3.5.4. Have you seen the truth?  

The king said: ‘Have you, Nāgasena, seen what the Truth is?’

3.5.4. Ngài có nhìn thấy Giáo Pháp không?  

'Thưa tôn giả Nāgasena. Ngài đã có thấy Giáo Pháp?

‘Have not we disciples, O king, to conduct ourselves our lives long as under the eye of the Buddha, and under his command ?’

Tâu đại vương, chúng tôi không phải là những đệ tử sống cuộc đời mình dưới sự dẫn dắt của Giáo Pháp Đức Phật và tuân giữ những giới luật của Ngài hay sao?’

‘Very good, Nāgasena!’

"Thật tốt, thưa tôn giả Nāgasena!

3.5.5. Rebirth and transmigration  

The king said: ‘Where there is no transmigration, Nāgasena, can there be rebirth?’

3.5.5. Sự tái sinh và sự luân hồi  

Đức vua hỏi: ‘Thưa tôn giả Nāgasena, nơi nào không có luân hồi, liệu có thể tái sinh không?’

‘Yes, there can.’

‘But how can that be? Give me an illustration.’

'Thưa đại vương, có thể như vậy.'

"Thưa tôn giả, nhưng có thể nào như thế? Hãy cho trẫm một mình dụ."

‘Suppose a man, O king, were to light a lamp from another lamp, can it be said that the one transmigrates from, or to, the other?’

Tâu đại vương, giả sử một người châm lửa một ngọn đèn từ lửa của một ngọn đèn khác, liệu có thể nói rằng ngọn đèn này được chuyển sinh từ ngọn đèn kia không?

‘Certainly not.’

‘Just so, great king, is rebirth without transmigration.’

'Thưa tôn giả, chắc chắn là không.'

‘Tâu đại vương, cũng vậy, là tái sinh không nhất thiết phải là luân hồi.’

‘Give me a further illustration.’

‘Do you recollect, great king, having learnt, when you were a boy, some verse or other from your teacher?’

'Thưa tôn giả, cho trẫm một minh dụ khác.'

“Tâu đại vương, đại vương có nhớ khi còn niên thiếu, đại vương đã học một số bài thơ hay câu thơ từ thầy của mình không?”

‘Yes, I recollect that.’

‘Well then, did that verse transmigrate from your teacher?’

'Thưa tôn giả, trẫm nhớ điều đó'

“Tâu đại vương, như vậy, có phải câu thơ đó được chuyển sang đại vương từ người thầy của đại vương ?

‘Certainly not.’

‘Just so, great king, is rebirth without transmigration.’

‘Very good, Nāgasena!’

'Thưa tôn giả, chắc chắn là không phải như vậy.'

'Thưa đại vương, tương tự như vậy, sự tái sinh không nhất thiết phải là luân hồi.'

'Thật là tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!

3.5.6. Is there a soul?  

The king said: ‘Is there such a thing, Nāgasena, as the soul ?’

‘In the highest sense, O king, there is no such thing.’

‘Very good, Nāgasena!’

3.5.6. Có linh hồn không?  

Đức vua hỏi: ‘Thưa tôn giả Nāgasena, có cái gì gọi là linh hồn không?

'Thưa đại vương, theo ý nghĩa tuyệt đối, không có cái gì gọi là linh hồn.’

'Thật là tuyệt vời, Thưa tôn giả Nāgasena.'

3.5.7. Does a being transmigrate?  

The king said: ‘Is there any being, Nāgasena, who transmigrates from this body to another?’

3.5.7. Liệu một chúng sinh có chuyển sinh không?  

Đức vua hỏi: 'Thưa tôn giả, có phải có chúng sanh từ thân này chuyển sang thân khác không?”

‘No, there is not.’

‘But if so, would it not get free from its evil deeds.’

‘Yes, if it were not reborn; but if it were, no.’

'Thưa đại vương, không phải'

'Thưa tôn giả, nếu khi chết một người đi tái sinh không phải là sự chuyển qua, thì họ sẽ không chịu quả báo của những hành động bất thiện của họ sao?.’

Tâu đại vương, đúng vậy. Nếu người đó không tái sanh thì sẽ thoát khỏi các ngiệp bất thiện. Nhưng chính vì có sự tái sanh nên không thoát khỏi quả của nghiệp bất thiện họ đã làm trước đây.”

‘Give me an illustration.’

‘Suppose, O king, a man were to steal another man’s mangoes, would the thief deserve punishment?’

'Thưa tôn giả, cho trẫm một minh dụ'

Tâu đại vương, giả sử có người ăn trộm xoài của người khác, như vậy kẻ trộm có đáng bị trừng phạt không?’

‘Yes.’

‘But he would not have stolen the mangoes the other set in the ground. Why would he deserve punishment?’

'Thưa tôn giả, phải bị trừng phạt.'

Nhưng anh ta không ăn cắp những quả xoài khác ở dưới đất. Tại sao anh ta đáng bị trừng phạt?”

‘Because those he stole were the result of those that were planted.’

'Bởi vì những thứ anh ta lấy trộm là kết quả của những thứ được trồng.'

‘Just so, great king, this name-and-form commits deeds, either pure or impure, and by that Karma another name-and-form. is reborn. And therefore is it not set free from its evil deeds?’

‘Tâu đại vương, cũng vậy, con người (danh-sắc) này tạo nghiệp, hoặc thiện hoặc bất thiện, và do Nghiệp đó tạo thành một con người khác (danh-sắc) khác được tái sinh. Và do đó, nó không hoàn toàn thoát khỏi những nghiệp quả do những hành động bất thiện của nó đã tạo ra trong kiếp trước.’

