Translator's IntroductionSome scholars have suggested that, of the many autobiographical accounts of the Buddha's Awakening presented in the Pali canon, this is the earliest. From that assumption, they have further suggested that because this account does not mention the four noble truths, either in connection with the Awakening or with the Buddha's instructions to his first disciples, the four noble truths must have been a later doctrine. There is little reason, however, to accept these suggestions. To begin with, the sutta does not recount the Buddha's period of austerities prior to his Awakening, nor does it tell of how the group of five monks attended to him during that period and later left him when he abandoned his austerities, and yet toward the end of the sutta the Buddha alludes to those two incidents in a way indicating that he assumes them to be familiar to his listeners. Thus, if anything, the accounts that do explicitly relate those events — such as the one in MN 36 — would seem to be earlier. Secondly, the lack of reference to the four noble truths does not indicate that they were not actually involved in the Awakening or the first sermon. As is always the case in the Buddha's autobiographical accounts in the Canon, this account is designed to convey a lesson, and the lesson is clearly articulated toward the beginning of the sutta: the difference between noble search and ignoble search. The account then illustrates the Buddha's own noble search and his later teaching career in the terms introduced by the lesson: the search for the "unborn, aging-less, illness-less, deathless, sorrow-less, undefiled, unexcelled rest from the yoke: Unbinding." In particular, all the events mentioned in the account revolve around the issue of the Deathless: the discovery of the Deathless, the teaching of the Deathless, and the Buddha's success in helping others to attain the Deathless. Had the lesson of the sutta concerned the four noble truths, they would probably have been mentioned in the account. Thus there seems little reason to regard this sutta as "proof" that the four noble truths were a later teaching. Nevertheless, this sutta offers many excellent lessons in the Dhamma, in addition to mentioning a few incidents in the Buddha's life that are found nowhere else in the Sutta Pitaka. |
Lời Giới Thiệu của Dịch GiảMột số học giả cho rằng, trong số nhiều bài kinh có tính chất tự truyện về sự Giác Ngộ của Đức Phật được trình bày trong kinh điển Pali, đây là bài kinh tự truyện sớm nhất. Từ giả thiết đó, họ còn cho rằng vì bài kinh này không đề cập đến Tứ Diệu Đế, liên quan đến Duy thức học hoặc với lời chỉ dạy của Đức Phật cho các đệ tử đầu tiên của Ngài, nên Tứ Diệu Đế phải là một học thuyết sau này. Tuy nhiên, có rất ít lý do để chấp nhận những đề xuất này. Để bắt đầu, bài kinh không kể lại thời kỳ Đức Phật tu hành trước khi Ngài Giác Ngộ, cũng không kể về việc nhóm năm Tỳ Kheo đã theo học với Ngài trong thời kỳ đó và sau đó đã rời bỏ Ngài khi Ngài từ bỏ khổ hạnh, nhưng vẫn chưa đến cuối bài, Đức Phật ám chỉ hai sự việc cho thấy rằng Ngài cho rằng chúng quen thuộc với người nghe của Ngài. Do vậy, nếu có, các bài kinh liên quan rõ ràng đến các sự kiện đó - chẳng hạn như bài kinh trong MN 36 - có vẻ có trước. Thứ hai, việc không nói đến Tứ Diệu Đế, điều này không có nghĩa là Tứ Diệu Đế không thực sự tham gia vào sự Giác Ngộ hoặc bài giảng đầu tiên. Như thường lệ trong các bài thuyết giảng của Đức Phật trong Kinh điển, bài kinh này được thiết lập để truyền đạt một bài học, và bài học được trình bày rõ ràng ở phần đầu của bài kinh: sự khác biệt giữa tìm kiếm cao thượng và tìm kiếm thiếu hiểu biết. Sau đó, bài kinh minh họa cho sự tìm kiếm cao cả của chính Đức Phật và sự nghiệp giảng dạy sau này của Ngài theo các thuật ngữ được giới thiệu trong bài học: tìm kiếm "sự yên nghỉ không sinh, ít già, ít bệnh tật, không chết, bớt buồn, không u uất, không bị giải thoát khỏi ách : Không ràng buộc. " Đặc biệt, tất cả các sự kiện được đề cập trong bài kinh đều xoay quanh vấn đề của bất tử: việc phát hiện ra bất tử, giáo huấn về bất tử, và thành công của Đức Phật trong việc giúp người khác đạt được sự bất tử. Nếu bài học của bài kinh liên quan đến Tứ Diệu Đế, chúng có thể đã được đề cập đến trong bài kinh. Vì vậy, dường như có rất ít lý do để coi bài kinh này là "bằng chứng" rằng Tứ Diệu Đế là một giáo lý sau này. Dù như thế nào, bài kinh này cung cấp nhiều điều học đặc sắc trong Giáo pháp, ngoài ra còn đề cập đến một số sự việc trong cuộc đời của Đức Phật mà không nơi nào có trong Kinh tạng. |
26.(Ariyapariyesanà sutta)I have heard that on one occasion the Blessed One was staying at Savatthi, in Jeta's Grove, Anathapindika's monastery. Then early in the morning, having put on his robes and carrying his bowl & outer robe, he went into Savatthi for alms. Then a large number of monks went to Ven. Ananda and said, "It has been a long time, friend Ananda, since we have heard a Dhamma talk in the Blessed One's presence. It would be good if we could get to hear a Dhamma talk in the Blessed One's presence." |
26. Kinh Thánh cầuTôi nghe như vầy: Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đến Savatthi để khất thực. Có một số đông Tỷ-kheo đến chỗ Tôn giả Ananda ở, sau khi đến, nói với Tôn giả Ananda: -- Hiền giả, đã lâu chúng tôi chưa được tận mặt nghe Thế Tôn thuyết pháp. Lành thay, Hiền giả Ananda, nếu chúng tôi được tận mặt nghe Thế Tôn thuyết pháp! |
"In that case, venerable ones, go to the hermitage of Rammaka the brahman. Perhaps you will get to hear a Dhamma talk in the Blessed One's presence." |
-- Các Tôn giả hãy đến chỗ Bà-la-môn Rammaka ở, và các Tôn giả sẽ được tận mặt nghe Thế Tôn thuyết pháp. |
"As you say, friend," the monks replied to Ven. Ananda and left. |
-- Thưa vâng, Hiền giả. |
Then the Blessed One, having gone for alms, after his meal, on returning from his alms round, said to Ven. Ananda, "Ananda, let's go to the Eastern Park, the palace of Migara's mother, for the day's abiding." |
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Ananda. Rồi Thế Tôn, khất thực ở Savatthi xong, sau buổi ăn trên con đường đi khất thực trở về, cho gọi Tôn giả Ananda:-- Này Ananda, chúng ta hãy đi đến Pubbarama (Ðông viên), ngôi lầu của Migaramatu (Lộc Mẫu Giảng Ðường) để nghỉ trưa. |
"As you say, lord," Ven. Ananda replied to the Blessed One. |
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn. |
So the Blessed One, together with Ven. Ananda, went to the Eastern Park, the palace of Migara's mother, for the day's abiding. Then in the evening, emerging from seclusion, he said to Ven. Ananda, "Ananda, let's go to the Eastern Gatehouse to bathe our limbs." |
Rồi Thế Tôn cùng với Tôn giả Ananda đi đến vườn Pubbarama, ngôi lầu của Migaramatu để nghỉ trưa. Thế Tôn vào buổi chiều từ Thiền tịnh đứng dậy, gọi Tôn giả Ananda: -- Này Ananda, chúng ta hãy đi đến Pubbakotthaka để rửa tay, rửa chân. |
"As you say, lord," Ven. Ananda replied to the Blessed One. |
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn |
So the Blessed One, together with Ven. Ananda, went to the Eastern Gatehouse to bathe his limbs. Having bathed his limbs at the Eastern Gatehouse, coming out of the water, he stood in his lower robe, drying his limbs. Then Ven. Ananda said to him, "Lord, the hermitage of Rammaka the brahman is not far away. Pleasing is the hermitage of Rammaka the brahman. Delightful is the hermitage of Rammaka the brahman. It would be good if the Blessed One went to the hermitage of Rammaka the brahman out of sympathy." The Blessed One acquiesced through silence. |
Rồi Thế Tôn cùng với Tôn giả Ananda đi đến Pubbakotthaka để rửa tay, rửa chân. Sau khi rửa tay, rửa chân ở Pubbalotthaka xong, Thế Tôn leo đứng trên bờ, đắp một tấm y, phơi tay chân cho khô. Rồi Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn: -- Bạch Thế Tôn, tinh thất của Bà-la-môn Rammaka không xa; bạch Thế Tôn, tịnh thất của Bà-la-môn Rammaka là khả ái; bạch Thế Tôn, tinh thất của Bà-la-môn Rammaka là khả lạc; bạch Thế Tôn, lành thay, nếu Thế Tôn vì lòng từ bi đi đến tịnh thất của Bà-la-môn Rammaka! Thế Tôn im lặng nhận lời |
