I heard thus. At one time the Blessed One was living in the monastery offered by Anaathapindika in Jeta’s grove in Saavatthi.

Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc).

At that time to a bhikkhu named Saati the son of a fisherman this view had arisen: As I know the Teaching of the Blessed One this consciousness transmigrates through existences, not anything else.

Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo tên là Sati, con của người đánh cá, khởi lên ác tà kiến như sau: "Theo như tôi hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, thì thức này dong ruổi, luân chuyển nhưng không đổi khác".

Many bhikkhus, heard that this evil view had arisen to a bhikkhu, named Saati the son of a fisherman: ‘As I know the Teaching of the Blessed One, this consciousness transmigrates through existences, not anything else’. Then those bhikkhus approached, bhikkhu Saati the son of a fisherman and asked:

Một số đông Tỷ-kheo nghe như sau: "Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, khởi lên ác tà kiến như sau: 'Theo như tôi hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, thì thức này dong ruổi, luân chuyển nhưng không đổi khác'". Rồi những Tỷ-kheo ấy đi đến chỗ Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá ở, khi đến xong liền nói với Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá như sau:

Friend, Saati, is it true, that such an evil view has arisen to you: ‘As I know the Teaching of the Blessed One, this consciousness transmigrates through existences, not anything else’

-- Này Hiền giả Sati, có đúng sự thật chăng, Hiền giả khởi lên ác tà kiến như sau: "Theo như tôi hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng thì thức này dong ruổi, luân chuyển nhưng không đổi khác".

Yes, friends, as I know the Teaching of the Blessed One, this consciousness transmigrates through existences, not anything else.

-- Thật sự là vậy, chư Hiền, theo như tôi hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, thì thức này dong ruổi, luân chuyển nhưng không đổi khác.

Then those bhikkhus, desirous of dissuading the bhikkhu Saati from that evil view, cross questioned, asked for reasons and studied with him:

Rồi những Tỷ-kheo ấy muốn Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, từ bỏ ác tà kiến ấy, liền cật vấn, nạn vấn lý do, thảo luận:

Saati, do not say that, do not blame the Blessed One. It is not good to blame the Blessed One. The Blessed One did not say this. The Blessed One has said in various ways, that consciousness arises dependently. Without a cause there is no arising of consciousness.

-- Hiền giả Sati, chớ nói như vậy, chớ xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn là không tốt. Thế Tôn không có nói như vậy. Hiền giả Sati, Thế Tôn đã dùng nhiều pháp môn nói thức do duyên khởi; không có duyên thì thức không hiện khởi.

Even when those bhikkhus, cross questioned, asked for reasons and studied together with him, he held on to his evil view tenaciously and would not give it up and said.

Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, dù được các Tỷ-kheo ấy cật vấn, thảo luận, vẫn nói lên ác tà kiến ấy, cứng đầu chấp chặt, nắm chặt tà kiến ấy.

‘As I know the Teaching of the Blessed One, this consciousness transmigrates through existences, not anything else’

- Thật sự là vậy, chư Hiền. Theo như tôi hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng thì thức này dong ruổi, luân chuyển, nhưng không đổi khác.

As those bhikkhus could not dissuade the bhikkhu Saati from that evil view, they approached the Blessed One, worshipped, and sat on a side. They said to the Blessed One:

Vì các Tỷ-kheo ấy không thể làm cho Tỷ-kheo Sati, con người đánh cá từ bỏ ác tà kiến ấy, nên các vị ấy đến chỗ Thế Tôn ở, khi đến xong, đảnh lễ Ngài rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, những Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

Venerable sir, to a bhikkhu named Saati the son of a fisherman this view has arisen: ‘As I know the Teaching of the Blessed One this consciousness transmigrates through existences, not anything else’ Then we approached the bhikkhu Saati and asked him.  

-- Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, khởi lên ác tà kiến như sau: "Theo tôi hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng thì thức này dong ruổi, luân chuyển, nhưng không đổi khác". Bạch Thế Tôn, chúng con nghe: "Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá khởi lên ác tà kiến như sau: "Theo tôi hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng thì thức này dong ruổi, luân chuyển, nhưng không đổi khác"". Bạch Thế Tôn, rồi chúng con đi đến chỗ Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá ở, khi đến xong, liền nói với Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá:

Friend, Saati, is it true, that such an evil view has arisen to you: ‘As I know the Teaching of the Blessed One, this consciousness transmigrates through existences, not anything else’

"-- Này Hiền giả Sati, có đúng sự thật chăng? Hiền giả khởi lên ác tà kiến như sau: 'Theo tôi hiểu, pháp Thế Tôn thuyết giảng thì thức này dong ruổi, luân chuyển nhưng không đổi khác'".

Venerable sir, bhikkhu Saati said thus to us.

Bạch Thế Tôn, khi nghe nói vậy, Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá nói với chúng con như sau:

Yes, friends, ‘as I know the Teaching of the Blessed One, this consciousness transmigrates through existences, not anything else’.

"-- Thật sự là vậy, chư Hiền. Theo như tôi hiểu thì thức này dong ruổi, luân chuyển nhưng không đổi khác.

Then, we bhikkhus, desirous of dissuading the bhikkhu Saati from that evil view, cross questioned, asked for reasons and studied with him:

Bạch Thế Tôn, chúng con muốn khiến Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, từ bỏ ác tà kiến ấy, liền cật vấn, nạn vấn lý do, thảo luận:

Saati, do not say that. Do not blame the Blessed One. It is not good to blame the Blessed One. The Blessed One did not say this. The Blessed One has said in various ways, that consciousness is dependently arisen.

"-- Hiền giả Sati chớ có nói như vậy. Chớ có xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn là không tốt. Thế Tôn không có nói như vậy. Hiền giả Sati, Thế Tôn đã dùng nhiều pháp môn nói thức do duyên khởi, không có duyên thì thức không hiện khởi.

Without a cause there is no arising of consciousness. Even when we cross questioned, asked for reasons and studied together with him, he held on to his evil view tenaciously and would not give it up.

"Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá dầu cho được chúng con cật vấn, nạn vấn lý do, thảo luận, vẫn nói lên ác tà kiến ấy, cứng đầu, chấp chặt, nắm chặt tà kiến ấy:

^^^^.

"-- Thật sự là vậy, theo tôi hiểu, Thế Tôn thuyết giảng thì thức này dong ruổi, luân chuyển nhưng không đổi khác".

As we could not dissuade the bhikkhu Saati from that evil view, we approached the Blessed One, to inform about this.

Bạch Thế Tôn, vì chúng con không thể làm cho Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, từ bỏ ác tà kiến ấy, nên chúng con đến hỏi Thế Tôn ý nghĩa này."

Then the Blessed One addressed a certain bhikkhu:

Rồi Thế Tôn gọi một Tỷ-kheo khác:

Come! Bhikkhu, address the bhikkhu Saati in my words, tell that the Teacher wants him .

-- Này Tỷ-kheo, hãy đi và nhân danh Ta, gọi Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá: "Hiền giả Sati, bậc Ðạo Sư gọi Hiền giả".

-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

That bhikkhu agreed and approached the bhikkhu Saati and said the Blessed One wants you. Bhikkhu Saati said yes friend and approached the Blessed One, worshipped and sat on a side.Then the Blessed One addressed the bhikkhu Saati:

Tỷ-kheo ấy vâng lời Thế Tôn, đến chỗ Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, sau khi đến, liền nói với Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá: -- Hiền giả Sati, bậc Ðạo Sư gọi Hiền giả. -- Thưa vâng, Hiền giả.

Saati, is it true, that such an evil view has arisen to you. ‘As I know the Teaching of the Blessed One, this consciousness tansmigrates through existences, not anything else’..

-- Này Sati, có thật chăng, Ông khởi lên ác tà kiến như sau: "Theo như tôi hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, thì thức này dong ruổi, luân chuyển nhưng không đổi khác"?

Yes, venerable sir, as I know the Teaching of the Blessed One, this consciousness transmigrates through existences, not anything else.

Saati, how is that conscciousness?