‘Very good, Nāgasena!’

'Thật là hay, thưa tôn giả Nāgasena!

3.5.8. Karma and not-self  

The king said: ‘When deeds are committed, Nāgasena, by one name-and-form, what becomes of those deeds?’

3.5.8. Nghiệp và Vô Ngã  

Đức vua nói: ‘Thưa tôn giả Nāgasena, khi những việc làm được thực hiện bởi một Danh và Sắc (một chúng sinh) , những hành vi (nghiệp)đó sẽ ra sao?’

‘The deeds would follow it, O king, like a shadow that never leaves it.’

Tâu đại vương, những hành vi (nghiệp) đó sẽ theo ta như hình với bóng không bao giờ rời.’

‘Can any one point out those deeds, saying: “Here are those deeds, or there”?’

Có ai có thể chỉ ra rằng những nghiệp đó và nói rằng: “Nghiệp thiện hiện bày ở đây, hay nghiệp bất thiện ở kia” không?'

‘No.’

‘Give me an illustration.’

‘Now what do you think, O king? Can any one point out the fruits which a tree has not yet produced, saying: “Here they are, or there”?’

Thưa đại vương, không thể.

Hãy cho trẫm một minh dụ

Thưa đại vương, Ngài nghĩ sao? Trên một cây ai có thể nói rằng những quả phải trổ ra ở chỗ này của cành, hay ở chỗ kia của cây không?

‘Certainly not, Sir.’

‘Just so, great king, so long as the continuity of life is not cut off, it is impossible to point out the deeds that are done.’

Thưa tôn giả, chắc chắn là không thể.

Thưa đại vương, cũng vậy, chúng sanh còn luân hồi trong vòng sinh tử thì nghiệp còn theo mãi như bóng với hình

‘Very good, Nāgasena!’

Thật là tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!

3.5.9. Knowing rebirth  

The king said: ‘Does he, Nāgasena, who is about to be reborn know that he will be born?’

3.5.9. Biết mình tái sinh  

Đức vua hỏi: ‘Thưa tôn giả Nāgasena, người sắp chết có biết rằng mình sẽ được tái sinh ra không?

‘Give me an illustration.’

‘Suppose a farmer, O king, a householder, were to put seed in the ground, and it were to rain well, would he know that a crop would be produced.’

"Hãy cho trẫm một minh dụ."

Tâu đại vương, một người gia chủ, gieo hạt giống xuống đất, và trời mưa, thì người đó có biết rằng một vụ mùa sẽ được sản xuất hay không

‘Yes, he would know that.’

‘Just so, great king, does he who is about to be reborn know that he will be born.’

Có biết

Tâu đại vương, cũng như vậy, người đã tạo nghiệp và khi sắp chết người đó cũng biết mình sẽ tái sinh để nhận quả của nghiệp mình đã gieo!

‘Very good, Nāgasena!’

"Thật là tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!."

3.5.10. Is the Buddha real?  

The king said: ‘Is there such a person as the Buddha, Nāgasena?’

Đức Phật có thật không?  

Đức vua hỏi: "Thưa tôn giả Nāgasena, có thật là có một người là Phật không?

‘Yes.’

‘Can he then, Nāgasena, be pointed out as being here or there?’

"Thưa đại vương, đúng vậy."

Thưa tôn giả Nāgasena, vậy Ngài có thể nào chỉ ra là Đức Phật Ngài đang ở đây hay ở kia không?’

‘The Blessed One, O king, has passed away by that kind of passing away in which nothing remains which could tend to the formation of another individual. It is not possible to point out the Blessed One as being here or there.’

‘Tâu đại vương, Đức Thế Tôn đã viên tịch Niết-bàn, Ngài không còn tồn tại ở trong một hình hài một cá nhân, do vậy không thể chỉ ra Đức Thế Tôn ở nơi nào."

‘Give me an illustration.’

‘Now what do you think, O king? When there is a great body of fire blazing, is it possible to point out any one flame that has gone out, that it is here or there?’

"Cho trẫm một minh dụ."

‘Thưa đại vương, bây giờ ngài nghĩ sao? Khi có một khối lửa lớn đang cháy, có thể chỉ ra ngọn lửa đã tắt đó, nó ở đây hay ở kia không?’

‘No, Sir. That flame has ceased, it has vanished.’

‘Just so, great king, has the Blessed One passed away by that kind of passing away in which no root remains for the formation of another individual. The Blessed One has come to an end, and it cannot be pointed out of him, that he is here or there. But in the body of his doctrine he can, O king, be pointed out. For the doctrine was preached by the Blessed One’

"Thưa tôn giả, không, ngọn lửa đó đã tắt, nó đã biến mất."

"Thưa đại vương, cũng như vậy, Đức Thế Tôn đã tịch diệt Ngài đã viên tịch Niết bàn không còn nghiệp cho sự hình thành của một chúng sinh khác. Đức Thế Tôn đã diệt độ, và không thể chỉ ra rằng Ngài ở đây hay ở kia. Nhưng trong giáo pháp của Đức Thế Tôn đã thuyết, thưa đức đại vương, có thể được chỉ ra. Vì giáo lý đã được Đức Thế Tôn thuyết giảng’

‘Very good, Nāgasena!’

Here ends the Fifth Chapter.

"Thật là tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!"

