I heard thus. At one time the Blessed One was living in a brick house in Naadikaa. |
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Nadika, tại Ginjakavasatha. |
At that time venerables Anuruddha, Nandiya and Kimbila were abiding in the Gosinga Sala forest gifted by the king. |
Lúc bấy giờ Tôn giả Anuruddha (A-na-luật-đà), Tôn giả Nandiya, Tôn giả Kimbila trú tại khu vườn trong rừng Gosinga (rừng Sừng bò) có nhiều cây ta-la. |
The Blessed One getting up from his seclusion in the evening approached the Sala forest. The forest keeper saw the Blessed One coming in the distance and said |
Rồi Thế Tôn, vào buổi chiều, sau khi tham thiền, đứng dậy đi đến khu vườn trong rừng Gosinga có nhiều cây ta-la. Người giữ vườn thấy Thế Tôn từ xa đi đến, liền bạch Thế Tôn: |
recluse, do not enter this forest. There are three sons of clansmen abiding here seeking their own good, do not inconvenience them. |
-- Bạch Sa-môn, chớ có vào khu vườn này. Có ba Thiện nam tử đang trú tại đây, rất ái luyến tự ngã. Chớ có phiền nhiễu các vị ấy. |
Venerable Anuruddha heard this conversation between the forest keeper and the Blessed One and told the forest keeper. |
Tôn giả Anuruddha nghe người giữ vườn nói chuyện với Thế Tôn như vậy, liền nói với người giữ vườn: |
Do not obstruct the Blessed One, it is our Teacher, the Blessed One. |
-- Này người giữ vườn, chớ có ngăn chận Thế Tôn. Thế Tôn, bậc Ðạo Sư của chúng tôi đã đến. |
Venerable Anuruddha addressed venerables Nandiya and Kimbila, |
Rồi Tôn giả Anuruddha đi đến Tôn giả Nandiya, Tôn giả Kimbila và nói: |
come! Venerable ones, our Teacher has arrived. |
-- Chư Tôn giả hãy đến, chư Tôn giả hãy đến. Thế Tôn, bậc Đạo sư của chúng ta đã đến. |
Then Venerables Anuruddha, Nandiya, and Kimbila approached the Blessed One, accepted bowl and robes from the Blessed One. One prepared a seat and another administered water to wash the feet. The Blessed One sat on the prepared seat and washed his feet. Those venerable ones worshipped the Blessed One and sat on a side. The Blessed One addressed venerable Anuruddha: |
Rồi Tôn giả Anuruddha, Tôn giả Nandiya và Tôn giả Kimbila ra đón Thế Tôn, một người cầm y bát của Thế Tôn, một người sửa soạn chỗ ngồi, một người đặt sẵn nước rửa chân. Thế Tôn ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn, sau khi ngồi, Thế Tôn rửa chân. Rồi các Tôn giả ấy đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Và Thế Tôn nói với Tôn giả Anuruddha đang ngồi xuống một bên: |
Anuruddha, are you alright, do you have any fatigue owing to want of morsel food? |
-- Này các Anuruddha, các Ông có được an lành không? Có được sống yên vui không? Ði khất thực có khỏi mệt nhọc không? |
Venerable sir, we are alright, we have no fatigue owing to lack of morsel food. |
-- Bạch Thế Tôn, chúng con được an lành; bạch Thế Tôn, chúng con sống yên vui; bạch Thế Tôn, chúng con đi khất thực khỏi có mệt nhọc. |
Anuruddha, are you united and friendly without a dispute, like milk and water and do you abide seeing each other with friendly eyes? |
-- Này các Anuruddha, các Ông có sống hòa hợp, hoan hỷ với nhau, không có cãi nhau, như nước với sữa, sống nhìn nhau với cặp mắt thiện cảm không? |
Venerable sir, we are united like milk and water, friendly, without a dispute and abide seeing each other with friendly eyes. |
-- Bạch Thế Tôn, thật sự chúng con sống hòa hợp, hoan hỷ với nhau, không có cãi nhau, như nước với sữa, sống nhìn nhau với cặp mắt thiện cảm. |
Anuruddha, how do you abide united like milk and water, friendly, without a dispute seeing each other with friendly eyes? |
-- Này các Anuruddha, như thế nào các Ông sống hòa hợp, hoan hỷ với nhau, như nước với sữa, sống nhìn nhau với cặp mắt thiện cảm? |
Venerable sir, this thought occurs to me It is gain for me that I live with such co-associates in the holy life. So I abide with bodily actions of loving kindness towards these venerable ones openly and secretly. With verbal actions of loving kindness towards these venerable ones openly and secretly. With mental actions of loving kindness towards these venerable ones openly and secretly Sometimes it occurs to me what if I discard my thoughts and concede to the thoughts of these venerable ones. So I discard my thoughts and concede to the thoughts of these venerable ones. Venerable sir, we are various in bodies, and one in mind. |