So the Blessed One went to the hermitage of Rammaka the brahman. Now at that time a large number of monks had gathered in the hermitage of Rammaka the brahman for a Dhamma discussion. The Blessed One stood outside the door waiting for the discussion to end. On knowing that the discussion had ended, clearing his throat, he tapped at the door. The monks opened the door for him. Entering the hermitage of Rammaka the brahman, the Blessed One sat down on a seat made ready. As he was sitting there, he addressed the monks: "For what discussion are you gathered together here? In the midst of what discussion have you been interrupted?" |
Rồi Thế Tôn đi đến tịnh thất của Bà-la-môn Rammaka. Lúc bấy giờ, một số đông Tỷ-kheo đang hội họp tại tịnh thất của Bà-la-môn Rammaka để thuyết pháp. Thế Tôn đứng chờ ngoài cửa cho đến khi thuyết pháp xong. Thế Tôn biết cuộc thuyết pháp đã xong, liền đằng hắng và gõ vào thanh cửa. Các Tỷ-kheo ấy mở cửa cho Thế Tôn. Rồi Thế Tôn bước vào tịnh thất của Bà-la-môn Rammaka và ngồi lên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: -- Này các Tỷ-kheo, các Người nay hội họp bàn vấn đề gì? Và câu chuyện gì giữa các Người bị gián đoạn? |
"Lord, our interrupted Dhamma discussion was about the Blessed One himself, and then the Blessed One arrived." |
-- Bạch Thế Tôn, câu chuyện giữa chúng con thuộc về Thế Tôn và câu chuyện ấy bị gián đoạn khi Thế Tôn đến. |
"Good, monks. It's fitting that you, as sons of good families who have gone forth out of faith from home to the homeless life, should gather for Dhamma discussion. When you have gathered you have two duties: either Dhamma discussion or noble silence. [1] |
-- Này các Tỷ-kheo, lành thay khi Thiện nam tử các Người, vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, cùng nhau hội họp để luận bàn đạo pháp. Này các Tỷ-kheo, khi các Người hội họp với nhau, có hai việc cần phải làm: luận bàn đạo pháp hay giữ sự im lặng của bậc Thánh. |
"Monks, there are these two searches: ignoble search & noble search. And what is ignoble search? There is the case where a person, being subject himself to birth, seeks [happiness in] what is likewise subject to birth. Being subject himself to aging... illness... death... sorrow... defilement, he seeks [happiness in] what is likewise subject to illness... death... sorrow... defilement. |
Này các Tỷ-kheo, có hai loại tầm cầu này: Thánh cầu và phi Thánh cầu. Chư Tỷ-kheo, và thế nào là phi Thánh cầu? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tự mình bị sanh lại tầm cầu cái bị sanh, tự mình bị già lại tìm cầu cái bị già, tự mình bị bệnh... tự mình bị chết... tự mình bị sầu... tự mình bị ô nhiễm lại tầm cầu cái bị ô nhiễm. Này các Tỷ-kheo, cái gì theo các Người gọi là bị sanh? Này các Tỷ-kheo, vợ con là bị sanh; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị sanh; dê và cừu là bị sanh; gà và heo là bị sanh; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị sanh; vàng và bạc là bị sanh. Này các Tỷ-kheo, những chấp thủ ấy bị sanh, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị sanh lại tầm cầu cái bị sanh. |
"And what may be said to be subject to birth? Spouses & children are subject to birth. Men & women slaves... goats & sheep... fowl & pigs... elephants, cattle, horses, & mares... gold & silver are subject to birth. Subject to birth are these acquisitions, and one who is tied to them, infatuated with them, who has totally fallen for them, being subject to birth, seeks what is likewise subject to birth. |
Này các Tỷ-kheo, cái gì theo các Người gọi là bị sanh? Này các Tỷ-kheo, vợ con là bị sanh; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị sanh; dê và cừu là bị sanh; gà và heo là bị sanh; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị sanh; vàng và bạc là bị sanh. Này các Tỷ-kheo, những chấp thủ ấy bị sanh, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị sanh lại tầm cầu cái bị sanh. |
"And what may be said to be subject to aging... illness... death... sorrow... defilement? Spouses & children... men & women slaves... goats & sheep... fowl & pigs... elephants, cattle, horses, & mares... gold & silver [2] are subject to aging... illness... death... sorrow... defilement. Subject to aging... illness... death... sorrow... defilement are these acquisitions, and one who is tied to them, infatuated with them, who has totally fallen for them, being subject to birth, seeks what is likewise subject to aging... illness... death... sorrow... defilement. This is ignoble search. |
Và này các Tỷ-kheo, cái gì theo các Người gọi là bị già? Này các Tỷ-kheo, vợ con là bị già; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị già; dê và cừu là bị già; gà và heo là bị già; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị già; vàng và bạc là bị già. Này các Tỷ-kheo, những chấp thủ ấy là bị già, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị già lại tìm cầu cái bị già.Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Thánh cầu? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị sanh, tìm cầu cái vô sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị già, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị già, tìm cầu cái không già, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị bệnh... cái không bệnh... tự mình bị chết... cái bất tử... tự mình bị sầu... cái không sầu... tự mình bị ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại của ô nhiễm, tìm cầu cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, như vậy, gọi là Thánh cầu. |
"And what is the noble search? There is the case where a person, himself being subject to birth, seeing the drawbacks of birth, seeks the unborn, unexcelled rest from the yoke: Unbinding. Himself being subject to aging... illness... death... sorrow... defilement, seeing the drawbacks of aging... illness... death... sorrow... defilement, seeks the aging-less, illness-less, deathless, sorrow-less, undefiled, unexcelled rest from the yoke: Unbinding. This is the noble search. |
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Thánh cầu? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị sanh, tìm cầu cái vô sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị già, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị già, tìm cầu cái không già, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị bệnh... cái không bệnh... tự mình bị chết... cái bất tử... tự mình bị sầu... cái không sầu... tự mình bị ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại của ô nhiễm, tìm cầu cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, như vậy, gọi là Thánh cầu.. |
"I, too, monks, before my Awakening, when I was an unawakened bodhisatta, being subject myself to birth, sought what was likewise subject to birth. Being subject myself to aging... illness... death... sorrow... defilement, I sought [happiness in] what was likewise subject to illness... death... sorrow... defilement. The thought occurred to me, 'Why do I, being subject myself to birth, seek what is likewise subject to birth? Being subject myself to aging... illness... death... sorrow... defilement, why do I seek what is likewise subject to illness... death... sorrow... defilement? What if I, being subject myself to birth, seeing the drawbacks of birth, were to seek the unborn, unexcelled rest from the yoke: Unbinding? What if I, being subject myself to aging... illness... death... sorrow... defilement, seeing the drawbacks of aging... illness... death... sorrow... defilement, were to seek the aging-less, illness-less, deathless, sorrow-less,, unexcelled rest from the yoke: Unbinding?' |