-- Thật sư là vậy, bạch Thế Tôn. Theo như con hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, thì thức này dong ruổi, luân chuyển nhưng không đổi khác.

-- Này Sati, thế nào là thức ấy?

Venerable sir, this uttering and feeling one, that reaps the results of actions good and evil done here and there.

-- Bạch Thế Tôn, chính thức ấy nói cảm thọ, thọ lãnh chỗ này, chỗ kia, kết quả các hành động thiện ác.

Foolish man, to whom do you know me having preached this Teaching. Haven’t I told, in various ways that consciousness is dependently arisen. Without a cause, there is no arising of consciousness. Yet, you foolish man, because of your wrong grasp, blame me, destroy yourself, and accumulate much demerit and that will be for your undoing and unpleasantness for a long time.

-- Này kẻ mê mờ kia, vì ai mà Ông lại hiểu pháp Ta thuyết giảng như vậy. Này kẻ mê mờ kia, có phải chăng, Ta đã dùng nhiều pháp môn nói là thức do duyên khởi, không có duyên, thì thức không hiện khởi? Và này kẻ mê mờ kia, không những Ông xuyên tạc Ta, vì Ông đã tự chấp thủ sai lạc, Ông còn tự phá hoại Ông và tạo nên nhiều tổn đức. Này kẻ mê mờ kia, và như vậy sẽ đưa đến bất hạnh và đau khổ lâu dài cho Ông.

Then the Blessed One addressed the bhikkhus, Bhikkhus, what do you think, shouldn’t this bhikkhu Saati, son of a fisherman be chastised from this dispensation of the Teaching.

Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: -- Chư Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, có thể khởi lên tia lửa sáng gì trong Pháp, Luật này không?

What is good, venerable sir, why shouldn’t we?

-- Bạch Thế Tôn, làm sao có thể có được, không thể được, bạch Thế Tôn.

When this was said, the bhikkhu Saati became silent, confused, with drooping body and face turned down, sat down unable to reply. Then the Blessed One knowing that bhikkhu Saati son of a fisherman has become silent, confused, was unable to reply. Said thus to him.

Ðược nói vậy, Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, im lặng, hổ người, thụt vai, cúi đầu, lo âu, câm miệng. Rồi Thế Tôn sau khi biết được Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, đang im lặng, hổ ngươi, thụt vai, cúi đầu, lo âu, câm miệng, bèn nói với Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá:

Foolish man you will be pointed out with your evil view. Now I am going to question the bhikkhus on this.

-- Này kẻ mê mờ kia, người ta sẽ biết Ông qua ác tà kiến của chính Ông. Ở đây, Ta sẽ hỏi các Tỷ-kheo.

Then the Blessed One, addressed the bhikkhus: Bhikkhus, do you too know this Teaching, wrongly grasped by the bhikkhu Saati the son of a fisherman. By that he blames me. Destroys himself, and accumulates much unpleasantness.

Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: -- Chư Tỷ-kheo, các Ông có hiểu pháp Ta thuyết giảng giống như Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá này, không những đã xuyên tạc Ta vì đã tự chấp thủ sai lạc, mà còn tự phá hoại mình và tạo nên nhiều tổn đức?

No, venerable sir. In various ways we are told, that consciousness arises dependently.Without a cause there is no arising of consciousness.

-- Bạch Thế Tôn, không. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã dùng nhiều pháp môn nói thức do duyên khởi, không có duyên, thức không hiện khởi.

Bhikkhus, it is good, you know the Teaching preached by me. In various ways I have preached that consciousness arises dependently. Without a cause, there is no arising of consciousness. Yet, this bhikkhu Saati son of a fisherman, grasping this wrong view blames me and destroys himself, and accumulates much demerit. It will be for his undoing and unpleasaantness for a long time..

-- Lành thay, chư Tỷ-kheo, lành thay, chư Tỷ-kheo, các Ông hiểu pháp Ta thuyết giảng như vậy! Chư Tỷ-kheo, Ta đã dùng nhiều pháp môn nói thức do duyên khởi. Không có duyên, thức không hiện khởi. Nhưng Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, không những xuyên tạc Ta vì đã tự chấp thủ sai lạc, còn tự pháp hoại mình và tạo nên nhiều tổn đức, và như vậy sẽ đưa đến bất hạnh và đau khổ lâu dài cho kẻ mê mờ ấy.

consciousness arises
Bhikkhus, founded on whatever, consciousness arises, it is reckoned on that. On account of eye and forms arises consciousness, it’s reckoned eye consciousness. On account of ear and sounds arises consciousness, it’s reckoned ear consciousness. On account of nose and smells arises consciousness, it’s reckoned nose consciousness. On account of tongue and tastes arises consciousness, it’s reckoned tongue consciousness.On account of body and touches arises consciousness, it’s reckoned body consciousness. On account of mind and ideas arises consciousness, it’s reckoned mind consciousness. Bhikkhus, just as based on whatever fire burns, it is reckoned by that. Fire ablaze with sticks is stick fire. Ablaze with twigs is twig fire. Ablaze with grass is grass fire. Ablaze with cowdung is cowdung fire. Ablaze with grain thrash is grain thrash fire. Ablaze with dirt is dirt fire. In the same manner consciousness on account is eye and forms is eye consciousness. Consciousness on account of ear and sounds is ear consciousness. Consciousness on account of nose and smells is nose conscioussness. Consciousness on account of tongue and tastes is taste consciousness. Consciousness on account of body and touches is body consciousness. Consciousness

(Duyên sanh Thức)
Này các Tỷ-kheo, do duyên mà thức sanh, và thức ấy có tên tùy theo duyên ấy. Do duyên mắt và các sắc, thức sanh, và thức ấy có tên là nhãn thức. Do duyên tai và các tiếng, thức sanh, và thức ấy có tên là nhĩ thức. Do duyên mũi và các hương, thức sanh, và thức ấy có tên là tỷ thức. Do duyên lưỡi và các vị, thức sanh, và thức ấy có tên là thiệt thức. Do duyên thân và các xúc, thức sanh và thức ấy có tên là thân thức. Do duyên ý và các pháp, thức sanh, và thức ấy có tên là ý thức. Này các Tỷ-kheo, do duyên nào lửa sanh và lửa ấy có tên tùy theo duyên ấy: duyên củi, lửa sanh, lửa ấy gọi là lửa củi. Duyên vỏ gỗ bào, lửa sanh, lửa ấy gọi là lửa vỏ bào. Duyên cỏ, lửa sanh, lửa ấy gọi là lửa cỏ. Duyên phân bò, lửa sanh, lửa ấy gọi là lửa phân bò. Duyên trấu, lửa sanh, lửa ấy gọi là lửa trấu. Duyên đống rác, lửa sanh, lửa ấy gọi là lửa đống rác. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, do duyên, thức sanh, và thức ấy có tên tùy theo duyên ấy. Do duyên mắt và các sắc, thức sanh, và thức ấy có tên là nhãn thức. Do duyên tai và các tiếng, thức sanh, và thức ấy có tên là nhĩ thức. Do duyên mũi và các hương, thức sanh, và thức ấy có tên và tỷ thức. Do duyên lưỡi và các vị, thức sanh, và thức ấy có tên là thiệt thức. Do duyên thân và các xúc, thức sanh, và thức ấy có tên là thân thức. Do duyên ý và các pháp, thức sanh, và thức ấy có tên là ý thức.

on account of mind and ideas is mind consciousness.
Bhikkhus, do you see, that it has arisen*?(1a)
Yes, venerable sir.
Do you see, that it arises supported?
Yes, venerable sir.
Bhikkhus, Do you see, that if the support ceases, the arising too ceases?
Yes, venerable sir. Bhikkhus, when not sure whether it has arisen do doubts arise?
Yes, venerable sir.
When not sure, whether it is supported, do doubts arise.?
Yes, venerable sir.
Bhikkhus, when not sure with the support ceasing the arisen too would cease, do doubts arise.?
Yes, venerable sir. Bhikkhus, do doubts of one fade, when he sees with right wisdom, that it has arisen?
Yes, venerable sir.
Bhikkhus, do doubts of one fade, when he sees with right wisdom, that they arise supported?
Yes, venerable sir.
Bhikkhus, do doubts of one fade, when he sees with right wisdom that with the cessation of supports the arisen too would cease?
Yes, venerable sir Bhikkhus, this has arisen, are you with dispelled doubts about that?
Yes, venerable sir.
Bhikkhus, this has arisen supported, are you with dispelled doubts about that?
Yes, venerable sir.
Bhikkhus, when the support ceases the arising too ceases, are you with dispelled doubts about that?
Yes, venerable sir. Bhikkhus, do you clearly see, as it really is, with right wisdom, this is arising?.
Yes,venerable sir.
Bhikkhus, do you clearly see, with right wisdom, that this arises supported?.
Yes, venerable sir.