"Tới đây chấm dứt chương Năm

3.6.1. Is the body dear?  

The king said: ‘Is the body, Nāgasena, dear to you recluses?’

‘No, they love not the body.’

‘Then why do you nourish it and lavish attention upon it?’

3.6.1. Có nên thương cái thân mình không?  

Đức vua hỏi: ‘Thưa tôn giả Nāgasena, phải chăng thân của các vị tu sĩ là đáng quí?’

"Không phải vậy, họ không luyến tiếc thân họ, thưa đại vương"

"Thưa tôn giả, Vậy tại sao tôn giả lại nuôi dưỡng nó và quan tâm nhiều đến nó?’

‘In all the times and places, O king, that you have gone down to battle, did you never get wounded by an arrow?’

“Thưa đức vua, Ngài đã từng tham gia những chiến trận , có bao giờ ngài bị thương bởi một mũi tên nào không?”

‘Yes, that has happened to me.’

‘In such cases, O king, is not the wound anointed with salve, and smeared with oil, and bound up in a bandage.’

"Đúng vậy, đã từng xảy ra với trẫm"

Thưa đại vương, trong những trường hợp như vậy, vết thương đã được xức thuốc, bôi dầu và băng bó.’

‘Yes, such things are done to it.’

‘What then? Is the wound dear to you that you treat it so tenderly, and lavish such attention upon it?’

"Đúng vậy, vết thương đã được xức thuốc và băng bó."

" Rồi sau đó thì sao? Vết thương của Ngài có làm Ngài thấy nó đáng yêu đến mức ngài đối xử dịu dàng và quan tâm nhiều đến nó như vậy không?"

‘No, it is not dear to me in spite of all that, which is only done that the flesh may grow again.’

Không, nó không đáng yêu với trẫm mà chỉ là để chữa lành vết thương không cho nó phát triển trở lại.

‘Just so, great king, with the recluses and the body. Without cleaving to it do they bear about the body for the sake of righteousness of life. The body, O king, has been declared by the Blessed One to be like a wound. And therefore merely as a sore, and without cleaving to it, do the recluses bear about the, body. For it has been said by the Blessed One:

Tương tự như vậy, thưa đại vương, thân thể đối với các Sa-môn. Họ không dính mắc vào nó, họ nuôi dưỡng thân mình để duy trì cuộc sống để tu tập đời sống phạm hạnh. Tâu đại vương, thân thể này đã được Thế Tôn tuyên bố là giống như một vết thương. Và do đó, chỉ như một vết đau, và không dính mắc vào nó, các ẩn sĩ chịu đựng thân thể này. Vì Đức Thế Tôn đã nói như sau:

    “Covered with clammy skin, an impure thing and foul, Nine-apertured, it oozes, like a sore.”’


‘Well answered, Nāgasena!’

    Bao bọc bởi lớp da ẩm ướt, vết thương lớn lở loét có chín cửa rỉ ra xung quanh những ô uế và hôi thối.’


"Câu trả lời thật tuyệt với, thưa tôn giả Nāgasena!

3.6.2. Did the Buddha see the future?  

The king said: ‘Did the Buddha, Nāgasena, the omniscient one, foresee all things?’

3.6.2. Có phải Đức Phật thấy trước tất cả mọi việc?  

Đức vua hỏi: ‘Thưa tôn giả Nāgasena , có phải Đức Phật,, bậc Toàn Giác, thấy trước mọi sự việc không?

‘Yes. The Blessed One was not only omniscient. He foresaw all things.’

'Đúng. Đức Thế Tôn không chỉ là toàn trí. Ngài đã thấy trước tất cả mọi thứ.

‘Then why was it that he was in the habit only from time to time, and as occasion arose, of laying down rules for the members of the Order ?’

Thưa tôn giả, thế thì tại sao thỉnh thoảng, và khi có cơ hội, Ngài lại đặt ra các quy luật cho các tỳ kheo trong Tăng Chúng?

‘Is there any physician, O king, who knows all the medicinal drugs to be found on the earth?’

Tâu đức vua, có vị lương y nào của đaị vương biết hết mọi thứ thuốc chữa bệnh trên trái đất không?

‘Yes, there may be such a man.’

‘Well, O king, does he give his decoctions to the patient to drink at a time when illness has already set in, or before that?’

Có, có thể có vị lương y đó.

Như vậy, thưa đại vương, vị lương y đó có cho bệnh nhân uống thuốc của mình vào thời điểm bệnh đã phát hay trước khi bệnh phát sinh trước đó không?’

‘When the malady has arisen.’

‘Just so, great king, the Blessed One, though he was omniscient and foresaw all things, laid down no rule at an unseasonable time, but only when need arose did he establish a regulation which his disciples were not to transgress as long as they lived.’

"Thưa tôn giả, Khi căn bệnh phát sinh.

"Cũng vậy, tâu đại vương, Đức Thế Tôn tuy là bậc toàn trí, thấy trước tất cả, Ngài không đặt ra giới luật nào cho tới khi cần thiết, Ngài mới đặt ra giới luật mà các đệ tử của Ngài không được vi phạm khi họ còn sống."

‘Well answered, Nāgasena!’

"Câu trả lời thật tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!

3.6.3. The marks of a great man  

The king said: ‘Is it true, Nāgasena, that the Buddha was endowed with the thirty-two bodily marks of a great man, and graced with the eighty subsidiary characteristics; that he was golden in colour with a skin like gold, and that there spread around him a glorious halo of a fathom’s length?’