Này các Tỷ-kheo, Ta cũng vậy, trước khi Giác Ngộ, khi chưa chứng Chánh Ðẳng Giác, khi còn là Bồ-tát, tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già, lại tìm cầu cái bị già, tự mình bị bệnh... tự mình bị chết... tự mình bị sầu"... tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm. Này các Tỷ-kheo, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Tại sao Ta, tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già... (như trên)... tự mình bi ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm? Vậy Ta, tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị sanh, hãy tìm cầu cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị già... cái không già... tự mình bị bệnh... cái không bệnh... tự mình bị chết... cái bất tử... tự mình bị sầu... cái không sầu... tự mình bi ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị nhiễm, hãy tìm cầu cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn. |
"So, at a later time, while still young, a black-haired young man endowed with the blessings of youth in the first stage of life — and while my parents, unwilling, were crying with tears streaming down their faces — I shaved off my hair & beard, put on the ochre robe and went forth from the home life into homelessness. |
Rồi này các Tỷ-kheo, sau một thời gian, khi Ta còn trẻ, niên thiếu, tóc đen nhánh, đầy đủ huyết khí của tuổi thanh xuân, trong thời vàng son cuộc đời, mặc dầu cha mẹ không bằng lòng, nước mắt đầy mặt, than khóc, Ta cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. |
"Having thus gone forth in search of what might be skillful, seeking the unexcelled state of sublime peace, I went to Alara Kalama and, on arrival, said to him: 'Friend Kalama, I want to practice in this doctrine & discipline.' |
Ta xuất gia như vậy, một người đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng tối thắng an tịnh đạo lộ. Ta đến chỗ Alara Kalama ở, khi đến xong liền thưa với Alara Kalama: "Hiền giả Kalama, tôi muốn sống phạm hạnh trong pháp luật này". . |
"When this was said, he replied to me, 'You may stay here, my friend. This doctrine is such that a wise person can soon enter & dwell in his own teacher's knowledge, having realized it for himself through direct knowledge.' |
Này các Tỷ-kheo, được nghe nói vậy, Alara Kalama nói với Ta: "Này Tôn giả, hãy sống (và an trú). Pháp này là như vậy, khiến kẻ có trí, không bao lâu như vị Bổn sư của mình (chỉ dạy), tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú". |
"It was not long before I quickly learned the doctrine. As far as mere lip-reciting & repetition, I could speak the words of knowledge, the words of the elders, and I could affirm that I knew & saw — I, along with others. |
Này các Tỷ-kheo, và không bao lâu Ta đã thông suốt pháp ấy một cách mau chóng. Và này các Tỷ-kheo, cho đến vấn đề khua môi và vấn đề phát ngôn mà nói, thời Ta nói giáo lý của kẻ trí và giáo lý của bậc Trưởng lão (Thượng tọa), và Ta tự cho rằng Ta như kẻ khác cũng vậy, Ta biết và Ta thấy. |
"I thought: 'It isn't through mere conviction alone that Alara Kalama declares, "I have entered & dwell in this Dhamma, having realized it for myself through direct knowledge." Certainly he dwells knowing & seeing this Dhamma.' So I went to him and said, 'To what extent do you declare that you have entered & dwell in this Dhamma?' When this was said, he declared the dimension of nothingness. |
Này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau: "Alara Kalama tuyên bố pháp này không phải chỉ vì lòng tin: "Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, Ta mới an trú". Chắc chắn Alara Kalama biết pháp này, thấy pháp này rồi mới an trú". Này các Tỷ-kheo, rồi Ta đi đến chỗ Alara Kalama ở, sau khi đến Ta nói với Alara Kalama: "Hiền giả Kalama, cho đến mức độ nào, Ngài tự tri, tự chứng, tự đạt, và tuyên bố pháp này?" Này các Tỷ-kheo, được nói vậy, Alara Kalama tuyên bố về Vô sở hữu xứ. |
"I thought: 'Not only does Alara Kalama have conviction, persistence, mindfulness, concentration, & discernment. I, too, have conviction, persistence, mindfulness, concentration, & discernment. What if I were to endeavor to realize for myself the Dhamma that Alara Kalama declares he has entered & dwells in, having realized it for himself through direct knowledge.' So it was not long before I quickly entered & dwelled in that Dhamma, having realized it for myself through direct knowledge. I went to him and said, 'Friend Kalama, is this the extent to which you have entered & dwell in this Dhamma, having realized it for yourself through direct knowledge?' |
Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ: "Không phải chỉ có Alara Kalama có lòng tin, Ta cũng có lòng tin. Không phải chỉ có Alara Kalama mới có tinh tấn, Ta cũng có tinh tấn. Không phải chỉ có Alara Kalama mới có niệm, Ta cũng có niệm. Không phải chỉ có Alara Kalama mới có định, Ta cũng có định. Không phải chỉ có Alara Kalama mới có tuệ, Ta cũng có tuệ. Vậy Ta hãy cố gắng chứng cho được pháp mà Alara Kalama tuyên bố: "Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, ta an trú". Rồi này các Tỷ-kheo, không bao lâu sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt pháp ấy một cách mau chóng, Ta an trú. Rồi này các Tỷ-kheo, Ta đi đến chỗ Alara Kalama ở, sau khi đến, Ta nói với Alara Kalama: "Này Hiền giả Kalama, có phải Hiền giả đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy?" " |
"'Yes, my friend...' "'This, friend, is the extent to which I, too, have entered & dwell in this Dhamma, having realized it for myself through direct knowledge.' |
--"Vâng, Hiền giả, tôi đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy". --"Này Hiền giả, tôi cũng tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy". |
"'It is a gain for us, my friend, a great gain for us, that we have such a companion in the holy life. So the Dhamma I declare I have entered & dwell in, having realized it for myself through direct knowledge, is the Dhamma you declare you have entered & dwell in, having realized it for yourself through direct knowledge. And the Dhamma you declare you have entered & dwell in, having realized it for yourself through direct knowledge, is the Dhamma I declare I have entered & dwell in, having realized it for myself through direct knowledge. The Dhamma I know is the Dhamma you know; the Dhamma you know is the Dhamma I know. As I am, so are you; as you are, so am I. Come friend, let us now lead this community together.' |
--"Thật lợi ích thay cho chúng tôi, Thật khéo lợi ích thay cho chúng tôi, khi chúng tôi được thấy một đồng phạm hạnh như Tôn giả! Pháp mà tôi tự tri, tự chứng, tự đạt, và tuyên bố, chính pháp ấy Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú; pháp mà Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú, chính pháp ấy tôi tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố; pháp mà tôi biết, chính pháp ấy Hiền giả biết; pháp mà Hiền giả biết, chính pháp ấy tôi biết. Tôi như thế nào, Hiền giả là như vậy; Hiền giả như thế nào, tôi là như vậy. Nay hãy đến đây, Hiền giả, hai chúng ta hãy chăm sóc hội chúng này! |
"In this way did Alara Kalama, my teacher, place me, his pupil, on the same level with himself and pay me great honor. But the thought occurred to me, 'This Dhamma leads not to disenchantment, to dispassion, to cessation, to stilling, to direct knowledge, to Awakening, nor to Unbinding, but only to reappearance in the dimension of nothingness.' So, dissatisfied with that Dhamma, I left. |
Như vậy, này các Tỷ-kheo, Alara Kalama là Ðạo Sư của Ta, lại đặt Ta, đệ tử của vị ấy ngang hàng với mình, và tôn sùng Ta với sự tôn sùng tối thượng. Này các Tỷ-kheo, rồi Ta tự suy nghĩ: "Pháp này không hướng đến yểm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn, mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Vô sở hữu xứ". Như vậy này các Tỷ-kheo, Ta không tôn kính pháp này, và từ bỏ pháp ấy, Ta bỏ đi. |
