So I have heard. At one time the Buddha was staying in the land of the Sakyans, near the Sakyan town named Medeḷumpa. |
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở giữa dân chúng Sakka (Thích-ca). Medalumpa là một thị trấn của dân chúng Sakka. |
Now at that time King Pasenadi of Kosala had arrived at Townsville on some business. Then he addressed Dīgha Kārāyana, |
Lúc bấy giờ, vua Pasenadi nước Kosala đi đến Nangaraka vì có một vài công việc. Rồi vua Pasenadi nước Kosala nói với Digha Karayana: |
“My good Kārāyana, harness the finest chariots. We will go to a park and see the scenery.” “Yes, Your Majesty,” |
-- Này Karayana, hãy sửa soạn các cỗ xe thù thắng, ta muốn đi đến các thượng uyển để ngắm phong cảnh. -- Thưa vâng, Ðại vương. |
“Yes, Your Majesty,” replied Dīgha Kārāyana. He harnessed the chariots and informed the king, |
Digha Karayana vâng đáp vua Pasenadi nước Kosala, cho sửa soạn các cỗ xe thù thắng, rồi thưa với vua Pasenadi nước Kosala: |
“Sire, the finest chariots are harnessed. Please go at your convenience.” |
-- Tâu Ðại vương, các cỗ xe thù thắng của Ðại vương đã sửa soạn xong, nay Ðại vương hãy làm những gì Ðại vương nghĩ là hợp thời. |
Then King Pasenadi mounted a fine carriage and, along with other fine carriages, set out in full royal pomp from Townsville, heading for the park grounds. He went by carriage as far as the terrain allowed, then descended and entered the park on foot. As he was going for a walk in the park he saw roots of trees that were impressive and inspiring, quiet and still, far from the madding crowd, remote from human settlements, and fit for retreat. The sight reminded him right away of the Buddha: “These roots of trees, so impressive and inspiring, are like those where we used to pay homage to the Blessed One, the perfected one, the fully awakened Buddha. |
Rồi vua Pasenadi nước Kosala, leo lên một cỗ xe thù thắng, đi ra khỏi Nangaraka cùng nhiều cỗ xe thù thắng khác, với tất cả uy vệ của vua chúa, và đi đến vườn thượng uyển, đi xe cho đến chỗ còn đi xe được, rồi xuống xe đi bộ, vào vườn thượng uyển, trong khi đi qua đi lại trong vườn thượng uyển, trong khi tản bộ thưởng ngoạn, vua Pasenadi nước Kosala thấy những gốc cây khả ái, đẹp mắt, lặng tiếng, ít ồn, vắng người, thoáng gió, xa lánh mọi tụ hội đông đảo, thích hợp với trầm tư mặc tưởng. Thấy vậy, vua liền nghĩ đến Thế Tôn: "Những gốc cây khả ái, đẹp mắt, lặng tiếng, ít ồn, vắng người, thoáng gió, xa lánh mọi tụ hội đông đảo, thích hợp với trầm tư mặc tưởng này, chính tại đây, chúng ta đảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác". Rồi vua Pasenadi nước Kosala nói với Digha Karayana: |
“These roots of trees, so impressive and inspiring, are like those where we used to pay homage to the Blessed One, the perfected one, the fully awakened Buddha. My good Kārāyana, where is that Buddha at present?” |
-- Này Karayana, những gốc cây khả ái... Chánh Ðẳng Giác. Này Karayana, nay Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác trú tại chỗ nào? |
“Great king, there is a Sakyan town named Medaḷumpa. That’s where the Buddha is now staying.” |
-- Tâu Ðại vương, có một thị trấn của dân chúng Sakka tên là Medalumpa. Tại đấy, Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đang trú. |
“But how far away is that town?” |
-- Này Karayana, Medalumpa, thị trấn của dân chúng Sakka, cách xa Nangaraka bao nhiêu? |
“Not far, great king, it’s three leagues. We can get there while it’s still light.” |
-- Tâu Ðại vương, cách không xa, có ba yojana (do tuần). Có thể đi đến chỗ ấy trong ngày. |
“Well then, harness the chariots, and we shall go to see the Buddha.” “Yes, Your Majesty,” |
