Chapter 1

Thus have I heard. The Blessed One was once staying at Kusinārā in the Upavattana, the Sāla grove of the Mallas, between the twin Sāla trees, at the time of his death.

Tụng phẩm I

1. Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn trú ngụ tại Upavattana (Hồ-bạt-đan) ở Kusinàrà (Câu-thi-la) trong rừng Sà la của giòng họ Mallà, giữa hai cây Sàla song thọ, khi ngài sắp nhập Niết bàn.

Now the venerable Ānanda went up to the place where the Blessed One was, and bowed down before him, and took his seat respectfully on one side. And when he was so seated, the venerable Ānanda said to the Blessed One:

2. Lúc ấy, tôn giả Ananda đến tại chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài, ngồi xuống một bên. Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:

“Let not the Blessed One die in this little wattle and daub town, in this town in the midst of the jungle, in this branch township. For, Lord, there are other great cities, such as Campā, Rājagaha, Sāvatthī, Sāketa, Kosambī and Benāres. Let the Blessed One die in one of them. There are many wealthy nobles and Brahmans and heads of houses, believers in the Tathāgata, who will pay due honour to the remains of the Tathāgata.”

- Bạch thế Tôn, Thế Tôn chớ có diệt độ tại đô thị nhỏ bé này, tại đô thị hoang vu này, tại đô thị phụ thuộc này. Bạch Thế Tôn, có những đô thị khác to lớn hơn như Campà (Chiêm-bà), Ràjagahà (Vương Xá) Sàvatthi (Xá-vệ), Sàketa (Sa-kỳ), Kosambi (Kiêu-thưởng-di), Bàrànasi (Ba-la-nại). Thế Tôn hãy diệt độ tại những chỗ ấy. Tại những chỗ ấy có đại chúng Sát đế lỵ, có đại chúng Bà la môn, có đại chúng Gia chủ tin tưởng Như Lai, các vị này sẽ cúng dường thân xá-lợi Như Lai.

“Say not so, Ānanda! Say not so, Ānanda, that this is but a small wattle and daub town, a town in the midst of the jungle, a branch township. Long ago, Ānanda, there was a king, by name Mahā-Sudassana, a king of kings, a righteous man who ruled in righteousness, an anointed Kshatriya, Lord of the four quarters of the earth, conqueror, the protector of his people, possessor of the seven royal treasures. This Kusinārā, Ānanda, was the royal city of king Mahā-Sudassana, under the name of Kusāvatī, and on the east and on the west it was twelve leagues in length, and on the north and on the south it was seven leagues in breadth. That royal city Kusāvatī, Ānanda, was mighty, and prosperous, and full of people, crowded with men, and provided with all things for food. Just, Ānanda, as the royal city of the gods, Ālakamandā by name, is mighty, prosperous, and full of people, crowded with the gods, and provided with all kinds of food, so. Ānanda, was the royal city Kusāvatī mighty and prosperous, full of people, crowded with men, and provided with all kinds of food. Both by day and by night, Ānanda, the royal city Kusāvatī resounded with the ten cries; that is to say, the noise of elephants, and the noise of horses, and the noise of chariots; the sounds of the drum, of the tabor, and of the lute; the sound of singing, and the sounds of the cymbal and of the gong; and lastly, with the cry, ‘Eat, drink, and be merry!’

3. Này Ananda, chớ có nói như vậy. Này Ananda, chớ có nói đô thị này nhỏ bé, đô thị này hoang vu, đô thị này phụ thuộc. Này Ananda, thuở xưa có vị vua tên là Mahà-Sudassana (Ðại Thiện Kiến). Vị này là Chuyển Luân vương trị vì như pháp, là vị Pháp vương, thống lãnh bốn thiên hạ, chinh phục hộ trì quốc dân, đầy đủ bảy báu. Này Ananda, đô thị Kusinàrà này là kinh đô của vua Ðại Thiện Kiến, tên là Kusàvati (Câu-xá-bà-đề), phía Ðông và phía Tây rộng đến mười hai do tuần, phía Bắc và phía Nam rộng đến mười bảy do tuần. Này Ananda, kinh đô Susàvati này rất phồn thịnh, phú cường, dân cư đông đúc, Thiên chúng sung mãn, thực thẩm phong phú. Này Ananda, cũng như kinh đô Alakamanda của chư Thiên rất phồn thịnh, phú cường, dân cư đông đúc, Thiên chúng sung mãn, thực phẩm phong phú. Cũng vậy này Ananda, kinh đô Kusàvati này cũng rất phồn thịnh, phú cường, dân cư đông đúc, Thiên chúng sung mãn. Này Ananda, kinh đô Kusàvati này ngày đêm vang dậy mười loại tiếng, tức là tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng xe, tiếng trống lớn, tiếng trống nhỏ, tiềng tỳ bà, tiếng hát, tiếng xập xỏa, tiếng chuông và tiếng thứ mười là lời kêu gọi: "Hãy uống đi, hãy ăn đi!".

“The royal city Kusāvatī, Ānanda, was surrounded by Seven Ramparts. Of these, one rampart was of gold, and one of silver, and one of beryl, and one of crystal, and one of agate, and one of coral, and one of all kinds of gems!

4. Này Ananda, kinh đô Kusàvati có bảy bức thành bao bọc, một loại bằng vàng, một loại bằng bạc, một loại bằng lưu ly, một loại bằng thủy tinh, một loại bằng san hô, một loại bằng xa cừ, một loại bằng mọi thứ báu.

“To the royal city Kusāvatī, Ānanda, there were Four Gates. One gate was of gold, and one of silver, and one of jade, and one of crystal. At each gate seven pillars were fixed; in height as three times or as four times the height of a man. And one pillar was of gold, and one of silver, and one of beryl, and one of crystal, and one of agate, and one of coral, and one of all kinds of gems.

5. Này Ananda, kinh đô Kusàvati có bốn loại cửa: một loại bằng vàng, một loại bằng bạc, một loại bằng lưu ly, một loại bằng thủy tinh. Tại mỗi cửa, có dựng bảy cột trụ, bề cao khoảng ba hay bốn lần thân người. Một cột trụ bằng vàng, một cột trụ bằng bạc, một cột trụ bằng lưu ly, một cột trụ bằng thủy tinh, một cột trụ bằng san hô, một cột trụ bằng xa cừ, một cột trụ bằng mọi thứ báu.

“The royal city Kusāvatī, Ānanda, was surrounded by Seven Rows of Palm Trees. One row was of palms of gold, and one of silver, and one of beryl, and one of crystal, and one of agate, and one of coral, and one of all kinds of gems.

6. Này Ananda, kinh đô Kasàvati có bảy hàng cây tàla bao học, một hàng bằng vàng, một hàng bằng bạc, một hàng bằng lưu ly, một hàng bằng xa cừ, một hàng bằng san hô, một hàng bằng xa cừ, một hàng bằng mọi thứ báu.

“And the Golden Palms had trunks of gold, and leaves and fruits of silver. And the Silver Palms had trunks of silver, and leaves and fruits of gold. And the Palms of Beryl had trunks of beryl, and leaves and fruits of crystal. And the Crystal Palms had trunks of crystal, and leaves and fruits of beryl. And the Agate Palms had trunks of agate, and leaves and fruits of coral. And the Coral Palms had trunks of coral, and leaves and fruits of agate. And the Palms of every kind of Gem had trunks and leaves and fruits of every kind of gem.

Cây tàla bằng vàng, có thân cây bằng vàng, có lá và trái cây bằng bạc. Cây tàla bằng bạc có thân cây bằng bạc, có lá và trái cây bằng vàng. Cây tàla bằng lưu ly, có thân cây bằng lưu ly, có lá và trái cây bằng thủy tinh. Cây tàla bằng thủy tinh, có thân cây bằng thủy tinh, có lá và trái cây bằng lưu ly. Cây tàla bằng san hô, có thân cây bằng san hô, có lá và trái cây bằng xa cừ. Cây tàla bằng xa cừ, có thân cây bằng xa cừ, có lá và trái cây bằng san hô. Cây tàla bằng mọi loại báu, có thân cây bằng mọi loại báu, có là và trái cây bằng mọi loại báu.

“And when those rows of palm trees, Ānanda, were shaken by the wind, there arose a sound sweet, and pleasant, and charming, and intoxicating. Just, Ānanda, as the seven kind of instruments yield, when well played upon, to the skilful man, a sound sweet, and pleasant, and charming, and intoxicating—just so, Ānanda, when those rows of palm trees were shaken by the wind, there arose a sound sweet, and pleasant, and charming, and intoxicating.

Này Ananda, khi những cây tàla này được gió rung chuyển, một âm thanh vi diệu, khả ái, đẹp ý, mê lý khởi lên, cũng như năm loại nhạc khí, khi được một nhạc sĩ thiện xảo tấu nhạc, phát ra một âm thanh vi diệu, khả ái, đẹp ý, mê ly. Cũng vậy, Ananda, khi những hàng cây tàla này được gió rung chuyển, một âm thanh vi diệu, khả ái, đẹp ý, mê ly khởi lên.

And whoever, Ānanda, in the royal city Kusāvatī were at that time gamblers, drunkards, and given to drink, they used to dance round together to the sound of those palms when shaken by the wind.

Này Ananda, lúc bấy giờ, nếu ở tại kinh đô Kusàvati có những kẻ cờ bạc, rượu chè, họ sẽ nhảy múa theo những âm điệu của những hàng cây tàla này khi được gió thổi.

“The Great King of Glory, Ānanda, was the possessor of Seven Precious Things, and was gifted with Four Marvellous Powers. What are those seven?

7. Này Ananda, vua Ðại Thiện Kiến, có đủ bảy món báu và bốn Như ý đức. Thế nào là bảy?

“In the first place, Ānanda, when the Great King of Glory, on the Sabbath day, on the day of the full moon, had purified himself, and had gone up into the upper story of his palace to keep the sacred day, there then appeared to him the heavenly Treasure of the Wheel, with its nave, its tire, and all its thousand spokes complete.

Này Ananda, vua Ðại Thiện Kiến, vào ngày Bố-tát trăng rằm sau khi tắm rửa, lên cao điện để trai giới, thời Thiên luân báu hiện ra, đủ một ngàn cọng xe, với vành xe, trục xe, đủ mọi bộ phận.

“When he beheld it the Great King of Glory thought: ‘This saying have I heard, “When a king of the warrior race, an anointed king, has purified himself on the Sabbath day, on the day of the full moon, and has gone up into the upper story of his palace to keep the sacred day; if there appear to him the heavenly Treasure of the Wheel, with its nave, its tire, and all its thousand spokes complete-that king becomes a king of kings invincible.” May I, then, become a king of kings invincible.’

Thấy vậy, vua Ðại Thiện Kiến suy nghĩ: "Ta nghe như vầy: Khi một vị vua Sát-đế-lỵ, đã làm lễ quán đảnh vào ngày Bố-tát trăng rằm, sau khi tắm rửa, lên cao điện trai giới, nếu có Thiên luân báu hiện ra, đủ một ngàn cọng xe, với vành xe và trục xe, đầy đủ mọi bộ phận, thời vị vua ấy là Chuyển Luân vương. Như vậy ta có thể là Chuyển Luân vương".

“Then, Ānanda, the Great King of Glory rose from his seat, and reverently uncovering from one shoulder his robe, he held in his left hand a pitcher, and with his right hand he sprinkled water up over the Wheel, as he said: ‘Roll onward, O my Lord, the Wheel! O my Lord, go forth and overcome!’

8. Này Ananda, rồi vua Ðại Thiện Kiến từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y trên một vai, tay trái cầm bình nước và với tay phải rưới nước trên xe báu và nói: Này xe báu hãy lăn khắp, này xe báu hãy chinh phục!".

“Then the wondrous Wheel, Ānanda, rolled onwards towards the region of the East, and after it went the Great King of Glory, and with him his army, horses, and chariots, and elephants, and men. And in whatever place, Ānanda, the Wheel stopped, there the Great King of Glory took up his abode, and with him his army, horses, and chariots, and elephants, and men.

Và này Ananda, xe báu lăn về hướng Ðông và vua Ðại Thiện Kiến cùng với bốn loại binh chủng đi theo sau. Và này Ananda, chỗ nào xe báu dừng lại, chỗ ấy vua Ðại Thiện Kiến an trú cùng với bốn loại binh chủng.

“Then, Ānanda, all the rival kings in the region of the East came to the Great King of Glory and said: ‘Come, O mighty king! Welcome, O mighty king! All is thine, O mighty king! Do thou, O mighty king, be a Teacher to us!’

9. Này Ananda, các địch vương ở phương Ðông đến yết kiến vua Ðại Thiện Kiến và nói: "Hãy đến đây, Ðại vương! Hoan nghênh, đón mừng Ðại vương! Tâu Ðại vương, tất cả đều thuộc của Ngài. Ðại vương hãy giáo huấn cho chúng tôi!".

