy, chúng Thiên tử của Thiên tử Susima, trong khi những lời tán thán Tôn giả Sàriputta được lớn tiếng nói lên, họ hoan hỷ, hỷ duyệt, hân hoan và thân chói sáng màu sắc thù thắng.

Then the god Susīma recited this verse about Venerable Sāriputta in the Buddha’s presence.

“He’s considered to be an astute person,
Sāriputta, free of anger.
Few in wishes, sweet, tamed,
the seer shines in the Teacher’s praise!”

12) Rồi Thiên tử Susima, nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn về Sàriputta:

Ngài Sàriputta,
Ðược mọi người xác nhận,
Là bậc Ðại hiền trí,
Không phẫn hận, ít dục,
Nhu thuận và điều phục,
Ðược Ðạo Sư tán thán.

Then the Buddha replied to Susīma with this verse about Venerable Sāriputta:

“He’s considered to be an astute person,
Sāriputta, free of anger.
Few in wishes, sweet, tamed;
developed and well-tamed, he bides his time.”

13) Rồi Thế Tôn nói lên bài kệ về Sàriputta cho Thiên tử Susima:

Về Sàriputta,
Mọi người đều xác nhận,
Là bậc Ðại hiền trí,
Không phẫn hận, ít dục,
Nhu thuận và điều phục,
Như người khéo điều phục,
Chờ đợi thời giờ đến,
Ðể hưởng quả thuần thục.

SN 2.30 The Disciples of Various Sectarians - Nānātitthiyasāvakasutta

So I have heard. At one time the Buddha was staying near Rājagaha, in the Bamboo Grove, the squirrels’ feeding ground.

X. Các Ngoại Ðạo Sư (S.i,65)

1) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở thành Vương Xá, tại Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc.

Then, late at night, several glorious gods lit up the entire Bamboo Grove. They were Asama, Sahalī, Niṅka, Ākoṭaka, Vetambarī, and Māṇavagāmiya, and all of them were disciples of various sectarian teachers. They went up to the Buddha, bowed, and stood to one side.

2) Rồi rất đông Thiên tử, là đệ tử của nhiều ngoại đạo sư Asama, Sahalì, Ninka, Akotaka, Vetambarì và Mànavà Gàmiya, khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.

Standing to one side, the god Asama recited this verse about Pūraṇa Kassapa in the Buddha’s presence:

“In injuring and killing here,
in beating and extortion,
Kassapa saw no evil,
nor any merit for oneself.
What he taught should truly be trusted,
he’s worthy of esteem as Teacher.”

3) Ðứng một bên, Thiên tử Asama nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn về Pùrana Kassapa:

Ở đây nếu có người,
Chém giết hay hại người,
Kassapa không thấy,
Qua các hành động ấy,
Là ác nghiệp cho mình,
Hay công đức cho mình.
Ngài tuyên bố như vậy,
Làm căn bản đức tin,
Ngài thật bậc Ðạo sư,
Ðáng được tôn kính, lễ.

Then the god Sahalī recited this verse about Makkhali Gosala in the Buddha’s presence:

“Through mortification in disgust of sin he became well restrained.
He gave up arguing with people.
Refraining from false speech, he spoke the truth.
Surely such a man does no wrong!”

4) Rồi Thiên tử Sahali nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn về Makkhali Gosàla:

Khổ hạnh và yếm ly,
Khéo điều phục, tự chế,
Từ bỏ các lời nói,
Gây đấu tranh với người,
Thăng bằng, tránh phạm tội,
Nói những lời thực ngữ,
Ngài không bao giờ làm,
Các tội phạm như vậy.

Then the god Niṅka recited this verse about Nigaṇṭha Nātaputta in the Buddha’s presence:

“Disgusted at sin, a self-disciplined mendicant,
well restrained in the four controls;
explaining what is seen and heard:
surely he can be no sinner!”

5) Rồi Thiên tử Ninka nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn về Nigantha Nàtaputta:

Vị Tỷ-kheo yếm ly,
Sáng suốt theo tế hạnh,
Khéo theo bốn tự chế,
Chỉ nói điều nghe thấy,
Không phạm điều lỗi lầm.