Bhikkhus, do you clearly see, with right wisdom, that when the support ceases the arising too ceases?
Yes, venerable sir.

(Các câu hỏi về sanh vật)
Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy sanh vật này không?
-- Bạch Thế Tôn, có thấy.
- -Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy sự tác thành sanh vật do món ăn ấy không?
-- Bạch Thế Tôn, có thấy.
-- Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy, do sự đoạn diệt các món ăn ấy, sanh vật ấy cũng bị đoạn diệt không?
-- Bạch Thế Tôn, có thấy.
-- Này các Tỷ-kheo, vì do dự nên nghi hoặc sanh. Sanh vật này có thể không có mặt?
-- Bạch Thế Tôn, có vậy.
-- Này các Tỷ-kheo, vì do dự nên nghi hoặc sanh. Sự tác thành của món ăn ấy có thể có hay không?
-- Bạch Thế Tôn, có vậy.
-- Này các Tỷ-kheo, vì do dự nên nghi hoặc sanh. Do sự đoạn diệt các món ăn ấy, sanh vật ấy có thể bị đoạn diệt hay không bị đoạn diệt?
-- Bạch Thế Tôn, có vậy.
-- Này các Tỷ-kheo, nếu thấy như thật với chánh trí tuệ, thì sự nghi ngờ này được trừ diệt. Sanh vật này có thể không có mặt?
-- Bạch Thế Tôn, có vậy.
-- Này các Tỷ-kheo, nếu thấy như thật với chánh trí tuệ, thì sự nghi ngờ này được trừ diệt. Sự tác thành của món ăn ấy có thể có hay không?
-- Bạch Thế Tôn, có vậy.
-- Này các Tỷ-kheo, nếu thấy như thật với chánh trí tuệ, thì sự nghi ngờ này được trừ diệt. Do sự đoạn diệt các món ăn ấy, sanh vật có thể bị đoạn diệt hay không bị đoạn diệt?
-- Bạch Thế Tôn, có vậy.
-- Này các Tỷ-kheo, sanh vật này có mặt, (đối với vấn đề này), ở đây, các Ông có phải không có nghi hoặc không?
-- Bạch Thế Tôn, có vậy.
-- Này các Tỷ-kheo, sự tác thành của món ăn ấy, (đối với vấn đề này), ở đây, các Ông có phải không có nghi hoặc không?
-- Bạch Thế Tôn, có vậy.
-- Này các Tỷ-kheo, do sự đoạn diệt các món ăn ấy, sanh vật ấy có thể bị đoạn diệt, (đối với vấn đề này), ở đây, các Ông có phải không có nghi hoặc không?
-- Bạch Thế Tôn, có vậy.
-- Này các Tỷ-kheo, sanh vật này có mặt, (đối với vấn đề này) có phải các Ông khéo thấy nhờ như thật chánh trí tuệ không?
-- Bạch Thế Tôn, có vậy.
- Này các Tỷ-kheo, sự hiện hữu của sanh vật ấy là do các món ăn ấy tác thành,... này, có phải các Ông khéo thấy nhờ như thật chánh trí tuệ không?
-- Bạch Thế Tôn, có vậy.
-- Này các Tỷ-kheo, do sự đoạn diệt các món ăn ấy, sanh vật ấy có thể bị đoạn diệt, (đối với vấn đề này), có phải các Ông khéo thấy nhờ như thật chánh trí tuệ không?
-- Bạch Thế Tôn, có vậy.

Bhikkkhus, this view, so clean and pure, if you covet, fondle, treasure and take pride in it do you know this Teaching comparable to a raft, taught for the purpose of giving up and not for the purpose of holding?

.No, venerable sir.

-- Này các Tỷ-kheo, đối với tri kiến này được thanh tịnh như vậy, được làm cho trong sáng như vậy, nếu các Ông chấp trước, lấy làm hãnh diện, truy cầu, xem là của mình, thì này các Tỷ-kheo, các Ông có thể hiểu ví dụ chiếc bè, nói Pháp được giảng dạy là để đưa vượt qua, không phải để nắm lấy?

-- Bạch Thế Tôn, không.

.Bhikkhus, this view of yours so clean and pure, do not covet, fondle, treasure and take pride in it. Do you know this Teaching comparable to a raft, taught for the purpose of giving up and not for the purpose of holding?

Yes, venerable sir.

-- Nhưng này các Tỷ-kheo, đối với tri kiến này được thanh tịnh như vậy, được làm cho trong sáng như vậy, nếu các Ông không chấp trước, không lấy làm hãnh diện, không truy cầu, không xem là của mình, thì này các Tỷ-kheo, các Ông có thể hiểu ví dụ của mình, thì này các Tỷ-kheo, các Ông có thể hiểu ví dụ là của mình, thì này các Tỷ-kheo, các Ông có thể ví dụ chiếc bè, nói Pháp được giảng dạy là để đưa vượt qua, không phải để nắm lấy?

-- Bạch Thế Tôn, có.

Bhikkhus, these four are the supports, for the arisen for the upkeep of beings and as help for those seeking birth. What four. Material food, coarse or fine, the second is contact, mental cogitation is third and consciousness is fourth.

(Thức ăn và Duyên khởi)
-- Này các Tỷ-kheo, có bốn món ăn giúp cho an trú các loài hữu tình đã sanh hay phò trợ các loài hữu tình sẽ sanh. Thế nào là bốn? Ðoàn thực hoặc thô hoặc tế, thứ hai là xúc thực, thứ ba là tư niệm thực, và thứ tư là thức thực.

Bhikkhus,from what do these four supports originate, rise, take birth and develop? These four supports originate, rise, take birth and develop from craving. Bhikkhus, from what does craving originate, rise, take birth and develop? Craving originates, rises, takes birth and develops from feelings.. Bhikkhus, from what do feelings originate, rise, take birth and develop? Feelings originate, rise, take birth and develop from contact. Bhikkhus, from what does contact originate, rise, take birth and develop?. Contact originates, rises, takes birth and develops from the six mental faculties. Bhikkhus, from what do the six mental faculties originate, rise, take birth and develop? The six mental faculties originate, rise, take birth and develop from name and matter. Bhikkhus, from what do name and matter originate, rise, take birth and develop? Name and matter originate, rise, take birth and develop from consciousness. Bhikkhus, from what does consciousness originate, rise, take birth and develop?. Consciousness originates rises, takes birth and develops from determinations. Bhikkhus, from what do determinations originate, rise, take birth and develop?. Determinations originate, rise, take birth and develop from ignorance

Và này các Tỷ-kheo bốn món ăn này, lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sanh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Bốn món ăn này lấy ái làm nhân duyên, lấy ái làm tập khởi, lấy ái làm sanh chủng, lấy ái làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, ái này lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sanh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Ái lấy thọ làm nhân duyên, lấy thọ làm tập khởi, lấy thọ làm sanh chủng, lấy thọ làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, thọ này lấy gì làm nguyên nhân, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sanh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Thọ lấy xúc làm nhân duyên, lấy xúc làm tập khởi, lấy xúc làm sanh chủng, lấy xúc làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, xúc này lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sanh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Xúc lấy sáu nhập làm nhân duyên, lấy sáu nhập làm tập khởi, lấy sáu nhập làm sanh chủng, lấy sáu nhập làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, sáu nhập này lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sanh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Sáu nhập lấy danh sắc làm nhân duyên, lấy danh sắc làm tập khởi, lấy danh sắc làm sanh chủng, lấy danh sắc làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, danh sắc này lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sanh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Danh sắc lấy thức làm nhân duyên, lấy thức là tập khởi, lấy thức làm sanh chủng, lấy thức làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, thức này lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sanh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Thức lấy hành làm nhân duyên, lấy hành làm tập khởi, lấy hành làm sanh chủng, lấy hành làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, các hành này lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sanh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Các hành lấy vô minh làm nhân duyên, lấy vô minh làm tập khởi, lấy vô minh làm sanh chủng, lấy vô minh làm nguyên nhân.