-- Vậy này Karayana, hãy sửa soạn các cỗ xe thù thắng, chúng ta sẽ đi yết kiến Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. -- Thưa vâng, tâu Ðại vương. |
replied Dīgha Kārāyana. He harnessed the chariots and informed the king, “Sire, the finest chariots are harnessed. Please go at your convenience.” |
Digha Karayana vâng đáp vua Pasenadi nước Kosala, cho sửa soạn các cỗ xe thù thắng, sau khi sửa soạn xong các cỗ xe thù thắng, liền tâu với vua Pasenadi nước Kosala: |
“Sire, the finest chariots are harnessed. Please go at your convenience.”. |
-- Tâu Ðại vương các cỗ xe thù thắng đã sửa soạn xong, nay Ðại vương hãy làm những gì Ðại vương nghĩ là hợp thời. |
Then King Pasenadi mounted a fine carriage and, along with other fine carriages, set out from Townsville to Medaḷumpa. He reached the town while it was still light and headed for the park grounds. He went by carriage as far as the terrain allowed, then descended and entered the monastery on foot. At that time several mendicants were walking mindfully in the open air. King Pasenadi of Kosala went up to them and said, |
Rồi vua Pasenadi nước Kosala, leo lên một cỗ xe thù thắng, và cùng với các cỗ xe thù thắng khác, từ Nangaraka đi đến Medulampa, thị trấn của dân chúng Sakka, đến nơi đó nội trong ngày, rồi đi đến tịnh xá. Vua đi xe cho đến chỗ nào có thể đi xe được, rồi xuống xe đi bộ vào tịnh xá. Lúc bấy giờ một số đông Tỷ-kheo đang đi kinh hành ngoài trời. Vua Pasenadi nước Kosala đi đến các Tỷ-kheo ấy, sau khi đến, thưa với các Tỷ-kheo ấy: |
Sirs, where is the Blessed One at present, the perfected one, the fully awakened Buddha? For I want to see him.” |
-- Chư Tôn giả, nay Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ở đâu? Chúng tôi muốn yết kiến Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. |
“Great king, that’s his dwelling, with the door closed. Approach it quietly, without hurrying; go onto the porch, clear your throat, and knock with the latch. The Buddha will open the door.” |
-- Thưa Ðại vương, Thế Tôn ở trong ngôi nhà này với các cửa khép kín. Hãy im lặng đến gần, bước vào hành lang nhưng không vượt qua, sau khi đằng hắng, hãy gõ vào khóa cửa. Thế Tôn sẽ mở cửa cho Ðại vương. |
The king right away presented his sword and turban to Dīgha Kārāyana, who thought, “Now the king seeks privacy. I should wait here.” Then the king approached the Buddha’s dwelling and knocked, and the Buddha opened the door. |
Rồi vua Pasenadi nước Kosala, ngay tại chỗ ấy, trao kiếm và vành khăn cho Digha Karayana. Rồi Digha Karayana tự nghĩ: "Nay vua muốn đi một mình. Ở đây, ta phải dừng lại". Rồi vua Pasenadi nước Kosala im lặng đi đến căn nhà đóng cửa, sau khi đến, bước vào hành lang nhưng không vượt qua, đằng hắng và gõ vào khóa cửa. Thế Tôn mở cửa. |
King Pasenadi entered the dwelling, and bowed with his head to the Buddha’s feet, caressing them and covering them with kisses, and pronounced his name: |
Rồi vua Pasenadi nước Kosala bước vào căn nhà, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, miệng hôn xung quanh chân Thế Tôn, tay xoa rờ xung quanh chân và tự xưng tên: |
“Sir, I am Pasenadi, king of Kosala! I am Pasenadi, king of Kosala!” |
-- Bạch Thế Tôn, con là vua Pasenadi nước Kosala. Bạch Thế Tôn, con là vua Pasenadi nước Kosala. |
“But great king, for what reason do you demonstrate such utmost devotion for this body, conveying your manifest love?” |
-- Thưa Ðại vương, do thấy nguyên nhân gì, Ðại vương lại hạ mình tột bực như vậy đối với thân này và biểu lộ tình thân ái như vậy? |