-- Bạch Thế Tôn, ở đây, chúng con nghe như sau: "Thật lợi ích thay cho ta, thật khéo lợi ích thay cho ta, khi ta được sống với các vị đồng phạm hạnh như vậy". Bạch Thế Tôn, do vậy, đối với các vị đồng phạm hạnh này, con khởi lên từ thân nghiệp trước mặt và sau lưng, con khởi lên từ khẩu nghiệp, trước mặt và sau lưng, con khởi lên từ ý nghiệp, trước mặt và sau lưng. Bạch Thế Tôn, do vậy, chúng con nghĩ như sau: "Ta hãy từ bỏ tâm của ta và sống thuận theo tâm của những Tôn giả này". Bạch Thế Tôn, con từ bỏ tâm của con, và sống thuận theo tâm của những Tôn giả ấy. Bạch Thế Tôn, chúng con tuy khác thân nhưng giống như đồng một tâm. |
Venerable Nandiya and venerable Kimbila too said to the Blessed One. |
Rồi Tôn giả Nandiya... (như trên)... rồi Tôn giả Kimbila bạch Thế Tôn: |
venerable sir, this thought occurs to me. It is gain for me, that I live with such co-associates in the holy life. So I abide, with bodily actions of loving kindness towards these venerable ones openly and secretly. With verbal actions of loving kindness openly and secretly. With mental actions of loving kindness openly and secretly Sometimes it occurs to me, what if I discard my thoughts and concede to the thoughts of these venerable ones. So I discard my thoughts and concede to the thoughts of these venerable ones. Venerable sir, we are various in bodies and one single in mind. Venerable sir, in this manner we abide united like milk and water, friendly, without a dispute, seeing each other with friendly eyes. |
-- Bạch Thế Tôn, ở đây chúng con nghĩ như sau: "Thật lợi ích thay cho ta, thật khéo lợi ích thay cho ta, khi ta được sống với các vị đồng phạm hạnh như vậy". Bạch Thế Tôn, do vậy, đối với các vị đồng phạm hạnh này, con khởi lên từ thân nghiệp, trước mặt và sau lưng, con khởi lên từ khẩu nghiệp, trước mặt và sau lưng, con khởi lên từ ý nghiệp, trước mặt và sau lưng. Bạch Thế Tôn, do vậy, chúng con nghĩ như sau: "Ta hãy từ bỏ tâm của ta và sống thuận theo tâm của những Tôn giả này". Bạch Thế Tôn, con từ bỏ tâm của con và sống thuận theo tâm của những Tôn giả ấy. Bạch Thế Tôn, chúng con tuy khác thân nhưng giống như đồng một tâm. Bạch Thế Tôn, như vậy chúng con sống hòa hợp, hoan hỷ với nhau, như nước với sữa, sống nhìn nhau với cặp mắt thiện cảm. |
Good, Anuruddha, do you live diligently for dispelling? |
-- Lành thay, lành thay, này Anuruddha! Này các Anuruddha, các Ông có sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần không? |
Venerable sir, indeed we abide diligently for dispelling. |
-- Bạch Thế Tôn, thật sự chúng con sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. |
Anuruddha, how do you abide diligently for dispelling? |
-- Này các Anuruddha, như thế nào, các Ông sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần? |
Venerable sir, whoever comes from the village first, after collecting morsel food, prepares the seats administers water for drinking and washing and places the spittoons. Whoever comes last from the village, partakes of what is left over if he desires, if he does not, throws it to a place where nothing grows, or puts into some water where there is no life. He puts away the seats, and the vessels of water, washes the spittoons and sweeps the refectory, Whoever sees the water vessels for drinking, washing or toilets empty, fills them up. If he finds it not in his capacity to carry it, would call another with the wave of the hand. Would not utter a word on account of it. On every fifth day we would sit throughout the night discussing a topic on the Teaching. Venerable sir, thus we abide diligently for dispelling. |