Thus bhikkhus, from ignorance determinations, from determinations consciousness, from consciousness name and matter, from name and matter the six mental spheres, from the six mental spheres, contact, from contact feelings, from feelings craving , from craving being, from being birth, from birth decay, death, grief, lament, unpleasantness, displeasure and distress arise. Thus the arising of this whole mass of unpleasantness.

(Duyên theo chiều thuận)
Như vậy, này các Tỷ-kheo, vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên sáu nhập, sáu nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được hiện hữu. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.

Bhikkhus, it is said, decay and death arise from birth. Do decay and death arise from birth or not, or how does it happen here?

(Duyên theo chiều nghịch)
Trước đã nói: Sanh duyên già, chết (Do duyên sanh nên già, chết hiện khởi). Này các Tỷ-kheo, sanh duyên già, chết có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?

Venerable sir, decay and death, arise from birth. It happens thus to us. Decay and death arise from birth.

-- Bạch Thế Tôn, sanh duyên già, chết. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Sanh duyên già, chết.

Bhikkhus, it is said, birth arises from being*1). Does birth arise from being or not or how does it happen here?

-- Trước đã nói: hữu duyên sanh. Này các Tỷ-kheo, hữu duyên sanh có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?

Venerable sir, birth arises from being, it happens thus to us. Birth arises from being.

-- Bạch Thế Tôn, hữu duyên sanh. Như vậy, đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Hữu duyên sanh.

Bhikkhus, it is said, being arises from holding*2). Does being arise from holding or not or how does it happen here? .

-- Trước đã nói: Thủ duyên hữu. Này các Tỷ-kheo, thủ duyên hữu có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?

Venerable sir, being rises from holding. It happens thus to us. Being arises from holding.

-- Bạch Thế Tôn, thủ duyên hữu. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Thủ duyên hữu.

Bhikkhus, it is said, holding arises from craving*3). Does holding arise from craving or not or how does it happen here?

-- Trước đã nói: Ái duyên thủ. Này các Tỷ-kheo, ái duyên thủ có phải không? Hay ở đây, (nghĩa) như thế nào?

Venerable sir, craving arises from holding. It happens thus to us. Craving arises from holding.

-- Bạch Thế Tôn, ái duyên thủ. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Ái duyên thủ.

Bhikkhus, it is said, craving arises from feelings*4). Does craving arise from feelings or not or how does it happen here?

-- Trước đã nói: Thọ duyên ái. Này các Tỷ-kheo, thọ duyên ái có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?

Venerable sir, craving arises from feelings. It happens thus to us. Craving arises from feelings

-- Bạch Thế Tôn, thọ duyên ái. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Thọ duyên ái.

Bhikkhus, it is said, feelings arise from contact*5). Do feelings arise from contact or not or how does it happen here?

- Trước đã nói: Xúc duyên thọ. Này các Tỷ-kheo, xúc duyên thọ có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?

Venerable sir, feelings arise from contact It happens thus to us. Feelings arise from contact

-- Bạch Thế Tôn, xúc duyên thọ. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Xúc duyên thọ.

Bhikkhus, it is said, contact arises from the six mental spheres*6)..Does contact arise from the six mental spheres or not or how does it happen here?.

-- Trước đã nói: Sáu nhập duyên xúc. Này các Tỷ-kheo, sáu nhập duyên xúc có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?

Venerable sir, contact arises from the six mental spheres. It happens thus to us. Contact arises from the six mental spheres.

-- Bạch Thế Tôn, sáu nhập duyên xúc. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Sáu nhập duyên xúc.

Bhikkhus, it is said, the six mental spheres arise from name and matter*7). Do the six mental spheres arise from name and matter, or not or how does it happen here?.

-- Trước đã nói: Danh sắc duyên sáu nhập. Này các Tỷ-kheo, danh sắc duyên sáu nhập có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?

Venerable sir, the six mental spheres, arise from name and matter. It happens thus to us. The six mental spheres arise from name and matter.

-- Bạch Thế Tôn, danh sắc duyên sáu nhập. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Danh sắc duyên sáu nhập.

Bhikkhus, it is said, name and matter arise from consciousness*8). Do name and matter arise from consciousness, or not or how does it happen here?.

-- Trước đã nói: Thức duyên danh sắc. Này các Tỷ-kheo, thức duyên danh sắc có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?

Venerable sir, name and matter arise from consciousness. It happens thus to us. Name and matter. arise from consciousness.

-- Bạch Thế Tôn, thức duyên danh sắc. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Thức duyên danh sắc.

Bhikkhus, it is said, consciousness arise from determinations*9) . Does consciousness arise from determinations, or not or how does it happen here?

-- Trước đã nói: Hành duyên thức. Này các Tỷ-kheo, hành duyên thức có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?

Venerable sir, consciousness arises from determinations. It happens thus to us. Consciousness arises from determinations.

-- Bạch Thế Tôn, hành duyên thức. Như vậy, đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Hành duyên thức.

Bhikkhus, it is said, determinations arise from ignorance*10) Do determinations arise from ignorance or not or how does it happen here?..

-- Trước đã nói: Vô minh duyên hành. Này các Tỷ-kheo, vô minh duyên hành có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?

Venerable sir, determinations arise from ignorance. It happens thus to us. Determinations arise from ignorance.

-- Bạch Thế Tôn, vô minh duyên hành. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là vậy: Vô minh duyên hành.

Good! Bhikkhus, you say this and I too say it. Thus when this is present, this happens.When this arises, this arise Such as, because of ignorance arise determinations. Because of determinations arise consciousness. Because of consciousness arise name and matter. Because of name and matter arise the six mental spheres. Because of the six mental spheres arise contact. Because of contact arise feelings. Beccause of feelings arise craving. Because of craving arise holding. Because of holding arise being. Because of being arise birth. Because of birth arise decay, death, grief, lament, unpleasantness, displeasure and distress. Thus arise the complete mass of unpleasantaness. With the complete cessation of ignorance, cease determinations .

(Tóm lược về Duyên)
-- Lành thay, này các Tỷ-kheo! Các Ông nói như vậy và Ta cũng nói như vậy: "Cái này có nên cái kia có, cái này sanh nên cái kia sanh", như vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên sáu nhập, sáu nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não cùng sanh khởi. Như vậy, là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.

With the complete cessation of ignorance, cease determinations .With the complete cessation of determinations, cease consciousness. With the cessation of consciousness, ceases name and matter. With the cessation of name and matter, ceases the six mental spheres. With the cessation of the six mental spheres, ceases contact. With the cessation of contact, ceases feelings With the cessation of feelings, cease craving. With the cessation of craving ceases holding. With the cessation of holding, ceases being. With the cessation of being, ceases birth. With the cessation of birth cease decay, death, grief, lament, unpleasantness, displeasure and distress. Thus is the complete cessation of unpleasantness. . .

(Diệt theo chiều thuận)
Do vô minh đoạn diệt, xả ly một cách hoàn toàn nên các hành diệt. Do các hành diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu nhập diệt. Do sáu nhập diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Do thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não đều diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.

When birth ceases decay and death cease it is said.. Bhikkhus, do decay and death cease when birth ceases, or does it not or how does it happen.

(Diệt theo chiều nghịch)
Trước đã nói: Do sanh diệt nên già, chết diệt. Này các Tỷ-kheo, do sanh diệt nên già, chết diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?

Venerable sir, when birth ceases decay and death cease. Thus it happens to us, when birth ceases decay and death cease.