“Sir, I infer about the Buddha from the teaching: ‘The Blessed One is a fully awakened Buddha. The teaching is well explained. The Saṅgha is practicing well.’ It happens, sir, that I see some ascetics and brahmins leading the spiritual life only for a limited period: ten, twenty, thirty, or forty years. Some time later—nicely bathed and anointed, with hair and beard dressed—they amuse themselves, supplied and provided with the five kinds of sensual stimulation. But here I see the mendicants leading the spiritual life entirely full and pure as long as they live, to their last breath. I don’t see any other spiritual life elsewhere so full and pure. That’s why I infer this about the Buddha from the teaching: ‘The Blessed One is a fully awakened Buddha. The teaching is well explained. The Saṅgha is practicing well.’ |
-- Bạch Thế Tôn, con có pháp truyền thống (Dhammanvaya) này đối với Thế Tôn. "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng, chư Tăng đệ tử của Thế Tôn khéo tu tập hành trì". Ở đây, bạch Thế Tôn, con thấy nhiều vị Sa-môn, Bà-la-môn hành trì Phạm hạnh có giới hạn trong mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm, bốn mươi năm. Những vị này, sau một thời gian, khéo tắm, khéo phấn sáp, với râu tóc khéo chải chuốt, sống thụ hưởng một cách sung mãn, đầy đủ năm dục trưởng dưỡng. Ở đây, Bạch Thế Tôn, con thấy các Tỷ-kheo sống hành trì Phạm hạnh viên mãn, thanh tịnh cho đến trọn đời, cho đến hơi thở cuối cùng. Bạch Thế Tôn, con không thấy ngoài đây ra có một Phạm hạnh nào khác viên mãn, thanh tịnh như vậy. Bạch Thế Tôn, đây là pháp truyền thống của con đối với Thế Tôn. "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác. Pháp được Thế Tôn khéo giảng, chư Tăng đệ tử của Thế Tôn khéo tu tập, hành trì". |
Furthermore, kings fight with kings, aristocrats fight with aristocrats, brahmins fight with brahmins, householders fight with householders. A mother fights with her child, child with mother, father with child, and child with father. Brother fights with brother, brother with sister, sister with brother, and friend fights with friend. But here I see the mendicants living in harmony, appreciating each other, without quarreling, blending like milk and water, and regarding each other with kindly eyes. I don’t see any other assembly elsewhere so harmonious. So I infer this about the Buddha from the teaching: ‘The Blessed One is a fully awakened Buddha. The teaching is well explained. The Saṅgha is practicing well.’ |
Lại nữa bạch Thế Tôn, vua chúa cãi lộn với vua chúa, Sát-đế-lị cãi lộn với Sát-đế-lị, Bà-la-môn cãi lộn với Bà-la-môn, gia chủ cãi lộn với gia chủ, mẹ cãi lộn với con, con cãi lộn với mẹ, cha cãi lộn với con, con cãi lộn với cha, anh em cãi lộn với anh em, anh em cãi lộn với chị em, chị em cãi lộn với anh em, bạn bè cãi lộn với bạn bè. Còn ở đây, bạch Thế Tôn, con thấy các Tỷ-kheo sống với nhau thuận hòa, thân hữu, không cãi lộn nhau, hòa hợp như nước với sữa, nhìn nhau với cặp mắt ái kính. Bạch Thế Tôn, con không thấy ngoài đây ra, có một Phạm hạnh nào khác viên mãn, thanh tịnh như vậy. Bạch Thế Tôn, đây là pháp truyền thống của con đối với Thế Tôn: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng, đệ tử chúng Tăng của Thế Tôn khéo tu tập, hành trì". |
Furthermore, I have walked and wandered from monastery to monastery and from park to park. There I’ve seen some ascetics and brahmins who are thin, haggard, pale, and veiny—hardly a captivating sight, you’d think. It occurred to me: ‘Clearly these venerables lead the spiritual life dissatisfied, or they’re hiding some bad deed they’ve done. That’s why they’re thin, haggard, pale, and veiny—hardly a captivating sight, you’d think.’ I went up to them and said: |