3.6.3. Tướng tốt của bậc Đại-nhân  

Đức vua hỏi: ‘Thưa tôn giả Nāgasena,có phải chăng Đức Phật có ba mươi hai tướng tốt trên thân của một bậc đại nhân, và tám mươi đặc tính phụ; thân có Ngài có màu vàng óng với làn da như vàng, và thân Ngài tỏa ra một vầng hào quang rực rỡ dài một sải tay?

‘Such, O king, was the Blessed One.’

‘But were his parents like that?’

‘No, they were not.’

Tâu đại vương, đúng vậy. Đức Thế Tôn hội đủ ba mươi hai tướng của bậc đại nhân và tám mươi tướng phụ, làn da có sắc vàng là vàng, thân Ngài có hào quang tỏa ra một sải tay.”

Vậy cha mẹ Ngài có như vậy không?

"Không, Họ không có như vậy."

‘In that case you must say that he was born so. But surely a son is either like his mother, or those on The mother’s side, or he is like his father, or those on the father’s side!’

Thưa tôn giả Nāgasena, trong trường hợp Đức Phật được sinh ra hội đủ ba mươi hai tướng của bậc đại nhân và tám mươi tướng phụ, thân có sắc vàng như là vàng, có hào quang một sải tay. Nhưng nhất định con trai hoặc giống mẹ hay bà con bên mẹ, hoặc giống cha hay bà con bên cha."

The Elder replied: ‘Is there such a thing, O king, as a lotus flower with a hundred petals?’

Trưởng lão đáp: ‘Thưa đại vương, có loại nào như hoa sen trăm cánh không?’

‘Yes, there is.’

‘Where does it grow up?’

‘It is produced in mud, and in water it comes to perfection.’

"Thưa tôn giả, có."

"Chúng mọc ở đâu?"

" Chúng mọc tươi tốt trong bùn, và trong nước."

‘But does the lotus resemble the mud of the lake, whence it springs up, either in colour, or in smell, or in taste?’

Như vậy hoa sen từ nơi nó mọc lên hình dáng nó có giống như bùn trong hồ, hoặc về màu sắc, mùi hương và vị ngon không?’

‘Certainly not.’

‘Then does it resemble the water?’

‘Nor that either.’

"Thưa tôn giả, chắc chắn là không."

"Vậy nó có giống như nước nơi nó mọc lên không?"

"Cũng không."

‘Just so, great king, is it that the Blessed One had the bodily signs and marks you have mentioned, though his parents had them not.’

Tâu đại vương, tương tợ y như thế Đức Phật trên thân Ngài hội đủ ba mươi hai tướng của bậc đại nhân và tám mươi tướng phụ, thân Ngài có sắc vàng như là vàng, có hào quang một sải tay, mặc dù cha mẹ Ngài không có những tướng tốt đó.”

‘Well answered, Nāgasena!’

"Câu trả lời thật tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!

3.6.4. Pure conduct  

The king said: ‘Was the Buddha, Nāgasena, pure in conduct (was he a Brahma-cārin)?’

3.6.4. Bậc Phạm Hạnh  

Đức vua hỏi: ‘Thưa tôn giả Nāgasena, Đức Phật có hạnh kiểm thanh tịnh không (có phải Ngài là một Brahmacārin là vị phạm thiên thực hành phạm hạnh) không?’

‘Yes, the Blessed One was pure.’

‘Then, Nāgasena, it follows that he was a follower of Brahmā.’

‘Have you a state elephant, O king?’

‘Certainly.’

"Thưa đại vương, đúng vậy Đức Phật là một Brahmacārin là vị phạm thiên thực hành phạm hạnh

“Thưa tôn giả Nāgasena, như vậy có nghĩa là Đức Phật là đệ tử của Phạm Thiên (Brahmā).”

"Thưa đại vương, Ngài có một con voi chúa phải không?"

"Thua tôn giả, đúng vậy."

‘Well now, does that elephant ever trumpet (literally “cry the heron’s cry “)?’

'Thưa đại vương, con voi đó có bao giờ rống tiếng rống như tiếng kêu của loài chim cò không?'

‘Oh, yes.’

‘But is he, then, on that account a follower of the herons?’

‘Of course not.’

"Thưa đúng như vậy." "Vậy thì với lý do đó, con voi có phải là đệ tử của con chim cò không?

"Dĩ nhiên là không phải."

‘Now tell me, great king, has Brahma wisdom (Buddhi), or has he not?’

‘He is a being with wisdom.’

‘Then (on your argument) he is surely a follower of Buddha.’

‘Well answered, Nāgasena!’

Thưa đại vương, bây giờ hãy nói cho bần tăng biết, vị Phạm thiên có tuệ giác (Buddhi) hay không?’

Phạm thiên là một bậc có trí tuệ.

Thưa đại vương, như vậy dựa trên lập luận của đại vương thì Phạm Thiên chính là học trò của đức Thế Tôn. Vì Đức Phật tự mình giác ngộ Chánh pháp, phạm thiên không tự mình giác ngộ Chánh pháp mà học hỏi Chánh pháp từ Đức Thế Tôn.

"Câu trả lời thật tuyệt với, thưa tôn giả Nāgasena!

3.6.5. Ordination  

The king said: ‘Is ordination a good thing?’

‘Yes, a good thing and a beautiful.’

‘But did the Buddha obtain it, or not?’

3.6.5. Xuất Gia  

Đức vua hỏi: Thưa tôn giả, có phải xuất gia là việc làm tốt không?"