-- Ở đây, bạch Thế Tôn, chúng con, ai đi làng khất thực về trước, thì người ấy sắp đặt các chỗ ngồi, soạn sẵn nước uống, nước rửa chân, soạn sẵn một bát để bỏ đồ dư. Ai đi làng khất thực về sau, thì người ấy, còn đồ ăn thừa nếu muốn thì ăn, nếu không muốn thì bỏ vào chỗ không có cỏ xanh hay đổ vào nước không có loài côn trùng và người ấy xếp dọn lại các chỗ ngồi, cất đi nước uống, nước rửa chân, cất đi cái bát để bỏ đồ dư và quét sạch nhà ăn. Ai thấy ghè nước uống, ghè nước rửa chân, hay ghè nước trong nhà cầu hết nước, trống không thì người ấy sẽ lo liệu (nước). Nếu ai làm không nổi với sức bàn tay của mình, thì người ấy dùng tay ra hiệu gọi người thứ hai: "Chúng ta hãy lo liệu (nước)". Dầu vậy, bạch Thế Tôn, chúng con không vì vây mà gây ra tiếng động. Và đến ngày thứ năm, bạch Thế Tôn, suốt cả đêm, chúng con ngồi đàm luận về đạo pháp. Như vây, bạch Thế Tôn chúng con sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. |
Good, Anuruddha, you abide diligently for dispelling*1). Have you attained any distinctive knowledge above human? |
-- Lành thay, lành thay, này các Anuruddha! Này các Anuruddha, các Ông sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần như vậy, các Ông có chứng được pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc Thánh, sống thoải mái, an lạc không? |
Why not venerable sir, Whenever we desire, seclude the mind from sensual thoughts and defiling thoughts and with joy and pleasantness born from seclusion attained to abide in the first jhaana. Venerable sir, that is the distinctive knowledge we have attained above human. |
-- Bạch Thế Tôn, sao có thể không được! Ở đây, bạch Thế Tôn, lâu cho đến khi chúng con muốn, chúng con ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Như vậy, bạch Thế Tôn, đối với chúng con, là pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc Thánh; chúng con chứng được và sống thoải mái, an lạc, nhờ chúng con sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. |
Good, Anuruddha, overcoming that and above that, is there any distinctive knowledge you have attained and abide above human?. |
-- Lành thay, lành thay, này các Anuruddha! Này các Anuruddha, các Ông có vượt qua sự an trú kia, có làm cho khinh an sự an trú kia, và chứng được một pháp thượng nhân khác, một tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh và sống thoải mái, an lạc không? |
Why not venerable sir. Whenever we desire, overcoming thoughts and thought processes, the mind internally settled in one point, with joy and pleasantness born of concentration attained to abide in the second jhaana. Venerable sir, overcoming that and above that, this is the distinctive knowledge we have attained and abide above human. |
-- Bạch Thế Tôn, làm sao có thể không được. Ở đây, bạch Thế Tôn, lâu cho đến khi chúng con muốn, chúng con diệt tầm diệt tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Bạch Thế Tôn, chúng con vượt qua sự an trú kia, làm cho khinh an sự an trú kia; chúng con chứng được pháp thượng nhân khác, một tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc Thánh và sống thoải mái, an lạc. |
Good, Anuruddha, having overcome that and above that is there any distinctive knowledge you have attained to, abide above human. |
-- Lành thay, lành thay, này các Anuruddha! Này các Anuruddha, các Ông có vượt qua sự an trú kia, có làm cho khinh an sự an trú kia, và chứng được một pháp thượng nhân khác, một tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc Thánh và sống thoải mái, an lạc không? |
Why not venerable sir? Whenever we desire, with equanimity to joy and detachment we abide mindful and aware experiencing pleasantness with the body, in the third jhaana... To this, the noble ones say abiding mindfully in pleasantaness with equanimity. |
-- Bạch Thế Tôn, làm sao có thể không được! Ở đây, lâu cho đến khi chúng con muốn, chúng con ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba, Bạch Thế Tôn, chúng con vượt qua sự an trú kia, làm cho khinh an sự an trú kia; chúng con chứng được pháp thượng nhân khác, một tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc Thánh, và sống thoải mái, an lạc. |
Good Anuruddha, having overcome that and above that is there any distinctive knowledge you attain to abide above human? |