Lại nữa, bạch Thế Tôn, con đi du hành tản bộ từ công viên này đến công viên khác, từ cung uyển này đến cung uyển khác. Ở đấy, con thấy một số Sa-môn, Bà-la-môn gầy mòn, khốn khổ, da xấu, bạc nhợt, tay chân gân nổi, hình như không có gì đẹp mắt để người ta nhìn. Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Thật sự các bậc Tôn giả này sống Phạm hạnh không được hoan hỷ hay có những ác nghiệp được giấu kín. Do vậy, các vị Tôn giả này mới gầy mòn, khốn khổ, da xấu, bạc nhợt, tay chân gân nổi, hình như không có gì đẹp mắt để người ta nhìn. Con đi đến các vị ấy và nói: |
Venerables, why are you so thin, haggard, pale, and veiny—hardly a captivating sight, you’d think?’ |
"-- Vì sao chư Tôn giả lại gầy mòn, khốn khổ, da xấu, bạc nhợt, tay chân gân nổi, hình như không có gì đẹp mắt để người ta nhìn?". |
They say: ‘We have jaundice, great king.’ |
Các vị ấy trả lời như sau: "-- Tâu Ðại vương, chúng tôi bị bệnh gia truyền". |
But here I see mendicants always smiling and joyful, obviously happy, with cheerful faces, living relaxed, unruffled, surviving on charity, their hearts free as a wild deer. It occurred to me: ‘Clearly these venerables have realized a higher distinction in the Buddha’s instructions than they had before. That’s why these venerables are always smiling and joyful, obviously happy, with cheerful faces, living relaxed, unruffled, surviving on charity, their hearts free as a wild deer.’ So I infer this about the Buddha from the teaching: ‘The Blessed One is a fully awakened Buddha. The teaching is well explained. The Saṅgha is practicing well.’ |
Còn ở đây, bạch Thế Tôn, con thấy các Tỷ-kheo hân hoan, phấn khởi, hỷ lạc, các căn thoải mái, không dao động, bình tĩnh, sống dựa vào sự hỷ cúng của người khác, với tâm tư như con thú rừng. Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Thật sự các bậc Tôn giả này ý thức được một sự tối thắng thù diệu nào trong giáo lý Thế Tôn, một sự thành đạt tuần tự nên các bậc Tôn giả này hân hoan, phấn khởi, hỷ lạc, các căn thoải mái, không dao động, bình tĩnh, sống dựa vào sự hỷ cúng của người khác, với tâm tư như con thú rừng. Bạch Thế Tôn, đây là pháp truyền thống của con đối với Thế Tôn: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng, đệ tử chúng Tăng của Thế Tôn khéo tu tập hành trì". |
Furthermore, I have walked and wandered from monastery to monastery and from park to park. There I’ve seen some ascetics and brahmins who are thin, haggard, pale, and veiny—hardly a captivating sight, you’d think. It occurred to me: ‘Clearly these venerables lead the spiritual life dissatisfied, or they’re hiding some bad deed they’ve done. That’s why they’re thin, haggard, pale, and veiny—hardly a captivating sight, you’d think.’ I went up to them and said: ‘Venerables, why are you so thin, haggard, pale, and veiny—hardly a captivating sight, you’d think?’ They say: ‘We have jaundice, great king.’ But here I see mendicants always smiling and joyful, obviously happy, with cheerful faces, living relaxed, unruffled, surviving on charity, their hearts free as a wild deer. It occurred to me: ‘Clearly these venerables have realized a higher distinction in the Buddha’s instructions than they had before. That’s why these venerables are always smiling and joyful, obviously happy, with cheerful faces, living relaxed, unruffled, surviving on charity, their hearts free as a wild deer.’ So I infer this about the Buddha from the teaching: ‘The Blessed One is a fully awakened Buddha. The teaching is well explained. The Saṅgha is practicing well.’ |