"Thưa đại vương, đúng vậy, xuất gia là một việc tốt/"

‘Great king, when the Blessed One attained omniscience at the foot of the tree of Knowledge, that was to him an ordination. There was no conferring of ordination upon him at the hands of others—in the way that the Blessed One laid down regulations for his disciples, never to be transgressed by them their lives long!’

Tâu đại vương, khi ĐứcThế Tôn chứng đắc Đạo Quả dưới gốc cây Bồ Đề, đối với Ngài đó là xuất gia. Không có ai khác truyền giới cho Ngài – theo cách mà Đức Thế Tôn đã đặt ra các giới luật cho các đệ tử của mình, cho đến trọn đời không nên vượt qua!.”

‘Very true, Nāgasena!’

'Thật là tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!'

3.6.6. Tears  

The king said: ‘To which of these two, Nāgasena—the man who weeps at the death of his mother, and the man who weeps out of love for the Truth (Dhamma)—are his tears a cure?’

3.6.6. Nước mắt  

Đức vua Hỏi: 'Thưa tôn giả Nāgasena, ai trong hai người này - người khóc khi mẹ mình chết, và người khóc vì tình yêu đối với Chân lý (Dhamma) - nước mắt của ai là liều thuốc và nước mắt của ai không là liều thuốc?'

‘The tears of the one, O king, are stained and hot with the three fires of passion. The tears of the other are stainless and cool. Now there is cure in coolness and calm, but in heat and passion there can be no cure.’

Thưa đại vương, nước mắt của một người vì mẹ chết là đã vấy bẩn và nóng nảy do ba ngọn lửa đam mê (Tham, Sân, Si). Và nước mắt của người vì Pháp do hoan hỉ và thiện tâm, không vấy bẩn nên mát lạnh. Cái nào mát mẻ và bình tĩnh thì là liều thuốc, cái nóng nảy không thể là liều thuốc chữa khỏi lửa đam mê.

‘Very good, Nāgasena!’

'Thật là tuyệt vời, tôn giả Nāgasena!

3.6.7. Passion  

The king said: ‘What is the distinction, Nāgasena, between him who is full of passion, and him who is void of passion?’

3.6.7. Tham Ái  

Đức vua hỏi: ‘Thưa tôn giả Nāgasena, sự khác biệt giữa người nhiều tham ái và người không có tham ái là gì?

The one is overpowered by craving, O king, and the other not.’

Tâu đại vương, một người bị dính mắc, còn người kia thì không bị dính mắc.

‘But what does that mean?’

‘The one is in want, O king, and the other not.’

‘I look at it, Sir, in this way. He who has passion and he who has not—both of them alike—desire what is good to eat, either hard or soft. And neither of them desires what is wrong.’

"Nhưng điều này nghĩa là gì?"

Tâu đại vương, nghĩa là một người mong muốn, còn người kia thì không mong muốn..

Thưa tôn giả, trẫm thấy là. Người có mong muốn và người không mong muốn- cả hai đều như nhau - đều muốn ăn những gì ngon, thức ăn cứng hay mềm. Và không ai trong số họ mong muốn điều sai trái.’

‘The lustful man, O king, in eating his food enjoys both the taste and the lust that arises from taste, but the man free from lusts experiences the taste only, and not the lust arising therefrom.’

Tâu đại vương, người tham ái khi thọ dụng thức ăn của mình hưởng thụ cả hương vị và tham ái phát sinh từ vị giác, nhưng người không tham ái chỉ nhận biết hương vị chứ không tham ái vào hương vị đó.’

‘Well answered, Nāgasena!’

'Câu trả lời thật tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!’

3.6.8. Where is wisdom?  

The king said: ‘Venerable Nāgasena, where does wisdom dwell?’

‘Nowhere, O king.’

‘Then, Sir, there is no such thing as wisdom.’

‘Where does the wind dwell, O king?’

‘Not anywhere, Sir.’

‘So there is no such thing as wind.’

‘Well answered, Nāgasena!’

3.6.8. Tuệ ở đâu?  

Đức vua hỏi: "Thưa tôn giả Nāgasena, Tuệ trú ở đâu?"

"Thưa đại vương, tuệ không trú ở nơi nào."

"Thưa tôn giả, như vậy thì không có gì gọi là tuệ.'

'Thưa đại vương, gió trú ngụ nơi nào?'

'Thưa tôn giả, gió không trú ngụ nơi nào.'

'Thưa đại vương, như vậy thì không có gì gọi là gió.'

'Câu trả lời thật là tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!'

3.6.9. Transmigration  

The king said: ‘When you speak of transmigration, Nāgasena, what does that mean?’

3.6.9. Luân Hồi  

Đức vua hỏi: ‘Thưa tôn giả Nāgasena, khi Ngài nói về luân hồi, điều đó có nghĩa là gì?

‘A being born here, O king, dies here. Having died here, it springs up elsewhere. Having been born there, there it dies. Having died there, it springs up elsewhere. That is what is meant by transmigration.’

Thưa đại vương, chúng sanh sinh ra ở nơi đây, chết cũng ở đây. Chết tại nơi đây, sinh ra ở chỗ khác. Sinh ra ở chỗ đó, chết ở đó. Chết ở đó, sinh lên ở nơi khác. Đó là ý nghĩa của luân hồi.’

‘Give me an illustration.’

‘It is like the case of a man who, after eating a mango, should set the seed in the ground. From that a great tree would be produced and give fruit. And there would be no end to the succession, in that way, of mango trees.’