-- Bạch Thế Tôn, do sanh diệt nên già, chết diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là vậy: Do sanh diệt nên già, chết diệt.

When being ceases birth ceases it is said. .Bhikkhus, does birth cease when being ceases, or does it not, or how does it happen?.

-- Trước đã nói: Do hữu diệt nên sanh diệt. Này các Tỷ-kheo, do hữu diệt nên sanh diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?

Venerable sir, when being ceases birth ceases. Thus it happens to us. When being ceases birth ceases.

-- Bạch Thế Tôn, do hữu diệt nên sanh diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là vậy: Do hữu diệt nên sanh diệt.

When holding ceases being ceases it is said. Bhikkhus, does holding cease when being ceases, or does it not, or how does it happen.?

-- Trước đã nói: Do thủ diệt nên hữu diệt. Này các Tỷ-kheo, do thủ diệt nên hữu diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?

Venerable sir, when holding ceases being cease. Thus it happens to us. When holding ceases being cease.

-- Bạch Thế Tôn, do thủ diệt nên hữu diệt. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Do thủ diệt nên hữu diệt.

When craving ceases holding ceases it is said. Bhikkhus, does craving cease when holding ceases, or does it not, or how does it happen?.

-- Trước đã nói: Do ái diệt nên thủ diệt. Này các Tỷ-kheo, do ái diệt nên thủ diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?

Venerable sir, when craving ceases holding cease. Thus it happens to us. When craving ceases holding ceases.

-- Bạch Thế Tôn, do ái diệt nên thủ diệt. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Do ái diệt nên thủ diệt.

When feeling ceases craving ceases it is said, bhikkhus, does craving cease when feeling ceases, or does it not, or how does it happen?.

-- Trước đã nói: Do thọ diệt nên ái diệt. Này các Tỷ-kheo, do thọ diệt nên ái diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?

Venerable sir, when feeling ceases craving ceases. Thus it happens to us. When feeling ceases craving ceases.

-- Bạch Thế Tôn, do thọ diệt nên ái diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là vậy: Do thọ diệt nên ái diệt.

When contact ceases feeling ceases it is said, bhikkhus, does feeling cease when contact ceases or does it not, or how does it happen?.

-- Trước đã nói: Do xúc diệt nên thọ diệt. Này các Tỷ-kheo, do xúc diệt nên thọ diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?

Venerable sir, when contact ceases feeling ceases. Thus it happens to us. When contact ceases feeling ceases.

-- Bạch Thế Tôn, do xúc diệt nên thọ diệt. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Do xúc diệt nên thọ diệt.

When the six mental spheres cease contact ceases it is said. Bhikkhus, do the six mental spheres cease when contact ceases or does it not, or how does it happen?.

-- Trước đã nói: Do sáu nhập diệt nên xúc diệt. Này các Tỷ-kheo, do sáu nhập diệt nên xúc diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?

Venerable sir, when the six mental spheres cease contact ceases. Thus it happens to us. When the six mental spheres cease contact ceases.

-- Bạch Thế Tôn, do sáu nhập diệt nên xúc diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là vậy: Do sáu nhập diệt nên xúc diệt.

When name and matter cease the six mental spheres cease it is said. Bhikkhus, do the six mental spheres cease when name and matter cease or does it not, or how do they happen?.

-- Trước đã nói: Do danh sắc diệt nên sáu nhập diệt. Này các Tỷ-kheo, do danh sắc diệt nên sáu nhập diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?

Venerable sir, when name and matter cease the six mental spheres cease. Thus it happens to us. When name and matter cease the six mental spheres cease

-- Bạch Thế Tôn, do danh sắc diệt nên sáu nhập diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là vậy: Do danh sắc diệt nên sáu nhập diệt.

When consciousness ceases name and matter cease it is said. Bhikkhus, do name and matter cease when consciousness ceases or do they not, or how does it happen?.

-- Trước đã nói: Do thức diệt nên danh sắc diệt. Này các Tỷ-kheo, do thức diệt nên danh sắc diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?

Venerable sir, when consciousness ceases name and matter cease. Thus it happens to us. When consciousness ceases name and matter cease.

-- Bạch Thế Tôn, do thức diệt nên danh sắc diệt. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Do thức diệt nên danh sắc diệt.

When determinations cease consciousness ceases it is said.Bhikkhus does consciousness cease when determinations cease or does it not, or how does it happen?.

-- Trước đã nói: Do hành diệt nên thức diệt. Này các Tỷ-kheo, do hành diệt nên thức diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?

Venerable sir, when determinations cease consciousness ceases. Thus it happens to us.

-- Bạch Thế Tôn, do hành diệt nên thức diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là vậy: Do hành diệt nên thức diệt.

When determinations cease consciousness ceases When ignorance cease determinations cease it is said. Bhikkhus, do determinations cease when ignorance ceases or does it not, or how does it happen.

-- Trước đã nói: Do vô minh diệt nên hành diệt. Này các Tỷ-kheo, do vô minh diệt nên hành diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?

Venerable sir, when ignorance ceases determinations cease. Thus it happens to us, when ignorance ceases determinations cease.

-- Bạch Thế Tôn, do vô minh diệt nên hành diệt. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Do vô minh diệt nên hành diệt.

Good O! bhikkhus, you say this, and I too say it. When this is not present, this is not. When this ceases this cease. Such as with the cessation of ignorance cease determinations. With the cessation of determinations cease consciousness. With the cessation of consciousness cease name and matter. With the cessation of name and matter cease the six mental spheres. With the cessation of the six mental spheres cease contact. With the cessation of contact cease feelings. With the cessation of feelings cease craving. With the cessation of craving cease holding. With the cessation of holding cease being. With the cessation of being cease birth. With the cessation of birth cease decay, death, grief, lament, unpleasantness, displeasure and distress..Thus cease the complete mass of unpleasantness.

(Tóm lược về Diệt)
- Lành thay, này các Tỷ-kheo! Các Ông nói như vậy và Ta cũng nói như vậy: "Cái này không có nên cái kia không có, cái này diệt nên cái kia diệt", như vô minh diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt, thức diệt nên danh sắc diệt, danh sắc diệt nên sáu nhập diệt, sáu nhập diệt nên xúc diệt, xúc diệt nên thọ diệt, thọ diệt nên ái diệt, ái diệt nên thủ diệt, thủ diệt nên hữu diệt, hữu diệt nên sanh diệt, sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu não diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.

Yet bhikkhus, you who know thus and see thus, would your mind run to the past? Was I in the past or was I not in the past?. What was I in the past? How was I in the past?. Being who was I in the past?

No, venerable sir.

(Tri kiến về ngã)
Này các Tỷ-kheo, các Ông nên biết như vậy, thấy như vậy, có còn chạy theo thời quá khứ, và suy nghĩ: "Ta có mặt trong thời quá khứ hay không có mặt trong thời quá khứ? Ta có mặt trong thời quá khứ như thế nào? Ta có mặt trong thời quá khứ, hình vóc như thế nào? Trước kia ta là gì và ta có mặt như thế nào trong thời quá khứ"?

-- Thưa không, bạch Thế Tôn.

Bhikkhus, would your mind who knows and see thus, run to the future? Will I be in the future, or will I not be in the future?. What will I be in the future? How will I be in the future?. Who will I be in the future?.

No, venerable sir.

-- Này các Tỷ-kheo, các Ông biết như vậy, thấy như vậy, có còn chạy theo thời vị lai, và suy nghĩ: "Ta sẽ có mặt trong thời vị lai hay ta sẽ không có mặt trong thời vị lai? Ta sẽ có mặt trong thời vị lai như thế nào? Ta sẽ có mặt trong thời vị lai, hình vóc như thế nào? Trước kia là gì và ta sẽ có mặt như thế nào trong thời vị lai"?

-- Thưa không, bạch Thế Tôn.

Bhikkhus, you who know, and see thus, would you have doubts of the present? Am I, or am I not? What am I? How am I?. This being from where did it come?

No, venerable sir..