“Thus spake the Great King of Glory: ‘Ye shall slay no living thing. Ye shall not take that which has not been given. Ye shall not act wrongly touching the bodily desires. Ye shall speak no lie. Ye shall drink no maddening drink. Ye shall eat as ye have eaten.’

Vua Ðại Thiện Kiến nói rằng: "Không được sát sanh. Không được lấy của không cho. Không được tà dâm. Không được nói láo. Không được uống rượu. Hãy ăn uống cho thích nghi".

“Then, Ānanda, all the rival kings in the region of the East became subject unto the Great King of Glory.

Này Ananda, tất cả địch vương ở phương Ðông đều trở thành chư hầu vua Ðại Thiện Kiến.

“But the wondrous Wheel, Ānanda, having plunged down into the great waters in the East, rose up out again, and rolled onward to the region of the South [and there all happened as had happened in the region of the East. And in like manner the wondrous Wheel rolled onward to the most extreme boundary of the West and of the North; and there, too, all happened as had happened in the region of the East].

10. Này Ananda, rồi xe báu lăn xuống biển lớn ở phương Ðông rồi nổi lên rồi lăn về phương Nam..., lặn xuống biển lớn ở phương Nam, rồi nổi lên và lặn về phương Tây..., lặn xuống biển lớn ở phương Tây, rồi nổi lên và lặn về phương Bắc và vua Ðại Thiện Kiến cùng với bốn loại binh chủng đi theo sau. Này Ananda, chỗ nào xe báu dừng lại chỗ ấy vua Ðại Thiện Kiến an trú cùng với bốn loại binh chủng.

“Now when the wondrous Wheel, Ānanda, had gone forth conquering and to conquer o’er the whole earth to its very ocean boundary, it returned back again to the royal city of Kusāvatī and remained fixed on the open terrace in front of the entrance to the inner apartments of the Great King of Glory, as a glorious adornment to the inner apartments of the Great King of Glory.

Này Ananda, các địch vương ở phương Bắc đến yết kiến vua Ðại Thiện Kiến và nói: "Hãy đến đây, Ðại vương! Hoan nghênh đón mừng Ðại vương! Tâu Ðại vương tất cả thuộc của Ngài. Ðại vương hãy giáo huấn cho chúng tôi!".Này Ananda, tất cả địch vương ở phương Bắc đều trở thành chư hầu của vua Ðại Thiện Kiến.

“Such, Ānanda, was the wondrous Wheel which appeared to the Great King of Glory.

 

Này Ananda, xe báu ấy sau khi chinh phục trái đất cho đến hải biên, liền trở về kinh đô Kusàvati, và đứng trước pháp đình, trên cửa nội cung như một trang bảo cho nội cung của vua Ðại Thiện Kiến".

“Now further, Ānanda, there appeared to the Great King of Glory the Elephant Treasure, all white, sevenfold firm, wonderful in power, flying through the sky—the Elephant-King, whose name was ‘The Changes of the Moon.’

12. Lại nữa này Ananda, voi báu xuất hiện cho vua Ðại Thiện Kiến, thuần trắng, bảy xứ kiên cường, có thần lực, phi hành trên hư không và tên là Uposatha (Bố-tát).

“When he beheld it the Great King of Glory was pleased at heart at the thought ‘Auspicious were it to ride upon that Elephant, if only it would submit to be controlled!’

Thấy voi báu, vua Ðại Thiện Kiến sanh tâm hoan hỷ và nghĩ: "Lành thay được cỡi con voi này nếu nó chịu sự điều ngự"

“Then, Ānanda, the wondrous Elephant—like a fine elephant of noble blood long since well trained—submitted to control.

Và này Ananda, như một con hiền tượng quí phái chịu sự điều ngự lâu ngày, con voi báu ấy tự đến để chịu sự điều ngự.

“When as before, Ānanda, the Great King of Glory, to test that wondrous Elephant, mounted on to it early in the morning, it passed over along the broad earth to its very ocean boundary, and then returned again, in time for the morning meal, to the royal city of Kusāvatī.

Này Ananda, thuở xưa, vua Ðại Thiện Kiến để thử voi báu này, sáng sớm cỡi voi đi khắp quả đất cho đến hải biên rồi về lại kinh đô Kusàvati kịp giờ ăn sáng. Này Ananda, như vậy là sự xuất hiện voi báu của vua Ðại Thiện Kiến

“Such, Ānanda, was the wondrous Elephant that appeared to the Great King of Glory.

“Now further, Ānanda, there appeared to the Great King of Glory the Horse Treasure, all white with a black head, and a dark mane, wonderful in power, flying through the sky—the Charger-King, whose name was ‘Thunder-cloud.’

Này Ananda, như vậy là sự xuất hiện ngựa báu của vua Ðại Thiện Kiến.

13. Lại nữa này Ananda, ngựa báu xuất hiện cho vua Ðại Thiện Kiến, thuần trắng, đầu đen như quạ, bờm ngựa màu đen, có thần lực, phi hành trên hư không và tên là Valahaka.

“When he beheld it, the Great King of Glory was pleased at heart at the thought: ‘Auspicious were it to ride upon that Horse if only it would submit to be controlled!’

Thấy ngựa báu, vua Ðại Thiện Kiến sanh tâm hoa hỷ và nghĩ: "Tốt đẹp thay được cỡi con ngựa này nếu nó chịu sự điều ngự".

“Then, Ānanda, the wondrous Horse—like a fine horse of the best blood, long since well trained—submitted to control.

Và này Ananda, như một con hiền mã quý phái, chịu sự điều ngự lâu ngày, con ngựa báu ấy tự đến để chịu sự điều ngự.

“When as before, Ānanda, the Great King of Glory, to test that wondrous Horse, mounted on to it early in the morning, it passed over along the broad earth to its very ocean boundary, and then returned again, in time for the morning meal, to the royal city of Kusāvatī.

Này Ananda, thuở xưa, vua Ðại Thiện Kiến để thử ngựa báu này, sáng sớm cỡi ngựa, đi khắp quả đất cho đến hải biên rồi về lại kinh đô Kusàvati kịp giờ ăn sáng.

“Such, Ānanda, was the wondrous Horse that appeared to the Great King of Glory.

“Now further, Ānanda, there appeared to the Great King of Glory the Gem-Treasure. That Gem was the Veluriya, bright, of the finest species, with eight facets, excellently wrought, clear, transparent, perfect in every way.

Này Ananda, như vậy là sự xuất hiện ngựa báu của vua Ðại Thiện Kiến.

14. Lại nữa, này Ananda, châu báu lại xuất hiện cho vua Ðại Thiện Kiến. Châu báu ấy là lưu ly châu, sáng suốt, thuần chất, có tám mặt, khó dũa, khó mài, thanh tịnh, trong suốt, hoàn hảo mọi phương diện.

“The splendour, Ānanda, of that wondrous Gem spread round about a league on every side.

“When as before, Ānanda, the Great King of Glory, to test that wondrous Gem, set all his fourfold army in array and raised aloft the Gem upon his standard top, he was able to march out in the gloom and darkness of the night.

Này Ananda, hào quang châu báu này chiếu sáng cùng khắp một do tuần.

.

Này Ananda, thuở xưa, vua Ðại Thiện Kiến để thử châu báu này đã cho dàn bày bốn binh chủng, đặt bảo châu cao trên quân kỳ và có thể tiến quân trong đêm tối âm u.

“And then too, Ānanda, all the dwellers in the villages, round about, set about their daily work, thinking, ‘The daylight hath appeared.’

“Such, Ānanda, was the wondrous Gem that appeared to the Great King of Glory.

Này Ananda, mọi người trong làng ở xung quanh đều bắt đầu làm việc, tưởng rằng trời đã sáng rồi.

Này Ananda như vậy là sự xuất hiện châu báu của vua Ðại Thiện Kiến.

“Now further, Ānanda, there appeared to the Great King of Glory the Woman-Treasure, graceful in figure, beautiful in appearance, charming in manner, and of the most fine complexion; neither very tall, nor very short; neither very stout, nor very slim; neither very dark, nor very fair; surpassing human beauty, she had attained unto the beauty of the gods.

15. Này Ananda, nữ báu lại xuất hiện cho vua Ðại Thiện Kiến, mỹ miều, khả ái, cử chỉ đoan trang, màu da tuyệt mỹ, không quá cao, không quá thấp, không béo, không gầy, không quá đen, không quá trắng, vượt trên dung sắc loài Người, sánh đến dung sắc chư Thiên.

“The touch too, Ānanda, of the skin of that wondrous Woman was as the touch of cotton or of cotton wool: in the cold her limbs were warm, in the heat her limbs were cool; while from her body was wafted the perfume of sandal wood and from her mouth the perfume of the lotus.

Này Ananda, thân xúc nữ báu này êm mịn như bông, như nhung. Này Ananda, khi trời lạnh, chân tay nữ báu này trở thành ấm áp, khi trời nóng, trở thành lạnh mát. Này Ananda, thân nữ báu tỏa mùi thơm chiên đàn, miệng tỏa mùi thơm hoa sen.

“That Pearl among Women too, Ānanda, used to rise up before the Great King of Glory, and after him retire to rest; pleasant was she in speech, and ever on the watch to hear what she might do in order so to act as to give him pleasure.

Này Ananda, nữ báu này dậy trước và đi ngủ sau vua Ðại Thiện Kiến, mọi hành động làm vua thỏa thích, yên lành khả ái.

“That Pearl among Women too, Ānanda, was never, even in thought, unfaithful to the Great King of Glory—how much less then could she be so with the body!

“Such, Ānanda, was the Pearl among Women who appeared to the Great King of Glory.

Này Ananda, nữ báu này không có một tư tưởng nào bất tín đối với vua Ðại Thiện Kiến huống nữa là về thân thể.

Này Ananda, như vậy là sự xuất hiện nữ báu của vua Ðại Thiện Kiến.

“Now further, Ānanda, there appeared unto the Great King of Glory a Wonderful Treasurer, possessed, through good deeds done in a former birth, of a marvellous power of vision by which he could discover treasure, whether it had an owner or whether it had not.

16. Lại nữa, này Ananda, gia chủ báu xuất hiện cho vua Ðại Thiện Kiến, chứng được thiên nhãn, do nghiệp dị thục sanh và nhờ thiên nhãn này có thể thấy châu báu chôn cất có chủ hay không có chủ.

“He went up to the Great King of Glory, and said: ‘Do thou, O king, take thine case! I will deal with thy wealth even as wealth should be dealt with.’

Gia chủ báu này đến vua Ðại Thiện Kiến và nói: "Tâu Ðại vương, Ðại vương chớ có lo âu, thần sẽ xử lý thích nghi tài sản Ðại vương".

“Then, as before, Ānanda, the Great King of Glory, to test that wonderful Treasurer, went on board a boat, and had it pushed out into the current in the midst of the river Ganges. Then he said to the wonderful steward: ‘I have need, O Treasurer, of yellow gold!’ ‘Let the ship then, O Great King, go alongside either of the banks.’ ‘It is here, O Treasurer, that I have need of yellow gold.’

Này Ananda, thuở xưa vua Ðại Thiện Kiến muốn thử gia chủ báu này, liền cỡi thuyền, chèo ra giữa sông Hằng và bảo gia chủ báu:- Này Gia chủ, ta cần vàng. - Tâu Ðại vương, Ðại vương hãy cho chèo thuyền gần bờ nào cũng được. - Này Gia chủ, Ta cần vàng ngay tại đây.

“Then the wonderful Treasurer reached down to the water with both his hands, and drew up a jar full of yellow gold, and said to the Great King of Glory—‘Is that enough, O Great King? Have I done enough, O Great King?’ And the Great King of Glory replied: ‘It is enough, O Treasurer. You have done enough, O Treasurer. You have offered me enough, O Treasurer!’

Này Ananda, khi ấy gia chủ báu thọc hai tay xuống nước nhắc lên một ghè đầy cả vàng ròng rồi tâu với vua Ðại Thiện Kiến: - Tâu Ðại vương, như vậy đã đủ chưa. Tâu Ðại vương, làm như vậy đã được chưa? Vua Ðại Thiện Kiến trả lời: - Này Gia chủ, như vậy là đủ. Này Gia chủ, làm như vậy là được rồi. Này Gia chủ, cúng dường như vậy là được rồi.

“Such was the wonderful Treasurer, Ānanda, who appeared to the Great King of Glory.

Now further, Ānanda, there appeared to the Great King of Glory a Wonderful Adviser, learned, clever, and wise; and qualified to lead the Great King of Glory to undertake what he ought to undertake, and to leave undone what he ought to leave undone.

Này Ananda, như vậy là sự xuất hiện gia chủ báu của vua Ðại Thiện Kiến.

17. Lại nữa, này Ananda, tướng quân báu xuất hiện cho vua Ðại Thiện Kiến, có học thức, thông minh, sáng suốt, có khả năng khuyến cáo. Vua Ðại Thiện Kiến khi đáng tiến thì tiến, khi đáng lui thì lui, khi đáng dừng thì dừng lại

“He went up to the Great King of Glory, and said: ‘Do thou, O King, take thine ease! I will be thy guide.’