'Thưa tôn giả, cho trẫm một minh dụ'

'Thưa đại vương, giống như trường hợp một người ăn xoài xong rồi gieo hột xuống đất. Từ đó một cây xoài sẽ được sinh ra lớn lên và cho trái. Và theo cách đó, sẽ không có điểm dừng đối với sự kế thừa của những cây xoài., tương tợ y như thế người sinh ra ở đây, chết ngay ở đây; chết ở đây, sinh lên ở nơi kia; chết ở nơi kia; sinh lên ở nơi khác. Luân hồi là như vậy.”

‘Very good, Nāgasena!’

'Thật là tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!'

3.6.10. Memory  

The king said: ‘By what, Nāgasena, does one recollect what is past and done long ago?’

3.6.10. Hồi tưởng  

'Đức vua hỏi: ‘Nāgasena, bằng cách nào người ta nhớ những gì đã trong quá khứ và đã làm từ lâu?

‘By memory.’

‘But is it not by the mind, not by the memory, that we recollect?’

'Bằng sự hồi tưởng'

Thưa tôn giả Nāgasena, vậy không phải do tâm, không phải do trí nhớ mà chúng ta hồi tưởng hay sao?

‘Do you recollect any business, O king, that you have done and then forgotten?’

“Thưa đại vương, Ngài có nhớ lại công việc nào ngài đã làm rồi sau đó quên không?”

‘Yes.’

‘What then? Were you then without a mind?’

‘No. But my memory failed me.’

‘Then why do you say that it is by the mind, not by the memory, that we recollect?’

'Thưa tôn giả, trẫm có như vậy

Thưa đại vương, vậy lúc đó Ngài có phải là người không có tâm không?'

'Thưa tôn giả, Không phải như vậy. Nhưng lúc đó trẫm đã không nhớ.'

'Thưa đại vương, như vậy tại sao ngài lại nói rằng chúng ta nhớ lại là do tâm chứ không phải do trí nhớ?’

‘Very good, Nāgasena ’

'Thật là tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!'

3.6.11. Is memory prompted?  

The king said: ‘Does memory, Nāgasena, always arise subjectively, or is it stirred up by suggestion from outside ?’

3.6.11. Ký ức có được nhắc nhở không?  

Đức vua hỏi : “Thưa tôn giả Nāgasena, ký ức thường chủ quan phát sinh lên, hay nó bị khuấy động bởi gợi ý từ bên ngoài?”

‘Both the one and the other.’

‘But does not that amount to all memory being subjective in origin, and never artificial?’

Thưa đại vương, cả hai vừa chủ quan và vừa từ gợi ý bên ngoài

"Thưa tôn giả, như vậy thì chẳng phải điều đó có nghĩa là toàn bộ trí nhớ đều có nguồn gốc chủ quan và không do người làm ra?”

‘If, O king, there were no artificial (imparted) memory, then artisans would have no need of practice, or art, or schooling, and teachers would be useless. But the contrary is the case.’

Tâu đại vương, nếu không có ký ức do nhân tạo (được truyền đạt), thì các người học nghề sẽ không cần thực hành,trong lãnh vực nghệ thuật, hoặc trường học, và giáo viên sẽ trở nên vô dụng. Nhưng ngược lại ký ức do nhân tạo mà cần phải thực hành đôi với lãnh vực nghệ thuật hoặc trường học là có nhu cầu cần có người tạo ra.

‘Very good, Nāgasena!’

Here ends the Sixth Chapter.

Thật là tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!

Dứt chương 6

3.7.1. Causes of memory  

The king said: ‘In how many ways, Nāgasena, does memory spring up?’

3.7.1. Nguyên nhân của sự nhớ.  

Đức vua hỏi: “Thưa tôn giả Nāgasena, trí nhớ được sanh lên không?”

‘In sixteen ways, O king. That is to say: by personal experience, as when the venerable Ānanda, or the devoted woman Khujjuttarā, or any others who had that power, called to mind their previous births— or by outward aid, as when others continue to remind one who is by nature forgetful—or by the impression made by the greatness of some occasion, as kings remember their coronation day, or as we remember the day of our conversion-by the impression made by joy, as when one remembers that which gave him pleasure—or by the impression made by sorrow, as when one remembers that which pained him—or from similarity of appearance, as on seeing one like them we call to mind the mother or father or sister or brother, or on seeing a camel or an ox or an ass we call to mind others like them—or by difference of appearance, as when we remember that such and such a colour, sound, smell, taste, or touch belong to such and such a thing—or by the knowledge of speech, as when one who is by nature forgetful is reminded by others and then himself remembers—or by a sign, as when we recognise a draught bullock by a brand mark or some other sign-or from effort to recollect as when one by nature forgetful is made to recollect by being urged again and again: “try and think of it"—or by calculation, as when one knows by the training he has received in writing that such and such a letter ought to follow after such and such a one—or by arithmetic, as when accountants do big sums by their knowledge of figures—or by learning by heart, as the repeaters of the scriptures by their skill in learning by heart recollect so much— or by meditation, as when a Bhikkhu calls to mind his temporary states in days gone by—by reference to a book, as when kings calling to mind a previous regulation, say: “Bring the book here,” and remind themselves out of that—or by a pledge, as when at the sight of goods deposited a man recollects (the circumstances under which they were pledged)—or by association, as when one remembers a thing because one has seen it, or a sound because one has heard it, or an odour because one has smelt it, or a touch because one has felt it, or a concept because one has perceived it.’