-- Này các Tỷ-kheo, các Ông biết như vậy, thấy như vậy, các Ông có nghi ngờ gì về mình trong thời hiện tại: "Ta có mặt hay ta không có mặt. Ta có mặt như thế nào? Ta có mặt, hình vóc như thế nào? Hữu tình này từ đâu đến? Và rồi nó sẽ đi đâu"?

-- Thưa không, bạch Thế Tôn.

Yet bhikkhus, you who know and see thus would you say, we have reverence for the Teacher. We say it out of reverence to the Teacher?.

No, venerable sir.

- Này các Tỷ-kheo, các Ông biết như vậy, thấy như vậy, các Ông có nói như sau: "Bậc Ðạo Sư được chúng ta tôn trọng. Chúng ta nói vì chúng ta tôn trọng bậc Ðạo Sư"?

-- Thưa không, bạch Thế Tôn.

Yet bhikkhus, you who know and see thus would you say. Our recluse said it, these are the recluse’s words. We do not say that?

No, venerable sir.

-- Này các Tỷ-kheo, các Ông biết như vậy, thấy như vậy, các Ông có nói như sau: "Một Sa-môn nói với chúng tôi như vậy, các Sa-môn khác cũng nói như vậy, và còn chúng tôi không có nói như vậy"?

-- Thưa không, bạch Thế Tôn.

Bhikkhus, you who know and see thus would you seek another teacher?

No, venerable sir.

-- Này các Tỷ-kheo, các Ông biết như vậy, thấy như vậy, các Ông có tìm một vị Ðạo Sư khác không?

- Thưa không, bạch Thế Tôn.

Bhikkhus, you who know and see thus, would you see essence in religious rites, ceremonies and festivals of other recluses and brahmins?

No, venerable sir.

-- Này các Tỷ-kheo, các Ông biết như vậy, thấy như vậy, các Ông có trở lui lại các giới cấm, tế tự đàn tràng của các tục tử Sa-môn, Bà-la-môn và nghĩ rằng chúng là căn bản không?

-- Thưa không, bạch Thế Tôn.

Bhikkhus, isn’t it that you by youself knowing, seeing and experiencing say it?

Yes, venerable sir.

-- Này các Tỷ-kheo, có phải các Ông chỉ nói những gì các Ông tự biết, tự thấy, tự ý thức được?

-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Good! O! bhikkhus, I have led you up in this Teaching. It is here and now. Time does not matter. It is open to inspection, leads to the beyond and is to be experienced by the wise, by themselves. Bhikkhus, if it was said the Teaching is here and now. Time does not matter, is open to inspection, leads to the beyond and is to be realised by the wise by themselves, it was said on account of this

-- Lành thay, này các Tỷ-kheo! Này các Tỷ-kheo, các Ông đã được Ta giới thiệu Chánh Pháp, Pháp này thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự thân giác hiểu. Này các Tỷ-kheo, Pháp này thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự thân giác hiểu. Tất cả những gì đã nói là do duyên này mà nói.

Bhikkhus, with the coming together of three things a descent to the womb comes about: Here the mother and father come together. It is not the season of the mother. The one to be born does not attend Then there is no descent to the womb. Here, mother and father come together. It is the season of the mother. The one to be born does not attend. Then there is no descent to the womb. Here mother and father come together. It is the season of the mother and the one to be born attends. Then there is a descent to the womb.

(Vòng luân hồi: từ sanh đến trưởng thành)
Này các Tỷ-kheo, có ba sự hòa hợp mà một bào thai thành hình: ở đây, cha mẹ có giao hợp và người mẹ không trong thời có thể thụ thai, và hương ấm (gandhabba) không hiện tiền, như vậy bào thai không thể thành hình. Ở đây, cha và mẹ có giao hợp, và người mẹ trong thời có thể thụ thai, nhưng hương ấm (gandhabba) không hiện tiền, như vậy bào thai không thể thành hình. Và này các Tỷ-kheo, khi nào cha mẹ có giao hợp, và người mẹ trong thời có thể thụ thai, và hương ấm có hiện tiền; có ba sự hòa hợp như vậy, thì bào thai mới thành hình.

That mother protects the womb for nine or ten months with great anxiety and trouble. After nine or ten months that mother gives birth with great anxiety and trouble. She supports the born with her own blood. In the noble ones’ dispensation mother’s milk is called blood.

Rồi này các Tỷ-kheo, người mẹ trong chín hay mười tháng mang bào thai ấy, với sự lo âu lớn đối với gánh nặng ấy. Rồi này các Tỷ-kheo, sau chín hay mười tháng, người mẹ sinh đẻ với sự lo âu lớn đối với gánh nặng ấy. Khi đã sinh, người mẹ nuôi hài nhi ấy với máu của mình. Này các Tỷ-kheo, trong luật của bậc Thánh, sữa của bà mẹ được xem là máu.

Bhikkhus, that boy grows and his faculties mature and he plays games that boys play. Such as mock games as taking a bowl, turning somersaults, making toy wind mills with palm leaves, making small carts and bows.

Này các Tỷ-kheo, đứa trẻ ấy, sau khi lớn lên, sau khi các căn đã thuần thục, chơi với những trò chơi dành cho các đứa trẻ, như với cái cày nhỏ, chơi khăn, chơi nhảy lộn nhào, chơi chong chóng, chơi với đồ đong bằng lá, chơi xe con, chơi cung nhỏ.

Bhikkhus, that boy, grows and his faculties develop and is provided with the five strands of sense pleasures, and he lives enticed by pleasing agreeable forms cognisable by eye consciousness, agreeable sounds cognisable by ear consciousness, agreeable smells cognisable by nose consciousness, agreeable tastes cognisable by tongue consciousness and agreeable touches cognisable by body consciousness.

Này các Tỷ-kheo, đứa trẻ sau khi lớn lên, sau khi các căn do mắt nhận thức, được thuần thục, thọ hưởng đầy đủ năm món dục lạc; các sắc do mắt nhận thức, sắc này khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn; các tiếng do tai nhận thức... Các hương do mũi nhận thức... Các vị do lưỡi nhận thức... Các xúc do thân cảm xúc; các xúc này khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục.

He seeing a form with the eye becomes greedy for a pleasant form, or averse to a disagreeable form. Abides with mindfulness of the body not established and with a limited mind. Not knowing the release of mind nor the release through wisdom as it really is, where thoughts of demerit cease completely*11). He falls to the path of agreeing and disagreeing and feels whatever feeling, pleasant, unpleasant, or neither unpleasant nor pleasant. Delighted and pleased with those feelings he appropriates them. To him delighted, pleased and appropriating those feelings arises interest. That interest for feelings is the holding* 12) To him holding, there is being, from being arises birth, from birth decay and death, grief, lament, unpleasantness, displeasure and distress, thus arises the complete mass of unpleasantness.

(Tiếp tục luân hồi)
Khi thấy sắc bằng mắt, người đó tham ái đối với sắc đẹp, người đó ghét bỏ đối với sắc xấu, người đó sống niệm không an trú trên thân, với một tâm nhỏ mọn. Người đó không như thật tuệ tri tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chính nhờ chúng mà các ác bất thiện pháp của người đó được trừ diệt, không có dư tàn. Như vậy, đối diện với thân, sơ (thuận, nghịch) có cảm thọ nào khởi lên: lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ, người đó tùy hỷ, hoan nghênh, tham trước thọ ấy. Vì tùy hỷ, hoan nghênh, tham trước cảm thọ ấy, nên dục sanh hỷ, có tâm dục hỷ đối với những cảm thọ ấy nên dục hỷ sanh. Có tâm dục hỷ đối với những cảm thọ ấy, tức là chấp thủ. Do duyên thủ nên hữu sanh; do duyên hữu nên sanh sinh khởi; do duyên sanh nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, sanh. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.