“Such, Ānanda, was the wonderful Adviser who appeared to the Great King of Glory. The Great King of Glory was possessed of these Seven Precious Things.

Vị này đến tâu vua Ðại Thiện Kiến: - Tâu Ðại vương, Ðại vương chớ có âu lo, Thần sẽ cố vấn Ðại vương.

Này Ananda, như vậy là sự xuất hiện tướng quân báu của vua Ðại Thiện Kiến. Này Ananda, vua Ðại Thiện Kiến có đầy đủ bảy báu như vậy.

“Now further, Ānanda, the Great King of Glory was gifted with Four Marvellous Gifts. What are the Four Marvellous Gifts?”

18. Lại nữa, này Ananda, vua Ðại Thiện Kiến, có đầy đủ bốn Như ý đức. Thế nào là bốn?

“In the first place, Ānanda, the Great King of Glory was graceful in figure, handsome in appearance, pleasing in manner, and of most beautiful complexion, beyond what other men are. The Great King of Glory, Ānanda, was endowed with this First Marvellous Gift.

Này Ananda, vua Ðại Thiện Kiến đẹp trai, khả ái, cử chỉ thanh lịch, sắc diện tuyện luân, thấy xa hơn mọi người. Này Ananda, đó là Như ý đức thứ nhất của vua Ðại Thiện Kiến.

And besides that, Ānanda, the Great King of Glory was of long life, and of many years, beyond those of other men. The Great King of Glory, Ānanda, was endowed with this Second Marvellous Gift.

19. Này Ananda, lại nữa, vua Ðại Thiện Kiến sống lâu, tuổi thọ thắng xa các người khác. Này Ananda, đó là Như ý đức thứ hai của vua Ðại Thiện Kiến.

“And besides that, Ānanda, the Great King of Glory was free from disease, and free from bodily suffering; and his internal fire was neither too hot nor too cold, but such as to promote good digestion, beyond that of other men. The Great King of Glory, Ānanda, was endowed with this Third Marvellous Gift.

20. Lại nữa này Ananda, vua Ðại Thiện Kiến ít bệnh tật, ít tai ương, thể nhiệt không quá lạnh, không quá nóng, được quân phân để điều hòa sự tiêu hóa, thắng xa các người khác. Này Ananda, đó là Như ý đức thứ ba của vua Ðại Thiện Kiến.

“And besides that, Ānanda, the Great King of Glory was beloved and popular with Brahmans and with laymen alike. Just, Ānanda, as a father is near and dear to his own sons, just so, Ānanda, was the Great King of Glory beloved and popular with Brahmans and with laymen alike. And just, Ānanda, as his sons are near and dear to a father, just so, Ānanda, were Brahmans and laymen alike near and dear to the Great King of Glory.

21. Lại nữa, này Ananda, vua Ðại Thiện Kiến được các vị Bà-la-môn và Gia chủ ái kính và yêu mến. Này Ananda, như người cha được các người con ái kính và yêu mến, cũng vậy này Ananda, vua Ðại Thiện Kiến được các vị Bà-la-môn và Gia chủ ái kính và yêu mến. Này Ananda, như những người con được người cha ái kính và yêu mến, cũng vậy này Ananda, các vị Bà-la-môn và Gia chủ được vua Ðại Thiện Kiến ái kính và yêu mến.

“Once, Ānanda, the Great King of Glory marched out with all his fourfold army to the pleasure ground. There, Ānanda, the Brahmans and laymen went up to the Great King of Glory, and said: “‘O King, pass slowly by, that we may look upon thee for a longer time!’

Thuở xưa, này Ananda, vua Ðại Thiện Kiến đi đến hoa viên cùng với bốn loại binh chủng. Này Ananda, các vị Bà-la-môn và Gia chủ đến vua Ðại Thiện Kiến và tâu rằng: "Tâu Ðại vương, hãy cho đi chậm chậm để chúng tôi có thể chiêm ngưỡng lâu dài hơn..."

“But the Great King of Glory, Ānanda, addressed his charioteer, and said: ‘Drive on the chariot slowly, charioteer, that I may look upon my people (Brahmans and laymen) for a longer time!’

Này Ananda, nhưng vua Ðại Thiện Kiến lại ra lệnh cho người đánh xe: "Này anh đánh xe, hãy đánh xe chậm chậm để ta có thể thấy các vị Bà-la-môn và Gia chủ lâu dài hơn".

“This was the Fourth Marvellous Gift, Ānanda, with which the Great King of Glory was endowed.

“These are the Four Marvellous Gifts, Ānanda, with which the Great King of Glory was endowed.

Này Ananda, như vậy là Như ý đức thứ tư của vua Ðại Thiện Kiến.

Này Ananda, đó là Như ý đức thứ tư của vua Ðại Thiện Kiến.

“Now to the Great King of Glory, Ānanda, there occurred the thought: ‘Suppose, now, I were to make Lotus-ponds in the spaces between these palms, at every hundred bow lengths.’ Then, Ānanda, the Great King of Glory, in the spaces between those palms, at distances of a hundred bow lengths, made Lotus-ponds.

22. Và này Anada, vua Ðại Thiện Kiến suy nghĩ: "Nay ta hãy cho xây những hồ sen giữa các hàng cây tàla, cứ cách khoảng một trăm cung tầm!".

“And those Lotus-ponds, Ānanda, were faced with tiles of four kinds. One kind of tile was of gold, and one of silver, and one of beryl, and one of crystal.

Này Ananda, những hồ sen ấy được lát bằng bốn loại gạch, một loại bằng vàng, một loại bằng bạc, một loại bằng lưu ly, một loại bằng thủy tinh.

“And to each of those Lotus-ponds, Ānanda, there were four flights of steps, of four different kinds. One flight of steps was of gold, and one of silver, and one of beryl, and one of crystal. The flight of golden steps had balustrades of gold, with the cross bars and the figure head of silver. The flight of silver steps had balustrades of silver, with the cross bars and the figure head of gold. The flight of beryl steps had balustrades of beryl, with the cross bars and the figure head of crystal. The flight of crystal steps had balustrades of crystal, with cross bars and figure head of beryl.

Này Ananda, trong bốn loại hồ sen ấy có bốn loại tầm cấp, một loại bằng vàng, một loại bằng bạc, một loại bằng lưu ly, một loại bằng thủy tinh. Tầm cấp bằng vàng có cột trụ bằng vàng, có chắn ngang và đầu trụ bằng bạc. Tầm cấp bằng bạc có cột trụ bằng bạc, có chắn ngang và đầu trụ bằng vàng. Tầm cấp bằng lưu ly có cột trụ bằng lưu ly, có chắn ngang và đầu trụ bằng thủy tinh. Tầm cấp bằng thủy tinh có cột trụ bằng thủy tinh, có chắn ngang và đầu trụ bằng lưu ly.

And round those Lotus-ponds there ran, Ānanda, a double railing. One railing was of gold, and one was of silver. The golden railing had its posts of gold, and its cross bars and its capitals of silver. The silver railing had its posts of silver, and its cross bars and its capitals of gold.

Này Ananda, những hồ sen ấy được hai hàng bằng bạc. Hàng lan can bằng vàng có cột trụ bằng vàng, có chắn ngang và đầu trụ bằng bạc. Hàng lan can bằng bạc có cột trụ bằng bạc, có chắn ngang và đầu trụ bằng vàng.

“Now, to the Great King of Glory, Ānanda, there occurred the thought: ‘Suppose, now, I were to have flowers of every season planted in those Lotus-ponds for the use of all the people-to wit, blue water lilies and blue lotuses, white lotuses and white water lilies.’ Then, Ānanda, the Great King of Glory had flowers of every season planted in those Lotus-ponds for the use of all the people-to wit, blue water lilies and blue lotuses, white lotuses and white water lilies.

23. Và này Ananda, vua Ðại Thiện Kiến lại suy nghĩ: "Trong những hồ sen này ta sẽ cho đem trồng các loại sen xanh, sen hồng, sen vàng, sen trắng khắp bốn mùa để những ai muốn làm tràng hoa có thể lấy dùng". Và này Ananda, vua Ðại Thiện Kiến cho đem trồng các loại sen xanh, sen hồng, sen vàng, sen trắng khắp bốn mùa để làm những tràng hoa bằng các thứ bông ấy.

“Now, to the Great King of Glory, Ānanda, occurred the thought: ‘Suppose, now, I were to place bathing-men on the banks of those Lotus-ponds, to bathe such of the people as come there from time to time.’ Then, Ānanda, the Great King of Glory placed bathing-men on the banks of those Lotus-ponds, to bathe such of the people as come there from time to time.

Này Ananda, vua Ðại Thiện Kiến lại suy nghĩ: "Trên bờ những hồ sen này, ta sẽ cho đặt những người hầu tắm cho những người qua kẻ lại". Và này Ananda, vua Ðại Thiện Kiến cho đặt những người hầu tắm trên bờ những hồ sen này để tắm cho những người qua kẻ lại.

“Now, to the Great King of Glory, Ānanda, occurred the thought: ‘Suppose, now, I were to establish a perpetual grant by the banks of those Lotus-ponds—to wit, food for the hungry, drink for the thirsty, raiment for the naked, means of conveyance for those who have need of it, couches for the tired, wives for those who want wives, gold for the poor, and money for those who are in want.’ Then, Ānanda, the Great King of Glory established a perpetual grant by the banks of those Lotus-ponds—to wit, food for the hungry, drink for the thirsty, raiment for the naked, means of conveyance for those who needed it, couches for the tired, wives for those who wanted wives, gold for the poor, and money for those who were in want.

Này Ananda, vua Ðại Thiện Kiến lại suy nghĩ: "Trên bờ những hồ sen này, ta sẽ cho đặt những vật bố thí, đồ ăn cho những ai đói, đồ uống cho những ai khát, áo quần cho những ai cần áo quần, xe cộ cho những ai cần xe, đồ nằm cho những ai cần nằm, đàn bà cho những ai cần đàn bà, bạc cho những ai cần bạc và vàng cho những ai cần vàng". Này Ananda, vua Ðại Thiện Kiến, trên bờ những hồ sen ấy, cho đặt những vật bố thí, đồ ăn cho những ai đói, đồ uống cho những ai khát, áo quần cho những ai cần áo quần, xe cộ cho những ai cần xe, đồ nằm cho những ai cần nằm, đàn bà cho những ai cần đàn bà, bạc cho những ai cần bạc, và vàng cho những ai cần vàng.

“Now, Ānanda, the people (Brahmans and laymen) went to the Great King of Glory, taking with them much wealth. And they said: ‘This abundant wealth, O King, have we brought here for the use of the King of Kings. Let the King accept it of us!’ ‘I have enough wealth, my friends, laid up for myself, the produce of righteous taxation. Do you keep this, and take away more with you!’

24. Này Ananda, các Gia chủ, Bà-la-môn đem theo nhiều tiền bạc đến vua Ðại Thiện Kiến và tâu vua: - Tâu Ðại vương, chúng tôi có đem nhiều tiền của này để Ðại vương dùng. Mong đại vương hãy thâu nhận lấy. - Này các Khanh, ta có đầy đủ nhiều tiền bạc do đánh thuế đúng pháp đem lại. Hãy giữ tiền bạc của Khanh lại, và đem theo nhiều nữa cho các Khanh!

“When those men were thus refused by the King they went aside and considered together, saying: ‘It would not beseem us now, were we to take back this wealth to our own houses. Suppose, now, we were to build a mansion for the Great King of Glory.’

“Then they went to the Great King of Glory, and said: ‘A mansion would we build for thee, O King!"”

"Then, Ānanda, the Great King of Glory signified, by silence, his consent.

Các vị này khi bị vua từ chối, liền đứng qua một bên và suy nghĩ: "Nếu nay chúng ta đem tiền của này về nhà chúng ta thời thật không phải. Chúng ta hãy xây dựng nhà cửa cho vua Ðại Thiện Kiến".

Các vị ấy liền đến vua Ðại Thiện Kiến và tâu:

- Ðại vương, chúng tôi định xây dựng nhà cửa cho Ðại vương.

Này Ananda, vua Ðại Thiện Kiến im lặng nhận lời.

“Then Sakka, ruler of the gods, knowing in his mind the heart of the Great King of Glory, he addressed Vissakamma the god, and said: ‘Come now, Vissakamma, create me a mansion for the Great King of Glory—a palace which shall be called “Righteousness.”’

25. Này Ananda, Thiên chủ Sakka biết được tư tưởng của vua Ðại Thiện Kiến với tư tưởng của mình, liền gọi Thiên tử Vissakamma (Tỳ-thủ-yết-ma) và nói: - Này Vissakamma, hãy đến đây và xây dựng một lâu đài cho vua Ðại Thiện Kiến, đặt tên là Dhamma (Pháp).