-- Lành thay, lành thay, này các Anuruddha! Này các Anuruddha, các Ông có vượt qua sự an trú kia, có làm cho khinh an sự an trú kia, và chứng được một pháp thượng nhân khác, một tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc Thánh và sống thoải mái, an lạc không? |
Why not venerable sir. Whenever we desire, dispelling pleasantness and unpleasantness, having overcome pleasure and displeasure earlier, with equanimity mindfulness purified, attained to, we abide in the fourth jhaana. Venerable sir, overccoming that and above that, this is the distinctive knowledge we have attained and abide above human. |
-- Bạch Thế Tôn, làm sao có thể không được! Ở đây, lâu cho đến khi chúng con muốn, chúng con xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Bạch Thế Tôn, chúng con vượt qua sự an trú kia, làm cho khinh an sự an trú kia; chúng con chứng được pháp thượng nhân khác, một tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc Thánh và sống thoải mái an lạc. |
Good, Anuruddha, overcoming that and above it, is there any distinctive knowledge you attained to, abide above human?. |
-- Lành thay, lành thay, này các Anuruddha! Này các Anuruddha, các Ông có vượt qua sự an trú kia, có làm cho khinh an sự an trú kia, và chứng được một pháp thượng nhân khác, một tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc Thánh và sống thoải mái, an lạc không? |
Why not venerable sir. Whenever we desire overcoming all perceptions of matter and overcoming perceptions of anger, not attending to various perceptions, with space is boundless attained to, abide in the sphere of space. Venerable sir, overcoming that and above that, this is the distinctive knowledge we attained to, abide above human..Good, Anuruddha, having overcome that and above that is there any distinctive knowledge and vision you have attained to, abide above human?. Why not venerable sir? Whenever we desire overcoming all the sphere of space, with consciousness is boundless, and with there is nothing, attained to, abide in the sphere of no-thingness. Overcoming all the sphere of no-thingness attained to abide in the sphere of neither-peception-nor-non-perception, Venerable sir, overcoming that and above it, this is the distinctive knowledge and vision we attained to abide, above human. Good, Anuruddha, overcoming that, is there any distinctive knowledge and vision you have attained to, abide above human? Why not venerable sir. Whenever we desire attaining to the sphere of neither- perception –nor –non-perception we abide in the cessation of perceptions and feelings. Seeing this with wisdom desires get destroyed. Venerable, sir, overcoming that and above that, this is the distinctive knowledge and vision we attained to, abide, above human. Venerable sir, we have not seen a more noble and a more exalted abiding above this. |
-- Bạch Thế Tôn, làm sao có thể không được. Ở đây lâu cho đến khi chúng con muốn, chúng con vượt lên mọi sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, không tác ý đối với dị tưởng; chúng con nghĩ rằng: "Hư không là vô biên", chứng và trú Không vô biên xứ. Bạch Thế Tôn, chúng con vượt qua sự an trú kia, làm cho khinh an sự an trú kia; chúng con chứng được pháp thượng nhân khác, một tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc Thánh và sống thoải mái, an lạc... (như trên)... Ở đây, lâu cho đến khi chúng con muốn; chúng con vượt qua mọi Không vô biên xứ, nghĩ rằng: "Thức là vô biên", chứng và trú Thức vô biên xứ... (như trên)... Ở đây, lâu cho đến khi chúng con muốn; chúng con vượt qua mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: "Không có vật gì", chứng và trú Vô sở hữu xứ... (như trên)... Ở đây, lâu cho đến khi chúng con muốn; chúng con vượt qua mọi Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ở đây, lâu cho đến khi chúng con muốn; chúng con vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng định. Sau khi đã thấy nhờ trí tuệ, các lậu hoặc của chúng con được đoạn trừ. Bạch Thế Tôn, chúng con vượt qua sự an trú kia, làm cho khinh an sự an trú kia; chúng con chứng được pháp thượng nhân này, một tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc Thánh và sống thoải mái, an lạc. Bạch Thế Tôn, chúng con không thấy một lạc trú nào khác cao thượng hơn, thù thắng hơn sự lạc trú này. |