>"In search of what might be skillful, seeking the unexcelled state of sublime peace, I went to Uddaka Ramaputta and, on arrival, said to him: 'Friend Uddaka, I want to practice in this doctrine & discipline.' |
Rồi này các Tỷ-kheo, Ta, kẻ đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng tối thắng an tịnh đạo lộ. Ta đi đến chỗ Uddaka Ramaputta, khi đến xong Ta nói với Uddaka Ramaputta: "Hiền giả, tôi muốn sống phạm hạnh trong pháp luật này |
"When this was said, he replied to me, 'You may stay here, my friend. This doctrine is such that a wise person can soon enter & dwell in his own teacher's knowledge, having realized it for himself through direct knowledge.' |
Ðược nói vậy, này các Tỷ-kheo, Uddaka Ramaputta nói với Ta: "Này Tôn giả, hãy sống (và an trú), pháp này là như vậy, khiến người có trí không bao lâu như vị Bổn sư của mình (chỉ dạy) tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú" |
"It was not long before I quickly learned the doctrine. As far as mere lip-reciting & repetition, I could speak the words of knowledge, the words of the elders, and I could affirm that I knew & saw — I, along with others. |
Này các Tỷ-kheo, Ta đã thông suốt pháp ấy một cách mau chóng. Và này các Tỷ-kheo, cho đến vấn đề khua môi và vấn đề phát ngôn mà nói, thời Ta nói giáo lý của kẻ trí, và giáo lý của bậc Trưởng lão (Thượng Tọa), và Ta tự cho rằng Ta như người khác cũng vậy, Ta biết và Ta thấy. |
"I thought: 'It wasn't through mere conviction alone that Rama declared, "I have entered & dwell in this Dhamma, having realized it for myself through direct knowledge." Certainly he dwelled knowing & seeing this Dhamma.' So I went to Uddaka and said, 'To what extent did Rama declare that he had entered & dwelled in this Dhamma?' When this was said, Uddaka declared the dimension of neither perception nor non-perception. |
Này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau: "Rama tuyên bố pháp này không phải vì lòng tin: "Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, ta mới an trú". Chắc chắn Rama thấy pháp này, biết pháp này, rồi mới an trú". Này các Tỷ-kheo, rồi Ta đi đến chỗ Uddaka Ramaputta ở, sau khi đến Ta nói với Uddaka Ramaputta: "Hiền giả Rama, cho đến mức độ nào, Ngài tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này?" Này các Tỷ-kheo được nghe nói vậy, Uddaka Ramaputta tuyên bố về Phi tưởng phi phi tưởng xứ. |
"I thought: 'Not only did Rama have conviction, persistence, mindfulness, concentration, & discernment. I, too, have conviction, persistence, mindfulness, concentration, & discernment. What if I were to endeavor to realize for myself the Dhamma that Rama declared he entered & dwelled in, having realized it for himself through direct knowledge.' So it was not long before I quickly entered & dwelled in that Dhamma, having realized it for myself through direct knowledge. I went to Uddaka and said, 'Friend Uddaka, is this the extent to which Rama entered & dwelled in this Dhamma, having realized it for himself through direct knowledge?' |
Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ: "Không phải chỉ có Rama mới có lòng tin. Ta cũng có lòng tin. Không phải chỉ có Rama mới có tinh tấn, Ta cũng có tinh tấn. Không phải chỉ có Rama mới có niệm, Ta cũng có niệm. Không phải chỉ có Rama mới có định, Ta cũng có định. Không phải chỉ có Rama mới có tuệ, Ta cũng có tuệ. Vậy ta hãy cố gắng chứng cho được pháp mà Rama tuyên bố: "Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, tự an trú". |
"'Yes, my friend...' "'This, friend, is the extent to which I, too, have entered & dwell in this Dhamma, having realized it for myself through direct knowledge.' |
Vâng, Hiền giả, tôi đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy". --"Này Hiền giả, tôi cũng tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy". |
"'It is a gain for us, my friend, a great gain for us, that we have such a companion in the holy life. So the Dhamma Rama declared he entered & dwelled in, having realized it for himself through direct knowledge, is the Dhamma you declare you have entered & dwell in, having realized it for yourself through direct knowledge. And the Dhamma you declare you have entered & dwell in, having realized it for yourself through direct knowledge, is the Dhamma Rama declared he entered & dwelled in, having realized it for himself through direct knowledge. The Dhamma he knew is the Dhamma you know; the Dhamma you know is the Dhamma he knew. As he was, so are you; as you are, so was he. Come friend, lead this community.' |
--"Thật lợi ích thay cho chúng tôi, Thật khéo lợi ích thay cho chúng tôi, khi chúng tôi được thấy một đồng phạm hạnh như Tôn giả! Pháp mà tôi tự tri, tự chứng, tự đạt, và tuyên bố, chính pháp ấy Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú; pháp mà Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú, chính pháp ấy tôi tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố; pháp mà tôi biết, chính pháp ấy Hiền giả biết; pháp mà Hiền giả biết, chính pháp ấy tôi biết. Tôi như thế nào, Hiền giả là như vậy; Hiền giả như thế nào, tôi là như vậy. Nay hãy đến đây, Hiền giả, hai chúng ta hãy chăm sóc hội chúng này!" |
"In this way did Uddaka Ramaputta, my companion in the holy life, place me in the position of teacher and pay me great honor. But the thought occurred to me, 'This Dhamma leads not to disenchantment, to dispassion, to cessation, to stilling, to direct knowledge, to Awakening, nor to Unbinding, but only to reappearance in the dimension of neither perception nor non-perception.' So, dissatisfied with that Dhamma, I left. |
Như vậy, này các Tỷ-kheo, Uddaka Ramaputta-là Ðạo Sư của Ta, lại đặt Ta, đệ tử của vị ấy ngang hàng với mình, và tôn sùng Ta với sự tôn sùng tối thượng. Này các Tỷ-kheo, rồi Ta suy nghĩ: "Pháp này không hướng đến yểm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn, mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Phi tưởng phi phi tưởng xứ". Như vậy, này các Tỷ-kheo, Ta không tôn kính pháp ấy và từ bỏ pháp ấy, Ta bỏ đi. |
"In search of what might be skillful, seeking the unexcelled state of sublime peace, I wandered by stages in the Magadhan country and came to the military town of Uruvela. There I saw some delightful countryside, with an inspiring forest grove, a clear-flowing river with fine, delightful banks, and villages for alms-going on all sides. The thought occurred to me: 'How delightful is this countryside, with its inspiring forest grove, clear-flowing river with fine, delightful banks, and villages for alms-going on all sides. This is just right for the exertion of a clansman intent on exertion.' So I sat down right there, thinking, 'This is just right for exertion.' |
Này các Tỷ-kheo, Ta, kẻ đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng tối thắng an tịnh đạo lộ, tuần tự du hành tại nước Magadha (Ma kiệt đà) và đến tại tụ lạc Uruvela (Ưu lâu tần loa). Tại đây, Ta thấy một địa điểm khả ái, một khóm rừng thoải mái, có con sông trong sáng chảy gần, với một chỗ lội qua dễ dàng khả ái, và xung quanh có làng mạc bao bọc dễ dàng đi khất thực. Này các Tỷ-kheo, rồi Ta tự nghĩ: "Thật là một địa điểm khả ái, một khóm rừng thoải mái, có con sông trong sáng chảy gần, với một chỗ lội qua dễ dàng khả ái, và xung quanh có làng mạc bao bọc dễ dàng đi khất thực. Thật là một chỗ vừa đủ cho một Thiện nam tử tha thiết tinh cần có thể tinh tấn". Và này các Tỷ-kheo, Ta ngồi xuống tại chỗ ấy và nghĩ: "Thật là vừa đủ để tinh tấn". |
"Then, monks, being subject myself to birth, seeing the drawbacks of birth, seeking the unborn, unexcelled rest from the yoke, Unbinding, I reached the unborn, unexcelled rest from the yoke: Unbinding. Being subject myself to aging... illness... death... sorrow... defilement, seeing the drawbacks of aging... illness... death... sorrow... defilement, seeking the aging-less, illness-less, deathless, sorrow-less, unexcelled rest from the yoke, Unbinding, I reached the aging-less, illness-less, deathless, sorrow-less, unexcelled rest from the yoke: Unbinding. Knowledge & vision arose in me: 'Unprovoked is my release. This is the last birth. There is now no further becoming.' |