“‘Even so, Lord!’ said Vissakamma, in assent, Ānanda, to Sakka, the king of the gods. And as instantaneously as a strong man might stretch forth his folded arm, or draw in his arm again when it was stretched forth, so quickly did he vanish from the heaven of the Great Thirty-Three, and appeared before the Great King of Glory.

- Xin vâng, Tôn giả. Này Ananda, Thiên tử Vissakamma vâng lời Thiên chủ Sakka, như người lực sĩ duỗi ra cánh tay đang co, hay co lại cánh tay duỗi ra, Thiên tử Vissakamma biến mất từ chư Thiên ở Tavatimsa và hiện ra trước mặt vua Ðại Thiện Kiến.

“Then, Ānanda, Vissakamma the god said to the Great King of Glory: ‘I would create for thee, O King, a mansion—a palace which shall be called “Righteousness!”’ Then, Ānanda, the Great King of Glory signified, by silence, his consent.

Rồi này Ananda, Thiên tử Vissakamma tâu với vua Ðại Thiện Kiến:- Ðại vương, tôi sẽ xây dựng một lâu đài tên là Dhamma cho Ðại vương!Này Ananda, vua Ðại Thiện Kiến im lặng nhận lời.

“So Vissakamma the god, Ānanda, created for the Great King of Glory a mansion—a palace to be called ‘Righteousness.’

Và này Ananda, Thiên tử Vissakamma xây dựng lâu đài tên là Dhamma cho vua Ðại Thiện Kiến.

“The Palace of Righteousness, Ānanda, was on the east and on the west a league in length, and on the north and on the south half a league in breadth.

26. Này Ananda, lâu đài Dhamma này, về hướng Ðông và hướng Tây bề dài đến một do tuần, và về hướng Bắc và hướng Nam, bề rộng đến nửa do-tuần.

“The ground-floor, Ānanda, of the Palace of Righteousness, in height as three times the height to which a man can reach, was built of bricks, of four kinds. One kind of brick was of gold, and one of silver, and one of beryl, and one of crystal.

Này Ananda, nền nhà của lâu đài Dhamma cao cho đến ba thân người và làm bằng ba loại gạch, một loại bằng vàng, một loại bằng lưu ly, một loại bằng thủy tinh.

“To the Palace of Righteousness, Ānanda, there were eighty-four thousand pillars of four kinds. One kind of pillar was of gold, and one of silver, and one of beryl, and one of crystal.

Này Ananda, lâu đài Dhamma có đến tám vạn bốn ngàn cột trụ bằng bốn loại, một loại bằng vàng, một loại bằng bạc, một loại bằng lưu ly, một loại bằng thủy tinh.

“The Palace of Righteousness, Ānanda, was fitted up with seats of four kinds. One kind of seat was of gold, and one of silver, and one of beryl, and one of crystal.

Này Ananda, lâu đài Dhamma có hai mươi bốn tầm cấp bằng bốn loại, một loại bằng vàng, một loại bằng bạc, một loại bằng lưu ly, một loại bằng thủy tinh. Tầm cấp bằng vàng có cột trụ bằng vàng, có chắn ngang và đầu trụ bằng bạc. Tầm cấp bằng bạc có cột trụ bằng bạc, có chắn ngang và đầu trụ bằng vàng. Tầm cấp bằng lưu ly có cột trụ bằng lưu ly, có chắn ngang và đầu trụ bằng thủy tinh. Tầm cấp bằng thủy tinh có cột trụ bằng thủy tinh, có chắn ngang và đầu trụ bằng lưu ly.

“In the Palace of Righteousness, Ānanda, there were twenty-four staircases of four kinds. One staircase was of gold, and one of silver, and one of beryl, and one of crystal. The staircase of gold had balustrades of gold, with the cross bars and the figure-head of silver. The staircase of silver had balustrades of silver, with the cross bars and the figure-head of gold. The staircase of beryl had balustrades of beryl, with the cross bars and the figure-head of crystal. The staircase of crystal had balustrades of crystal, with cross bars and figure-head of beryl.

Này Ananda, lâu đài Dhamma có hai mươi bốn tầm cấp bằng bốn loại, một loại bằng vàng, một loại bằng bạc, một loại bằng lưu ly, một loại bằng thủy tinh. Tầm cấp bằng vàng có cột trụ bằng vàng, có chắn ngang và đầu trụ bằng bạc. Tầm cấp bằng bạc có cột trụ bằng bạc, có chắn ngang và đầu trụ bằng vàng. Tầm cấp bằng lưu ly có cột trụ bằng lưu ly, có chắn ngang và đầu trụ bằng thủy tinh. Tầm cấp bằng thủy tinh có cột trụ bằng thủy tinh, có chắn ngang và đầu trụ bằng lưu ly.

“In the Palace of Righteousness, Ānanda, there were eighty-four thousand chambers of four kinds. One kind of chamber was of gold, and one of silver, and one of beryl, and one of crystal.

Này Ananda, lâu đài Dhamma có tám vạn bốn ngàn phòng ốc bằng bốn loại, một loại bằng vàng, một loại bằng bạc, một loại bằng lưu ly, một loại bằng thủy tinh.

“In the golden chamber a silver couch was spread; in the silver chamber a golden couch; in the beryl chamber a couch of ivory; and in the crystal chamber a couch of coral.

Trong phòng ốc bằng vàng có chỗ nằm bằng bạc được trải ra. Trong phòng ốc bằng bạc, có chỗ nằm bằng vàng được trải ra. Trong phòng ốc bằng lưu ly có chỗ nằm bằng ngà được trải ra. Trong phòng ốc bằng thủy tinh, có chỗ nằm bằng san hô được trải ra.

“At the door of the golden chamber there stood a palm tree of silver; and its trunk was of silver, and its leaves and fruits of gold.

Tại cửa phòng ốc bằng vàng, có dựng lên một cây tàla bằng bạc, với thân cây bằng bạc, với lá và trái cây bằng vàng.

“At the door of the silver chamber there stood a palm tree of gold; and its trunk was of gold, and its leaves and fruits of silver.

Tại cửa phòng ốc bằng bạc, có dựng lên một cây tàla bằng vàng, với thân cây bằng vàng, với lá và trái bằng bạc.

“At the door of the beryl chamber there stood a palm tree of crystal; and its trunk was of crystal, and its leaves and fruits of beryl.

Tại cửa phòng ốc bằng lưu ly, có dựng lên một cây tàla bằng thủy tinh, với lá và trái cây bằng thủy tinh, có dựng lên một cây tàla bằng lưu ly, với thân cây bằng lưu ly, với lá và trái cây bằng thủy tinh.

“At the door of the crystal chamber there stood a palm tree of beryl; and its trunk was of beryl, and its leaves and fruits of crystal.

Tại cửa phòng ốc bằng lưu ly, có dựng lên một cây tàla bằng lưu ly, với thân cây bằng lưu ly, với lá và trái cây bằng thủy tinh.

“Now there occurred, Ānanda, to the Great King of Glory this thought: ‘Suppose, now, I were to make a grove of palm trees, all of gold, at the entrance to the chamber of the Great Complex, under the shade of which I may pass the heat of the day.’

27. Này Ananda, rồi vua Ðại Thiện Kiến lại suy nghĩ: "Trước cửa phòng lầu Ðại Trang Nghiêm, ta hãy cho dựng lên một rừng cây tàla toàn bằng vàng, và tại đây ta sẽ an tọa ban ngày.

“Then, Ānanda, the Great King of Glory made a grove of palm trees, all of gold, at the entrance to the chamber of the Great Complex, under the shade of which he might pass the heat of the day.

Này Ananda, vua Ðại Thiện Kiến trước cửa phòng lầu Ðại Trang Nghiêm, cho dựng lên một rừng cây tàla toàn bằng vàng và tại đây, vua ngồi an tọa ban ngày.

“The Palace of Righteousness, Ānanda, was surrounded by a double railing. One railing was of gold, and one was of silver. The golden railing had its posts of gold, and its cross bars and its figure head of silver. The silver railing had its posts of silver, and its cross bars and its figure head of gold.

28. Này Ananda, lâu đầu Dhamma được hai dãy lan can bao bọc, một dãy bằng vàng, một dãy bằng bạc. Lan can bằng vàng có cột trụ bằng vàng, có chắn ngang và đầu trụ bằng bạc. Lan can bằng bạc có cột trụ bằng bạc, có chắn ngang và đầu trụ bằng vàng.

“The Palace of Righteousness, Ānanda, was hung round with two networks of bells. One network of bells was of gold, and one was of silver.

29. Này Ananda, lâu đài Dhamma có hai màn lưới chuông linh, một màn bằng vàng, một màn bằng bạc. Màn lưới bằng vàng có chuông linh bằng bạc, màn lưới bằng bạc có chuông linh bằng vàng.

“And when those networks of bells, Ānanda, were shaken by the wind there arose a sound sweet, and pleasant, and charming, and intoxicating. Just, Ānanda, as the seven kind of instruments yield, when well played upon, to the skilful man, a sound sweet, and pleasant, and charming, and intoxicating—just even so, Ānanda, when those networks of bells were shaken by the wind, there arose a sound sweet, and pleasant, and charming, and intoxicating.

Này Ananda, khi những màn lưới chuông linh này được gió rung chuyển, thời một âm thanh vi diệu, khả ái, đẹp ý, mê ly khởi lên. Cũng như năm loại nhạc khí, khi được một nhạc sĩ thiện xảo tấu nhạc, phát ra âm thanh vi diệu, khả ái, đẹp ý, mê ly.

“And whoever, Ānanda, in the royal city Kusāvatī were at that time gamblers, drunkards, and given to drink, they used to dance round together to the sound of those networks of bells when shaken by the wind.

Cũng vậy này Ananda, khi những màn lưới chuông linh này được gió rung chuyển, thời một âm thanh vi diệu, khả ái, đẹp ý, mê ly khởi lên. Này Ananda, lúc bấy giờ nếu tại kinh đô Kusàvati có những kẻ cờ bạc, rượu chè, chúng sẽ nhảy múa theo âm điệu của những màn lưới chuông linh này khi được gió thổi.

“When the Palace of Righteousness, Ānanda, was finished it was hard to look at, destructive to the eyes. Just, Ānanda, as in the last month of the rains in the autumn time, when the sky has become clear and the clouds have vanished away, the sun, springing up along the heavens, is hard to look at, and destructive to the eyes—just so, Ānanda, when the Palace of Righteousness was finished was it hard to look at, and destructive to the eyes.

30. Này Ananda, lâu đài Dhamma khi xây xong, thật khó mà nhìn xem, hai mắt bị chói lòa (vì quá nguy nga tráng lệ). Này Ananda, như trong tháng cuối mùa mưa, khi bầu trời quang đảng, không bị mây che lấp, mặt trời mọc lên giữa hư không, khó mà nhìn xem vì hai mắt bị chói lòa. Cũng vậy, này Ananda, thật khó mà nhìn xem, hai mắt bị chói lòa khi lâu đài Dhamma xây xong.

“Now there occurred, Ānanda, to the Great King of Glory this thought: ‘Suppose, now, in front of the Palace of Righteousness, I were to make a Lotus-lake to bear the name of “Righteousness.”’

“Then, Ānanda, the Great King of Glory made a Lotus-lake to bear the name of ‘Righteousness.’

31. Này Ananda, rồi vua Ðại Thiện Kiến lại suy nghĩ: "Trước mặt lâu đài Dhamma, ta hãy cho xây hồ sen tên gọi là Dhamma!".

Và này Ananda, vua Ðại Thiện Kiến cho xây một hồ sen tên là Dhamma trước mặt lâu đài Dhamma.

“The Lake of Righteousness, Ānanda, was on the east and on the west a league in length, and on the north and on the south half a league in breadth. The Lake of Righteousness, Ānanda, was faced with tiles of four kinds. One kind of tile was of gold, and one of silver, and one of beryl, and one of crystal.

Này Ananda, hồ sen Dhamma, về hướng Ðông và hướng Tây bề dài đến một do tuần, và về hướng Bắc và hướng Nam bề rộng đến nửa do tuần. Này Ananda, hồ sen Dhamma có bốn loại gạch, một loại bằng vàng, một loại bằng bạc, một loại bằng lưu ly, một loại bằng thủy tinh.

“The Lake of Righteousness, Ānanda, had four and twenty flights of steps, of four different kinds. One flight of steps was of gold, and one of silver, and one of beryl, and one of crystal. The flight of golden steps had balustrades of gold, with the cross bars and the figure-head of silver. The flight of silver steps had balustrades of silver, with the cross bars and the figure-head of gold. The flight of beryl steps had balustrades of beryl, with the cross bars and the figure-head of crystal. The flight of crystal steps had balustrades of crystal, with cross bars and figure-head of beryl.