—Good, Anuruddha, there is no abiding more noble and more exalted than this. . . |
-- Lành thay, lành thay, các Anuruddha! Này các Anuruddha, ngoài lạc trú này, không có một lạc trú nào khác cao thượng hơn, thù thắng hơn. |
Then the Blessed One advised, instructed, incited, and made the hearts light of venerables Anuruddha, Nandiya and Kimbila and getting up from the seat went away. When the Blessed One was going the three venerables Anuruddha, Nandiya and Kimbila followed after the Blessed One and stopped short. Then venerables Nandiya and Kimbila asked venerable Anuruddha. |
Thế Tôn thuyết pháp cho Tôn giả Anuruddha, Tôn giả Nandiya và Tôn giả Kimbila, khai thị, khích lệ làm cho hoan hỷ, làm cho phấn khởi, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy ra về. Tôn giả Anuruddha, Tôn giả Nandiya và Tôn giả Kimbila, sau khi tiễn đưa Thế Tôn và đi trở về. Tôn giả Nandiya và Tôn giả Kimbila nói với Tôn giả Anuruddha: |
What, did we tell you venerable Anuruddha, that we are gainers of those abidings and attainments .that the venerable one told the Blessed One as much as our destruction of desires? |
-- Chúng tôi không bao giờ nói với Tôn giả Anuruddha như sau: "Chúng tôi là người đã chứng và an trú quả này, an trú quả này", và nhờ vậy, Tôn giả Anuruddha, trước mặt Thế Tôn, đã nêu rõ (các quả chứng) cho đến sự đoạn trừ các lậu hoặc. |
Not that the venerable ones told me about their abidings and attainments yet we penetrated the minds of the venerable ones and knew that the venerable ones are gainers of those attainments. The gods too told me about this, and when the Blessed One questioned me about it I replied. |
-- Chư Tôn giả không nói với tôi như sau: "Chúng tôi là người đã chứng và an trú quả này, an trú quả này", nhưng với tâm của tôi, tôi biết được tâm của các Tôn giả: "Chư Tôn giả này là Người đã chứng và an trú quả này, an trú quả này". Và chư Thiên có nói với tôi về vấn đề này: "Chư Tôn giả này là Người đã chứng và an trú quả này, an trú quả này". Chính nhờ phương tiện này, các câu mà Thế Tôn hỏi đã được trả lời. |
Then the demon Diigha approached the Blessed One worshipped, stood on a side and said thus to the Blessed One: |
Rồi Digha Parajana, một Yakkha (Trường quỷ Dạ-xoa) đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Ngài và đứng một bên. Sau khi đứng một bên, Digha Parajana bạch Thế Tôn: |
Venerable sir, ‘It is great gain for the Vajjis that the Blessed One abides perfect and rightfully enlightened and also these three sons of clansmen, venerable Anuruddha, venerable Kimbila and venerable Nandiya’ . |
-- Bạch Thế Tôn, thật lợi ích thay cho dân chúng Vajji (Bạt kỳ)! Thật khéo lợi ích thay cho dân chúng Vajji! Vì Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ở đây, và cả ba Thiện nam tử, Tôn giả Anuruddha, Tôn giả Nandiya và Tôn giả Kimbila cũng vậy. |
Hearing the sound of the demon Diigha the terrestrial gods echoed it. Hearing the sound of the terrestial gods, the retinue of the four great kings echoed it . Hearing the sound of the four great kings, the group of thirty two gods echoed it. Hearing the sound of the group of thirty two gods, the Yaama gods echoed it. Hearing the sound of the Yaama gods, the gods of happiness echoed it, Hearing the sound of the gods of happiness, the gods attached to creations, echoed it. Hearing the sound of the gods attached to creations, the gods attached to the creations of others, echoed it. Hearing the sound of the gods attached to the creations of others, the brahma gods echoed it . In a moment it was known as far as the Brahmaa world |
Sau khi nghe tiếng của Yakkha Digha Parajana, các địa thần làm cho tiếng này được nghe: "Chư Hiền giả, thật lợi ích thay cho dân chúng Vajji! thật khéo lợi ích cho dân chúng Vajji! Vì Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ở đây và cả ba Thiện nam tử này, Tôn giả Anuruddha, Tôn giả Nandiya và Tôn giả Kimbila cũng vậy". Sau khi nghe tiếng của các Ðịa thần, bốn Thiên vương... (như trên)... cõi trời Ba mươi ba... Dạ-ma thiên... Ðâu-suất-đà thiên... Hóa lạc thiên... Tha hóa tự tại thiên... Phạm chúng thiên làm cho tiếng này được nghe: "Chư Hiền giả, thật lợi ích thay có dân chúng Vajji! Thật khéo lợi ích thay cho dân chúng Vajji! Vì Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ở đây, và cả ba Thiện nam tử này, Tôn giả Anuruddha, Tôn giả Nandiya, và Tôn giả Kimbila cũng vậy". Như vậy, trong giờ phút này, trong sát-na này, các Tôn giả ấy được biết cho đến Phạm thiên. |