người bản tính thường quên được người khác nhắc nhở —hoặc bởi do sự trọng đại nào đó gây ấn tưởng, như các vị vua nhớ đến ngày đăng quang của họ, hoặc như chúng ta nhớ đến ngày nguyện của mình—bởi ấn tượng do niềm vui tạo ra, như khi một người nhớ lại điều đã mang lại cho mình niềm vui— hoặc gặp một sự việc gì đó làm người ta nhớ lại điều đã làm mình —hoặc từ sự giống nhau về ngoại hình, như khi nhìn thấy một người giống họ, chúng ta nhớ đến mẹ hoặc cha hoặc chị gái hoặc anh trai, hoặc khi nhìn thấy một con lạc đà hoặc một con bò hoặc một con lừa mà chúng ta nhớ đến những sinh vật giống như chúng—hoặc bởi sự khác biệt về ngoại hình, chẳng hạn như khi chúng ta nhớ rằng màu sắc, âm thanh, mùi, vị hoặc xúc giác đó và như vậy thuộc về vật đó và vật đó—hoặc bởi kiến ​​thức về lời nói , như khi một người có bản chất hay quên được người khác nhắc nhở và sau đó chính anh ta nhớ lại - hoặc bằng một dấu hiệu, như khi chúng ta nhận ra một con bò đực kéo theo nhãn hiệu hoặc một số dấu hiệu khác - hoặc bằng nỗ lực để hồi tưởng lại như khi một người có bản chất hay quên bị buộc phải nhớ lại bằng cách bị thúc giục lặp đi lặp lại: “hãy thử và nghĩ về nó"—hoặc bằng cách tính toán, như khi một người biết được bằng cách viết mà anh ta đã được đào tạo rằng một lá thư như vậy và như vậy phải theo sau một lá thư như vậy và như vậy—hoặc bằng số học, như khi các kế toán viên tính toán những khoản tiền lớn bằng kiến thức của họ về các hình ảnh—hoặc bằng cách học thuộc lòng, như những người lặp lại kinh điển nhờ kỹ năng học thuộc lòng của họ nhớ lại rất nhiều—hoặc bằng cách thiền định, như khi một vị tỳ khưu nhớ lại trạng thái tạm thời của mình trong những ngày đã qua—bằng cách tham khảo một cuốn sách , như khi các vị vua nhớ lại một quy định trước đó, nói: “Hãy mang cuốn sách đến đây,” và nhắc nhở bản thân đừng làm điều đó — hoặc bằng một lời cam kết, như khi nhìn thấy hàng hóa ký gửi, một người đàn ông nhớ lại (hoàn cảnh mà họ đã cam kết)—hoặc theo liên tưởng, như khi một người nhớ một điều bởi vì một người đã nhìn thấy nó, Vị nhớ lại cảnh sắc do đã thấy, nhớ lại cảnh thinh do đã nghe, nhớ lại hương do đã ngửi, nhớ lại vị do đã nếm, nhớ lại xúc do đã chạm, nhớ lại pháp do đã nhận thức. Trí nhớ sanh lên do kinh nghiệm nghĩa là như vậy..’

‘Very good, Nāgasena!’

'Thật là tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!'

3.7.2. The time of death  

The king said: ‘Your people say, Nāgasena, that though a man should have lived a hundred years an evil life, yet if, at the moment of death, thoughts of the Buddha should enter his mind, he will be reborn among the gods. This I don’t believe. And thus do they also say: “By one case of destruction of life a man may be reborn in purgatory.” That, too, I cannot believe.’

3.7.2. Thời gian của cái chết  

Đức vua nói: “Thưa tôn giả Nāgasena, các người nói rằng mặc dù một người làm việc bất thiện trong cuộc đời một trăm năm, nhưng nếu vào lúc chết, nghĩ tưởng về Đức Phật trong tâm trí người đó sẽ được tái sinh vào cõi trời. . Điều này trẫm không tin. Và họ cũng nói: "Trong một trường hợp hủy diệt sự sống, một người đó có thể tái sinh trong địa ngục." Điều đó trẫm không thể tin được.’

‘But tell me, O king. Would even a tiny stone float on the water without a boat?’

“Thưa đại vương, hãy nói cho bần tăng biết một hòn đá nhỏ có thể nổi trên mặt nước mà Không có chiếc thuyền không?”

‘Certainly not.’

‘Very well; but would not a hundred cart-loads of stones float on the water if they were loaded in a boat?’

'Thưa tôn giả, chắc chắn là không.'

'Tốt lắm, thưa đại vương, phải chăng một trăm xe đá được chất lên thuyền thì có thể nổi ở trên mặt nước?

‘Yes, they would float right enough.’

‘Well, good deeds are like the boat.’

‘Very good, Nāgasena!’

'Thưa tôn giả, đúng vậy'

“Tốt lắm, thưa đại vương, chiếc thuyền là như thế nào thì các nghiệp thiện nên được xem xét như vậy.”

'Thật là tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!'

3.7.3. Past sorrows  

The king said: ‘Do you (recluses), Nāgasena, strive after the removal of past sorrow?’

3.7.3. Past sorrows  

Đức vua hỏi: ‘Thưa tôn giả Nāgasena, người tu tập, có phải để diệt trừ quả khổ đã làm trong quá khứ không?’

‘No.’

‘What then? Is it future sorrow you strive to remove?’

‘No.’

‘Present sorrow, then?’

‘Not that either.’