Hearing a sound with the ear, cognising a smell with the nose, cognising a taste with the tongue, cognising a touch with the body, cognising an idea with the mind, becomes greedy for a pleasant idea. Becomes averse to a disagreeable idea. Abides with mindfulness of the body not established and with a limited mind. Not knowing the release of mind nor the release through wisdom as it really is. Not knowing how thoughts of demerit cease completely. He falls to the path of agreeing and disagreeing and feels whatever feeling, pleasant, unpleasant, or neither unpleasant nor pleasant. Delighted and pleased with those feelings, appropriates them. To him delighted, pleased and appropriating those feelings arise interest. That interest for feelings is the holding*12) To him holding, there is being, from being arises birth, from birth decay and death, grief, lament, unpleasantness, displeasure and distress, thus arises the complete mass of unpleasntness.

Khi người đó nghe tiếng với tai... khi người đó ngửi hương với mũi... khi người đó nếm vị với lưỡi... khi người đó cảm xúc với thân... khi người đó nhận thức pháp với ý, người đó tham ái đối với pháp tốt, ghét bỏ đối với pháp xấu. Người đó sống niệm không an trú trên thân, với một tâm nhỏ mọn. Người đó không như thật tuệ tri đến tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chính nhờ chúng mà các ác, bất thiện pháp của người đó được trừ diệt, không còn dư tàn. Như vậy, đối diện với thân, sơ (thuận, nghịch), có cảm thọ nào khởi lên: lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ. Người đó tùy hỷ, hoan nghênh, tham trước cảm thọ ấy. Vì người đó tùy hỷ, hoan nghênh, tham trước cảm thọ ấy nên dục hỷ sanh. Có tâm dục hỷ đối với những cảm thọ ấy, tức là chấp thủ. Do duyên thủ nên hữu sanh; do duyên hữu nên sanh sinh khởi; do duyên sanh nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não sanh. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.

Here bhikkhus, the Thus Gone One is born in the world perfect rightfully enlightened. Endowed with knowledge and conduct, well gone, knower of the worlds the incomparable tamer of those to be tamed, teacher of gods and men, enlightened and blessed. He proclaims to this world of gods and men, together with its Maaras, Brahmaas, the community of recluses, brahmins, gods and men. The Teaching good at the beginning, in the middle and in the end. Full of meaning even in the letters and declaring the complete and pure holy life.

(Ðoạn tận luân hồi: Sự tu tập)
Ở đời, này các Tỷ-kheo, Như Lai xuất hiện ở đời là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Như Lai sau khi tự chứng ngộ với thượng trí, thế giới này với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, gồm cả thế giới này với Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Nhơn, lại tuyên thuyết điều Như Lai đã chứng ngộ. Như Lai thuyết pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, đầy đủ văn nghĩa. Như Lai truyền dạy phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, thanh tịnh.

A householder, or the son of a householder or one born in some clan, hears the Teaching and gains faith in the Thus Gone One. With that gain of faith reflects. The household life is full of difficulties, is a defiling path. Going forth is like open space. Living in a household it is not easy to lead a holy life complete and pure without being defiled. What if I. shave head and beard, put on yellow clothes and go forth as a homeless. At some suitable time he gives up a little wealth or a large mass of wealth.. Leaves behind a small circle of friends, or a large circle of friends. Shaving head and beard and donning yellow clothes goes forth as a homeless.

Người gia trưởng hay con vị gia trưởng, hay một người sanh ở giai cấp (hạ tiện) nào nghe Pháp ấy. Sau khi nghe Pháp, người ấy sanh lòng kính ngưỡng Như Lai. Khi có lòng tín ngưỡng, vị ấy suy nghĩ: "Ðời sống gia đình đầy những triền phược, con đường đầy những bụi đời. Ðời sống xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật rất khó cho một người sống ở gia đình có thể sống theo phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình". Sau một thời gian, người ấy bỏ tài sản nhỏ hay bỏ tài sản lớn, bỏ bà con quyến thuộc nhỏ hay bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

Gone forth he becomes a trainer in the life of a bhikkhu, gives up hurting living things, throwing away stick and weapon, ashamed and compassion aroused, abides with compassion for all beings. Abstaining from taking what is not given, desires the given, the self made pure without thieving he abides. .Abstaining from low sexual intercourse leads the holy life .

Khi đã xuất gia như vậy, vị ấy sống thành tựu học pháp chánh hạnh, từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Vị ấy từ bỏ lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, sống thanh tịnh, không có trộm cắp, từ bỏ tà hạnh, sống theo phạm hạnh, sống hạnh viễn ly, từ bỏ dâm dục hèn hạ.

Abstaining from telling lies becomes reliable and trustworthy and abides without a dispute with the world. Gives up slandering, hearing here does not say it elsewhere, to split these. Hearing elsewhere does not say it here to split those. Thus he unites the split, promotes unity, fond of unity talks words to unite. Giving up rough talk, says pleasant words pleasing to the ears. Says words going straight to the heart of the populace at large. Abstains from frivolous talk. Says appropriate words, that are truthful, meaningful, in accordance with the Teaching and Discipline, those words that could be treasured.

Từ bỏ nói láo, nói những lời chân thật, y chỉ trên sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không lường gạt, không phản lại đối với đời, từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ ở những người này, nghe điều gì ở chỗ kia, không đến nói với những người này để sanh chia rẽ ở những người kia. Như vậy, vị ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, hoan hỷ trong hòa hợp, thoải mái trong hòa hợp, hân hoan trong hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp, từ bỏ lời nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác, nói những lời nói không lỗi lầm, đẹp tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm, nói đúng thời, nói những lời chân thật, nói những lời có ý nghĩa, nói những lời về Chánh Pháp, nói những lời về Luật, nói những lời đáng được gìn giữ, những lời hợp thời, thuận lý, có mạch lạc hệ thống, có ích lợi.

Abstains from destroying seed groups and vegetable groups. Partaking one meal a day, abstains from food at night and at untimely hours. Abstains from dance, singing, music, decorations, flowers and scents, ointments and adornments. Abstains from high and stately beds. Abstains from accepting gold and silver, uncooked rice and uncooked flesh,. Abstains from accepting women and girls, slaves, men or women, Abstains from accepting goats, cows, fowl, pigs, elephants, cattle, .horses and mares.Abstains from accepting fields and wealth. Abstains from doing the work of a messenger and buying and selling. Abstains from unfair ways of weighing and measuring. Abstains from cutting severing, destroying and highway robbery, and wrong ways of obtaining morsel food.

Vị ấy từ bỏ làm hại đến các hột giống và các loại cây cỏ, dùng một ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời, từ bỏ đi xem múa, hát, nhạc, trình diễn, từ bỏ trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thơm và các thời trang, từ bỏ dùng giường cao và giường lớn, từ bỏ nhận vàng bạc, từ bỏ nhận các hạt sống, từ bỏ nhận thịt sống, từ bỏ nhận đàn bà, con gái, từ bỏ nhận nô tỳ, gái và trai, từ bỏ nhận cừu và dê, từ bỏ nhận gia cầm và heo, từ bỏ nhận voi, bò, ngựa và ngựa cái, từ bỏ nhận ruộng nương và đất đai, từ bỏ nhận người môi giới hoặc tự mình làm môi giới, từ bỏ buôn bán, từ bỏ các sự gian lận bằng cân, tiền bạc, đo lường, từ bỏ các tà hạnh như hối lộ, gian trá, lừa đảo, từ bỏ làm thương tổn, sát hại, câu thúc, bức đoạt, trộm cắp, cướp phá.

Satisfied, covering the body with robes, feeding the belly with morsel food, goes with all the belongings where ever he goes. Like the birds small and large that go with the weight of their wings. Likewise satisfied covering the body with robes, feeding the belly with morsel food, goes with all the belongings where ever he goes. Endowed with this mass of virtues, he experiences the pleasure of blamelessness internally.

Vị ấy biết đủ với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo (y và bình bát). Ví như con chim bay đến chỗ nào cũng mang theo hai cánh; cũng vậy, Tỷ-kheo biết đủ với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo (y và bình bát). Vị ấy nhờ thành tựu Thánh giới uẩn này nên hưởng được lạc thọ, nội tâm không lỗi lầm.