Lại nữa, bạch Thế Tôn, con là một vị vua Sát-đế-lị, đã làm lễ quán đảnh, có thể hành quyết những ai đáng bị hành quyết, gia phạt những ai đáng bị gia phạt, trục xuất những ai đáng bị trục xuất. Nhưng bạch Thế Tôn, khi con ngồi xử kiện, có người đôi khi nói ngắt lời của con. Và con không có dịp để nói: "Này Quý vị, chớ có ngắt lời nói của ta, khi ta đang ngồi xử kiện. Quý vị hãy chờ cho đến khi ta nói xong". Bạch Thế Tôn, thế mà có người vẫn ngắt lời nói của con. Còn ở đây, bạch Thế Tôn, con thấy các Tỷ-kheo, trong khi Thế Tôn thuyết pháp cho đồ chúng hàng trăm người, trong khi ấy không có một tiếng nhảy mũi hay tiếng ho khởi lên. Bạch Thế Tôn, thuở xưa, trong khi Thế Tôn thuyết pháp cho đồ chúng hàng trăm người, có người đệ tử Thế Tôn ho lên. Một đồng Phạm hạnh khẽ đập vào đầu gối và nói: "Tôn giả hãy im lặng, Tôn giả chớ có làm ồn. Thế Tôn, bậc Ðạo Sư của chúng ta đang thuyết pháp". Bạch Thế Tôn, con khởi lên ý nghĩ như sau: "Thật vi diệu thay! Thật hy hữu thay! Thính chúng này thật khéo được huấn luyện, không gậy, không kiếm. Bạch Thế Tôn, con không thấy ngoài đồ chúng này có một đồ chúng nào khác được khéo huấn luyện như đồ chúng này. Bạch Thế Tôn, đây là pháp truyền thống của con đối với Thế Tôn: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng, đệ tử chúng Tăng của Thế Tôn khéo tu tập hành trì". |
Furthermore, as an anointed aristocratic king I am able to execute, fine, or banish those who are guilty. Yet when I’m sitting in judgment they interrupt me. And I can’t get them to stop interrupting me and wait until I’ve finished speaking. But here I’ve seen the mendicants while the Buddha is teaching an assembly of many hundreds, and there is no sound of his disciples coughing or clearing their throats. Once it so happened that the Buddha was teaching an assembly of many hundreds. Then one of his disciples cleared their throat. And one of their spiritual companions nudged them with their knee, to indicate: ‘Hush, venerable, don’t make a sound! Our teacher, the Blessed One, is teaching!’ It occurred to me: ‘It’s incredible, it’s amazing, how an assembly can be so well trained without rod or sword!’ I don’t see any other assembly elsewhere so well trained. So I infer this about the Buddha from the teaching: ‘The Blessed One is a fully awakened Buddha. The teaching is well explained. The Saṅgha is practicing well.’ |
Lại nữa, bạch Thế Tôn, con thấy ở đây một số Sát-đế-lị bác học, tế nhị, nghị luận biện tài, biện bác như chia chẻ sợi tóc. Những vị này đi chỗ này, chỗ kia, như muốn đả phá các tà kiến với trí tuệ của họ. Những vị này nghe: "Sa-môn Gotama sẽ đến thăm ngôi làng này hay thị trấn này". Họ sắp đặt câu hỏi: "Chúng ta sau khi đến sẽ hỏi Sa-môn Gotama câu hỏi này. Khi bị chúng ta hỏi như vậy, nếu Sa-môn Gotama trả lời như thế này, thì chúng ta sẽ chất vấn như thế này. Khi bị ta hỏi như vậy, nếu Sa-môn Gotama trả lời như thế kia, thì chúng ta sẽ chất vấn như thế kia". Những vị này nghe: "Sa-môn Gotama đã đến thăm ngôi làng hay thị trấn này". Những vị này đến chỗ Sa-môn Gotama ở. Sa-môn Gotama với pháp thoại khai thị cho các vị này, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ. Ðược Sa-môn Gotama, với pháp thoại khai thị, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, họ không hỏi Sa-môn Gotama câu hỏi (đã định trước), huống nữa là chất vấn! Trái lại, họ trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Bạch Thế Tôn, như vậy là pháp truyền thống của con đối với Thế Tôn: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng, đệ tử chúng Tăng của Thế Tôn khéo tu tập hành trì". |