Này Ananda, hồ sen Dhamma có hai mươi bốn tầm cấp bằng bốn loại, một loại bằng vàng, một loại bằng bạc, một loại bằng lưu ly, một loại bằng thủy tinh. Tầm cấp bằng vàng có cột trụ bằng vàng, có chắn ngang và đầu trụ bằng bạc. Tầm cấp bằng bạc có cột trụ và đầu trụ bằng bạc, có chắn ngang và đầu trụ bằng vàng. Tầm cấp bằng lưu ly có cột trụ bằng lưu ly, có chắn ngang và đầu trụ bằng thủy tinh. Tầm cấp bằng thủy tinh có cột trụ bằng thủy tinh, có chắn ngang và đầu trụ bằng lưu ly!

“Round the Lake of Righteousness, Ānanda, there ran a double railing. One railing was of gold, and one was of silver. The golden railing had its posts of gold, and its cross bars and its capitals of silver. The silver railing had its posts of silver, and its cross bars and its capitals of gold.

Này Ananda, hồ sen Dhamma có hai loại lan can bao bọc, một loại bằng vàng, một loại bằng bạc. Lan can bằng vàng có cột trụ bằng vàng, có chắn ngang và đầu trụ bằng bạc. Lan can bằng bạc có cột trụ bằng bạc, có chắn ngang và đầu trụ bằng vàng.

“The Lake of Righteousness, Ānanda, was surrounded by seven rows of palm trees. One row was of palms of gold, and one of silver, and one of beryl, and one of crystal, and one of agate, and one of coral, and one of all kinds of gems.

32. Này Ananda, hồ sen Dhamma có bảy hàng cây tàla bao bọc, một hàng cây bằng vàng, một hàng cây bằng bạc, một hàng cây bằng lưu ly, một hàng cây bằng thủy tinh, một hàng cây bằng san hô, một hàng cây bằng xa cừ, một hàng cây bằng mọi thứ báu. Cây tàla bằng vàng có thân cây bằng vàng, có lá và trái cây bằng bạc.

“And the golden palms had trunks of gold, and leaves and fruits of silver. And the silver palms had trunks of silver, and leaves and fruits of gold. And the palms of beryl had trunks of beryl, and leaves and fruits of crystal. And the crystal palms had trunks of crystal, and leaves and fruits of beryl. And the agate palms had trunks of agate, and leaves and fruits of coral. And the coral palms had trunks of coral, and leaves and fruits of agate. And the palms of every kind of gem had trunks and leaves and fruits of every kind of gem.

Cây tàla bằng vàng có thân cây bằng vàng, có lá và trái cây bằng bạc. Cây tàla bằng bạc có thân cây bằng bạc, có lá và trái cây bằng vàng. Cây tàla bằng lưu ly có thân cây bằng lưu ly, có lá và trái câ bằng thủy tinh. Cây tàla bằng thủy tinh, có thân cây bằng thủy tinh, có lá và trái cây bằng lưu ly. Cây tàla bằng san hô có thân cây bằng san hô, có lá và trái cây bằng xa cừ. Cây tàla bằng xa cừ có thân cây bằng xa cừ, có lá và trái cây bằng san hô. Cây tà la bằng mọi thứ báu có thân cây bằng mọi thứ báu, có lá và trái cây bằng mọi thứ báu.

“And when those rows of palm trees, Ānanda, were shaken by the wind, there arose a sound sweet, and pleasant, and charming, and intoxicating.

Này Ananda, khi những hàng cây tàla này được gió rung chuyển, thời một âm thanh vi diệu, khả ái, đẹp ý, mê ly khởi lên.

“Just, Ānanda, as the seven kind of instruments yield, when well played upon, to the skilful man, a sound sweet, and pleasant, and charming, and intoxicating—just so, Ānanda, when those rows of palm trees were shaken by the wind, there arose a sound sweet, and pleasant, and charming, and intoxicating.

Cũng như bảy loại nhạc khí, khi được một nhạc sĩ thiện xảo tấu nhạc, phát ra một âm thanh vi diệu, khả ái, đẹp ý, mê ly. Cũng vậy này Ananda, khi những hàng cây tàla này được gió rung chuyển thời một âm thanh vi diệu, khả ái, đẹp ý, mê ly khởi lên.

“And whoever, Ānanda, in the royal city Kusāvatī were at that time gamblers, drunkards, and given to drink, they used to dance round together to the sound of those palms when shaken by the wind.

Này Ananda, lúc bấy giờ nếu ở kinh đô Kusàvati có những kẻ cờ bạc rượu chè, chúng sẽ nhảy múa theo âm điệu của những hàng cây này khi được gió thổi.

“When the Palace of Righteousness, Ānanda, was finished, and the Lotus-lake of Righteousness was finished, the Great King of Glory entertained with all good things those of the Samaṇas who, at that time, were held in high esteem, and those of the Brahmans who, at that time, were held in high esteem. Then he ascended up into the Palace of Righteousness.”

33. Này Ananda, khi lâu đài Dhamma và hồ sen Dhamma được xây xong, lúc bấy giờ vua Ðại Thiện Kiến cúng dường cho các vị Sa-môn được tôn kính và các vị Bà-la-môn được tôn kính mọi sự dục lạc cần thiết rồi vua lên lâu đài Dhamma.

Chapter 2

“Now there occurred, Ānanda, this thought to the Great King of Glory: ‘Of what previous character, now, may this be the fruit, of what previous character the result, that I am now so mighty and so great?’

Tụng phẩm II

1. Này Ananda, rồi vua Ðại Thiện Kiến suy nghĩ: "Quả này của ta do nghiệp gì, báo này của ta là do nghiệp gì mà hiện tại ta có thần lực như vậy, có oai lực như vậy?".

“And then occurred, Ānanda, to the Great King of Glory this thought: ‘Of three qualities is this the fruit, of three qualities the result, that I am now so mighty and so great—that is to say, of giving, of self-conquest, and of self-control.’

Này Ananda, rồi vua Ðại Thiện Kiến suy nghĩ: "Quả này là do ba loại nghiệp, báo này là do ba loại nghiệp mà hiện tại ta có thần lực như vậy. Ðó là Bố thí, Tự điều, Tự chế".

“Now the Great King of Glory, Ānanda, ascended up into the chamber of the Great Complex; and when he had come there he stood at the door, and there he broke out into a cry of intense emotion:

2. Này Ananda tồi vua Ðại Thiện Kiến đi đến cao đường Ðại Trang Nghiêm, đứng trước cửa và nói lớn tiếng cao hứng ngữ sau đây:

“‘Stay here, O thoughts of lust!
Stay here, O thoughts of ill-will!
Stay here, O thoughts of hatred!
Thus far only, O thoughts of lust!
Thus far only, O thoughts of ill-will!
Thus far only, O thoughts of hatred!’

Hãy dừng lại, tư tưởng dục vọng!
Hãy dừng lại, tư tưởng sân hận!
Hãy dừng lại, tư tưởng não hại!
Ðến đây thôi, tư tưởng dục vọng!
Ðến đây thôi, tư tưởng sân hận!
Ðến đây thôi, tư tưởng não hại!

“And when, Ānanda, the Great King of Glory had entered the chamber of the Great Complex, and had seated himself upon the couch of gold, having put away all passion and all unrighteousness, he entered into, and remained in, the First Jhāna—a state of joy and ease, born of seclusion, full of reflection, full of investigation.

3. Này Ananda, vua Ðại Thiện Kiến bước vào cao đường Ðại Trang Nghiêm, ngồi trên sàng tọa bằng vàng, ly dục, ly ác pháp, chứng và an trú trong thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm với tứ.

“By suppressing reflection and investigation, he entered into, and remained in, the Second Jhāna—a state of joy and ease, born of serenity, without reflection, without investigation, a state of elevation of mind, of internal calm.

Rồi diệt tầm và tứ, chứng và an trú trong thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm.

“By absence of the longing after joy, he remained indifferent, conscious, self-possessed, experiencing in his body that ease which the noble ones announce, saying, ‘The man indifferent and self-possessed is well at ease,’ and thus he entered into, and remained in, the Third Jhāna.

Rồi ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú vào thiền thứ ba.

“By putting away ease, by putting away pain, by the previous dying away both of gladness and of sorrow, he entered into, and remained in, the Fourth Jhāna—a state of purified self-possession and equanimity, without ease, and without pain.

Rồi xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và an trú vào thiền thứ tư không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.

“Then, Ānanda, the Great King of Glory went out from the chamber of the Great Complex, and entered the golden chamber and sat himself down on the silver couch. And he let his mind pervade one quarter of the world with thoughts of Love; and so the second quarter, and so the third, and so the fourth. And thus the whole wide world, above, below, around, and everywhere, did he continue to pervade with heart of Love, far-reaching, grown great, and beyond measure, free from the least trace of anger or ill-will.

4. Này Ananda, rồi vua Ðại Thiện Kiến ra khỏi cao đường Ðại Trang Nghiêm, bước vào cao đường bằng vàng, ngồi trên sàng tọa bằng bạc, an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại vô biên, không hận không sân... với tâm câu hữu với bi... với tâm câu hữu với hỷ... với tâm câu hữu với xả; cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại vô biên không hận không sân.

“And he let his mind pervade one quarter of the world with thoughts of Pity; and so the second quarter, and so the third, and so the fourth. And thus the whole wide world, above, below, around, and everywhere, did he continue to pervade with heart of Pity, far-reaching, grown great, and beyond measure, free from the least trace of anger or ill-will.

an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với bi, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại vô biên, không hận không sân... với tâm câu hữu với bi... với tâm câu hữu với hỷ... với tâm câu hữu với xả; cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại vô biên không hận không sân.

“And he let his mind pervade one quarter of the world with thoughts of Sympathy; and so the second quarter, and so the third, and so the fourth. And thus the whole wide world, above, below, around, and everywhere, did he continue to pervade with heart of Sympathy, far-reaching, grown great, and beyond measure, free from the least trace of anger or ill-will.

an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với hỷ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại vô biên, không hận không sân... với tâm câu hữu với bi... với tâm câu hữu với hỷ... với tâm câu hữu với xả; cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại vô biên không hận không sân.

“And he let his mind pervade one quarter of the world with thoughts of Equanimity; and so the second quarter, and so the third, and so the fourth. And thus the whole wide world, above, below, around, and everywhere, did he continue to pervade with heart of Equanimity, far-reaching, grown great, and beyond measure, free from the least trace of anger or ill-will.

an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với xả, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại vô biên, không hận không sân... với tâm câu hữu với bi... với tâm câu hữu với hỷ... với tâm câu hữu với xả; cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại vô biên không hận không sân.

“The Great King of Glory, Ānanda, had four and eighty thousand cities, the chief of which was the royal city of Kusāvatī:

5. Này Ananda, vua Ðại Thiện Kiến có tám vạn bốn ngàn kinh thành, và kinh thành Kusàvati (Câu-xá-bà-đề) là đệ nhất.

“Four and eighty thousand palaces, the chief of which was the Palace of Righteousness:

Tám vạn bốn ngàn lâu đài, và lâu đài Dhamma là đệ nhất.

“Four and eighty thousand chambers, the chief of which was the chamber of the Great Complex:

Tám vạn bốn ngàn cao đường, và cao đường Ðại Trang Nghiêm là đệ nhất.

“Four and eighty thousand divans, of gold, and silver, and ivory, and sandal wood, spread with long-haired rugs, and cloths embroidered with flowers, and magnificent antelope skins; covered with lofty canopies; and provided at both ends with purple cushions:

Tám vạn bốn ngàn sàng tọa, bằng vàng, bằng bạc, bằng ngà, bằng gỗ kiên cố, được trải với những tấm nệm lông dài, với vải có thêu bông hoa, và với những tấm da thú trắng của con sơn dương được che bởi những tán che cao và hai đầu có gối màu đỏ.

“Four and eighty thousand state elephants, with trappings of gold, and gilded flags, and golden coverings of network—of which the king of elephants, called ‘the Changes of the Moon,’ was chief:

Tám vạn bốn ngàn con voi, với những trang sức bằng vàng, được che chở bằng lưới vàng, và tượng vương Uposatha (Bố-tát-đà) là đệ nhất.

“Four and eighty thousand state horses, with trappings of gold, and gilded flags, and golden coverings of network—of which ‘Thunder-cloud,’ the king of horses, was the chief:

Tám vạn bốn ngàn con ngựa, với những trang sức bằng vàng, cờ vàng, được che chở với lưới vàng, và mã vương Valàhaka (Vân Mã vương) là đệ nhất.

“Four and eighty thousand chariots, with coverings of the skins of lions, and of tigers, and of panthers—of which the chariot called ‘the Flag of Victory’ was the chief:

Tám vạn bốn ngàn cỗ xe, với những tấm thảm bằng da sư tử, bằng da cọp, bằng da báo, bằng vai vàng, với những trang sức bằng vàng, cờ vàng, được che chở với lưới bằng vàng và cỗ xe tên Vejayanta (Nhạc thanh xa hay Chiến thắng kỳ) là đệ nhất.