Seeing a form with the eye, does not take the sign or the elements .To one abiding with the mental faculty of the eye uncontrolled, may trickle demerit and displeasure by coveting. He abides protecting the mental faculty of the eye..Hearing a sound with the ear, Cognizing a smell with the nose, tasting a taste with the tongue, Cognizing a touch with the body, Cognizing an idea with the mind, does not take the sign or the elements. To one abiding, with the mental faculty of the mind uncontrolled, may trickle demerit and displeasure by coveting. He abides protecting the mind. Endowed with the noble ones’ control of the mental faculties, he experiences the untouched pleasure of the mental faculties .

Khi mắt thấy sắc, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến con mắt không được chế ngự, khiến tham ái, ưu, bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên; vị ấy tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì con mắt, thực hành sự hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc... ý nhận thức các pháp; vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến ý căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu, bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên; vị ấy chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn. Vị ấy nhờ sự hộ trì cao quý các căn ấy, nên hưởng lạc thọ, nội tâm không lỗi lầm.

Coming forward and returning is aware, looking on and aside is aware. Bending and stretching is aware. Bearing bowl and the three robes is aware. Tasting, drinking, eating and enjoying is aware.Going, standing, sitting, lying, awake, and keeping silence is aware.

Vị ấy khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác, khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác, khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác, khi mang y kép, bình bát, thượng y đều tỉnh giác, khi ăn uống, nhai, nuốt đều tỉnh giác, khi đi đại tiểu tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác, khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức, nói, im lặng đều tỉnh giác.

Endowed with this mass of virtues, this control of the mental faculties of the noble ones, the mindful awareness of the noble ones abides in a secluded dwelling, a forest, the root of a tree, a mountain grotto or cave, a charnel ground, a jungle forest, an open space, or a heap of straw.. Returning from the alms round after the meal is over, sits in a cross legged position, the body placed straight and mindfulness established in front. Dispelling covetousness for the world he abides, cleaning the mind of covetousness Dispelling anger he abides cleaning the mind of anger with compassion for all born Dispelling sloth and torpor he abides, mindful and aware of a perception of light, cleaning sloth and torpor from the mind. Dispelling restlessness and worry he abides with a mind internally appeased, cleaning the mind of restlessness and worry. Abides with doubts dispelled of meritorious things that should be done.

Vị ấy với sự thành tựu Thành giới uẩn này, với sự thành tựu Thánh hộ trì căn này, và với Thánh chánh niệm tỉnh giác này, lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch như khu rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm. Sau khi đi khất thực về và ăn xong, vị ấy ngồi kiết-già, lưng thẳng, tại chỗ nói trên, và an trú chánh niệm trước mặt. Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời, sống với tâm thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái. Từ bỏ sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu tình, gột rửa, tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên. Từ bỏ trạo cử hối quá, vị ấy sống không trạo cử, nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử, hối tiếc. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện pháp.

The bhikkhu dispelling the five hindrances of the mind and wisely making the minor defilements weak, turns out sensual thoughts and thoughts of demerit. With thoughts and thought processes and with joy and pleasantness born of seclusion attained to abides in the first jhaana. Again, the bhikkhu overcoming thoughts and thought processes, the mind, internally appeased in one point, with joy and pleasantness born of concentration attained to abides in the second jhaana. Again the bhikkhu with equanimity to joy and detachment abides mindful and aware, with the body experiencing pleasantness too attained to abides in the third jhana.. To this the noble ones say mindfully abiding in pleasantness with equanimity.Again the bhikkhu dispelling pleasantness and unpleasantness and earlier having dispelled pleasure and displeasure, with mindfulness purified with equanimity attained to abides in the fourth jhaana.

Sau khi từ bỏ năm triền cái làm ô nhiễm tâm, làm cho yếu ớt trí tuệ, vị ấy ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm giác sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là "xả niệm lạc trú", chứng và trú Thiền thứ ba. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.

He seeing a form with the eye does not greed for a pleasant form, nor become averse to a disagreeable form. Abides with mindfulness of the body established and with a limitless mind, knowing the release of mind and the release through wisdom as it really is, where thoughts of demerit cease completely.Dispelling agreeing and disagreeing feels whatever feeling, pleasant, unpleasant, or neither unpleasant nor pleasant. Neither delighted nor pleased with those feelings does not appropriate them. To him neither delighted, nor pleased and not appropriating those feelings the interest for them ceases. When interest ceases the holding ceases. When holding ceases being ceases. When being ceases birth ceases. When birth ceases decay and death, grief, lament, unpleasantness, displeasure and distress cease. Thus the complete mass of unpleasantness. ceases.

(Ðoạn tận luân hồi: Giải thoát rốt ráo)
Khi vị ấy thấy sắc bằng mắt, vị ấy không tham ái đối với sắc đẹp, không ghét bỏ đối với sắc xấu, vị ấy sống an trú niệm trên thân, với tâm vô lượng. Vị ấy như thật tuệ tri tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chính nhờ chúng mà các ác bất thiện pháp của vị ấy được trừ diệt, không có dư tàn. Như vậy từ bỏ (thuận nghịch), có cảm thọ nào khởi lên: lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ; vị ấy không tùy hỷ, không hoan nghênh, không tham trước thọ ấy. Vì vị ấy không tùy hỷ, không hoan nghênh, không tham trước thọ ấy, nếu có dục hỷ nào đối với các cảm thọ, dục hỷ ấy được trừ diệt. Do dục hỷ của vị ấy diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.

Hearing a sound with the ear, cognising a smell with the nose, cognising a taste with the tongue, cognising a touch with the body, cognising an idea with the mind, does not become greedy for a pleasant idea. Does not become averse to a disagreeable idea. Abides with mindfulness of the body established and with a limitless mind, knowing the release of mind and the release through wisdom as it really is, where thoughts of demerit cease completely.Dispelling agreeing and disagreeing feels whatever feeling, pleasant, unpleasant, or neither unpleasant nor pleasant. Neither delighted nor pleased with those feelings does not appropriate them. Then the interest for those feelings cease. When interest ceases the holding ceases. When holding ceases being ceases. When being ceases birth ceases.When birth ceases decay and death, grief, lament, unpleasantness, displeasure and distress, cease. Thus the complete mass of unpleasantness ceases. Bhikkhus, remember this as the destruction of unpleasantness in short. As for the bhikkhu Saati the son of a fisherman is bound in a net of much craving.

Khi vị ấy nghe tiếng bằng tai... khi vị ngửi hương bằng mũi... Khi vị ấy nếm vị bằng lưỡi... Khi vị ấy cảm xúc bằng thân... Khi vị ấy nhận thức pháp bằng ý, vị ấy không tham ái đối với pháp tốt, không ghét bỏ đối với pháp xấu. Vị ấy sống an trú niệm trên thân, với tâm vô lượng. Vị ấy như thật tuệ tri tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Chính nhờ chúng mà các ác, bất thiện pháp của vị ấy được trừ diệt, không có dư tàn. Như vậy, vị ấy đoạn trừ (thuận nghịch) có cảm thọ nào khởi lên: lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ; vị ấy không tùy hỷ, không hoan nghênh, không tham trước thọ ấy. Vì vị ấy không tùy hỷ, không hoan nghênh, không tham trước thọ ấy, nếu có dục hỷ nào đối với các cảm thọ, dục hỷ ấy được trừ diệt. Do dục hỷ của vị ấy diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.

Thus the complete mass of unpleasantness ceases. Bhikkhus, remember this as the destruction of unpleasantness in short. As for the bhikkhu Saati the son of a fisherman is bound in a net of much craving.

(Kết luận)
Này các Tỷ-kheo, các Ông hãy thọ trì ái tận giải thoát này, được Ta nói một cách tóm tắt, nhưng (phải nhớ là) Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, đã bị mắc trong cái lưới lớn của ái, trong sự rối loạn của ái.

The Blessed One said thus and those bhikkhus delighted in the words of the Blessed One...

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.

Cập nhập ngày: Thứ Năm ngày 4-3-2021

webmasters: Minh Hạnh & Thiện Pháp, Thủy Tú & Phạm Cương

 | | trở về đầu trang | Home page |