Furthermore, I’ve seen some clever aristocrats who are subtle, accomplished in the doctrines of others, hair-splitters. You’d think they live to demolish convictions with their intellect. They hear: ‘So, gentlemen, that ascetic Gotama will come down to such and such village or town.’ They formulate a question, thinking: ‘We’ll approach the ascetic Gotama and ask him this question. If he answers like this, we’ll refute him like that; and if he answers like that, we’ll refute him like this.’ When they hear that he has come down they approach him. The Buddha educates, encourages, fires up, and inspires them with a Dhamma talk. They don’t even get around to asking their question to the Buddha, so how could they refute his answer? Invariably, they become his disciples. So I infer this about the Buddha from the teaching: ‘The Blessed One is a fully awakened Buddha. The teaching is well explained. The Saṅgha is practicing well.’ Furthermore, I see some clever brahmins … some clever householders … some clever ascetics who are subtle, accomplished in the doctrines of others, hair-splitters. … They don’t even get around to asking their question to the Buddha, so how could they refute his answer? Invariably, they ask the ascetic Gotama for the chance to go forth. And he gives them the going-forth. Soon after going forth, living withdrawn, diligent, keen, and resolute, they realize the supreme end of the spiritual path in this very life. They live having achieved with their own insight the goal for which gentlemen rightly go forth from the lay life to homelessness. They say: ‘We were almost lost! We almost perished! For we used to claim that we were ascetics, brahmins, and perfected ones, but we were none of these things. But now we really are ascetics, brahmins, and perfected ones!’ So I infer this about the Buddha from the teaching: ‘The Blessed One is a fully awakened Buddha. The teaching is well explained. The Saṅgha is practicing well.’ |
Lại nữa, bạch Thế Tôn, con thấy ở đây một số Bà-la-môn bác học... Gia chủ bác học, Sa-môn bác học, tế nhị, nghị luận biện tài, biện bác như chia chẻ sợi tóc, những vị này đi chỗ này chỗ kia như muốn đả phá các tà kiến... họ không hỏi Sa-môn Gotama câu hỏi (đã định trước), huống nữa là chất vấn. Trái lại, họ xin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Thế Tôn cho họ được xuất gia. Ðược xuất gia như vậy, một số các vị ấy sống một mình, không phóng dật, nỗ lực, tinh cần và không bao lâu sau, tự chứng với thắng trí, chứng ngộ chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại mục đích tối thượng của Phạm hạnh mà những Thiện nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến. Họ nói như sau: "Thật sự chúng ta gần hoại vong! Thật sự chúng ta gần hoại diệt! Xưa kia chúng ta không phải Sa-môn lại tự xem là Sa-môn, không phải Bà-la-môn lại tự xem là Bà-la-môn, không phải bậc A-la-hán lại tự xem là bậc A-la-hán. Nay chúng ta mới thật là Sa-môn. Nay chúng ta mới thật là Bà-la-môn. Nay chúng ta mới thật là A-la-hán". Bạch Thế Tôn, đây là pháp truyền thống của con đối với Thế Tôn: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng, đệ tử chúng Tăng của Thế Tôn khéo tu tập hành trì". |
Furthermore, these chamberlains Isidatta and Purāṇa share my meals and my carriages. I give them a livelihood and bring them renown. And yet they don’t show me the same level of devotion that they show to the Buddha. Once it so happened that while I was leading a military campaign and testing Isidatta and Purāṇa I took up residence in a cramped house. They spent most of the night discussing the teaching, then they lay down with their heads towards where the Buddha was and their feet towards me. It occurred to me: ‘It’s incredible, it’s amazing! These chamberlains Isidatta and Purāṇa share my meals and my carriages. I give them a livelihood and bring them renown. And yet they don’t show me the same level of devotion that they show to the Buddha. Clearly these venerables have realized a higher distinction in the Buddha’s instructions than they had before.’ So I infer this about the Buddha from the teaching: ‘The Blessed One is a fully awakened Buddha. The teaching is well explained. The Saṅgha is practicing well.’ |