Rồi này các Tỷ-kheo, Ta tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị sanh, tìm cầu cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị già, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị già, tìm cầu cái không già, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; và đã chứng được cái không già, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị bệnh, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị bệnh, tìm cầu cái không bệnh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái không bệnh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị chết, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị chết, tìm cầu cái không chết, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái không chết, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị sầu, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị sầu, tìm cầu cái không sầu, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái vô sầu, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị ô nhiễm, tìm cầu cái không bị ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn, khỏi các khổ ách, Niết-bàn. Và tri kiến khởi lên nơi Ta. Sự giải thoát của Ta không bị dao động. Nay là đời sống cuối cùng của Ta, không còn sự tái sanh nữa. |
"Then the thought occurred to me, 'This Dhamma that I have attained is deep, hard to see, hard to realize, peaceful, refined, beyond the scope of conjecture, subtle, to-be-experienced by the wise. [3] But this generation delights in attachment, is excited by attachment, enjoys attachment. For a generation delighting in attachment, excited by attachment, enjoying attachment, this/that conditionality & dependent co-arising are hard to see. This state, too, is hard to see: the resolution of all fabrications, the relinquishment of all acquisitions, the ending of craving; dispassion; cessation; Unbinding. And if I were to teach the Dhamma and others would not understand me, that would be tiresome for me, troublesome for me.' |
Này các Tỷ-kheo, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Pháp này do Ta chứng được, thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ người trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này thì ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục. Ðối với quần chúng ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục, thật khó mà thấy được định lý Idapaccàyata Paticcasamuppada (Y Tánh Duyên Khởi Pháp); sự kiện này thật khó thấy; tức là sự tịnh chỉ tất cả hành, sự trừ bỏ tất cả sanh y, ái diệt, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn. Nếu nay Ta thuyết pháp mà các người khác không hiểu Ta, thời như vậy thật khổ não cho Ta, như vậy thật bực mình cho Ta!" |
"Just then these verses, unspoken in the past, unheard before, occurred to me:
'Enough now with teaching
what only with difficulty I reached. This Dhamma is not easily realized by those overcome with aversion & passion. What is abstruse, subtle, deep, hard to see, going against the flow — those delighting in passion, cloaked in the mass of darkness, won't see.' |
"Này các Tỷ-kheo, rồi những kệ bất khả tư nghì, từ trước chưa từng được nghe, được khởi lên nơi Ta:>
'Sao Ta nói Chánh pháp,
Ðược chứng ngộ khó khăn? Những ai còn tham sân, Khó chứng ngộ pháp này. Ði ngược dòng, thâm diệu, Khó thấy, thật tế nhị, Kẻ ái nhiễm vô minh, Không thấy được pháp này. |
"As I reflected thus, my mind inclined to dwelling at ease, not to teaching the Dhamma. "Then Brahma Sahampati, having known with his own awareness the line of thinking in my awareness, thought: 'The world is lost! The world is destroyed! The mind of the Tathagata, the Arahant, the Rightly Self-awakened One inclines to dwelling at ease, not to teaching the Dhamma!' Then, just as a strong man might extend his flexed arm or flex his extended arm, Brahma Sahampati disappeared from the Brahma-world and reappeared in front of me. Arranging his upper robe over one shoulder, he knelt down with his right knee on the ground, saluted me with his hands before his heart, and said to me: 'Lord, let the Blessed One teach the Dhamma! Let the One-Well-Gone teach the Dhamma! There are beings with little dust in their eyes who are falling away because they do not hear the Dhamma. There will be those who will understand the Dhamma.' |
Rồi này các Tỷ-kheo, với những suy tư như vậy, tâm của Ta hướng về vô vi thụ động, không muốn thuyết pháp. Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ Phạm thiên Sahampati khi biết được tâm tư của Ta; với tâm tư của mình, liền suy nghĩ: "Than ôi, thế giới sẽ tiêu diệt, thế giới sẽ bi hoại vong, nếu tâm của Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác hướng về vô vi thụ động, không muốn thuyết pháp". Rồi này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Sahampati, như một nhà lực sĩ duỗi cánh tay đang co, hay co cánh tay đang duỗi; cũng vậy, vị ấy biến mất từ thế giới Phạm thiên, và hiện ra trước mặt Ta. Này các Tỷ-kheo, rồi Phạm thiên Sahampati đắp thượng y một bên vai chắp tay hướng vái Ta và bạch với Ta: "Bạch Thế Tôn, hãy thuyết pháp! Bạch Thiện Thệ, hãy thuyết pháp! Có những chúng sanh ít nhiễm bụi trần sẽ bi nguy hại nếu không được nghe Chánh pháp. (Nếu được nghe), những vị này có thể thâm hiểu Chánh pháp |
"That is what Brahma Sahampati said. Having said that, he further said this:
'In the past
there appeared among the Magadhans an impure Dhamma devised by the stained. Throw open the door to the Deathless! Let them hear the Dhamma realized by the Stainless One! Just as one standing on a rocky crag might see people all around below, So, O wise one, with all-around vision, ascend the palace fashioned of Dhamma. Free from sorrow, behold the people submerged in sorrow, oppressed by birth & aging. Rise up, hero, victor in battle! O Teacher, wander without debt in the world. Teach the Dhamma, O Blessed One: There will be those who will understand.' |
"Này các Tỷ-kheo, Phạm thiện Sahampati nói như vậy. Sau khi nói vậy, lại nói thêm như sau:
Xưa tại Magadha,
Hiện ra pháp bất tịnh, Pháp do tâm cấu uế, Do suy tư tác thành. Hãy mỡ tung mở rộng, Cánh cửa bất tử này. Hãy để họ nghe Pháp, Bậc Thanh tịnh Chứng Ngộ. Như đứng trên tảng đá, Trên đỉnh núi tột cao Có người đứng nhìn xuống, Ðám chúng sanh quây quần. Cũng vậy, ôi Thiện Thệ, Bậc Biến Nhãn cùng khắp, Leo lên ngôi lâu đài, Xây dựng bằng Chánh pháp Bậc Thoát Ly sầu muộn, Nhìn xuống đám quần sanh, Bị sầu khổ áp bức, Bị sanh già chi phối, Ðứng lên vị Anh Hùng, Bậc Chiến Thắng chiến trường. Vị trưởng đoàn lữ khách, Bậc Thoát Ly nợ nần. Hãy đi khắp thế giới, Bậc Thế Tôn Chánh Giác! Hãy thuyết vi diệu pháp, Người nghe sẽ thâm hiểu! |
"Then, having understood Brahma's invitation, out of compassion for beings, I surveyed the world with the eye of an Awakened One. As I did so, I saw beings with little dust in their eyes and those with much, those with keen faculties and those with dull, those with good attributes and those with bad, those easy to teach and those hard, some of them seeing disgrace & danger in the other world. Just as in a pond of blue or red or white lotuses, some lotuses — born & growing in the water — might flourish while immersed in the water, without rising up from the water; some might stand at an even level with the water; while some might rise up from the water and stand without being smeared by the water — so too, surveying the world with the eye of an Awakened One, I saw beings with little dust in their eyes and those with much, those with keen faculties and those with dull, those with good attributes and those with bad, those easy to teach and those hard, some of them seeing disgrace & danger in the other world. |