“Four and eighty thousand gems, of which the Wondrous Gem was the chief:

Tám vạn bốn ngàn châu ngọc và bảo châu là đệ nhất.

“Four and eighty thousand wives, of whom the Queen of Glory was the chief:

Tám vạn bốn ngàn phụ nữ và hoàng hậu Subhaddà (Thiện Hiền phi) là đệ nhất.

“Four and eighty thousand yeomen, of whom the Wonderful Steward was the chief:

Tám vạn bốn ngàn gia chủ và gia chủ báu là đệ nhất.

“Four and eighty thousand nobles, of whom the Wonderful Adviser was the chief:

Tám vạn bốn ngàn người giòng Sát-đế-lỵ và tướng quân báu là đệ nhất.

“Four and eighty thousand cows, with jute trappings, and horns tipped with bronze:

Tám vạn bốn ngàn nhũ ngưu với trang sức bằng vải cây đay (Dukùla), với sừng đầu nhọn bịt đồng.

“Four and eighty thousand myriads of garments, of delicate textures, of flax, and cotton, and silk, and wool:

Tám vạn bốn ngàn vải Koti (Cu-chi) với sắc chất tinh diệu, như vải gai, vải bông, vải lụa và vải nhung.

“Four and eighty thousand dishes, in which, in the evening and in the morning, rice was served.

Tám vạn bốn ngàn loại cháo sữa (Thàlipàka), buổi sáng buổi chiều có cúng dường cơm.

“Now at that time, Ānanda, the four and eighty thousand state elephants used to come every evening and every morning to be of service to the Great King of Glory.

6. Lúc bấy giờ, này Ananda, có tám vạn bốn ngàn voi sáng chiều đến phục vụ cho vua Ðại Thiện Kiến.

“And this thought occurred to the Great King of Glory: ‘These eighty thousand elephants come every evening and every morning to be of service to me. Now, let the elephants come, O my friend, the Great Adviser, in alternate forty thousands, once each, every alternate hundred years!’

Rồi vua Ðại Thiện Kiến suy nghĩ: "Nay tám vạn bốn ngàn con voi này sáng chiều đến phục vụ cho ta. Nay ta hãy để cho chúng đến, cứ cách một trăm năm thời bốn vạn hai ngàn con đến".

“Then, Ānanda, the Great King of Glory said to the Great Adviser: ‘O, my friend, the Great Adviser! These eighty thousand elephants come every evening and every morning to be of service to me. Now, let the elephants come, O my friend, the Great Adviser, in alternate forty thousands, once each, every alternate hundred years!’ ‘Even so, Lord!’ said the Wonderful Adviser, in assent, to the Great King of Glory.’

Này Ananda, rồi vua Ðại Thiện Kiến bảo Tướng quân báu: - Này Hiền giả, nay tám vạn bốn ngàn con voi này, sáng chiều đến phục vụ ta. Nay hãy để cho chúng đến, cứ cách một trăm năm, mỗi lần cho bốn vạn hai ngàn con đến. - Tâu Ðại vương, vâng! Này Ananda, vị tướng quân báu vâng lời vua Ðại Thiện Kiến.

“From that time forth, Ānanda, the elephants came in alternate forty thousands, once each, every alternate hundred years.

Này Ananda, từ đó về sau, cứ mỗi một trăm năm, bốn vạn hai ngàn con voi lần lượt đến với vua Ðại Thiện Kiến.

“Now, Ānanda, after the lapse of many years, of many hundred years, of many thousand years, there occurred to the Queen of Glory this thought:

7. Này Ananda, sau nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều trăm ngàn năm, hoàng hậu Subhaddà suy nghĩ:

“’Tis long since I have beheld the Great King of Glory. Suppose, now, I were to go and visit the Great King of Glory.’

"Cách đây đã lâu, ta được thấy vua Ðại Thiện Kiến. Vậy nay ta hãy đi để thăm vua Ðại Thiện Kiến".

“Then, Ānanda, the Queen of Glory said to the women of the harem: ‘Arise now, dress your hair, and clad yourselves in fresh raiment. Tis long since we have beheld the Great King of Glory. Let us go and visit the Great King of Glory!’

Này Ananda, rồi hoàng hậu Subhaddà nói với các cung nữ: - Các Ngươi hãy gội đầu, mặc áo vàng. Cách đây đã lâu, chúng ta được thấy vua Ðại Thiện Kiến. Vậy nay chúng ta sẽ đi yết kiến vua Ðại Thiện Kiến.

“‘Even so, Lady!’ said the women of the harem, Ānanda, in assent, to the Queen of Glory. And they dressed their hair, and clad themselves in fresh raiment, and came near to the Queen of Glory.

- Tâu Hoàng hậu, vâng! - Này Ananda, các cung nữ vâng lời hoàng hậu Subhaddà (Thiện Hiền phi), gội đầu, mặc áo vàng và đi đến hoàng hậu Subhaddà.

“Then, Ānanda, the Queen of Glory said to the Great Adviser: ‘Arrange, O Great Adviser, the fourfold army in array. ’Tis long since I have beheld the Great King of Glory. I am about to go to visit the Great King of Glory.’

Này Ananda, rồi hoàng hậu Subhaddà cho gọi Tướng quân báu: - Này Khanh, hãy cho sắp đặt bốn loại binh chủng. Cách đây đã lâu chúng ta được thấy vua Ðại Thiện Kiến. Vậy nay chúng ta sẽ đi yết kiến vua Ðại Thiện Kiến.

“‘Even so, O Queen!’ said the Great Adviser, Ānanda, in assent, to the Queen of Glory. And he set the fourfold army in array, and had the fact announced to the Queen of Glory in the words:

- Tâu Hoàng hậu, vâng! Này Ananda, tướng quân báu vâng lời hoàng hậu Subhaddà, cho sắp đặt bốn loại binh chủng và tâu Hoàng hậu:

“‘The fourfold army, O Queen, is set for thee in array. Do now whatever seemeth to thee fit.’

- Tâu Hoàng hậu, bốn loại binh chủng đã sắp đặt xong. Hãy làm gì Hoàng hậu nghĩ là phải thời.

“Then, Ānanda, the Queen of Glory, with the fourfold army, repaired, with the women of the harem, to the Palace of Righteousness. And when she had arrived there she mounted up into the Palace of Righteousness, and went on to the chamber of the Great Complex. And when she had reached it, she stopped and leant against the side of the door.

8. Này Ananda, hoàng hậu Subhaddà cùng với bốn loại binh chủng và các cung nữ đi đến lâu đài Dhamma, leo lên lâu đài ấy, đến tại cao đường Ðại Trang Nghiêm và đứng dựa vào cánh cửa của cao đường này.

“When, Ānanda, the Great King of Glory heard the noise he thought: ‘What, now, may this noise, as of a great multitude of people, mean?’

Này Ananda, vua Ðại Thiện Kiến suy nghĩ: "Nay tiếng gì ồn ào như vậy, như cả một quần chúng đông đảo?"

“And going out from the chamber of the Great Complex, he beheld the Queen of Glory standing leaning up against the side of the door. And when he beheld her, he said to the Queen of Glory: ‘Stop there, O Queen! Enter not!’

Vua bèn bước ra khỏi cao đường Ðại Trang Nghiêm và thấy hoàng hậu Subhaddà đang đứng dựa vào cửa. Thấy vậy, vua liền nói với hoàng hậu Subhaddà:- Hoàng hậu hãy đứng ở đây, chớ có vào!

“Then the Great King of Glory, Ānanda, said to one of his attendants: ‘Arise, good man! Take the golden couch out of the chamber of the Great Complex, and make it ready under that grove of palm trees which is all of gold.’

9. Này Ananda, vua Ðại Thiện Kiến liền bảo một người hầu cận: - Ngươi hãy nhắc giường bằng vàng ra khỏi cao đường Ðại Trang Nghiêm và đặt trong khu rừng cây sàla bằng vàng.

“‘Even so, Lord!’ said the man, in assent, to the Great King of Glory. And he took the golden couch out of the chamber of the Great Complex, and made it ready under that grove of palm trees which was all of gold.

- Tâu Ðại vương, vâng! Này Ananda, người ấy vâng lời dạy của vua Ðại Thiện Kiến, nhắc sàng tọa bằng vàng ra khỏi cao đường Ðại Trang Nghiêm và đặt trong khu rừng cây sàla bằng vàng.

“Then, Ānanda, the Great King of Glory laid himself down in the dignified way a lion does; and lay with one leg resting on the other, calm and self-possessed.

“Then, Ānanda, there occurred to the Queen of Glory this thought:

Này Ananda, rồi vua Ðại Thiện Kiến nằm xuống, trong dáng điệu con sư tử, về phía bên hữu, một chân đặt dài trên chân kia, chánh niệm tỉnh giác.

10. Này Ananda, hoàng hậu Subhaddà suy nghĩ:

“‘How calm are all the limbs of the Great King of Glory! How clear and bright is his appearance! O may it not be that the Great King of Glory is dead!’

“And she said to the Great King of Glory:

"Các căn của vua Ðại Thiện Kiến thật là sáng suốt, màu da thật là thanh tịnh, trong sáng. Mong rằng vua Ðại Thiện Kiến chớ có mệnh chung!".

Rồi hoàng hậu tâu với vua Ðại Thiện Kiến:

“‘Thine, O King, are those four and eighty thousand cities, the chief of which is the royal city of Kusāvatī. Arise, O King, re-awaken thy desire for these! Quicken thy longing after life!

- Tâu Ðại vương, tám ván bốn ngàn kinh thành này với kinh thành Kusàvati là đệ nhất, đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy khởi tâm ái dục đối với chúng. Ðại vương hãy ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are those four and eighty thousand palaces, the chief of which is the Palace of Righteousness. Arise, O King, re-awaken thy desire for these! Quicken thy longing after life!

Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn lâu đài này với lâu đài Dhamma là đệ nhất, đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy khởi tâm ái dục đối với chúng. Ðại vương hãy ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are those four and eighty thousand chambers, the chief of which is the chamber of the Great Complex. Arise, O King, re-awaken thy desire for these! Quicken thy longing after life!

Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn cao đường này với cao đường Ðại Trang Nghiêm là đệ nhất, đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy khởi tâm ái dục đối với chúng. Ðại vương hãy ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are those four and eighty thousand divans, of gold, and silver, and ivory, and sandal wood, spread with long-haired rugs, and cloths embroidered with flowers, and magnificent antelope skins; covered with lofty canopies; and provided at both ends with purple cushions. Arise, O King, re-awaken thy desire for these! Quicken thy longing after life!

Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn sàng tọa này, bằng vàng, bằng bạc, bằng ngà, bằng gỗ kiên cố, được trải với những tấm nệm lông dài, với vải có thêu bông hoa và với những tấm da thù thắng của con sơn dương, được che với những tán che cao và hai đầu có gối màu đỏ, những sàng tọa này đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy khởi tâm ái dục đối với chúng. Ðại vương hãy ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are those four and eighty thousand state elephants, with trappings of gold, and gilded flags, and golden coverings of network,-of which the king of elephants, called “the Changes of the Moon,” is chief. Arise, O King, re-awaken thy desire for these! Quicken thy longing after life!

Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn con voi này, với những trang sức bằng vàng, cờ vàng, được che chở với lưới bằng vàng, và tượng vương Uposatha là đệ nhất, những con voi này đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy khởi tâm ái dục đối với chúng. Ðại vương hãy ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are those four and eighty thousand state horses, with trappings of gold, and gilded flags, and golden coverings of network, of which “Thunder-cloud,” the king of horses, is the chief. Arise, O King, re-awaken thy desire for these! Quicken thy longing after life!

Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn con ngựa này, với những trang sức bằng vàng, cờ vàng, được che chở với lưới bằng vàng, và mã vương Valàhaka là đệ nhất, những con ngựa này đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy khởi tâm ái dục đối với chúng. Ðại vương hãy ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are those four and eighty thousand chariots, with coverings of the skins of lions, and of tigers, and of panthers,-of which the chariot called “the Flag of Victory” is the chief. Arise, O King, re-awaken thy desire for these! Quicken thy longing after life!

Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn cỗ xe này, với những tấm thảm bằng da sư tử, bằng da cọp, bằng da báo, bằng vải vàng với những trang sức bằng vàng, cờ vàng, được che chở với lưới bằng vàng, và cỗ xe tên Vejayanta là đệ nhất. Những cỗ xe này đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy khởi tâm ái dục đối với chúng. Ðại vương hãy ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are those four and eighty thousand gems, of which the Wondrous Gem is the chief. Arise, O King, re-awaken thy desire for these! Quicken thy longing after life!

Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn châu ngọc này với bảo châu là đệ nhất, đều thuộc Ðại vương. Ðại vương hãy khởi tâm ái dục đối với chúng. Ðại vương hãy ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are those four and eighty thousand wives, of whom the Queen of Glory is the chief. Arise, O King, re-awaken thy desire for these! Quicken thy longing after life!

Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn gia chủ này và gia chủ báu là đệ nhất, đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy khởi tâm ái dục đối với họ. Ðại vương hãy ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are those four and eighty thousand yeomen, of whom the Wonderful Steward is the chief. Arise, O King, re-awaken thy desire for these! Quicken thy longing after life!

Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn nhũ ngưu với trang sức bằng vải cây đay, với sừng đầu nhọn bịt đồng này đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy khởi tâm ái dục đối với chúng. Ðại vương hãy ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are those four and eighty thousand nobles, of whom the Wonderful Adviser is the chief Arise, O King, re-awaken thy desire for these! Quicken thy longing after life!

Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn vải Koti với sắc chất tinh diệu như vải gai, vải bông, vải lụa và vải nhung đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy khởi tâm ái dục đối với chúng. Ðại vương hãy ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are those four and eighty thousand cows, with jute trappings, and horns tipped with bronze. Arise, O King, re-awaken thy desire for these! Quicken thy longing after life!

Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn nhũ ngưu với trang sức bằng vải cây đay, với sừng đầu nhọn bịt đồng này đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy khởi tâm ái dục đối với chúng. Ðại vương hãy ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are those four and eighty thousand myriads of garments, of delicate textures, of flax, and cotton, and silk, and wool. Arise, O King, re-awaken thy desire for these! Quicken thy longing after life!

Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn vải Koti với sắc chất tinh diệu như vải gai, vải bông, vải lụa và vải nhung đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy khởi tâm ái dục đối với chúng. Ðại vương hãy ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are those four and eighty thousand dishes, in which, in the evening and in the morning, rice is served. Arise, O King, re-awaken thy desire for these! Quicken thy longing after life!’

“When she had thus spoken, Ānanda, the Great King of Glory said to the Queen of Glory:

Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn loại cháo sữa, và buổi sáng có cúng dường cơm này đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy khởi tâm ái dục đối với chúng. Ðại vương hãy ái luyến đời sống!

11. Này Ananda, vua Ðại Thiện Kiến nghe hoàng hậu Subhaddà nói vậy liền trả lời:

“‘Long hast thou addressed me, O Queen, in pleasant words, much to be desired, and sweet. Yet now in this last time you speak in words unpleasant, disagreeable, not to be desired.’

“‘How then, O King, shall I address thee?’

- Ðã từ lâu Hoàng hậu nói với ta với những lời dễ chịu, hòa ái và dịu dàng. Thế mà nay, trong lần cuối cùng này, Hoàng hậu lại nói với ta bằng những lời không dễ chịu, không hòa ái, không dịu dàng!

- Tâu Ðại vương, thiếp phải nói với Ðại vương thế nào?

“‘Thus, O Queen, shouldst thou address me—The nature of all things near and dear to us, O King, is such that we must leave them, divide ourselves from them, separate ourselves from them. Pass not away, O King, with longing in thy heart. Sad is the death of him who longs, unworthy is the death of him who longs. Thine, O King, are these four and eighty thousand cities, the chief of which is the royal city of Kusāvatī. Cast away desire for these! Long not after life!

- Này Hoàng hậu, Hoàng hậu phải nói với ta như thế này: "Tất cả mọi sự vật khả ái, khả lạc đều thay đổi, không có thực thể, chịu sự biến hóa. Ðại vương chớ có mệnh chung với tâm quyến luyến chúng. Ðau khổ thay, sự mệnh chung với tâm còn ái luyến. Ðáng trách thay, sự mệnh chung còn ái luyến."Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn kinh thành này với kinh thành Kusàvati là đệ nhất, đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Ðại vương chớ có ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are these four and eighty thousand palaces, the chief of which is the Palace of Righteousness. Cast away desire for these! Long not after life!

"Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn lâu đài này với lâu đài Dhamma là đệ nhất, đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Ðại vương chớ có ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are these four and eighty thousand chambers, the chief of which is the chamber of the Great Complex. Cast away desire for these! Long not after life!

"Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn cao đường này với cao đường Ðại Trang Nghiêm là đệ nhất, đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Ðại vương chớ có ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are these four and eighty thousand divans, of gold, and silver, and ivory, and sandal wood, spread with long-haired rugs, and cloths embroidered with flowers, and magnificent antelope skins; covered with lofty canopies; and provided at both ends with purple cushions. Cast away desire for these! Long not after life!

"Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn sàng tọa này, bằng vàng, bằng bạc, bằng ngà, bằng gỗ kiên cố, được trải với những tấm nệm lông dài, với vải có thêu bông hoa, và với những tấm da thù thắng của con sơn dương, được che chở bởi những tán che cao và hai đầu có gối màu đỏ, những sàng toạ này đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy từ bỏ tâm ái dục đối với chúng. Ðại vương chớ có ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are these four and eighty thousand state elephants, with trappings of gold, and gilded flags, and golden coverings of network—of which the king of elephants, called “the Changes of the Moon,” is chief. Cast away desire for these! Long not after life!

"Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn con voi này, với những trang sức bằng vàng, cờ vàng, được che chở với lưới bằng vàng và tượng vương Uposatha là đệ nhất, những con voi này đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Ðại vương chớ có ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are these four and eighty thousand state horses, with trappings of gold, and gilded flags, and golden coverings of network—of which “Thunder-cloud,” the king of horses, is the chief Cast away desire for these! Long not after life!

"Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn con ngựa này với những trang sức bằng vàng, được che chở với lưới bằng vàng và mã vương Valàhaka là đệ nhất, những con ngựa này đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Ðại vương chớ có ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are these four and eighty thousand chariots, with coverings of the skins of lions, and of tigers, and of panthers—of which the chariot called “the Flag of Victory” is the chief. Cast away desire for these! Long not after life!

"Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn cỗ xe, với những tấm thảm bằng da sư tử, bằng da cọp, bằng da báo, với những đồ trang sức bằng vàng, cờ vàng, được che chở với lưới bằng vàng và cỗ xe tên Vejayanta là đệ nhất. Những cỗ xe này đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Ðại vương chớ có ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are these four and eighty thousand gems, of which the Wondrous Gem is the chief. Cast away desire for these! Long not after life!

"Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn châu ngọc này với bảo châu là đệ nhất, đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Ðại vương chớ có ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are these four and eighty thousand wives, of whom the Queen of Glory is the chief. Cast away desire for these! Long not after life!

"Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn phụ nữ này là phụ nữ báu đệ nhất, đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với họ. Ðại vương chớ có ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are these four and eighty thousand yeomen, of whom the Wonderful Steward is the chief Cast away desire for these! Long not after life!

"Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn người thuộc giòng họ Sát-đế-lỵ này là tướng quân báu là đệ nhất, đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với họ. Ðại vương chớ có ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are these four and eighty thousand nobles, of whom the Wonderful Adviser is the chief. Cast away desire for these! Long not after life!

Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn quý tộc, này là Cố vấn là đệ nhất, đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với họ. Ðại vương chớ có ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are these four and. eighty thousand cows, with jute trappings, and horns tipped with bronze. Cast away desire for these! Long not after life!

"Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn nhũ ngưu với trang sức bằng vải cây đay, với sừng đầu nhọn bịt đồng này đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy từ bỏ ái dục đối với chúng. Ðại vương chớ có ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are these four and eighty thousand myriads of garments, of delicate textures, of flax, and cotton, and silk, and wool. Cast away desire for these! Long not after life!

"Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn vải Koti với sắc chất tinh diệu như vải gai, vải bông, vải lụa và vải nhung này đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Ðại vương chớ có ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are these four and eighty thousand dishes, in which, in the evening and in the morning, rice is served. Cast away desire for these! Long not after life!’

“When he thus spake, Ānanda, the Queen of Glory wept and poured forth tears.

"Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn loại cháo sữa, và buối sáng buổi chiều có cúng dường cơm này đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Ðại vương chớ có ái luyến đời sống!

Này Ananda, khi nghe nói vậy, hoàng hậu Subhaddà buồn khóc, rơi nước mắt

“Then, Ānanda, the Queen of Glory wiped away her tears, and addressed the Great King of Glory, and said:

12. Này Ananda, khi nghe nói vậy, hoàng hậu Subhaddà buồn khóc, rơi nước mắt và tâu với vua Ðại Thiện Kiến:

“‘The nature of all things near and dear to us, O King, is such that we must leave them, divide ourselves from them, separate ourselves from them. Pass not away, O King, with longing in thy heart. Sad is the death of him who longs, unworthy is the death of him who longs. Thine, O King, are these four and eighty thousand cities, the chief of which is the royal city of Kusāvatī. Cast away desire for these! Long not after life!

- Tâu Ðại vương, tất cả mọi sự vật khả ái, khả lạc đều thay đổi, không có thực thể, thực sự biến hóa. Ðại vương chớ có mệnh chung với tâm quyến luyến chúng. Ðau khổ thay, sự mệnh chung với tâm còn ái luyến! Ðáng trách thay, sự mệnh chung với tâm còn ái luyến!

“‘Thine, O King, are these four and eighty thousand palaces, the chief of which is the Palace of Righteousness. Cast away desire for these! Long not after life!

Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn lâu đài này với lâu đài Dhamma là đệ nhất, đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Ðại vương chớ có ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are these four and eighty thousand chambers, the chief of which is the chamber of the Great Complex. Cast away desire for these! Long not after life!

Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn cao đường này với cao đường Ðại Trang Nghiêm là đệ nhất, đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Ðại vương chớ có ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are these four and eighty thousand divans, of gold, and silver, and ivory, and sandal wood, spread with long-haired rugs, and cloths embroidered with flowers, and magnificent antelope skins; covered with lofty canopies; and provided at both ends with purple cushions. Cast away desire for these! Long not after life!

Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn sàng tọa này, bằng vàng, bằng bạc, bằng ngà, bằng gỗ kiên cố, được trải với những tấm nệm lông dài, với vải có thêu bông hoa và với những tấm da thù thắng của con sơn dương, được che với những tán che cao và hai đầu có gối màu đỏ, những sàng tọa này đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Ðại vương chớ có ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are these four and eighty thousand state elephants, with trappings of gold, and gilded flags, and golden coverings of network—of which the king of elephants, called “the Changes of the Moon,” is chief Cast away desire for these! Long not after life!

Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn con voi này, với những trang sức bằng vàng, cờ vàng, được che chở với lưới bằng vàng và tượng vương Uposatha là đệ nhất. Những con voi này đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Ðại vương chớ có ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are these four and eighty thousand state horses, with trappings of gold, and gilded flags, and golden coverings of network—of which “Thunder-cloud,” the king of horses, is the chief. Cast away desire for these! Long not after life!

Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn con ngựa này, với những trang sức bằng vàng, cờ vàng, được che chở với lưới bằng vang và mã vương Valàhaka là đệ nhất. Những con ngựa này đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy tử bỏ lòng ái dục đối với chúng. Ðại vương chớ có ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are these four and eighty thousand chariots, with coverings of the skins of lions, and of tigers, and of panthers—of which the chariot called “the Flag of Victory” is the chief. Cast away desire for these! Long not after life!

Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn cỗ xe này, với những tấm thảm bằng da sư tử, bằng da cọp, bằng da báo, với những đồ trang sức bằng vàng, cờ vàng, được che chở với lưới bằng vàng và cỗ xe tên Vejayanta là đệ nhất. Những cỗ xe này đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Ðại vương chớ có ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are these four and eighty thousand gems, of which the Wondrous Gem is the chief. Cast away desire for these! Long not after life!

Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn châu ngọc này với bảo châu là đệ nhất, đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Ðại vương chớ có ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are these four and eighty thousand wives, of whom the Queen of Glory is the chief. Cast away desire for these! Long not after life!

"Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn phụ nữ này và phụ nữ báu là đệ nhất đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với họ. Ðại vương chớ có ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are these four and eighty thousand yeomen, of whom the Wonderful Steward is the chief. Cast away desire for these! Long not after life!

Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn gia chủ này và gia chủ báu là đệ nhất đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với họ. Ðại vương chớ có ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are these four and eighty thousand nobles, of whom the Wonderful Adviser is the chief. Cast away desire for these! Long not after life!

"Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn người giòng họ Sát-đế-lỵ này với tướng quân báu là đệ nhất, đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Ðại vương chớ có ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are these four and eighty thousand cows, with jute trappings, and horns tipped with bronze. Cast away desire for these! Long not after life!

Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn nhũ ngưu với trang sức bằng vải cây đay, với sừng đầu nhọn bịt đồng này đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Ðại vương chớ có ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are these four and eighty thousand myriads of garments, of delicate textures, of flax, and cotton, and silk, and wool. Cast away desire for these! Long not after life!

Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn vải Koti với sắc chất tinh diệu, như vải gai, vải bông, vải lụa, vải nhung này đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Ðại vương chớ có ái luyến đời sống!