Then the god Ākoṭaka recited this verse about various sectarian teachers in the Buddha’s presence:

“Pakudhaka, Kātiyāna, and Nigaṇṭha,
as well as this Makkhali and Pūraṇa:
Teachers of communities, attained ascetics,
surely they weren’t far from truly good men!”

6) Rồi Thiên tử Akotaka nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn về các ngoại đạo sư:

Các ngoại đạo sư này,
Như Pakudhaka,
Và Kàtiyàna,
Cùng với Nigantha,
Kể cả Makkhali,
Và cả Puurana,
Mỗi vị là Ðạo sư,
Chúng đệ tử của mình,
Ðã đạt Sa-môn quả,
Không xa bậc Chân nhân.

Then the god Vetambarī replied to the god Ākoṭaka in verse:

“Though the wretched jackal howls along,
it never equals the lion.
A naked liar with suspicious conduct,
though they teach a community, doesn’t resemble the good.”

7) Rồi Thiên tử Vetambarì nói lên bài kệ này với Thiên tử Akotaka:

Con giả can ghê tởm,
Có tru sủa thế nào,
Làm sao sánh bằng được,
Tiếng rống con sư tử.
Lõa thể, nói vọng ngôn,
Lãnh đạo môn đồ chúng,
Làm các hạnh tà vạy,
Làm sao sanh thiện nhân?

Then Māra the Wicked took possession of the god Vetambarī and recited this verse in the Buddha’s presence:

“Those dedicated to mortification in disgust of sin,
safeguarding their seclusion,
attached to form,
they rejoice in the heavenly realm.
Indeed, those mortals give correct instructions
regarding the next world.”

8) Rồi Ác ma nhập vào Thiên tử Vetambarì nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:

Tu khổ hạnh yếm ly,
Sống viễn ly hành xác,
Ðắm say trong sắc pháp,
Hoan lạc, mê Thiên giới.
Dầu họ bị tử vong,
Chắc chắn họ giảng dạy,
Hướng dẫn thật chơn chánh,
Ðưa đến đời về sau.

Then the Buddha, knowing that this was Māra the Wicked, replied to him in verse:

“Whatever forms there are here or beyond,
and those of shining beauty in the sky,
all of these you praise, Namuci,
like bait tossed out for catching fish.”

9) Rồi Thế Tôn biết được chính là Ác ma, liền nói lên bài kệ cho Ác ma:

Phàm những sắc pháp gì,
Ðời này hay đời sau,
Với màu sắc thù diệu,
Chói sáng giữa hư không,
Tất cả những sắc ấy,
Ðược Ma vương tán thán,
Chúng chỉ là bẫy mồi,
Quăng ra để diệt cá.

Then the god Māṇavagāmiya recited this verse about the Buddha in his presence:

“Of all the mountains of Rājagaha,
Vipulo’s said to be the best.
Seta is the best of the Himalayan peaks,
and the sun, of travelers in space.
The ocean is the best of seas,
and the moon, of lights that shine at night.
But in all the world with its gods,
the Buddha is declared foremost.”

10) Rồi Thiên tử Mànava Gàmiya nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn về Thế Tôn:

Trong tất cả ngọn núi,
Ở tại Vương Xá thành,
Ngọn núi Vipula,
Ðược gọi là tối thắng.
Trong dãy núi Tuyết Sơn,
Ngọn Bạch Sơn tối thắng.
Giữa các loại không hành,
Mặt trời là tối thắng.
Giữa các loại thủy lộ,
Ðại dương là tối thắng.
Trong các loài tinh tú,
Mặt trăng là tối thắng.
Giữa Thiên giới, địa giới,
Phật được gọi tối thượng.

Cập nhập ngày: Thứ Sáu ngày 27-08-2021

webmasters: Minh Hạnh & Thiện Pháp, Thủy Tú & Phạm Cương


 | | trở về đầu trang | Home page |