Này các Tỷ-kheo, sau khi biết được lời Phạm thiên yêu cầu, vì lòng từ bi đối với chúng sanh, với Phật nhãn, Ta nhìn quanh thế giới. Này các Tỷ-kheo, với Phật nhãn, Ta thấy có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, độn căn, có hạng thiện tánh, ác tánh, có hạng dễ dạy, khó dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác và sự nguy hiểm làm những hành động lỗi lầm. Như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng hay hồ sen trắng có một số hoa sen xanh, sen hồng, hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, không vượt lên khỏi mặt nước, được nuôi dưỡng dưới nước. Có một hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, sống vươn lên tới mặt nước. Có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, vươn lên khỏi mặt nước, không bị nước đẫm ướt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, với Phật nhãn, Ta thấy có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, độn căn, có hạng thiện tánh, ác tánh, có hạng dễ dạy, khó dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác và sự nguy hiểm làm những hành động lỗi lầm. |
"Having seen this, I answered Brahma Sahampati in verse:
'Open are the doors to the Deathless
to those with ears. Let them show their conviction. Perceiving trouble, O Brahma, I did not tell people the refined, sublime Dhamma.' |
"Và này các Tỷ-kheo, Ta nói lên bài kệ sau đây với Phạm thiên Sahampati:
Cửa bất tử rộng mở,
Cho những ai chịu nghe. Hãy từ bỏ tín tâm, Không chính xác của mình. Tự nghĩ đến phiền toái, Ta đã không muốn giảng, Tối thượng vi diệu pháp, Giữa chúng sanh loài Người. (Ôi Phạm thiên) |
"Then Brahma Sahampati, thinking, 'The Blessed One has given his consent to teach the Dhamma,' bowed down to me and, circling me on the right, disappeared right there. |
Này các Tỷ-kheo, rồi Phạm thiên Sahampati tự nghĩ: "Ta đã tạo cơ hội cho Thế Tôn thuyết pháp", đảnh lễ Ta, thân phía hữu hướng về Ta rồi biến mất tại chỗ. |
"Then the thought occurred to me, 'To whom should I teach the Dhamma first? Who will quickly understand this Dhamma?' Then the thought occurred to me, 'This Alara Kalama is wise, competent, intelligent. He has long had little dust in his eyes. What if I were to teach him the Dhamma first? He will quickly understand this Dhamma.' Then devas came to me and said, 'Lord, Alara Kalama died seven days ago.' And knowledge & vision arose within me: 'Alara Kalama died seven days ago.' The thought occurred to me, 'A great loss has Alara Kalama suffered. If he had heard this Dhamma, he would have quickly understood it.' |
Này các Tỷ-kheo, rồi Ta tự suy nghĩ: "Ta sẽ thuyết pháp cho ai đầu tiên, ai sẽ mau hiểu Chánh pháp này?" Này các Tỷ-kheo, rồi Ta tự nghĩ: "Nay có Alara Kalama là bậc trí thức, đa văn, sáng suốt, đã từ lâu sống ít nhiễm bụi đời. Ta hãy thuyết pháp đầu tiên cho Alara Kalama, vị này sẽ mau hiểu Chánh pháp này". Này các Tỷ-kheo, rồi chư Thiên đến Ta và nói như sau: "Bạch Thế Tôn, Alara Kalama đã mệnh chung bảy ngày rồi". Rồi tri kiến khởi lên nơi Ta: "Alara Kalama đã mệnh chung bảy ngày rồi". Này các Tỷ-kheo, Ta nghĩ: "Thật là một thiệt hại lớn cho Alara Kalama: Nếu nghe pháp này, Alara Kalama sẽ mau thâm hiểu". |
"Then the thought occurred to me, 'To whom should I teach the Dhamma first? Who will quickly understand this Dhamma?' Then the thought occurred to me, 'This Uddaka Ramaputta is wise, competent, intelligent. He has long had little dust in his eyes. What if I were to teach him the Dhamma first? He will quickly understand this Dhamma.' Then devas came to me and said, 'Lord, Uddaka Ramaputta died last night.' And knowledge & vision arose within me: 'Uddaka Ramaputta died last night.' The thought occurred to me, 'A great loss has Uddaka Ramaputta suffered. If he had heard this Dhamma, he would have quickly understood it.' |
Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại nghĩ: "Ta sẽ thuyết pháp cho ai đầu tiên? Ai sẽ mau hiểu Chánh pháp này?" Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại nghĩ: "Nay có Uddaka Ramaputta-là bậc tri thức, đa văn, sáng suốt, đã từ lâu sống ít nhiễm bụi đời. Ta hãy thuyết pháp đầu tiên cho Uddaka Ramaputta. Vị này sẽ mau hiểu Chánh pháp này." Rồi chư Thiên đến Ta và nói như sau: "Bạch Thế Tôn Uddaka Ramaputta đã mệnh chung ngày hôm qua". Rồi tri kiến khởi lên nơi Ta: "Uddaka Ramaputta đã mệnh chung hôm qua". Này các Tỷ-kheo, Ta nghĩ: "Thật là một thiệt hại lớn cho Uddaka Ramaputta. Nếu nghe pháp này, Uddaka Ramaputta sẽ mau thâm hiểu". |
"Then the thought occurred to me, 'To whom should I teach the Dhamma first? Who will quickly understand this Dhamma?' Then the thought occurred to me, 'They were very helpful to me, the group of five monks who attended to me when I was resolute in exertion. What if I were to teach them the Dhamma first?' Then the thought occurred to me, 'Where are the group of five monks staying now?' And with the divine eye, purified & surpassing the human, I saw that they were staying near Varanasi in the Deer Park at Isipatana. |
Này các Tỷ-kheo, rồi Ta suy nghĩ: "Ta sẽ thuyết pháp cho ai đầu tiên? Ai sẽ mau hiểu Chánh pháp này?" Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại nghĩ: "Nhóm năm Tỷ-kheo này đã hầu hạ Ta khi Ta còn nỗ lực tinh cần, nhóm ấy thật giúp ích nhiều. Vậy ta hãy thuyết pháp đầu tiên cho nhóm năm Tỷ-kheo!" Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại nghĩ: "Nay nhóm năm Tỷ-kheo ở tại đâu?" Này các Tỷ-kheo, với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, Ta thấy nhóm năm Tỷ-kheo hiện ở Baranasi (Ba la nại), tại Isipatana, vườn Lộc Uyển. Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi ở tại Uruvela lâu cho đến khi mãn ý, Ta lên đường đi đến Baranasi. |
"Then, having stayed at Uruvela as long as I liked, I set out to wander by stages to Varanasi. Upaka the Ajivaka saw me on the road between Gaya and the (place of) Awakening, and on seeing me said to me, 'Clear, my friend, are your faculties. Pure your complexion, and bright. On whose account have you gone forth? Who is your teacher? In whose Dhamma do you delight?' |
Này các Tỷ-kheo, một tà mạng ngoại đạo tên là Upaka, đã thấy Ta khi Ta còn đi trên con đường giữa Gaya và cây Bồ-đề. Sau khi thấy, vị ấy nói với Ta: "-- Các căn của Hiền giả thật sáng suốt. Da sắc của Hiền giả thật thanh tịnh, thật thanh khiết. Này Hiền giả, vì mục đích gì, Hiền giả xuất gia? Ai là bậc Ðạo Sư của Hiền giả? Hiền giả hoan hỷ thọ trì pháp của ai?" |
"When this was said, I replied to Upaka the Ajivaka in verses:
'All-vanquishing,
all-knowing am I, with regard to all things, unadhering. All-abandoning, released in the ending of craving: having fully known on my own, to whom should I point as my teacher? [4] I have no teacher, and one like me can't be found. In the world with its devas, I have no counterpart. For I am an arahant in the world; I, the unexcelled teacher. I, alone, am rightly self-awakened. Cooled am I, unbound. To set rolling the wheel of Dhamma I go to the city of Kasi. In a world become blind, I beat the drum of the Deathless.' "'From your claims, my friend, you must be an infinite conqueror.'
'Conquerors are those like me
who have reached fermentations' end. I've conquered evil qualities, and so, Upaka, I'm a conqueror.' |
"Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy, Ta nói với tà mạng đạo Upaka bài kệ như sau:
"-- Ta, bậc Thắng tất cả,
Ta, bậc Nhất thiết Trí. Hết thảy pháp, không nhiễm, Hết thảy pháp, xả ly. Ta sống chân giải thoát, Ðoạn tận mọi khát ái. Như vậy Ta tự giác, Còn phải y chỉ ai? [4] Ta không có Ðạo Sư, Bậc như Ta không có. Giữa thế giới Nhơn, Thiên, Không có ai bằng Ta. Bậc Ứng Cúng trên đời, Bậc Ðạo Sư vô thượng. Tự mình Chánh Ðẳng Giác, Ta an tịnh, thanh thoát.. Ðể chuyển bánh xe Pháp. Ta đến thành Kàsi. Gióng lên trống bất tử, Trong thế giới mù lòa." "'-- Như Hiền giả đã tự xưng, Hiền giả xứng đáng là bậc Chiến thắng Vô tận..'