“‘Thine, O King, are these four and eighty thousand dishes, in which, in the evening and in the morning, rice is served. Cast away desire for these! Long not after life!

Tâu Ðại vương, tám vạn bốn ngàn loại cháo sữa, và buổi sáng buổi chiều có cúng dường cơm này đều thuộc của Ðại vương. Ðại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Ðại vương chớ có ái luyến đời sống!

“Then immediately, Ānanda, the Great King of Glory died. Just, Ānanda, as when a yeoman has eaten a hearty meal he becomes all drowsy, just so were the feelings he experienced, Ānanda, as death came upon the Great King of Glory.

13. Này Ananda, không bao lâu, vua Ðại Thiện Kiến mệnh chung. Này Ananda, giống như một người gia chủ hay con một người gia chủ, sau một bữa cơm thịnh soạn trở nên buồn ngủ, cũng tương tự như vậy cảm giác của vua Ðại Thiện Kiến khi mệnh chung.

“When the Great King of Glory, Ānanda, had died, he came to life again in the happy world of Brahmā.

Này Ananda, sau khi mệnh chung, vua Ðại Thiện Kiến sanh lên thiên phú cõi Phạm thiên.

“For eight and forty thousand years, Ānanda, the Great King of Glory lived the happy life of a prince; for eight and forty thousand years he was viceroy and heir-apparent; for eight and forty thousand years he ruled the kingdom; and for eight and forty thousand years he lived, as a layman, the noble life in the Palace of Righteousness. And then, when full of noble thoughts, he died; he entered, after the dissolution of the body, the noble world of Brahma.

Này Ananda, trải tám vạn bốn ngàn năm, vua Ðại Thiện Kiến sống sung sướng đời sống của một hoàng tử, trải tám vạn bốn ngàn năm làm một phó vương, trải tám vạn bốn ngàn năm làm một vị quốc vương, trải tám vạn bốn ngàn năm làm gia chủ, sống phạm hạnh trong lâu đài Dhamma. Ngài tu tập bốn Thần túc như vậy, sau khi thân hoại mạng chung. Ngài được sanh lên cõi Phạm thiên.

Now it may be, Ānanda, that you may think ‘The Great King of Glory of that time was another person.’ But, Ānanda, you should not view the matter thus. I at that time was the Great King of Glory.

14. Này Ananda, các ngươi có thể nghĩ: "Thời ấy, vua Ðại Thiện Kiến là một vị khác". Này Ananda, chớ có quan niệm như vậy. Thời ấy chính Ta là vua Ðại Thiện Kiến.

“Mine at that time were the four and eighty thousand cities, of which the chief was the royal city of Kusāvatī.

Tám vạn bốn ngàn kinh thành với kinh thành Kusàvati là đệ nhất ấy thuộc của Ta.

“Mine were the four and eighty thousand palaces, of which the chief was the Palace of Righteousness.

Tám vạn bốn ngàn lâu đài với lâu đài Dhamma là đệ nhất ấy thuộc của Ta.

“Mine were the four and eighty thousand chambers, of which the chief was the chamber of the Great Complex.

Tám vạn bốn ngàn cao đường với cao đường Ðại Trang Nghiêm là đệ nhất ấy thuộc của Ta.

“Mine were the four and eighty thousand divans, of gold, and silver, and ivory, and sandal wood, spread with long-haired rugs, and cloths embroidered with flowers, and magnificent antelope skins; covered with lofty canopies; and provided at both ends with purple cushions.

Tám vạn bốn ngàn sàng tọa ấy bằng vàng, bằng bạc, bằng ngà, bằng gỗ kiên cố, được trải với những tấm nệm lông dài, với vải có thêu bông hoa, và với những tấm da thù thắng của con sơn dương, được che chở với những tán che cao và hai đầu có gối màu đỏ, những sàng tọa ấy đều thuộc của ta.

“Mine were the four and eighty thousand state elephants, with trappings of gold, and gilded flags, and golden coverings of network—of which the king of elephants, called ‘the Changes of the Moon,’ was chief.

Tám vạn bốn ngàn con voi này, với những trang sức bằng vàng, cờ vàng, được che chở với lưới bằng vàng, và tượng vương Uposatha là đệ nhất. Những con voi ấy đều thuộc của ta.

“Mine were the four and eighty thousand state horses, with trappings, of gold, and gilded flags, and golden coverings of network—of which ‘Thunder-cloud,’ the king of horses, was the chief.

Tám vạn bốn ngàn con ngựa với những trang sức bằng vàng, cờ vàng, được che chở với lưới bằng vàng và mã vương Valahaka là đệ nhất. Những con ngựa này đều thuộc của ta.

“Mine were the four and eighty thousand chariots, with coverings of the skins of lions, and of tigers, and of panthers—of which the chariot called ‘the Flag of Victory’ was the chief.

“Mine were the four and eighty thousand gems, of which the Wondrous Gem was the chief.

“Mine were the four and eighty thousand wives, of whom the Queen of Glory was the chief.

“Mine were the four and eighty thousand yeomen, of whom the Wonderful Steward was the chief.

“Mine were the four and eighty thousand nobles, of whom the Wonderful Adviser was the chief,

“Mine were the four and eighty thousand cows, with jute trappings, and horns tipped with bronze.

“Mine were the four and eighty thousand myriads of garments, of delicate textures, of flax, and cotton, and silk, and wool.

“Mine were the four and eighty thousand dishes, in which, in the evening and in the morning, rice was served.

Tám vạn bốn ngàn cỗ xe này, với những tấm thảm bằng da sư tử, bằng da cọp, bằng da báo, với những trang sức bằng vàng, cờ vàng, được che chở với lưới bằng vàng, và cỗ xe tên Vijayanta là đệ nhất. Những cỗ xe này đều thuộc của Ta.

Tám vạn bốn ngàn châu ngọc này với bảo châu là đệ nhất đều thuộc của Ta.

Tám vạn bốn ngàn phụ nữ này với phụ nữ báu là đệ nhất đều thuộc của ta.

Tám vạn bốn ngàn gia chủ này với gia chủ báu là đệ nhất đều thuộc của Ta.

Tám vạn bốn ngàn người giòng họ Sát-đế-lỵ này với tướng quân báu là đệ nhất đều thuộc của Ta.

Tám vạn bốn ngàn nhũ ngưu với trang sức bằng vải cây đay, với sừng đầu nhọn bịt đồng đều thuộc của Ta.

Tám vạn bốn ngàn vải Koti với sắc chất tinh diệu như vải gai, vải bông, vải lụa và vải nhung này đều thuộc của Ta.

Tám vạn bốn ngàn loại cháo sữa, và buổi sáng buổi chiều có cúng dường cơm này đều thuộc của Ta.

“Of those four and eighty thousand cities, Ānanda, one was that city in which, at that time, I used to dwell—to wit, the royal city of Kusāvatī.

15. Này Ananda, trong tám vạn bốn ngàn kinh thành ấy, chỉ có một kinh thành mà Ta ở vào thời ấy, đó là kinh thành Kusàvati.

“Of those four and eighty thousand palaces too, Ānanda, one was that palace in which, at that time, I used to dwell—to wit, the Palace of Righteousness.

Này Ananda, trong tám vạn bốn ngàn lâu đài ấy, chỉ có một lâu đài mà Ta ở thời ấy, đó là lâu đài Dhamma.

“Of those four and eighty thousand chambers too, Ānanda, one was that chamber in which, at that time, I used to dwell—to wit, the chamber of the Great Complex. Of those four and eighty thousand divans too, Ānanda, one was that divan which, at that time, I used to occupy—to wit, one of gold, or one of silver, or one of ivory, or one of sandal wood.

Này Ananda, trong tám vạn bốn ngàn cao đường ấy, chỉ có một cao đường mà Ta ở thời ấy, đó là cao đường Ðại Trang Nghiêm.Này Ananda, trong tám vạn bốn ngàn sàng tọa ấy, chỉ có một sàng tọa mà Ta dùng thời ấy, đó là sàng tọa bằng vàng, hay bằng bạc, hay bằng ngà, hay bằng gỗ kiên cố.

“Of those four and eighty thousand state elephants too, Ānanda, one was that elephant which, at that time, I used to ride—to wit, the king of elephants, ‘the Changes of the Moon.’

Này Ananda, trong tám vạn bốn ngàn con voi ấy, chỉ có một con voi mà Ta cỡi thời ấy, đó là tượng vương Uposatha.

“Of those four and eighty thousand horses too, Ānanda, one was that horse which, at that time, I used to ride—to wit, the king of horses, ‘the Thunder-cloud.’

Này Ananda, trong tám vạn bốn ngàn con ngựa ấy, chỉ có một con ngựa mà Ta cỡi thời ấy, đó là con mã vương Valàhaka.

“Of those four and eighty thousand chariots too, Ānanda, one was that chariot in which, at that time, I used to ride—to wit, the chariot called ‘the Flag of Victory.’

Này Ananda, trong tám vạn bốn ngàn cỗ xe ấy, chỉ có một cỗ xe mà Ta cỡi thời ấy, đó là cỗ xe Vejayanta.

“Of those four and eighty thousand wives too, Ānanda, one was that wife who, at that time, used to wait upon me—to wit, either a lady of noble birth, or a Velāmikānī.

Này Ananda, trong tám vạn bốn ngàn phụ nữ ấy, chỉ có một phụ nữ hầu hạ Ta thời ấy, đó là phụ nữ của giòng Sát-đế-lỵ hay giòng Velàmikàni.

“Of those four and eighty thousand myriads of suits of apparel too, Ānanda, one was the suit of apparel which, at that time, I wore—to wit, one of delicate texture, of linen, or cotton, or silk, or wool.

Này Ananda, trong tám vạn bốn ngàn loại vải Koti ấy, chỉ có một loại vải sắc chất tế nhị mà Ta mặc thời ấy, đó là vải gai, vải bông, vải lụa hay vai nhung.

“Of those four and eighty thousand dishes too, Ānanda, one was that dish from which, at that time, I ate a measure of rice and the curry suitable thereto.

Này Ananda, trong tám vạn bốn ngàn loại cháo sữa ấy, chỉ có một loại cháo sữa mà Ta dùng thời ấy, đó là cơm và đồ ăn.

“See, Ānanda, how all these things are now past, are ended, have vanished away. Thus impermanent, Ānanda, are component things; thus transitory, Ānanda, are component things; thus untrustworthy, Ānanda, are component things. Insomuch, Ānanda, is it meet to be weary of, is it meet to be estranged from, is it meet to be set quite free from the bondage of all component things!

16. Này Ananda, tất cả các pháp hữu vi ấy nay đã vào quá khứ, hoại diệt và biến hóa. Này Ananda, các pháp hữu vi, vô thường là như vậy, không kiên cố là như vậy, không đáng tin tưởng là như vậy; vì rằng, này Ananda, tất cả các pháp hữu vi cần phải nhàm chán, cần phải thoát ly, cần phải giải thoát.

“Now I call to mind, Ānanda, how in this spot my body had been six times buried. And when I was dwelling here as the righteous king who ruled in righteousness, the lord of the four regions of the earth, the conqueror, the protector of his people, the possessor of the seven royal treasures— that was the seventh time.

17. Này Ananda, nay Ta nhớ lại, như thế nào tại chỗ này thân Ta đã được chôn tất cả là sáu lần; và khi Ta sống làm một vị Chuyển Luân vương, dùng chánh pháp trị nước, một vị pháp vương, trị vì bốn thiên hạ, vị chinh phục, che chở cho quần chúng, đầy đủ bảy món báu, đó là lần thứ bảy.

“But I behold not any spot, Ānanda, in the world of men and gods, nor in the world of Māra, nor in the world of Brahma—no, not among the race of Samaṇas or Brahmans, of gods or men— where the Tathāgata for the eighth time will lay aside his body.”

Này Ananda, Ta không thấy một địa phương nào, trong thế giới loài Người và chư Thiên, trong thế giới Ma vương hay thế giới Phạm thiên, trong giòng họ Sa-môn hay Bà-la-môn mà trong địa phương ấy, Như Lai sẽ bỏ thân này lần thứ tám.

Thus spake the Blessed One; and when the Happy One had thus spoken, once again the Teacher said:

“How transient are all component things!
Growth is their nature and decay:
They are produced, they are dissolved again:
Their stilling is happiness.”

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Sau khi thuyết xong, Thiện Thệ, bậc Ðạo Sư nói lại bài kệ như sau:

Tất cả pháp hữu vi,
Thật sự là vô thường,
Khởi lên rồi diệt mất,
Thường tánh là như vậy.
Chúng được sanh khởi lên,
Rồi chúng lại hoại diệt.
Hạnh phúc thay khi chúng
Ðược tịnh chỉ an lạc.

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

  Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại phamdang0308@gmail.com
Cập nhập ngày: Thứ Năm 31-12-2020

webmasters: Minh Hạnh & Thiện Pháp, Thủy Tú & Phạm Cương

 | | trở về đầu trang | Home page |