Lại nữa, bạch Thế Tôn, Isidatta và Purana là hai quan giữ ngựa, ăn cơm của con, đi xe của con, sinh sống do con cho, và chính con đem danh vọng lại cho họ. Nhưng họ không hạ mình đối với con như họ hạ mình đối với Thế Tôn. Thuở xưa, bạch Thế Tôn, trong khi hành quân chống với đội quân đối nghịch, và muốn thử thách Isidatta và Purana, hai quan giữ ngựa, con đến ở tại một căn nhà chật hẹp. Rồi bạch Thế Tôn, hai quan giữ ngựa, Isidatta và Purana, sau khi cùng nhau đàm luận về chánh pháp hơn nửa đêm, rồi nằm xuống ngủ, với đầu của họ hướng về phía mà họ được nghe là chỗ Thế Tôn ở và với chân hướng về chỗ con. Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Thật vi diệu thay! Thật hy hữu thay! Hai quan giữ ngựa Isidatta và Purana này ăn cơm của ta, đi xe của ta, sinh sống do ta cho, và chính ta đem danh vọng lại cho họ. Nhưng họ không hạ mình đối với ta như họ hạ mình đối với Thế Tôn. Thật sự những vị này ý thức được một sự tối thắng thù diệu nào trong giáo lý Thế Tôn, một sự thành đạt tuần tự". Bạch Thế Tôn, đây là pháp truyền thống của con đối với Thế Tôn: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng, đệ tử chúng Tăng của Thế Tôn khéo tu tập hành trì". |
Furthermore, the Buddha is an aristocrat, and so am I. The Buddha is Kosalan, and so am I. The Buddha is eighty years old, and so am I. Since this is so, it’s proper for me to show the Buddha such utmost devotion and demonstrate such friendship."Well, now, sir, I must go. I have many duties, and much to do". |
Lại nữa, bạch Thế Tôn, Thế Tôn thuộc dòng Sát-đế-lị, con cũng thuộc dòng Sát-đế-lị. Thế Tôn là người nước Kosala, con cũng thuộc người nước Kosala. Thế Tôn được tám mươi tuổi, con cũng được tám mươi tuổi. Vì Thế Tôn thuộc dòng Sát-đế-lị và con cũng thuộc dòng Sát-đế-lị; vì Thế Tôn là người nước Kosala, con cũng thuộc người Kosala; vì Thế Tôn được tám mươi tuổi, con cũng được tám mươi tuổi; nên con sẵn sàng hạ mình tột bực đối với Thế Tôn, và biểu lộ tình thân ái. Bạch Thế Tôn, nay chúng con phải đi, chúng con nhiều công việc, có nhiều bổn phận phải làm. |
“Please, great king, go at your convenience.” |
-- Thưa Ðại vương, Ðại vương hãy làm những gì Ðại vương nghĩ là hợp thời. |
Then King Pasenadi got up from his seat, bowed, and respectfully circled the Buddha, keeping him on his right, before leaving. |
Rồi vua Pasenadi nước Kosala từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi ra đi. |
Soon after the king had left, the Buddha addressed the mendicants: |
Khi vua Pasenadi nước Kosala ra đi không bao lâu, Thế Tôn cho gọi các Tỷ-kheo: |
“Mendicants, before he got up and left, King Pasenadi spoke shrines to the teaching. Learn these shrines to the teaching! Memorize these shrines to the teaching! Remember these shrines to the teaching! These shrines to the teaching are beneficial and relate to the fundamentals of the spiritual life.” |
-- Này các Tỷ-kheo, đấy là vua Pasenadi nước Kosala. Sau khi nói lên những pháp trang nghiêm, vua đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Này các Tỷ-kheo, hãy học các pháp trang nghiêm. Hãy thấu triệt các pháp trang nghiêm. Này các Tỷ-kheo, hãy thọ trì các pháp trang nghiêm. Này các Tỷ-kheo, các pháp trang nghiêm này liên hệ đến mục tiêu, là căn bản của Phạm hạnh. |
That is what the Buddha said. Satisfied, the mendicants were happy with what the Buddha said. |
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy. |
Cập nhập ngày:
Thứ Hai 26-4-2021 |