"-- Như Ta, bậc Thắng giả,
Những ai chứng lậu tận, Ác pháp, Ta nhiếp phục, Do vậy, Ta vô địch". (Này Upaka) |
"When this was said, Upaka said, 'May it be so, my friend,' and — shaking his head, taking a side-road — he left. |
Này các Tỷ-kheo, sau khi được nói vậy, tà mạng ngoại đạo Upaka nói với Ta: "-- Này Hiền giả, mong rằng sự việc là vậy". Nói xong, Upaka lắc đầu rồi đi theo một ngã khác. |
"Then, wandering by stages, I arrived at Varanasi, at the Deer Park in Isipatana, to where the group of five monks were staying. From afar they saw me coming and, on seeing me, made a pact with one another, (saying,) 'Friends, here comes Gotama the contemplative: living luxuriously, straying from his exertion, backsliding into abundance. He doesn't deserve to be bowed down to, to be greeted by standing up, or to have his robe & bowl received. Still, a seat should be set out; if he wants to, he can sit down.' But as I approached, they were unable to keep to their pact. One, standing up to greet me, received my robe & bowl. Another spread out a seat. Another set out water for washing my feet. However, they addressed me by name and as 'friend.' |
Này các Tỷ-kheo, rồi Ta tuần tự đi đến Baranasi, Isipatana, vườn Lộc Uyển, đi đến chỗ nhóm năm Tỷ-kheo ở. Này các Tỷ-kheo, nhóm năm Tỷ-kheo khi thấy Ta từ xa đi đến, đã cùng nhau thỏa thuận như sau: "Này các Hiền giả, nay Sa-môn Gotama đang đi đến; vị này sống trong sự sung túc, đã từ bỏ tinh cần, đã trở lui đời sống đầy đủ vật chất. Chúng ta chớ có đảnh lễ, chớ có đứng dậy, chớ có lấy y bát. Hãy đặt một chỗ ngồi, và nếu vị ấy muốn, vị ấy sẽ ngồi". Này các Tỷ-kheo, nhưng khi Ta đi đến gần, năm Tỷ-kheo ấy không thể giữ đúng điều đã thỏa thuận với nhau. Có người đến đón Ta và cầm lấy y bát, có người sắp đặt chỗ ngồi, có người đem nước rửa chân đến. Nhưng các vị ấy gọi Ta bằng tên với danh từ Hiền giả (Avuso). |
"So I said to them, 'Don't address the Tathagata by name and as "friend." The Tathagata, friends, is a worthy one, rightly self-awakened. Lend ear, friends: the Deathless has been attained. I will instruct you. I will teach you the Dhamma. Practicing as instructed, you will in no long time reach & remain in the supreme goal of the holy life for which clansmen rightly go forth from home into homelessness, knowing & realizing it for yourselves in the here & now.' |
Này các Tỷ-kheo khi ta nghe nói vậy, Ta nói với nhóm năm Tỷ-kheo: "-- Này các Tỷ-kheo, chớ có gọi Ta bằng tên và dùng danh từ Hiền giả. Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Hãy lóng tai, Pháp bất tử đã chứng được, Ta giảng dạy, Ta thuyết pháp. Sống đúng theo lời khuyến giáo, các Ông không bao lâu, sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt ngay trong hiện tại, mục đích vô thượng của phạm hạnh mà các Thiện nam tử, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình, các Ông sẽ an trú. " |
"When this was said, the group of five monks replied to me, 'By that practice, that conduct, that performance of austerities you did not attain any superior human states, any distinction in knowledge & vision worthy of a noble one. So how can you now — living luxuriously, straying from your exertion, backsliding into abundance — have attained any superior human states, any distinction in knowledge & vision worthy of a noble one?' |
Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy, nhóm năm Tỷ-kheo nói Ta: "-- Hiền giả Gotama, với nếp sống này, với đạo tu này, với khổ hạnh này, Hiền giả đã không chứng được Pháp siêu nhân, tri kiến, thù thắng xứng đáng bậc Thánh, thì này làm sao Hiền giả, với nếp sống sung túc, với sự từ bỏ tinh cần, với sự trở lui đời sống vật chất đầy đủ, lại có thể chứng được Pháp siêu nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh?" |
"When this was said, I replied to them, 'The Tathagata, monks, is not living luxuriously, has not strayed from his exertion, has not backslid into abundance. The Tathagata, friends, is a worthy one, rightly self-awakened. Lend ear, friends: the Deathless has been attained. I will instruct you. I will teach you the Dhamma. Practicing as instructed, you will in no long time reach & remain in the supreme goal of the holy life for which clansmen rightly go forth from home into homelessness, knowing & realizing it for yourselves in the here & now.' |
Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy, Ta nói với nhóm năm Tỷ-kheo: "-- Này các Tỷ-kheo, Như Lai không sống sung túc, không từ bỏ tinh cần, không trở lui đời sống vật chất đầy đủ. Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Này các Tỷ-kheo, hãy lóng tai, Pháp bất tử đã chứng được, Ta giảng dạy, Ta thuyết pháp. Sống đúng theo lời khuyến giáo, các Ông không bao lâu, sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt ngay trong hiện tại mục đích vô thượng của Phạm hạnh mà các Thiện nam tử xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, các Ông sẽ an trú." |
A second time... A third time, the group of five monks said to me, 'By that practice, that conduct, that performance of austerities you did not attain any superior human states, any distinction in knowledge & vision worthy of a noble one. So how can you now — living luxuriously, straying from your exertion, backsliding into abundance — have attained any superior human states, any distinction in knowledge & vision worthy of a noble one?' |
Này các Tỷ-kheo, lại lần thứ hai, nhóm năm Tỷ-kheo nói với Ta: "-- Hiền giả Gotama, với nếp sống này... (như trên)... tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh?" Này các Tỷ-kheo, lại lần thứ hai Ta nói với nhóm năm Tỷ-kheo: "-- Này các Tỷ-kheo, Như Lai không sống sung túc... (như trên)... các Ông sẽ an trú." Này các Tỷ-kheo, lại lần thứ ba, nhóm năm Tỷ-kheo nói với Ta: "-- Hiền giả Gotama, với nếp sống này... (như trên)... tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh?" |
"When this was said, I replied to the group of five monks, 'Do you recall my ever having spoken in this way before?' "'No, lord.' |
Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy, Ta nói với nhóm năm Tỷ-kheo: "-- Này các Tỷ-kheo, từ trước đến nay, các Ông có chấp nhận là Ta chưa bao giờ nói như vậy chăng?" "-- Bạch Thế Tôn, chưa bao giờ như vậy. " |
"'The Tathagata, monks, is not living luxuriously, has not strayed from his exertion, has not backslid into abundance. The Tathagata, friends, is a worthy one, rightly self-awakened. Lend ear, friends: the Deathless has been attained. I will instruct you. I will teach you the Dhamma. Practicing as instructed, you will in no long time reach & remain in the supreme goal of the holy life for which clansmen rightly go forth from home into homelessness, knowing & realizing it for yourselves in the here & now.' |
"-- Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Hãy lóng tai, Pháp bất tử đã chứng được, Ta giảng dạy, Ta thuyết pháp. Sống đúng theo lời khuyến giáo, các Ông không bao lâu, sau khi tự tri, tư chứng, tự đạt được ngay trong hiện tại mục đích vô thượng của phạm hạnh mà các Thiện nam tử xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, các Ông sẽ an trú". |
"And so I was able to convince them. I would teach two monks while three went for alms, and we six lived off what the three brought back from their alms round. Then I would teach three monks while two went for alms, and we six lived off what the two brought back from their alms round. Then the group of five monks — thus exhorted, thus instructed by me — being subject themselves to birth, seeing the drawbacks of birth, seeking the unborn, unexcelled rest from the yoke, Unbinding, reached the unborn, unexcelled rest from the yoke: Unbinding. Being subject themselves to aging... illness... death... sorrow... defilement, seeing the drawbacks of aging... illness... death... sorrow... defilement, seeking the aging-less, illness-less, deathless, sorrow-less, unexcelled rest from the yoke, Unbinding, they reached the aging-less, illness-less, deathless, sorrow-less, unexcelled rest from the yoke: Unbinding. Knowledge & vision arose in them: 'Unprovoked is our release. This is the last birth. There is now no further becoming.' |
Này các Tỷ-kheo, Ta đã làm cho nhóm năm Tỷ-kheo chấp nhận. Này các Tỷ-kheo, Ta thuyết giảng cho hai Tỷ-kheo. Ba Tỷ-kheo kia đi khất thực. Ðồ ăn mà ba Tỷ-kheo này khất thực mang về, đủ nuôi sống cho nhóm sáu người. Này các Tỷ-kheo, Ta thuyết giảng cho ba Tỷ-kheo. Hai Tỷ-kheo kia đi khất thực.. Ðồ ăn mà hai Tỷ-kheo này khất thực mang về, đủ nuôi sống cho nhóm sáu người. Này các Tỷ-kheo, chúng năm Tỷ-kheo, sau khi được Ta thuyết giảng, sau khi được Ta khuyến giáo, tự mình bị sanh, sau khi biết được sự nguy hại của cái bị sanh, tìm cầu cái không sanh, vô thượng an ổn, thoát khỏi các khổ ách, chứng Niết-bàn và đã chứng được cái không sanh, vô thượng an ổn, thoát khỏi các khổ ách, chứng Niết-bàn, tự mình bị già... cái không già... tự mình bị bệnh... cái không bệnh... tự mình bị chết... cái không chết... tự mình bi sầu... cái không sầu... tự mình bị ô nhiễm, sau khi biết được sự nguy hại của cái bị ô nhiễm, tìm cầu cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn, thoát khỏi các khổ ách, chứng Niết-bàn, và đã chứng được cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn, thoát khỏi các khổ ách, chứng Niết-bàn. Tri và kiến khởi lên nơi họ: "Sự giải thoát của chúng ta không bị dao động, đây thức gì được hiện khởi như vậy đều quy là đời sống cuối cùng. Nay không còn tái sanh nữa". |
"Monks, there are these five strings of sensuality. Which five? Forms cognizable via the eye — agreeable, pleasing, charming, endearing, fostering desire, enticing. Sounds cognizable via the ear — agreeable, pleasing, charming, endearing, fostering desire, enticing. Aromas cognizable via the nose — agreeable, pleasing, charming, endearing, fostering desire, enticing. Tastes cognizable via the tongue — agreeable, pleasing, charming, endearing, fostering desire, enticing. Tactile sensations cognizable via the body — agreeable, pleasing, charming, endearing, fostering desire, enticing. These are the five strings of sensuality. |