'Không phải vậy, thưa đại vương'

Vậy là gì? có phải ngài tinh tấn tu tập nhằm loại bỏ khổ thuộc vị lai không?”

'Thưa không phải vậy, thưa đại vương.'

'Vậy có phải ngài tinh tấn nhằm loại bỏ khổ thuộc hiện tại không?

'Cũng không phải vậy, thưa đại vưong.'

‘Then if it be neither past, nor future, nor present sorrow that you strive to remove, whereunto, is it that you strive?’

“Nếu không phải để loại bỏ khổ thuộc quá khứ, không loại bỏ khổ thuộc vị lai, không loại bỏ khổ thuộc hiện tại, vậy ngài tu tập nhằm mục đích gì?”

‘What are you asking, O king? That this sorrow should cease and no other sorrow should arise—that is what we strive after.’

'Thưa đại vương, ngài đang hỏi gì ? Điều đó là nỗi buồn này sẽ chấm dứt và không có nỗi buồn nào khác phát sinh – đó là điều chúng tôi tu tập là để Diệt Khổ.’

‘But, Nāgasena, is there (now) such a thing as future sorrow?’

Nhưng, thưa tôn giả Nāgasena, vậy (bây giờ) có khổ thuộc vị lai không?

‘No. I grant that.’

‘Then you are mighty clever people to strive after the removal of that which does not exist!’

'Không, thưa đại vương, bần tăng chắc như vậy,

“Thưa tôn giả Nāgasena, tôn giả là người có trí tuệ khi tinh tấn tu tập để diệtt trừ cái khổ hiện tại!”

‘Has it ever happened to you, O king, that rival kings rose up against you as enemies and opponents?’

“Thưa đại vương, có khi nào những vị vua đối nghịch chống lại đại vương như là kẻ thù hay là đối thủ không?

‘Yes, certainly.’

‘Then you set to work, I suppose, to have moats dug, and ramparts thrown up, and watch towers erected, and strongholds built, and stores of food collected ?’

'Có chứ, thưa tôn giả, chắc chắn là có.'

“Thưa đại vương, như vậy bần tăng nghĩ rằng đại vương bắt đầu cho đào hào, đắp thành lũy, các đài quan sát được dựng lên, thành trì được xây dựng và thu thập kho lương thực?”

‘Not at all. All that had been prepared beforehand.’

“Không đúng, thưa tôn giả. Tất cả những việc đó là được chuẩn bị trước.”

‘Or you had yourself trained in the management of war elephants, and in horsemanship, and in the use of the war chariot, and in archery and fencing?’

“Tâu đại vương, hoặc là lúc đó ngài mới huấn luyện về voi,huấn luyện ngựa,huấn luyện về xe, mới tập bắn cung, huấn luyện gươm?”

‘Not at all. I had learnt all that before.’

‘But why?’

‘With the object of warding off future danger.’

Không đúng. Trẫm đã luyện tập tất cả từ trước.'

'Tại sao?'

'‘Với mục đích ngăn chặn nguy hiểm trong tương lai'

‘How so? Is there such a thing (now) as future danger?’

'Thưa đại vương, sao lại như vậy? Phải chăng (bây giờ) là mối nguy hiểm trong tương lai?

‘No. I must grant that.’

‘Then you kings are mighty clever people to trouble yourselves about the warding off of that which does not exist!’

'Thưa tôn giả, trẫm chắc điều đó

'‘Thưa đại vương, vậy thì các vị vua là những người thông minh vĩ đại, tự chuẩn bị nhằm ngăn chặn những nỗi lo sợ không tồn tại!’

‘Give me a further illustration.’

‘Tell me, O king. Is it when you are athirst that you set to work to have wells dug, or ponds hollowed out, or reservoirs formed, with the object of getting something to drink?’

'Hãy cho trẫm một minh dụ'

Tâu đại vương, nói cho bần tăng biết, có phải khi đại vương khát nước, đại vương mới bắt đầu đào giếng, đào ao, hoặc xây hồ chứa nước, với mục đích kiếm nước để uống không?”

‘Certainly not. All that has been prepared beforehand.’

‘But to what end?’

‘With the object of preventing future thirst.’

‘How so? Is there such a thing as future thirst?’

‘No, Sir.’

'Chắc chắn là không. Tất cả phải được chuẩn bị trước'

'Nhưng cuối cùng để làm gì?'

'Phải chăng có sự chuẩn bị cho sự khác nước trong tương lai'

‘Làm sao vậy? Có cái gì gọi là khát khao trong tương lai?

'Thưa tôn giả, không có."

‘So you are mighty clever people, O king, to take all that trouble to prevent the future thirst which all the time does not exist!’

“Thưa đại vương, ngài là những người thông minh tuyệt vời khi chuẩn bị tất cả những việc đó để ngăn chặn cơn khát trong tương lai vốn không bao giờ tồn tại!”

‘Give me a further illustration.’

[Then the Elder referred, as before, to the means people always took of warding against future hunger, and the king expressed his pleasure at the way in which the puzzle had been solved.]

'Hãy cho trẫm một minh dụ khác.'

[Sau đó, Trưởng lão đề cập đến, như trước , những phương tiện mà mọi người luôn sử dụng để chống lại nạn đói trong tương lai, và đức vua bày tỏ sự hài lòng về cách mà câu hỏi đã được giải thích.]

Đầu trang | 1 | 2 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 |

Cập nhập ngày: Chu Nhat 08-28-2006

webmasters: Minh Hạnh & Nguyen Van Hoa

* | *| trở về đầu trang | Home page |