Diigha, this is so, from whatever clan these three sons of clansmen went forth, if those clans recall these three with a pleasant mind, it will conduce to their happiness for a long time. If their family circle,----the people in the village from where they went forth--- from whatever hamlet,--- from whatever town,---- from whatever state---whoever warriors recall these three sons of clansmen--- whoever brahmins –whoever househoders--- whoever outcastes recall these three clansmen with a pleasant mind it will conduce to their happiness for a long time. Diigha, anyone in this world of gods and men together with its Maaras, Brahmaas, were to recall these three sons of clansmen, it will conduce to their happiness for a long time. |
-- Sự việc là như vậy, này Digha, sự việc là như vậy, này Digha, này Digha, nếu gia đình nào, ba Thiện nam tử này xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, nghĩ đến ba Thiện nam tử này với tâm niệm hoan hỷ, thì gia đình ấy sẽ được an lạc, hạnh phúc lâu dài. Này Digha, nếu bà con quyến thuộc của gia đình mà ba Thiện nam tử này xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, nghĩ đến ba Thiện nam tử này với tâm niệm hoan hỷ, thì bà con quyến thuộc của gia đình mà ba Thiện nam tử này xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, nghĩ đến ba Thiện nam tử này với tâm niệm hoan hỷ, thì bà con quyến thuộc của gia đình ấy sẽ được an lạc, hạnh phúc lâu dài. Này Digha, nếu làng nào... nếu xã ấp nào... nếu thành phố nào... nếu quốc độ nào... nếu tất cả Sát đế lị... nếu tất cả Bà-la-môn... nếu tất cả Phệ xá (Vessa)... nếu tất cả Thủ đà (Sudda)... Này Digha, nếu thế giới với chư Thiên, với Ác ma, với Phạm thiên, với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người nhớ đến ba Tôn giả này với tâm niệm hoan hỷ, thì thế giới ấy với chư Thiên, với Ác ma, với Phạm thiên, với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người sẽ được an lạc, hạnh phúc lâu dài. Này Digha, hãy xem ba Thiện nam tử này sống như thế nào? --Vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người. |
The Blessed One said thus and the demon Diigha delighted in the words of the Blessed One. |
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Dạ xoa Digha Parajana hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy. |
Notes. 1. Abide diligently for dispelling. ‘eva.m kho maya.m bhante appamattaa aataapino pahitatta.m viharaamaati’ When asked how they abode diligently for dispelling, he gives a complete picture of how they behaved. It becomes such behaviour where there are no disputes what so ever. Yet all the necessary work is done with complete clarity and preciseness This kind of behaviour involves a lot of clear thinking and dispelling all kinds defilements in the mind such as sensual thoughts, angry thoughts and hurting thoughts..This behaviour is founded on a lot of loving kindness, compassion, intrinsic joy and also equanimity and it promotes harmony. These are indeed the basics necessary for concentration. |
Chú Thích. 1. Siêng năng giải trừ. ‘Eva.m kho maya.m bhante appamattaa aataapino pahitatta.m viharaamaati’ Khi được hỏi cách cố gắng sua tan, họ đưa ra một bức tranh toàn cảnh về cách đối xử. Nó trở thành hành vi như vậy, nơi không có tranh chấp nào xảy ra. Tuy nhiên, tất cả các công việc cần thiết được thực hiện với sự rõ ràng và chính xác hoàn toàn. Loại hành vi này liên quan đến nhiều suy nghĩ sáng suốt và xua tan tất cả các loại phiền não trong tâm trí như ý nghĩ dục lạc, ý nghĩ tức giận và ý nghĩ tổn thương. lòng nhân ái, từ bi, niềm vui nội tại và cả sự bình đẳng và nó thúc đẩy sự hòa hợp. Đây thực sự là những điều cơ bản cần thiết cho sự tập trung. |
Cập nhập ngày:
Thứ Năm 31-12-2020 |