Này các Tỷ-kheo, có năm dục trưởng dưỡng. Thế nào là năm? Các sắc do mắt nhận thức, sắc này khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn. Các tiếng do tai nhận thức... (như trên)... các hương do mũi nhận thức... các vị do lưỡi nhận thức... các xúc do thân cảm xúc là khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn. Này các Tỷ-kheo, như vậy, là năm dục trưởng dưỡng. |
"And any brahmans or contemplatives tied to these five strings of sensuality — infatuated with them, having totally fallen for them, consuming them without seeing their drawbacks or discerning the escape from them — should be known as having met with misfortune, having met with ruin; Mara can do with them as he will. Just as if a wild deer were to lie bound on a heap of snares: it should be known as having met with misfortune, having met with ruin; the hunter can do with it as he will. When the hunter comes, it won't get away as it would like. In the same way, any brahmans or contemplatives tied to these five strings of sensuality — infatuated with them, having totally fallen for them, consuming them without seeing their drawbacks or discerning the escape from them — should be known as having met with misfortune, having met with ruin; Mara can do with them as he will. |
Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào bị trói buộc, bị tham đắm, bị mê say bởi năm dục trưởng dưỡng này, không thấy sự nguy hại của chúng, không biết rõ sự xuất ly khỏi chúng, mà thọ dụng chúng, những vị ấy cần phải được hiểu là: "Các Người đã rơi vào bất hạnh, đã rơi vào tai họa, đã bị Ác ma sử dụng như ý muốn". Này các Tỷ-kheo, như một con nai sống trong rừng bị sập bẫy nằm xuống, con nai ấy cần phải được hiểu là: "Nó đã rơi vào bất hạnh, đã rơi vào tai họa, đã bị thợ săn sử dụng như ý muốn. Khi người thợ săn đến, con nai không thể bỏ đi như ý muốn. Này các Tỷ-kheo, cũng vậy, những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào bị trói buộc... (như trên)... đã bị Ác ma sử dụng như ý muốn. |
"But any brahmans or contemplatives not tied to these five strings of sensuality — uninfatuated with them, having not totally fallen for them, consuming them seeing their drawbacks and discerning the escape from them — should be known as not having met with misfortune, not having met with ruin; Mara cannot do with them as he will. Just as if a wild deer were to lie unbound on a heap of snares: it should be known as not having met with misfortune, not having met with ruin; the hunter cannot do with it as he will. When the hunter comes, it will get away as it would like. In the same way, any brahmans or contemplatives not tied to these five strings of sensuality — uninfatuated with them, having not totally fallen for them, consuming them seeing their drawbacks and discerning the escape from them — should be known as not having met with misfortune, not having met with ruin; Mara cannot do with them as he will. |
Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào không bị trói buộc, không bị tham đắm, không bị mê say bởi năm dục trưởng dưỡng này, thấy sự nguy hại của chúng, biết rõ sự xuất ly khỏi chúng, và thọ dụng chúng, những vị ấy cần phải được hiểu là: "Các Người không rơi vào bất hạnh, không rơi vào tai họa, không bị Ác ma sử dụng như ý muốn". Này các Tỷ-kheo, như một con nai sống trong rừng, không bị sập bẫy phải nằm xuống, con nai ấy cần phải được hiểu là: "Nó không rơi vào bất hạnh, nó không rơi vào tai họa, nó không bị người thợ săn sử dụng như ý muốn". Khi người thợ săn đến, con nai có thể bỏ đi như ý muốn. Này các Tỷ-kheo, cũng vậy, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào không bị trói buộc... không bị Ác ma sử dụng như ý muốn. |
"Suppose that a wild deer is living in a wilderness glen. Carefree it walks, carefree it stands, carefree it sits, carefree it lies down. Why is that? Because it has gone beyond the hunter's range. [5] In the same way, a monk — quite withdrawn from sensual pleasures, withdrawn from unskillful qualities — enters & remains in the first jhana: rapture & pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation. This monk is said to have blinded Mara. Trackless, he has destroyed Mara's vision and has become invisible to the Evil One. [6] |
Chư Tỷ-kheo, ví như con nai sống trong rừng, đi qua đi lại trong rừng, an tâm nó đi, an tâm nó đứng, an tâm nó ngồi, an tâm nó nằm. Tại sao vậy? Này các Tỷ-kheo, vì nó vượt khỏi tầm tay của người thợ săn.[5] Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc, do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là: một vị đã làm Ác Ma mù mắt, đã diệt trừ mọi vết tích, đã vượt khỏi tầm mắt Ác ma.[6] |
"Then again the monk, with the stilling of directed thoughts & evaluations, enters & remains in the second jhana: rapture & pleasure born of composure, unification of awareness free from directed thought & evaluation — internal assurance. This monk is said to have blinded Mara. Trackless, he has destroyed Mara's vision and has become invisible to the Evil One. |
Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là... đã vượt khỏi tầm mắt của Ác ma. |
"Then again the monk, with the fading of rapture, he remains equanimous, mindful, & alert, and senses pleasure with the body. He enters & remains in the third jhana, of which the Noble Ones declare, 'Equanimous & mindful, he has a pleasant abiding.' This monk is said to have blinded Mara. Trackless, he has destroyed Mara's vision and has become invisible to the Evil One. |
Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các vị Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là... đã vượt khỏi tầm mắt của Ác ma. |
"Then again the monk, with the abandoning of pleasure & stress — as with the earlier disappearance of elation & distress — enters & remains in the fourth jhana: purity of equanimity & mindfulness, neither-pleasure-nor-pain. This monk is said to have blinded Mara. Trackless, he has destroyed Mara's vision and has become invisible to the Evil One. |
Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là... vượt khỏi tầm mắt của Ác ma. |
"Then again the monk, with the complete transcending of perceptions of [physical] form, with the disappearance of perceptions of resistance, and not heeding perceptions of diversity, [perceiving,] 'Infinite space,' enters & remains in the dimension of the infinitude of space. This monk is said to have blinded Mara. Trackless, he has destroyed Mara's vision and has become invisible to the Evil One. |
Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo vượt lên mọi sắc tướng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, không tác ý đối với dị tưởng, Tỷ-kheo nghĩ rằng: "Hư không là vô biên", chứng và trú Không vô biên xứ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là... đã vượt khỏi tầm mắt của Ác ma. |
"Then again the monk, with the complete transcending of the dimension of the infinitude of space, [perceiving,] 'Infinite consciousness,' enters & remains in the dimension of the infinitude of consciousness. This monk is said to have blinded Mara. Trackless, he has destroyed Mara's vision and has become invisible to the Evil One. |
Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo vượt lên mọi Không vô biên xứ, nghĩ rằng: "Thức là vô biên", chứng và trú Thức vô biên xứ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là... đã vượt khỏi tầm mắt của Ác ma. |
"Then again the monk, with the complete transcending of the dimension of the infinitude of consciousness, [perceiving,] 'There is nothing,' enters & remains in the dimension of nothingness. This monk is said to have blinded Mara. Trackless, he has destroyed Mara's vision and has become invisible to the Evil One. |
Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo vượt lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: "Không có vật gì", chứng và trú Vô sở hữu xứ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là... đã vượt khỏi tầm mắt của Ác ma |
"Then again the monk, with the complete transcending of the dimension of nothingness, enters & remains in the dimension of neither perception nor non-perception. This monk is said to have blinded Mara. Trackless, he has destroyed Mara's vision and has become invisible to the Evil One. |
Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo vượt lên mọi Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ- kheo ấy được gọi là...đã vượt khỏi tầm mắt của Ác ma. |
"Then again the monk, with the complete transcending of the dimension of neither perception nor non-perception, enters & remains in the cessation of perception & feeling. And, having seen [that] with discernment, his mental fermentations are completely ended. This monk is said to have blinded Mara. Trackless, he has destroyed Mara's vision and has become invisible to the Evil One. Having crossed over, he is unattached in the world. Carefree he walks, carefree he stands, carefree he sits, carefree he lies down. Why is that? Because he has gone beyond the Evil One's range." |
Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo vượt lên mọi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng (định). Sau khi thấy bằng trí tuệ, các lậu hoặc được đoạn trừ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là một vị đã làm Ác ma mù mắt, đã diệt trừ mọi vết tích, đã vượt khỏi tầm mắt Ác ma. Vị ấy đã vượt khỏi mọi triền phược ở đời. An tâm vị ấy đi, an tâm vị ấy đứng, an tâm vị ấy ngồi, an tâm vị ấy nằm. Vì sao vậy? Này các Tỷ-kheo, vì vị ấy vượt khỏi tầm tay của Ác ma. |
That is what the Blessed One said. Gratified, the monks delighted in the Blessed One's words. Notes
|
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.. Notes
|
Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng. Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại phamdang0308@gmail.com |
Cập nhập ngày:
Thứ Hai 19-10-2020 Kỹ thuật trình bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp |